|
| |
Giải
thể chế độ Cộng sản, con đường phát triển tất yếu của Việt Nam.
Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Giải & Lm.
Phêrô Phan Văn Lợi
Đức Thánh Cha Phaolô
VI, trong thông điệp “Phát triển các dân tộc” (Populorum
Progressio, 1967), đă từng viết: “Một sự phát
triển đích thực đối với mỗi người cũng như đối với mọi người, là đi từ những
điều kiện ít xứng với con người đến những điều kiện xứng với con người hơn.
Sống trong những điều kiện ít xứng với con người: trước tiên là những kẻ sống
trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất như thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thốn về
tinh thần như sa đọa v́ ích kỷ quá độ. Sống trong những điều kiện ít xứng với
con người c̣n là những kẻ bị cơ cấu của xă hội đè nén: những cơ cấu do sự lạm
dụng sở hữu, lạm dụng quyền hành, bóc lột nhân công cũng như buôn bán gian lận
tạo nên. Xứng với con người hơn, có nghĩa là làm cho con người từ nghèo đói
đến no đủ, loại trừ các tệ đoan xă hội, mở rộng được kiến thức, hấp thụ được
văn hóa. Xứng với con người hơn c̣n có nghĩa là kính trọng nhân phẩm của người
khác hơn, hướng về một tinh thần nghèo khó, mưu cầu ích chung, quyết tâm ḥa
b́nh. Xứng hợp với con người hơn, c̣n có nghĩa là con người nh́n nhận những
giá trị tối cao và nh́n nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của mọi giá
trị” (số 20-21).
Những lời trên cho thấy sự phát triển cá nhân và tập thể chủ yếu bao gồm các
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, tâm linh hay tôn giáo… Trước đó,
công đồng chung Vatican II, trong Hiến chế Mục vụ (1965), Tuyên ngôn Giáo dục
(1965) và Tuyên ngôn Tự do tôn giáo (1965), đă xác định chi tiết các mặt cần
phát triển này. Đây là ánh sáng giúp chúng ta, những Kitô hữu, soi chiếu hoàn
cảnh ḿnh muốn xem xét và là những chỉ dẫn giúp chúng ta cải thiện hoàn cảnh
này. Cụ thể, đó là hoàn cảnh đất nước Việt Nam hôm nay, một đất nước đang sống
dưới ách độc tài của đảng Cộng sản, trong khuôn khổ của chế độ Cộng sản và
trong bầu khí của chủ nghĩa Mác-Lênin duy vật vô thần.
1. PHÁT TRIỂN MẶT CHÍNH TRỊ
Công đồng Vatican,
trong Hiến chế Mục vụ số 73-76, đă nói đến việc phát triển đời sống cộng đoàn
chính trị qua những điểm như sau:
a- Ư thức về nhân phẩm buộc đi
t́m một chế độ chính trị biết bảo đảm nhân quyền:
“Nhờ ư thức mănh liệt hơn về phẩm giá con người,
ngày nay tại nhiều nước trên thế giới, người ta cố gắng thiết lập một thể chế
chính trị pháp lư để bảo vệ hữu hiệu hơn quyền lợi của cá nhân trong đời sống
công cộng, chẳng hạn quyền được tự do hội họp, tự do lập hội, tự do phát biểu
ư kiến và tự do tuyên xưng tín ngưỡng cách riêng tư hoặc công khai: v́ việc
bảo đảm những quyền lợi của con người là điều kiện thiết yếu để người công
dân, với tư cách cá nhân hay đoàn thể, có thể tham gia cách tích cực vào đời
sống và vào guồng máy quốc gia” (Hiến chế Mục vụ, số 73b).
Nh́n vào hoàn cảnh Việt Nam hôm nay, chúng ta thấy ǵ? Trước hết, trên lư
thuyết, Hiến pháp 1992 khẳng định nơi điều 4: “Đảng
Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lănh đạo
Nhà nước và xă hội” . Trên thực tế, guồng máy quốc gia hiện đang nằm
trong tay 150 ủy viên trung ương và nhất là 15 ủy viên bộ chính trị đảng CS.
Mọi quyền tự do hội họp, tự do lập hội, tự do phát biểu ư kiến và tự do tuyên
xưng tín ngưỡng đều bị đảng bóp nghẹt.
Tháng 9 năm 2000, ông Nguyễn Vũ B́nh, biên tập viên Tạp chí Cộng sản, đă viết
đơn xin thành lập đảng Dân chủ để thực thi quyền tự do lập hội, tự do phát
biểu ư kiến mà tham gia cách tích cực vào đời sống và vào guồng máy quốc gia.
Đă không được chấp thuận, ông c̣n bị buộc thôi việc (đầu năm 2001) và đến ngày
25 tháng 09 năm 2002 th́ bị bắt giam và bị gán cho tội làm gián điệp. Tháng
5-2003, cũng trên Tạp chí Cộng sản, một cựu giáo sư Học viện Chính trị, trong
bài viết “Chủ quyền quốc gia và nhân quyền”, đă dằn mặt các nhà đấu tranh dân
chủ như sau: “Ở Việt Nam, các lực lượng thù địch đang
tiến hành chiến lược 'diễn biến ḥa b́nh' mà vấn đề nhân quyền được coi là nội
dung quan trọng của chiến lược đó. Dưới chiêu bài bảo vệ nhân quyền, chúng
tiến hành các hoạt động phá hoại về tư tưởng, vu cáo, công kích chế độ và sự
lănh đạo của Đảng ta. Nhân danh kẻ bảo vệ nhân quyền, chúng khuyến khích, tập
hợp, hỗ trợ cho bọn phản động, bọn cơ hội, bất măn phát triển lực lượng, h́nh
thành lực lượng đối lập và các tổ chức phản động ḥng gây mất ổn định chính
trị” (Điện Thư của Câu lạc bộ Dân chủ Việt Nam, số 3, tháng 5-2003).
Rơ ràng là một kiểu trấn áp chính trị, tiêu diệt nhân quyền!
Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” số 8 đă đề cập điều này rồi:
“Tại Châu Á ngày nay t́nh h́nh chính trị rất phức
tạp, với đủ mọi ư thức hệ từ những h́nh thức chính phủ dân chủ đến những h́nh
thức cai trị thần quyền. Các chế độ độc tài quân sự và các ư thức hệ vô thần
hiện diện rất nhiều...”.
b- Bảo đảm việc tham gia của nhiều người vào chính trị, tôn trọng dân
thiểu số cũng như kẻ có ư kiến khác ḿnh:
“Song song với tiến bộ về văn hóa, kinh tế và xă
hội, nhiều người c̣n mănh liệt khao khát đảm nhận một trách nhiệm lớn hơn
trong việc tổ chức cộng đoàn chính trị. Nhiều người đă ư thức được mối quan
tâm mỗi ngày một lớn là phải bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thiểu số trong
một quốc gia… Hơn nữa, càng ngày người ta càng tôn trọng những người có tư
tưởng hay tôn giáo khác với ḿnh. Đồng thời một sự cộng tác rộng răi hơn cũng
được thiết lập để mọi công dân có thể thực sự được hưởng những quyền lợi của
con người chứ không riêng ǵ một số người được ưu đăi” (Hc Mục vụ, số
73c).
Trong thực tế Việt Nam, muốn tham gia trách nhiệm tổ chức cộng đoàn chính trị,
chỉ có một cách độc nhất là vào đảng CS. Tất cả mọi chức vụ công quyền quan
trọng (và béo bở) đều nằm trong tay 2 triệu đảng viên giành giật nhau chí
choé, ai mạnh thế và mạnh tiền th́ được. Kể ra trong quốc hội và các hội đồng
nhân dân, cũng có nhiều người ngoài đảng, nhưng họ không hề nằm ngoài sự chọn
lựa và sự khống chế của đảng (đúng ra của vài lănh đạo đảng). Cái chính quyền
không được dân bầu, chẳng được dân phục đó khiến nền chính trị CHXHCN Việt Nam
ngày càng bế tắc, hỗn độn, ngột ngạt. Vụ T4, Tổng cục II hiện thời với những
màn đấu tranh sống mái trong nội bộ đảng CS là một bằng chứng. Thủ tướng CS
Phan Văn Khải, trước chuyến đi Mỹ hạ tuần tháng 6-2005 mới rồi, đă lệnh cho bộ
công an thả 3 tù nhân lương tâm (Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ B́nh, Nguyễn Khắc
Toàn) để làm quà lót tay cho Hoa Kỳ, nhưng cuối cùng bất lực, không thể hành
quyền như bao vị nguyên thủ quốc gia tại các nước dân chủ, v́ bộ công an nhận
chỉ thị từ một quyền lực khác. “Trong Trung ương đảng
thiếu hiền tài, lùn trí tuệ, nghèo nhân đức, nên đă xảy ra không biết bao
nhiêu là tội lỗi, là bệnh hoạn đủ các kiểu” (Trương Triệu Vũ, được dẫn
trong Thư của Gs Nguyễn Thiện Tâm 4-2005).
Quyền lợi của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam có được bảo vệ hay không? Xin
hăy nh́n vào những cuộc biểu t́nh của người Thượng Tây nguyên năm 2001 rồi
2004, những cuộc trốn chạy của hàng ngàn cư dân sắc tộc qua xứ Chùa tháp,
những cuộc bắt bớ tín đồ Tin lành phái Mennonite ở Daklak... Xin hăy nghe tiến
sĩ Lê Đăng Doanh trong bài tham luận nổi tiếng tháng 11-2004:
“Từ năm 1996, người ta đă viết… là cứ ào ạt lên (Tây
Nguyên) lấy đất như thế th́ chắc chắn sẽ dẫn tới một xung đột trong xă hội
không thể nào giải quyết được… Ḿnh có đối xử với người dân tộc b́nh đẳng như
anh em đâu!”.
C̣n những ai có chính kiến khác với đảng và nhà nước th́ trước tiên kẻ đối
thoại với họ sẽ là công an, tiếp đến nơi trú ngụ của họ sẽ là nhà tù, thanh
danh chính nghĩa của họ sẽ là bị bêu xấu xuyên tạc, số phận các tác phẩm của
họ sẽ là bị thu giữ hay cấm phổ biến, tương lai vợ con họ sẽ là đuổi việc và
đuổi học... (Trần Độ, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Nguyễn Vũ B́nh, Phạm Hồng
Sơn, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Chính Kết, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ v.v…)
c- Lên án chế độ xâm phạm quyền tự do và chỉ t́m kiếm ích lợi riêng
“Người ta lên án bất cứ thể chế chính trị nào, như
hiện có ở một vài nước, nếu nó ngăn cản quyền tự do công dân hoặc tín ngưỡng,
nếu nó làm gia tăng con số nạn nhân của tham lam và của tội ác chính trị, nếu
nó làm cho việc cai trị đi lệch đường, thay v́ mưu cầu công ích lại phục vụ
cho một tập đoàn hay chính những người cầm quyền” (Hc Mục vụ 73d). “Khi công
quyền vượt quá quyền hạn của ḿnh mà đàn áp công dân, lúc đó chính công dân
cũng không nên từ chối những ǵ khách quan xét thấy phù hợp với đ̣i hỏi của
công ích. Họ được phép bênh vực quyền lợi của riêng ḿnh cũng như của đồng bào
chống lại những lạm dụng của công quyền” (Hc Mục vụ số 74e).
Giáo sư Nguyễn Thiện Tâm, trong “Bản cáo trạng” lừng danh phổ biến cuối tháng
4-2005, đă mở đầu với lời nhận định của một lăo thành cách mạng:
“Trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính quyền
nào hung bạo, mất hết tính người như chính quyền CS hiện hành. Chủ nghĩa CS là
thảm họa lớn nhất của nhân loại, hơn cả thảm họa sóng thần, động đất”. Trong
phần kết thúc, giáo sư tái khẳng định: “Bản chất của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Lê
Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, Trương Tấn Sang, Nguyễn Hà Phan, Đặng
Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh cũng như đám lănh đạo CS từ trước đến nay đều vốn
thế (tức là bản chất phản bội, bịp bợm, mất nhân cách, thậm chí là tay sai cho
ngoại bang vài thập kỷ trước như Lê Đức Anh). Bọn chóp bu Đảng đă hư hỏng tới
mức dị ứng với tất cả những ǵ là trí tuệ, là lẽ phải, là lương tâm, là đạo
đức (v́ bản chất CS chóp bu là tàn bạo, bịp bợm, tham ác và chúa đểu)”.
Hội đồng Giám mục VN, trong bức thư gởi Quốc hội và các Hội đồng Nhân dân
tháng 10-2002, đă theo tinh thần Công đồng ở điều trên mà mạnh mẽ lên án:
“Cơ chế xin-cho (khuyết tật hiện hữu của xă hội VN)
là một cơ chế bất công và tha hóa con người v́… biến những quyền tự do của
công dân thành những thứ quyền mà Nhà Nước nắm trong tay và ban bố lại cho
người dân dưới dạng những cái phép, đồng thời biến Nhà Nước từ một tổ chức có
chức năng phục vụ công ích trở thành một chủ nhân ông nắm các quyền tự do của
người dân và ban phát các phép tự do lại cho họ thường theo sự tùy tiện chủ
quan hơn là theo những tiêu chuẩn khách quan. Như thế cơ chế xin-cho vừa đi
ngược lại công ích và xóa đi các quyền tự do của người dân, vừa bôi đen h́nh
ảnh của một Nhà Nước của dân, do dân và v́ dân. Đó là điều làm tha hóa con
người”.
d- T́m ra nhiều cơ cấu chính trị-pháp lư để mọi công dân cộng tác vào
đời sống cộng đoàn:
“T́m ra nhiều cơ cấu chính trị-pháp lư là điều phù
hợp với bản tính con người, v́ nhờ đó tất cả mọi công dân, không phân biệt ai,
có thể mỗi ngày một có cơ hội tham gia cách tự do và tích cực vào việc thiết
lập nền tảng pháp lư của cộng đoàn chính trị, vào việc điều hành quốc gia, vào
việc xác định mục tiêu và phạm vi của những cơ quan khác nhau cũng như vào
việc lựa chọn người cầm quyền. Vậy mọi công dân cần phải nhớ tới quyền lợi và
đồng thời là bổn phận của họ trong việc tự do sử dụng lá phiếu của ḿnh để mưu
cầu công ích. Để việc cộng tác của các công dân có ư thức trách nhiệm đem lại
kết quả trong đời sống chính trị thường ngày, cần phải có một quy chế pháp lư
thiết định. Quy chế pháp lư này giúp phân phối hợp lư các nhiệm vụ và các cơ
quan công quyền đồng thời giúp bảo vệ cách hữu hiệu quyền lợi của công dân mà
không lệ thuộc vào ai” (Hc Mục vụ số 75ab).
Thế nhưng, trong chế độ CS Việt Nam, nhờ điều 4 Hiến pháp,
“đảng CS là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội,
nghĩa là quản lư trọn vẹn đất nước. Nói cách khác, Đảng chủ trương toàn trị,
tức là cai trị vẹn toàn những ǵ có trên đất nước Việt Nam, nắm trong tay mọi
quyền lực: quyền lực lập pháp là Quốc hội, quyền lực tư pháp là Viện kiểm sát
và Ṭa án, quyền lực hành pháp là Chính quyền hay Nhà nước, quyền lực vũ khí
là quân đội và công an, quyền lực công luận là báo đài, và quyền lực đạo đức
tinh thần là tôn giáo. Tất cả phải trở thành công cụ trong tay của Đảng, được
Đảng dùng để cai trị đất nước và nhân dân” (Phát biểu của Lm Nguyễn
Hữu Giải nhân cuộc gặp giữa Ban Tôn giáo tỉnh Thừa Thiên với Giáo phận Huế
ngày 20-02-2004).
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng đă phải kêu trời: “Nhược
điểm lớn nhất trong thể chế chính trị của chúng ta là ǵ? Là chế độ đảng trị,
chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề… Đảng phải tôn trọng luật pháp, hoạt
động trong luật pháp, không đứng trên luật pháp, không đứng ngoài luật pháp…
Phải coi pháp luật là công cụ chủ yếu để kiềm chế, kiểm soát những người có
chức, có quyền chứ không phải pháp luật là công cụ chủ yếu để đè nén quần
chúng. Pháp luật phải tạo ra sự tự do của quần chúng… Một điều nữa là cơ chế
lựa chọn, bầu cử nhân sự. Hiện nay Đảng là lănh đạo, nhưng ông lănh đạo tối
cao ấy lại không phải trực tiếp do dân bầu ra; dân không được chọn cái ông ấy
nhưng mà lại phải coi ông ấy là ông tối cao!” (Tham luận 11-2004).
Vụ hai hiệp định về lănh thổ và lănh hải năm 1999 và 2000, v́ do trung ương
đảng CS lén lút thậm thụt kư với Trung Quốc, không thông báo, bàn hỏi, báo cáo
kết quả với nhân dân, không dựa trên sức mạnh và sự đồng ḷng của nhân dân, đă
đem lại biết bao tai hại lâu dài và khốc liệt về danh dự, uy tín, an ninh, tài
sản cho toàn thể đất nước.
2. PHÁT
TRIỂN MẶT KINH TẾ
Trong Hiến chế Mục vụ số 64-66,
ciHiênông đồng Vatican đă nói đến việc phát triển đời sống kinh tế xă hội qua
những điểm như sau:
a- Phát triển kinh tế để phục vụ con người:
“Mục đích căn bản của sản xuất không phải chỉ là gia
tăng sản lượng, lợi tức hoặc quyền lực, nhưng chính là phục vụ con người, dĩ
nhiên là con người toàn diện. Tuy nhiên, phải duy tŕ đúng cấp bực giá trị của
các nhu cầu vật chất cũng như những đ̣i hỏi của đời sống tinh thần, luân lư,
tu đức và tôn giáo. Phải phục vụ tất cả mọi người, mọi đoàn thể, mọi chủng tộc
và mọi miền trên thế giới. Bởi thế, hoạt động kinh tế, mặc dù theo phương pháp
và luật lệ riêng, nhưng vẫn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lư”
(Hc Mục vụ số 64).
Trong một xă hội Mác-xít duy vật, vô thần vốn lấy kinh tế làm hạ tầng cơ sở
(trong khi coi văn hóa, tôn giáo… là thượng tầng kiến trúc) như tại Việt Nam
hiện nay, rơ ràng việc phát triển kinh tế không nhắm phục vụ cuộc sống con
người toàn diện. Chế độ đề cao việc giải quyết cái ăn cái mặc của xă hội mà
coi thường chuyện nhân quyền, v́ thâm ư là phục vụ lợi ích của đảng CS. Đúng
như Ḥa thượng Quảng Độ tố cáo trong Thông điệp gởi Ủy hội nhân quyền LHQ
tháng 4-2005: “Nhà cầm quyền CS quả quyết rằng chúng
tôi không cần có tự do, họ cho rằng mở cửa thị trường là đủ đáp ứng mọi nhu
cầu của quần chúng” . Mọi sự đều được nh́n dưới lăng kính kinh tế.
Trước hết, đó là định nghĩa con người như “một vốn quư”, một định nghĩa hạ giá
nhân phẩm cách thê thảm. Những giá trị văn hóa, tinh thần, tôn giáo nếu được
để cho phát triển cũng chỉ v́ lợi nhuận, chỉ v́ kinh tế thị trường thôi. Tài
sản văn hóa vô giá do triều Nguyễn để lại Huế đă bị phế bỏ trong hơn 20 năm
trời (sau 1975) và chỉ được trùng tu từ “ngày mở cửa”, nhằm thu hút khách du
lịch. Chùa Hương ở Bắc và đền Núi Sam ở Nam là những chốn hành hương bị kinh
doanh hóa đến độ nhếch nhác hỗn độn. Đồi Vọng Cảnh Huế, thắng cảnh vừa hữu
t́nh vừa linh thiêng, nay đang có nguy cơ bị tàn phá để xây một khách sạn nhằm
thu lợi nhuận cho kẻ cầm quyền. Nhà nước cho các tôn giáo xây dựng những điện
thờ nguy nga, tổ chức những lễ hội linh đ́nh cũng không ngoài mục đích kiếm
chác (có khi nặn bóp) tiền bạc của giáo đồ và giáo hội.
C̣n thứ đạo đức kinh doanh tại Việt Nam bây giờ là rút ruột công tŕnh, là làm
dối làm ẩu, là chụp giựt kiếm ăn, là lọc lừa bóc lột. Vụ hải cảng Thị Vải, nhà
máy lọc dầu Dung Quất, khu chung cư Thanh Xuân, cơ sở dầu khí Trịnh Vĩnh B́nh,
hệ thống sân golf làng Kim Nỗ, khu vui chơi giải trí Thiên An-Thủy Tiên và
hàng ngàn dự án bỏ dở khác (nhà máy đường, nhà máy ximăng…) vẫn sờ sờ ra đó
như những vết nhơ bôi lên bộ mặt chế độ.
Mới đây, trong chuyến đi Hoa Kỳ, tại khách sạn May Flower chiều ngày
21-6-2005, phó thủ tướng CSVN Vũ Khoan đă tuyên bố rằng từ đây ông (và bằng
hữu) sẽ di chuyển bằng phi cơ Boeing 787, liên lạc bằng điện thoại di động
Motorola, đánh golf và chơi quần vợt với gậy và giày của hăng Nike… Đại đa số
người dân Việt Nam nghèo khổ mong được Nhà nước sang Mỹ để mua những thứ đó về
dùng ư? Những hàng cao cấp đó là để phục vụ mọi người Việt Nam ư? Ngoài ra,
như ai cũng biết, nền kinh tế thị trường với cái đuôi “định hướng xă hội chủ
nghĩa” thực chất chỉ nhắm mang lại lợi nhuận cho cán bộ và đảng viên CS. Họ
đang là những người giàu nhất nước, có hàng triệu, thậm chí hàng tỷ đôla!!
b- Phải phát triển
kinh tế dưới sự kiểm soát của con người:
“Con người phải kiểm soát sự phát triển kinh tế;
không được khoán trắng nó cho sự định đoạt của một thiểu số hoặc của những tập
thể nắm trong tay quyền lực kinh tế quá lớn, hoặc của một cộng đoàn chính trị
hay một số quốc gia giàu mạnh… Không thể chỉ bỏ mặc việc phát triển cho sự
diễn tiến gần như máy móc của hoạt động kinh tế cá nhân hay cho một ḿnh chính
quyền mà thôi. Do đó phải tố giác những sai lầm của các học thuyết đang nhân
danh một thứ tự do ngụy tạo để ngăn cản những cải tổ cần thiết; cũng phải tố
giác những học thuyết đ̣i hy sinh quyền lợi cá nhân và đoàn thể cho tổ chức
sản xuất tập thể” (Hc Mục vụ số 65ab).
Đây ta hăy lại nghe lời chất vấn của giáo sư Nguyễn Thiện Tâm:
“Xin các vị tự hỏi: tại sao chủ nghĩa cộng sản bị
toàn thế giới lên án và từ bỏ, mà Việt Nam ḿnh lại cứ phải xă hội chủ nghĩa?…
Xin thưa: lư do thật đơn giản: theo tối kiến vĩ đại của Lê Duẩn là làm chủ tập
thể. Làm chủ tập thể là của tập thể (của nhà nước), không ai thực sự làm chủ,
tức là kho vàng của toàn xă hội bỏ ngỏ không khóa, mạnh ai nấy múc. Chả thế mà
Vơ Văn Kiệt xây dựng đường cao thế Bắc-Nam chi hàng ngàn tỷ đồng không cần
thông qua quốc hội. Các nhà khoa học Việt Nam tầm cỡ quốc tế can ngăn, y bỏ
ngoài tai, miễn sao thực hiện bằng được kể kiếm chác. Thất thoát nhiều đến mức
không tổng quyết toán chi phí công tŕnh… Đó, hậu quả làm chủ tập thể! Tối
kiến của Lê Duẩn vô học hại dân, hại nước như vậy, chẳng những không ai rút ra
bài học kinh nghiệm lại cứ giở giọng đểu: “Quản lư tập thể, làm chủ tập
thể!” để lừa dân, để vơ vét thật nhiều của dân”.
Vơ vét kiểu này cũng là công tŕnh của 3 tổng công ty độc quyền (do một số
đảng viên cao cấp nắm giữ) đang làm mưa làm gió tại Việt Nam: bưu điện, điện
lực, cấp thoát nước… khiến cho chi phí điện, điện thoại, điện tín, internet
của VN thuộc vào hạng đắt nhất thế giới, c̣n nước trong hay đục, sạch hay nhơ
cấp cho dân th́ tùy tiện! Cảnh sát hải quan và cảnh sát giao thông (gồm những
cán bộ đảng viên có máu mặt và bà con của họ) cũng đang lộng hành, ngang nhiên
đ̣i tiền măi lộ (nhờ đó có người thu nhập 200 triệu mỗi tháng), đẩy giá thành
hàng hóa lên cao, khiến sản phẩm Việt Nam không thể cạnh tranh với nước ngoài.
Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” số 8.2 cũng nhận định:
“Các Nghị Phụ có lưu ư chúng ta về t́nh trạng tham
nhũng phổ biến có mặt ở các cấp chính quyền và xă hội. Quá nhiều khi dân chúng
cảm thấy bất lực không thể tự bảo vệ ḿnh trước những nhà chính trị, những
viên chức ṭa án, các nhà hành chánh và các quan chức tham ô”.
Hiến chế Mục vụ số 65c c̣n nói thêm: “Người công dân
nên nhớ rằng bổn phận và quyền lợi của ḿnh là tùy khả năng mà đóng góp vào
việc phát triển thực sự cộng đoàn ḿnh. Chính quyền cũng phải công nhận bổn
phận và quyền lợi này. Nhất là những miền c̣n kém mở mang, càng phải cấp bách
tận dụng mọi tài nguyên; do đó, những người để tài sản của ḿnh không sinh
lợi, hoặc không trợ giúp cộng đoàn ḿnh những phương tiện vật chất và tinh
thần cần thiết là gây nguy hại trầm trọng cho công ích”.
Ư thức được bổn phận và quyền lợi nói trên, hàng trăm ngàn công dân VN nghèo
khổ mỗi năm ra nước ngoài để lao động hoặc lập gia đ́nh. Hiện nay tại Đài
Loan, có khoảng 80.000 cô dâu Việt lấy chồng Đài; trên 40.000 công nhân VN lao
động tại các công ty, cơ xưởng, nhà máy; và trên 60.000 người Việt giúp việc
trong các gia đ́nh hay các viện dưỡng lăo. Thế nhưng trong số hơn 180.000
người này, đă có không ít trường hợp v́ tai nạn này hay tai nạn nọ hoặc bệnh
tật… đă qua đời. Như nhiều cô dâu Việt v́ uất ức, v́ chịu hết nổi những khổ
nhục, đă ôm con ngồi bên xe môtô, đổ xăng vào người, châm lửa tự thiêu; nhiều
cô dâu cùng với con uống thuốc trừ sâu hay nhảy lầu tự tử… Như một số công
nhân Việt, do bị bóc lột trong công xưởng, đă trốn ra ngoài lao động “chui”.
Đến khi gặp tai nạn th́ hoàn toàn bị bỏ mặc bởi công ty môi giới hai nước, dẫu
họ đă đóng hàng ngàn mỹ kim trước cho những công ty này (theo VietCatholic
News 29-4-05). Mới đây c̣n có vụ hàng chục cô gái Việt bị cha con chủ công ty
lao động Trung Hữu (Đài Loan) hăm hiếp, hàng ngàn nữ công nhân bị bán vào các
động măi dâm. Thế nhưng ông Trần Đông Huy, trưởng ban quản lư lao động VN tại
Đài Loan chẳng hề giúp đỡ, lại c̣n cản trở các nạn nhân tố cáo những vụ cưỡng
hiếp, buôn người như thế (theo Canh Tân số 13, 6-2005). Người ta cũng biết
thêm rằng hàng tỷ đôla do quan chức CSVN tham nhũng đều được đem gởi ở ngân
hàng ngoại quốc hay vất vào những cuộc ăn chơi sa đọa, chứ chẳng đầu tư để
sinh lợi cho nước cho dân (nếu có th́ chỉ vào những khách sạn, khu giải trí
cao cấp…)
c- Phải chấm dứt
những chênh lệch lớn lao trên b́nh diện kinh tế xă hội:
“Để thỏa măn những đ̣i hỏi của công bằng và lẽ phải
mà vẫn tôn trọng quyền lợi cá nhân và đặc tính của mỗi dân tộc, cần phải hăng
hái nỗ lực để sớm chấm dứt những chênh lệch kinh tế lớn lao hiện nay và c̣n
gia tăng mai ngày… Trong nhiều vùng, việc sản xuất và bán nông phẩm đang gặp
nhiều trở ngại trầm trọng. Do đó cần phải nâng đỡ nông dân tăng gia và tiêu
thụ được sản phẩm, lại phải thực hiện những cuộc cải tổ và canh tân cần thiết
hầu thâu được lợi ích tương ứng. Như thế, họ sẽ không măi ù ĺ trong thân phận
công dân hạ đẳng, như vẫn thường thấy” (Hiến chế Mục vụ số 66a).
Những chênh lệch kinh tế lớn lao như vừa nói đă được chính Hội đồng GMVN,
trong thư gởi Quốc hội, lên tiếng tố cáo: “Cơ chế
xin-cho là nguyên nhân làm thất thoát 50% các nguồn thu vào công quỹ, và làm
thất thoát 50% phần c̣n lại khi phải chi ra cho công ích. Điều này có nghĩa là
5% hoặc 7% dân số là những người có thế lực và quyền lực th́ hưởng 75% từ công
quỹ quốc gia (trong con số 75%, có 50.000 tỷ đồng/năm của riêng ngành xây
dựng), phần c̣n lại của dân số là hơn 70 triệu dân chỉ hưởng được 25%. Thực tế
này tạo ra một t́nh trạng bất công trầm trọng trong xă hội và không ngừng làm
gia tăng hố sâu cách biệt giàu nghèo trong ḷng một dân tộc. Chính v́ thế mà
tham nhũng một cách có hệ thống quy mô trong xă hội ngày nay không những là
một quốc nạn, song c̣n là một tội ác đối với đất nước và dân tộc”.
Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” số 7 cũng cảnh báo:
“Về phương diện phát triển kinh tế, ta phải nh́n nhận t́nh h́nh trên lục địa Á
châu quả là có rất nhiều khác biệt… Một số quốc gia đang sống trong cảnh bần
cùng, được xếp vào số các nước nghèo nhất trên địa cầu… T́nh trạng nghèo đói
triền miên và việc bóc lột con người đang là những vấn đề đáng quan ngại nhất.
Tại Châu Á có hằng triệu người bị áp bức từ bao thế kỷ nay cứ phải đứng bên lề
xă hội về mặt kinh tế, văn hóa và chính trị… Trong quá tŕnh phát triển ấy,
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tục hóa đang lấn lướt, nhất là tại các khu vực
đô thị. Những ư thức hệ này đang làm xói ṃn các giá trị truyền thống, xă hội
và tôn giáo, đe dọa các nền văn hóa Á châu, gây thiệt hại tới mức không lường
được…”
C̣n Bản cáo trạng của Nguyễn Thiện Tâm th́ viết: “Vừa
qua ở Hà Nội, một loại VIP có tên tuổi đua nhau bán nhà: Hoàng Thao Nguyên,
thứ trưởng Công an bán nhà 73 Trần Hưng Đạo 6000 cây vàng, hai nhà của Nguyễn
Thanh B́nh, Nguyễn Văn Trân, đều là ủy viên trung ương, chỉ bán một phần nhà
đă một vị 39 tỷ, một vị 40 tỷ. Rồi Vũ Xuân Chiêm, trung tướng hậu cần, th́ bán
nhà với giá 7200 cây vàng, c̣n tụi quan khác bán nhà với giá 10 đến 20 tỷ th́
nhiều…” . Giáo sư c̣n tâm sự: “Sáng nay tôi
vừa vào Bệnh viện Mắt trung ương… Ra đến quầy thuốc cổng viện thấy một bà già
khóc, tôi dừng lại hỏi thăm th́ bà nói: “Tôi từ Hà Bắc xuống nhưng không
khám được lại phải về ông ạ! Là v́ tôi thấy bệnh nhân nông thôn đến đây đều
lắc đầu nhăn mặt. Ở quê tôi, một mớ rau có 100 đồng mà ở đây th́ vài lọ nhỏ
mắt bằng đầu ngón tay đă hơn 200 ngàn đồng, ông tính xem là mấy ngh́n mớ rau
mồ hôi nước mắt?”
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, trong bài Tham
luận nói trên, cũng vạch trần hiện trạng nông nghiệp nói riêng và hiện trạng
kinh tế nói chung của đất nước: “Nông nghiệp đă
nghèo, đất lại kém đi, nhưng mỗi một năm thêm một triệu miệng ăn. Lấy đâu ra
mà ăn? Chênh lệch, đói nghèo là ở chỗ ấy. Chúng ta về quê xem, có tiến bộ khoa
học kỹ thuật nào để tạo ra việc làm? Lao động thật vất vả, mỗi một ngày lao
động làm trên 8m2 đất th́ có cái ǵ để mà giàu có được! Về kinh tế, tính theo
sức mua th́ chúng ta xếp thứ 130/175, nhưng nếu xếp theo tỷ giá th́ chúng ta
xếp thứ 149/203 nền kinh tế. Tức là sau ngần ấy năm phát triển, sự thực chúng
ta vẫn là một nước nghèo. Chỉ số phát triển con người thuộc loại trung b́nh,
năm 2004 xếp thứ 112/177. Và với 40 tỷ GDP th́ nền kinh tế Việt Nam chỉ bằng
0,36% nền kinh tế toàn cầu thôi…”
3. PHÁT TRIỂN MẶT VĂN HÓA
Trong Hiến chế Mục vụ số 59, công đồng
Vatican đă nói đến việc phát triển đời sống văn hóa qua những điểm như sau:
a- Văn hóa phải nhắm giúp nhân vị nên hoàn hảo toàn
diện:
“Giáo hội nhắc nhủ mọi người: văn hóa phải nhằm đạt
được sự hoàn hảo toàn diện của nhân vị, lợi ích của cộng đoàn và của toàn thể
xă hội nhân loại. Do đó, phải tôi luyện tâm hồn làm sao để phát triển khả năng
tuân phục, thấu triệt, chiêm ngưỡng, phán đoán riêng tư, lại phải có thể phát
huy ư thức tôn giáo, luân lư cũng như xă hội” (Hc Mục vụ số 59a), v́ “theo
nghĩa tổng quát, chữ “văn hóa” chỉ tất cả những ǵ con người dùng để trau dồi
và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác… làm cho đời sống
xă hội, đời sống gia đ́nh cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn…
giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn” (Hc Mục vụ số
53b).
Thế nhưng, vừa mới lên nắm quyền, đảng CS Việt Nam đă vội vàng xây dựng một
nền “văn hóa của sự tàn bạo”, điển h́nh bằng cuộc Cải cách Ruộng đất (1953
và1956) rồi cuộc Tàn sát Tết Mậu thân (1968). Qua 2 cuộc đổ máu kinh hoàng
này, CS đă phạm những tội ác tầy trời: tàn sát thường dân vô tội, phá hoại
truyền thống tốt đẹp ngàn năm của đất nước, tiêu hủy đạo lư luân thường của
dân tộc, chà đạp những giá trị tinh thần của tổ quốc. Sự kiện đó khiến nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện, một nạn nhân của những vi phạm nhân quyền do CSVN gây ra, đă
bảo rằng phải hàng triệu năm tổ tiên loài người mới tiến từ trạng thái vượn
lên trạng thái người, nhưng chế độ CSVN chỉ trong mấy năm đă đẩy người Việt
ngày nay lui về trạng thái vượn!
Đó cũng là thứ văn hóa của sự dối trá lường gạt, được khai dựng bằng việc Hồ
Chí Minh viết cuốn “Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” (1948)
để ca ngợi chính ḿnh dưới bút hiệu Trần Dân Tiên. Ca ngợi ḿnh cách trâng
tráo vô liêm sỉ như là “lănh tụ vĩ đại”, “cha già dân tộc kính yêu”, “người
con trung thành nhất của tổ quốc”!?! Tṛ dối trá này c̣n tiếp tục đến hôm nay,
chẳng hạn qua màn lừa gạt UNESCO năm 1990 để mong tổ chức này tôn vinh HCM
nhân 100 năm sinh nhật của ông ta. May nhờ sử gia Olivier Todd, nhà báo
Jean-Francois Revel và nhiều học giả người Việt hải ngoại mà tṛ hề này bị
vạch trần. Tuy thế báo chí và giáo khoa CSVN vẫn khẳng định có sự kiện tôn
vinh ấy để nhồi sọ nhân dân.
Đúng như sử gia Gérard Tongas, người đă chọn ở lại miền Bắc sau 1954 để hợp
tác với CS (7 năm), sau đó chán ngán bỏ về Pháp, đă khẳng định trong cuốn
“North Viet Nam Today”: “Đối với Việt cộng, những
danh từ văn hóa, giáo dục và dạy học chỉ có một nghĩa là nhồi sọ. Tại Bắc
Việt, một người có văn hóa tương đối hay có giáo dục, có chút học vấn là người
đă bị liên tục nhồi nhét ư thức hệ Mácxít Lêninít, là kẻ không c̣n suy nghĩ
cho riêng ḿnh mà chỉ biết chấp nhận toàn bộ như sách thánh những khái niệm
được nhồi nhét vào đầu một cách có hệ thống bằng một thứ tuyên truyền cẩn
thận, khéo léo dần dần” (theo Minh Vơ, Hồ Chí Minh: Nhận định và tổng
hợp, Tiếng Quê Hương xuất bản tại Hoa Kỳ, chương 23).
Chính cái thứ “văn hóa” vừa gian dối vừa tàn bạo đó (thực ra không đáng gọi
tên văn hóa) đă đẻ ra những nhà lănh đạo CS có lối cư xử trịch thượng, dọa
nạt, trơ trẽn, kiểu ăn nói lấp liếm, ngụy biện, “lưỡi gỗ”, như người ta thường
thấy qua nhiều cuộc phỏng vấn, đặc biệt gần đây tại Hoa Kỳ; đă đẻ ra những
quan ṭa chỉ biết theo chỉ thị của đảng, nói lấy nói được, chà đạp luật pháp
cách thản nhiên, đặc biệt trong những phiên ṭa tôn giáo chính trị; đă đẻ ra
những sản phẩm tinh thần mang tính rập khuôn, giáo điều, lên gân và xa rời
cuộc sống. Như mới đây có ba bộ phim, mỗi phim tốn từ 13 đến 14 tỷ đồng mà
quay xong th́ đắp chiếu, bởi lẽ chẳng mấy ai thèm xem. Vốn thu hồi lại mỗi
phim, theo báo chí, khoảng chừng 50 triệu. Đó là các phim “Thoát hiểm ở Hong
Kong”, “Kư ức Điện Biên” và “Giải phóng Sài g̣n”. Tệ hơn nữa, cái thứ văn hóa
đó c̣n đẻ ra những hành vi phi nhân thất đức, chưa hề thấy trong lịch sử dân
tộc, như san bằng mộ nạn nhân Mậu Thân tại Huế, mộ chiến sĩ VNCH tại Biên Ḥa
trước đây, như đ̣i phá vỡ bia kỷ niệm nạn nhân vượt biên tại đảo Bidong và
Galang gần đây.
b- Con người
phải được tự do về văn hóa, nghĩa là tự do nghiên cứu, suy nghĩ, phát biểu và
tự do thông tin:
“Tất cả những điều vừa tŕnh bày cũng đ̣i hỏi cho
con người có thể tự do đi t́m chân lư, phát biểu, phổ biến ư kiến ḿnh và được
tự do hành nghề tùy sở thích, miễn là tôn trọng công ích và trật tự luân lư;
sau hết, những điều ấy cũng đ̣i cho con người phải được thông tin chính xác về
những biến cố xảy ra thuộc đời sống công cộng” (Hc Mục vụ số 59d).
Một điều hiển nhiên là tại Việt Nam, nhà nước nắm trong tay mọi phương tiện
truyền thông, mọi cơ quan báo chí, mọi cơ sở in ấn xuất bản. Hơn 600 tờ báo
tại VN đều nằm dưới sự quản lư chặt chẽ của ban Văn hóa-Tư tưởng trung ương.
Ai muốn vào quán café-internet để gởi điện thư, vào trang mạng th́ phải tŕnh
chứng minh nhân dân, và tất cả những ǵ họ đọc, gởi hay nhận qua máy vi tính
đều phải lưu lại 30 ngày cho công an đến kiểm duyệt. Ai truy cập internet tại
nhà th́ hơn 3000 bức tường lửa luôn sẵn dàn chào. Sau Hiệp định Thương mại
Việt-Mỹ, những sản phẩm văn hóa CS từ quốc nội được bán tha hồ tại Hoa Kỳ,
nhưng khốn cho ai trong nước lưu giữ băng h́nh, đĩa CD, sách báo của đồng bào
hải ngoại. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, chỉ v́ dịch và phổ biến trên internet tập tài
liệu “Dân chủ là ǵ?” mà đă lănh án nhiều năm tù với tội danh gián điệp.
Vụ Trung Quốc bắn chết 9 ngư dân Thanh Hóa, chỉ có hai tờ Thanh Niên và Tuổi
Trẻ đăng tin và b́nh luận nhưng chỉ vài số rồi im. Vụ hai Hiệp định lănh thổ
và lănh hải Việt Trung th́ chẳng một tờ báo nào dám loan, nếu không muốn bị
“xơi tái”. Báo chí nay có nói nhiều đến nạn tham nhũng trong tầng lớp cán bộ
cao và thấp, nhưng các vị trong bộ Chính trị, toàn tay tổ tham nhũng (Lê Đức
Anh gởi ngân hàng Thụy sĩ tới 2 tỷ 215 triệu USD và 7 tấn vàng, theo Gs Nguyễn
Thiện Tâm) đều là những bậc “thánh nhân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”
và “bất khả xâm phạm” đối với báo chí. Riêng nhân vật Hồ Chí Minh, th́ dù đă
có hàng trăm cuốn sách vạch trần những xấu xa tội lỗi trong cuộc sống và ngôn
hành của ông, nhưng đảng vẫn quyết duy tŕ một hào quang thánh thiện, công
chính để bảo vệ “thần tượng” giả tạo này. Đảng c̣n trâng tráo dựng lên cái gọi
là “tư tưởng Hồ Chí Minh” do hoảng hốt trước sự phá sản của “đỉnh cao trí tuệ
loài người” là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nhà nước độc quyền giáo dục, bộ Giáo dục-Đào tạo độc quyền phát hành toàn bộ
sách giáo khoa. Tác phẩm của các tôn giáo đều qua sự kiểm duyệt gắt gao của
ban Văn hóa tỉnh và nhà xuất bản Tôn giáo. Số đầu sách in ra mỗi năm của mỗi
tôn giáo chỉ đếm trên đầu ngón tay. Các văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, kịch tác gia
muốn in tác phẩm th́ trước hết phải gia nhập hội nhà văn, hội nghệ sĩ, hội
nhạc sĩ do đảng thành lập và lănh đạo. Nhân dân miền Nam liền sau 1975 c̣n đau
xót và hăi hùng nhớ đến chiến dịch “đốt sách (gọi là) đồi trụy phản động” do
CS chủ xướng. Thật chẳng khác chi thời Tần Thủy Hoàng! Sách của các văn gia và
học giả đối kháng như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bùi Ngọc Tấn, Trần Khuê,
Trần Độ, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Quế Dương, Nguyễn Văn Trấn, Hà Sĩ Phu…
thường bị tịch thu hay cấm chỉ.
c- Văn hóa cần được
tự do, không bị cưỡng ép thành công cụ bởi thế lực cầm quyền:
“V́ trực tiếp phát sinh từ xă hội tính và lư trí của
con người nên văn hóa luôn cần được tự do đúng mức để phát triển, cũng như cần
có quyền hợp pháp để hành động độc lập theo các nguyên tắc riêng. Do đó, văn
hóa có quyền được tôn trọng và được hưởng một quyền bất khả xâm phạm nào đó”…
“Bổn phận của công quyền không phải là qui định một h́nh thức văn hóa nhân
loại đặc thù nào, nhưng là tạo những điều kiện và phương tiện thuận lợi để
phát triển đời sống văn hóa trong toàn thể dân chúng, cả trong những thành
phần thiểu số của quốc gia. Do đó, phải hết sức tránh sao để văn hóa khỏi bị
sai lạc mục đích cá biệt của ḿnh và khỏi bị cưỡng ép làm công cụ cho các thế
lực chính trị hay kinh tế” (Hc Mục vụ số 59b và 59e).
Nhà sử học cộng sản Trần Quốc Vượng có viết: “Khác
với các giai cấp từng giữ vai tṛ lănh đạo xă hội Việt Nam, giai cấp vô sản
rất chú trọng lănh đạo các phương diện của văn hóa. Quán triệt và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta đă có một quan điểm đúng đắn về văn hóa,
đồng thời có một phương pháp lănh đạo đúng đắn đối với văn hóa. Quan điểm ấy
là sự kết hợp những nguyên tắc cách mạng với những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc” (Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xb Giáo dục, 2004, tr. 201). Lưu
Hữu Phước, nguyên bộ trưởng văn hóa CS, có lần phát biểu:
Văn hóa cũng là một mặt trận” . Nói thẳng ra,
nhà nước CS luôn coi văn hóa như là một công cụ trong tay ḿnh, sử dụng văn
hóa để củng cố quyền lực của đảng cũng như duy tŕ sự tồn tại của chế độ chứ
không hề nhắm phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc, như Ḥa thượng
Quảng Độ nhận định: “Với chủ trương nắm giữ quyền
hành bằng mọi giá, nhà cầm quyền Hà Nội tàn phá đất nước và tiêu hủy bản sắc
văn hóa Việt Nam” .
Chính v́ thế, ngoài việc thiết lập Ban Văn hóa-Tư tưởng Trung ương như chúa tể
tuyệt đối hướng dẫn mọi hoạt động văn hóa văn nghệ, kiểm soát mọi tâm t́nh tư
tưởng, xác định mọi nội dung thông tin trên khắp đất nước (thậm chí muốn cả
trên kiều bào, qua Nghị quyết 36), đảng CSVN c̣n lập ra Hội Nhà văn (từ 1957),
Hội Nghệ sĩ Tạo h́nh (1957), Hội Nghệ sĩ Sân khấu (1957), Hội Điện ảnh (1969),
Hội Nhạc sĩ (1957), Hội Kiến trúc sư (1948), Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh (1965) để
đưa tất cả các nhà văn hóa VN vào tṛng của ḿnh. Chỉ có vào đó th́ những
người này mới có thể in ấn phổ biến tác phẩm (đă được đảng xét duyệt) và mới
có lương tiền để sống.
Chính nền văn hóa độc quyền đó đă khiến VN trong 30 năm nay chẳng có một tác
phẩm văn học nào ra hồn. Chỉ nổi tiếng và thực sự có giá trị là tác phẩm của
những nhà văn đối kháng. Bộ Bách khoa Từ điển Việt Nam, công tŕnh cấp quốc
gia, gồm 4 tập dày khoảng 4000 trang, chứa hàng trăm, nếu không muốn nói hàng
ngàn lỗi. Điểm đặc biệt nữa là bộ sách này có nhiều từ và mục tôn giáo, thế mà
trong ban biên tập chẳng hề hiện diện một linh mục hay đại đức nào!
Do đó Hội đồng GMVN, trong Thư gởi Quốc hội nói trên, đă buộc ḷng nhắc nhở:
“Chính quyền tạo điều kiện cho các cá nhân và tập thể
công dân sử dụng các quyền của con người. Trong các quyền đó, phải kể đến
quyền b́nh đẳng, quyền và bổn phận chu cấp cho các nhu cầu vật chất, tinh thần
và tâm linh của cuộc sống con người, gia đ́nh và tập thể, quyền sáng kiến và
tham gia các hoạt động phát triển xă hội, thăng tiến con người và gia đ́nh, cả
việc củng cố nền tảng pháp lư của cộng đoàn chính trị trong một quốc gia. Dành
cho ḿnh độc quyền hay một quyền hành quá lớn trong các lĩnh vực của đời sống
gia đ́nh và xă hội, đó là con đường dẫn đến chuyên chế và độc tài, quan liêu
và bao cấp, áp bức và bất công”.
4. PHÁT
TRIỂN MẶT GIÁO DỤC
Trong Tuyên ngôn Giáo dục và Hiến chế
Mục vụ, công đồng Vatican đă nêu lên những mục tiêu và khía cạnh giáo dục như
sau:
a- Đào
tạo con người nhằm đạt tới cùng đích của họ cũng như thiện ích của các đoàn
thể:
“Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giai
cấp và tuổi tác, do nhân phẩm, đều phải được hưởng một nền giáo dục đáp ứng
với sứ mệnh riêng, phù hợp với cá tính của từng phái, thích nghi với văn hóa
và truyền thống dân tộc, đồng thời mở rộng sự hợp tác huynh đệ với các dân tộc
khác… Vậy nền giáo dục chân chính là việc đào tạo con người, nhằm đạt tới cùng
đích của ḿnh cũng như lợi ích của những đoàn thể mà họ là thành viên”
(Tn Giáo dục số 1a).
Thế nhưng, Luật giáo dục năm 1999 của CSVN khẳng định:
“Mục tiêu (giáo dục) nhằm đào tạo con người VN phát
triển toàn diện…. trung thành với lư tưởng chủ nghĩa xă hội” (điều 1);
“Luật quy định nền giáo dục VN là nền giáo dục xă hội
chủ nghĩa… lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”
(điều 2). Điều đó có nghĩa CS không nhắm tạo nên những công dân rồi đây “sẽ
thực thi sứ mệnh riêng của ḿnh, đạt tới cùng đích riêng của ḿnh”, nhưng là
nặn ra những thần dân cho đảng, có sứ mệnh tối thượng và mục đích tối hậu là
làm theo những ǵ đảng nói hay không nói về những ǵ đảng làm. Do đó mà đảng
độc quyền giáo dục, độc quyền sách giáo khoa; các tôn giáo chỉ được thí chút
ân huệ là “giữ trẻ”. Do đó mà “hồng hơn chuyên”, kiến thức và lập trường chính
trị quan trọng hơn hiểu biết và khả năng chuyên môn.
Trong 4 năm đại học th́ đă có 2 năm học đại cương vô bổ với những môn liên
quan đến triết học, kinh tế, chính trị Mác-Lênin, chủ nghĩa xă hội, lịch sử
đảng… hai năm c̣n lại học chuyên ngành rất sơ sài. Nói cách khác, tại VN,
trước khi xây dựng nền giáo dục, đảng cầm quyền đă có sẵn ư thức hệ Mác-Lênin.
Thành thử đảng đă đề ra đường lối giáo dục theo ư thức hệ ấy. Đường lối giáo
dục do đó nặng về chính trị, nhẹ về nhân bản nhân sinh. Đảng ấn định tiêu
chuẩn chính trị trong việc chọn thày giáo và mục tiêu chính trị trong việc dạy
học tṛ. Thày giáo là cán bộ, phải làm theo chỉ thị, được đánh giá theo ḷng
trung thành chứ không theo tài năng. Hiện nay mọi hiệu trưởng các cấp đều phải
là đảng viên, để bảo đảm an ninh chính trị và tư tưởng. Đội thiếu nhi tiền
phong, đoàn thanh niên cộng sản là những đoàn thể chính thức và duy nhất trong
học đường.
Mọi học sinh lớp 12 nay muốn thi lên đại học phải vào đoàn đă. Thành thử tuyển
sinh theo lư lịch, theo giai cấp. Chương tŕnh giáo dục và sách giáo khoa đồng
nhất trên cả nước, không tư nhân nào được biên soạn riêng. Đảng kiểm soát kỹ
càng mọi sinh hoạt giáo dục qua trường sư phạm (của nhà nước), qua trường đào
tạo cán bộ giáo dục, qua bí thư đoàn, bí thư đảng vốn nắm “quyền sinh sát”,
qua hệ thống pḥng giáo dục mà thậm chí tới tận huyện (Thời VNCH, mỗi tỉnh chỉ
cần một ty tiểu học và mỗi miền chỉ cần một nha trung học, c̣n giáo khoa th́
tự do biên soạn theo chương tŕnh của bộ Giáo dục. Thế mà nền giáo dục vẫn tốt
đẹp).
Lối chính trị hóa đường hướng giáo dục và cộng sản hóa mục tiêu giáo dục như
thế đă dẫn đến những hậu quả tai hại, đặc biệt ở bậc đại học:
 |
1- Người tài năng bị
loại bỏ, người ít tài được trọng dụng.
|
 |
2- Người ít tài có
mặc cảm trước người nhiều tài nên dèm pha, chụp mũ; mặt khác tuyệt đối trung
thành làm theo chính sách, đường lối, không sáng kiến, tạo ra phe phái, bè
đảng.
|
 |
3- Loại bỏ sinh viên
tài năng, kỳ thị trong tuyển sinh, tạo ra bất công mà không thấy, làm thui
chột tinh hoa của xă hội mà chẳng hay.
|
 |
4- Tŕnh độ chung
giảm sút.
|
 |
5- Chụp mũ chính trị
cho bất kỳ sáng kiến, đề nghị nào có khả năng phá chuẩn mực.
|
 |
6- Chương tŕnh
nguyên mẫu; thầy không sáng kiến, lại sợ làm sai nên buộc học tṛ cũng làm y
theo; tṛ học vẹt, học theo ư của thầy, không được có ư kiến; tất cả đều theo
bài mẫu, văn mẫu.
|
 |
7- Mắc chứng tự hào
không nền tảng v́ chỉ biết có cái nh́n của ḿnh, trở thành cực đoan trong suy
nghĩ v́ không biết cái nh́n của người khác.
|
 |
8- Khó ḷng cải tiến
cách thi cử. Việc này ảnh hưởng đến cách dạy và cách học. Do đó dạy thêm và
học thêm tràn lan (theo bài “Bản phân tích về việc giáo dục. Nguyên do tạo nên
t́nh trạng hiện nay”. Không rơ tác giả). |
b- Đào tạo
những người nam nữ không những có văn hóa mà c̣n có nhân cách vững mạnh:
“Phải tổ chức việc giáo dục những người trẻ thuộc
bất cứ thành phần nào trong xă hội, làm sao để đào tạo được những người nam và
nữ không những tài giỏi về văn hóa mà c̣n có một tâm hồn cao thượng, bởi v́
thời đại chúng ta đang khẩn thiết đ̣i phải có những người như vậy” (Hc
Mục vụ số 31).
Thế nhưng, dù có chỉ số thông minh không thua kém ǵ các nước khác, học sinh
và sinh viên Việt Nam lại bị tụt hậu rất xa về mọi lănh vực so với thanh niên
nước ngoài. Trong cuộc hội thảo về đề tài “Hội nhập quốc tế thanh niên” ngày
5-6-2004, chính Trưởng ban Quốc tế kiêm Bí thư trung ương đoàn Thanh niên CS
Hồ Chí Minh đă phải thú nhận là thanh niên Việt Nam đang “tụt hậu từ A đến Z”
so với thanh niên trong khu vực và thế giới. Trong khi đó th́ Giám đốc Trung
tâm Giáo dục tổng hợp Trung ương đoàn Thanh niên, qua những số liệu của bộ Kế
hoạch và Đầu tư khảo sát về tŕnh độ giáo dục tại 12 nước lân cận trong khu
vực Á châu, cũng cho biết một thực tế bi đát khác là chỉ số chất lượng giáo
dục của VN đứng hạng chót hay áp chót trong danh sách những nước này. Năm
ngoái, Trung Quốc có ra một tài liệu liệt kê 500 trường đại học tốt nhất trên
thế giới. Riêng Hoa Kỳ đă có 171 trường, Việt Nam ta lọt sổ!
Về đạo đức trong giới học sinh, sinh viên, giáo chức VN th́ vô số bài viết đă
ghi nhận lắm chuyện đau ḷng. Ví dụ gần trường cấp hai thường có những điểm
chơi điện tử, bi da mà ở đó không thiếu thuốc lá, heroin. Học sinh cấp ba th́
có mốt tụ tập ăn nhậu, chui vào động “lắc”, mua sắm thời trang và phá thai
chùng lén. Sinh viên th́ ngoài những tài này c̣n rành việc đút lót và mua
chuộc giảng viên trong chuyện thi cử. Giảng viên đại học th́ biết nịnh trên
lừa dưới, c̣n khả năng chuyên môn bất cần. Đậu cao học và tiến sĩ chỉ là
chuyện phải đạo với nhau, chưa có ai rớt trong vụ này hết. Bởi thế trong mỗi
lớp cao học hay nghiên cứu sinh th́ chỉ có 2-3% là học thiệt, c̣n lại là học
giả. Nhiều tiến sĩ, giáo sư VN một chữ ngoại ngữ bẻ đôi cũng không biết. Hỏi
ra th́ mới hay: nghiên cứu th́ thuê người khác làm giúp, c̣n bằng ngoại ngữ
th́ mua. Cuối cùng, những con người ưu tú - những tiến sĩ đương đại này được
tống ra xă hội, được chèn vào các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương,
để sau đó đất nước có được những đống rác bảo thủ, quan liêu và băng hoại
(theo Lư Đợi, Sự băng hoại bốc mùi từ sự thơ của chúng ta).
c- Phát triển
những năng khiếu, khai tâm về những phương tiện, giúp sẵn sàng đối thoại, tạo
lương tâm ngay thẳng, giúp nhận biết và yêu mến Thiên Chúa:
“Phải giúp trẻ em và thanh thiếu niên phát triển
điều ḥa những năng khiếu thể xác, luân lư và tinh thần, ư thức dần dần trách
nhiệm cách rơ rệt hơn, nhờ luôn cố gắng trau dồi đúng mức đời sống cá nhân và
theo đuổi sự tự do chân chính, với ḷng can đảm lướt thắng mọi trở ngại. Phải
tích cực và thận trọng giáo dục chúng về phái tính tùy từng lứa tuổi. Ngoài
ra, phải huấn luyện cho chúng biết tham dự đời sống xă hội, để sau khi được
chỉ dẫn đầy đủ về những phương tiện cần thiết và thích hợp, chúng có thể tích
cực dấn thân vào những đoàn thể khác nhau của cộng đoàn nhân loại, sẵn sàng
đối thoại với người khác cũng như hăng say hoạt động để góp phần thực hiện lợi
ích chung… Trẻ em và thanh thiếu niên có quyền được hướng dẫn trong việc phê
phán những giá trị luân lư theo lương tâm thẳng thắn, tự ư chấp nhận cùng tuân
giữ những giá trị ấy và nhận biết yêu mến Thiên Chúa cách hoàn hảo hơn”
(Tuyên ngôn Giáo dục số 1bc).
Đây xin hăy nghe phần mở đầu “Bản kiến nghị chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa
giáo dục” của một nhóm 23 nhà giáo, nhà khoa học, nhà văn hóa, đứng đầu là
giáo sư Hoàng Tụy, gởi tới Thủ tướng CSVN, do báo Tuổi Trẻ phổ biến đầu năm
học 2004-2005:
“Chưa bao giờ t́nh h́nh giáo dục trở nên
bức xúc như hiện nay. Về cả ba phương diện dân trí, nhân lực và nhân tài,
những bất cập đều quá rơ:
 |
1- Dân trí thấp, biểu
hiện trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư tưởng, ư thức… Đạo đức
bị xói ṃn, thói gian dối, thiếu trung thực đang tác động nặng nề đến mọi mặt
của đời sống xă hội.
|
 |
2- Nhân lực không đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu kiến thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả
năng xoay xở, thiếu đầu óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc
trưng chất lượng lao động khiến sức cạnh tranh rất thấp.
|
 |
3- Nhân tài tuy không
đến nỗi quá thiếu nhưng phát hiện và bồi dưỡng kém, thiếu cơ hội và điều kiện
phát triển. Chất xám bị lăng phí nghiêm trọng dưới nhiều h́nh thức khác nhau”. |
Rồi với việc độc
quyền mọi cấp giáo dục (chỉ cho tôn giáo dạy mẫu giáo), độc quyền mọi sách
giáo khoa, kèm theo chủ trương vô thần đấu tranh, đường lối đạo đức cách mạng
(đạo đức xă hội chủ nghĩa), CSVN đang t́m cách tiêu diệt ư thức về tôn giáo,
cảm thức về Thiên Chúa, xuyên tạc kiến thức về Giáo hội, tri thức về luân lư
nhân bản trong các giờ giảng dạy, trong các sách giáo khoa, đặc biệt là môn
ngữ văn, lịch sử và công dân giáo dục (ở bậc đại học là các sách nghiên cứu).
Song song đó, CS t́m cách cướp lấy ngày chủ nhật (là ngày học giáo lư) của học
sinh (qua chiêu bài học thêm), thậm chí c̣n cướp lấy ngày lễ Giáng sinh (đề ra
thi cử). Trong bộ Bách khoa Từ điển Việt Nam th́ CS cố ư viết sai các từ tôn
giáo và tŕnh bày sai các khái niệm tôn giáo cũng chỉ v́ mục đích nói trên.
5. PHÁT
TRIỂN MẶT TÔN GIÁO
Từ Tuyên ngôn Giáo dục số 1c như ta vừa
thấy trên, công đồng Vatican II đă mở ra ư tưởng phát triển về tôn giáo trong
xă hội loài người. Nhưng chính trong Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo mà công đồng
sẽ đề cập vấn đề này cách chi tiết hơn.
a- Tự do tôn giáo là
quyền của con người và phải được cơ cấu pháp lư của xă hội chấp nhận:
“Công đồng tuyên bố con người có quyền tự do tôn
giáo. Quyền này hệ tại việc con người không bị chi phối v́ sự cưỡng bách của
cá nhân, đoàn thể xă hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Với ư
nghĩa đó, trong lănh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với
lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù cho đó là
hành động riêng tư hay công khai, một ḿnh hay cùng với người khác, trong
những giới hạn chính đáng. Hơn nữa, Công đồng c̣n tuyên bố rằng tự do tôn giáo
thực sự được xây dựng trên phẩm giá con người, một phẩm giá đúng như lời Thiên
Chúa mạc khải và chính lư trí cho biết được. Quyền tự do của con người trong
cơ cấu pháp lư của xă hội phải được chấp nhận là một quyền lợi dân sự”
(Tuyên ngôn Tự do Tôn giáo số 2a).
Câu cuối cùng này cho thấy một xă hội muốn phát triển thực sự phải công nhận
quyền tự do tôn giáo thực sự chứ không phải thứ quyền tự do tôn giáo ngoài vỏ,
phải chấp nhận nó như một quyền lợi dân sự chứ không phải như thứ ân huệ hay
kiểu tạm dung của nhà nước. Thế nhưng, việc CSVN ban hành lần lượt Sắc lệnh
234 của Hồ Chí Minh năm 1955, nghị quyết 297 của Hội đồng bộ trưởng năm 1977,
nghị quyết 24 của Bộ chính trị năm 1990, nghị định 69 của Hội đồng bộ trưởng
năm 1991, chỉ thị 379 của Thủ tướng năm 1993, chỉ thị của Bộ chính trị năm
1998, nghị định 26 của Thủ tướng năm 1999, nghị quyết của Ban chấp hành trung
ương năm 2003, Pháp lệnh Tôn giáo của Quốc hội năm 2004, Nghị định Tôn giáo
của Chính phủ năm 2005 việc Nhà nước thành lập lần lượt Ủy ban Liên lạc Công
giáo rồi Ủy ban Đoàn kết Công giáo (để lũng đoạn Giáo hội Công giáo), Giáo hội
Phật giáo Việt Nam (1994, để loại trừ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất),
các Hội thánh Cao đài Tiên Thiên (1995), Minh Chân đạo (1996), Tam kỳ phổ độ
(1997) (để loại trừ Hội thánh Cao đài chân chính), Giáo hội Phật giáo Ḥa Hảo
quốc doanh (để loại trừ Giáo hội Phật giáo Ḥa Hảo thuần túy), Hội thánh Tin
lành miền Nam Việt Nam (để loại trừ các Hội thánh Tin Lành khác như Mennonite,
Phúc âm….) đều cho thấy tự do tôn giáo tại Việt Nam như thế nào, xây dựng trên
cái ǵ và được cơ cấu pháp lư của xă hội công nhận ra sao.
Bởi thế mà tông huấn “Giáo hội tại Á châu” số 23.3 phải lên tiếng:
“Giáo Hội ư thức rằng tại nhiều nơi của Châu Á làm
chứng một cách thầm lặng bằng cuộc sống vẫn là con đường duy nhất để loan báo
Nước Thiên Chúa. Đó là những nơi c̣n bị cấm loan báo công khai, tự do tôn giáo
bị phủ nhận hay bị hạn chế một cách hệ thống”.
b- Chính
quyền không được ép buộc hay ngăn cản việc hành đạo, trái lại phải nh́n nhận
và nâng đỡ đời sống tôn giáo:
“V́ việc hành đạo, tự bản chất, trước hết ở tại
những hành vi ư chí tự do bên trong, hướng con người thẳng tới Thiên Chúa.
Những hành vi này không thể bị một quyền bính thuần nhân loại nào ép buộc hay
ngăn cản. Đàng khác, chính bản tính xă hội của con người đ̣i họ phải diễn tả
những hành vi tôn giáo bên trong ra bên ngoài, thông truyền cho nhau trong
lănh vực tôn giáo, tuyên xưng đạo của ḿnh dưới h́nh thức cộng đoàn. Vậy chối
bỏ quyền tự do hành đạo của con người nơi xă hội, trong trường hợp trật tự
công cộng vẫn được bảo đảm, tức là nhục mạ con người và trật tự mà Thiên Chúa
đă ấn định cho con người… Bởi vậy, quyền bính dân sự, v́ mục đích riêng biệt
là phục vụ công ích trần thế, nên phải nh́n nhận và nâng đỡ đời sống tôn giáo
của công dân” . (Tuyên ngôn Tự do tôn giáo số 3).
Tất cả chúng ta đều biết những quyền tự do dân chủ đều có tính toàn cầu, bất
khả phân, liên lập và liên quan với nhau. Do đó, theo giải thích của luật gia
Nguyễn Hữu Thống, muốn truyền giáo và hành đạo, ngoài quyền tự do tôn giáo,
các cá nhân và hội đoàn c̣n phải được hưởng quyền tự do tư tưởng, tự do phát
biểu, tự do hội họp, tự do lập hội (thành lập Giáo hội). Tự do tôn giáo gồm
hai quyền:
 |
1) Quyền thành lập
Tôn giáo và Giáo hội dành cho công dân (Hiến pháp Hoa Kỳ gọi là Establishment
Clause). Nghĩa là nhà nước không được thành lập những Giáo hội nhà nước, Giáo
hội quốc doanh để tước đoạt tư cách pháp nhân của các Giáo hội dân lập đă hoạt
động từ trước, như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, các Giáo hội Cao
Đài, Ḥa Hảo và các Hội thánh Tin Lành v.v...
|
 |
2) Ngoài ra nhà nước
không được can thiệp, kiểm soát hay giám sát các Giáo hội trong các sinh hoạt
tôn giáo. Đó là Quyền tự do Truyền giáo và Hành đạo (Hiến pháp HK gọi là Free
Exercise Clause). Quyền này cho các Giáo hội được sinh hoạt tự trị.
|
Do đó, nếu v́ thiện ư
nh́n nhận và nâng đỡ đời sống tôn giáo mà Nhà nước đưa ra một đạo luật tôn
giáo nào đó, th́ đạo luật này phải dành cho công dân quyền tự do thành lập tôn
giáo và dành cho các Giáo hội quyền sinh hoạt tự trị. V́ thế chế độ đăng kư,
chấp thuận hay “xin-cho” phải bị hủy bỏ. Chỉ khi nào có sự vi phạm luật pháp,
hiến chương, điều lệ hay nội quy, lúc đó nhà cầm quyền mới can thiệp. Thế
nhưng, Pháp lệnh Tôn giáo 2004 được ban hành nói là để bảo đảm tự do tôn giáo,
kỳ thực nó vẫn theo đường lối cố hữu là tiêu diệt tôn giáo theo chủ thuyết và
đàn áp tôn giáo trong chính sách. Bởi lẽ đối với Cộng Sản, tôn giáo là thuốc
phiện mê dân. Điều này dễ dàng nhận ra qua chủ trương tuyên truyền bêu xấu tôn
giáo trong đảng, đoàn, công an, quân đội, trường học, giáo khoa, báo chí cũng
như qua việc không cho các tôn giáo lên tiếng “trên quảng trường đường phố”,
thậm chí c̣n trên xa lộ thông tin. Bởi đó VN rơi vào một cơn khủng hoảng đạo
đức ngày càng trầm trọng nơi đủ mọi giới th́ cũng chẳng có ǵ là lạ!
Thành ra, dù có kư thêm một thỏa ước về tự do tôn giáo với Hoa Kỳ đầu tháng
5-2005, có cử ban Tôn giáo sang Vatican cuối tháng 6-2005 để bàn thảo việc
thiết lập bang giao, nhưng bao lâu c̣n giữ chế độ độc tài Mác xít vô thần,
CSVN vẫn không bao giờ thực tâm nh́n nhận và nâng đỡ đời sống tôn giáo của
công dân.
c- Các quyền của cộng đoàn tôn giáo cần phải được Nhà
nước tôn trọng:
“Các cộng đoàn tôn giáo phải được (quyền) tự do để
hoạt động theo những quy luật riêng, công khai phụng thờ Đấng Tối Cao, giúp đỡ
các tín hữu trong việc thực thi đời sống tôn giáo, nuôi dưỡng họ bằng giáo lư,
phát triển các tu hội, trong đó các phần tử cộng tác với nhau để tổ chức đời
sống riêng theo những nguyên tắc tôn giáo của họ… quyền đ̣i các cơ quan lập
pháp, hành pháp dân sự không được ngăn cản việc chọn lựa, đào tạo, bổ nhiệm và
thuyên chuyển các viên chức riêng của ḿnh, việc liên lạc với giáo quyền và
những cộng đoàn tôn giáo ở những nơi khác trên hoàn cầu, việc thiết lập các cơ
sở tôn giáo cũng như thu hoạch và quản trị những tài sản thích hợp… quyền công
khai giảng dạy và minh chứng đức tin của ḿnh bằng lời nói và bằng chữ viết mà
không bị cấm cản…. (quyền) không bị ngăn cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu
năng riêng của giáo thuyết ḿnh trong việc tổ chức xă hội và làm cho toàn thể
sinh hoạt nhân loại được sống động… quyền tự do hội họp hay thành lập những
hiệp hội giáo dục, văn hóa, từ thiện và xă hội do cảm thức tôn giáo thúc đẩy”
(Tuyên ngôn Tự do tôn giáo số 4).
Nhưng nghiên cứu kỹ Pháp lệnh tôn giáo, người ta thấy CSVN đang quấn quanh cổ
các Giáo hội một sợi xích sắt năm ṿng. Đó là:
 |
a) siết chặt cương vị
của tôn giáo;
|
 |
b) siết chặt nhân sự
của tôn giáo;
|
 |
c) siết chặt hoạt
động của tôn giáo;
|
 |
d) kiểm soát tài sản
của tôn giáo;
|
 |
e) kiểm soát liên lạc
của tôn giáo (xin xem bài “Sợi xích sắt năm ṿng” của chúng tôi). |
Chính v́ thấy rơ hoàn cảnh này, một hoàn
cảnh gây nguy hại cho việc phát triển đất nước Việt Nam, mà trong bức thư gởi
Hội đồng GMVN đi “ad limina” ngày 22-1-2002, Đức Gioan-Phaolô II đă tóm gọn
các số 3-4 này của Tuyên ngôn Tự do tôn giáo: “Thiện
ích rất quư giá là tự do tôn giáo… vừa có liên quan tới cá nhân cũng như tới
các cộng đồng tôn giáo. Đối với các cá nhân, tự do tôn giáo bảo đảm quyền
tuyên xưng đạo và thực hành đạo của ḿnh mà không bị cưỡng bách, quyền được
giáo dục theo các nguyên tắc đức tin của ḿnh, quyền theo ơn gọi tu tŕ và
thực hiện những hành vi, tư cũng như công, nói lên quan hệ nội tâm nối kết con
người với Thiên Chúa và với anh chị em đồng bào và đồng loại. Đối với các cộng
đồng tôn giáo, tự do tôn giáo bảo đảm các quyền cơ bản như: tự quản, cử hành
việc phụng tự công cộng mà không bị hạn chế, giảng dạy công khai đức tin của
ḿnh và làm chứng về đức tin bằng lời nói cũng như bằng chữ viết, nâng đỡ các
thành viên của ḿnh trong việc hành đạo, chọn lựa, huấn luyện, bổ nhiệm và
thuyên chuyển các thừa tác viên của ḿnh, biểu lộ sức mạnh đặc biệt của Giáo
Huấn xă hội của Hội Thánh, cổ vơ các sáng kiến trong lănh vực giáo dục, văn
hóa, bác ái và xă hội”. Và Đức Thánh Cha “tha thiết cầu mong tất cả các phần
tử của quốc gia đoàn kết với nhau để cổ vơ một nền văn minh t́nh thương, dựa
trên các giá trị phổ quát ḥa b́nh, công lư, liên đới và tự do”.
Ḥa thượng Quảng Độ, trong thư gởi Ủy hội Nhân quyền LHQ, cũng thống thiết:
“Yêu sách của chúng tôi thật vô cùng đơn giản: chúng tôi kêu gọi cho sự phục
hồi quyền sinh hoạt pháp lư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và các
Giáo hội không được công nhận. Được như thế chúng tôi mới có thể đóng góp cho
nhân dân thịnh vượng”.
Trong tư cách “Mẹ và Thầy” (kiểu
nói của Đức Gioan 23), Giáo hội đă chỉ dẫn cho chúng ta con đường phát triển
cá nhân và đất nước trên mọi lănh vực. Có thể nói là chỉ dẫn cách tận t́nh,
chi tiết, xác đáng, bởi lẽ Giáo hội là “chuyên gia” về con người và “không có
ǵ thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng” trong ḷng Giáo hội
(Hc Mục vụ số 1a). Nhưng khi đối chiếu với hoàn cảnh nươc Cộng ḥa Xă hội Chủ
nghĩa Việt Nam hiện tại, qua vô vàn sự kiện và vô số chứng từ, chúng ta thấy
cả một trời khoảng cách.
Lư do duy nhất chính là v́ những kẻ cầm quyền đang bị đầu độc bởi một chủ
thuyết sai lạc về đủ mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, xă hội, đạo đức),
tức chủ thuyết Mác-Lênin, đang mù quáng duy tŕ một chế độ thất bại về đủ mọi
mặt (đạo đức, xă hội, văn hóa, chính trị, kinh tế) là chế độ độc tài Cộng sản.
Đây ta hăy nghe lại lần nữa lời Ḥa thượng Quảng Độ (thư gởi LHQ):
“Chúng ta làm ǵ đây để mang lại sự ổn định, hạnh
phúc và phát triển cho nhân dân Việt Nam?… Không c̣n con đường nào khác ngoài
chuyện Việt Nam phải thực sự có tự do và dân chủ. Đây là giải pháp duy nhất.
Phải có dân chủ đa nguyên, quyền tự do bầu cử, quyền chọn lựa thể chế chính
trị, được hưởng các quyền tự do, dân chủ nói tóm, quyền định hướng cho tương
lai của ḿnh, định hướng cho vận mệnh dân tộc ḿnh. Thiếu dân chủ đa nguyên,
chúng tôi không thể chiến đấu chống nghèo khó và bất công, cũng không thể đem
lại sự phát triển thực sự và tiến bộ cho dân tộc chúng tôi. Không có dân chủ
đa nguyên, nhân quyền không được bảo đảm, bởi v́ muốn bảo vệ nhân quyền, phải
có các thiết chế dân chủ và pháp quyền che chở. Dân chủ đa nguyên vừa cần
thiết vừa là sự sống c̣n cho các phong trào tôn giáo… (Các tôn giáo) có thể
đóng góp rất nhiều cho sự phát triển đất nước nếu được tự do”.
Con đường phát triển tất
yếu của Việt Nam chính là giải thể chế độ Cộng sản vậy!
Kỷ niệm 40 năm Công đồng chung Vaticanô
II.
Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải & Lm Phêrô Phan Văn Lợi
| |


|