|
| |
|
Nhu Cầu Về Tri Thức: Vấn Đề Lớn ở Việt Nam |
|
GS
Thomas Vallely
Giám đốc chương tŕnh Việt Nam của Đại Học Harvard
Bài thuyết tŕnh tại Hội Nghị Khoa Học Của Các Nghiên Cứu Sinh Việt-Nam tại
Mỹ với chủ đề "Giáo dục Đại Học Việt Nam: Nguồn lực và Cơ Hội." [1]
01.01.2006.
H́nh (VietnamNet): GS Thomas Vellely.
Tóm Tắt (Vietnam Review): Mặc dù Kinh tế Việt-Nam phát triển nhanh trong 15
năm vừa qua. Tuy nhiên theo nhiều tiêu chuẩn phổ quát, chính sách kinh tế
của Việt-Nam c̣n nhiều khiếm khuyết, mà hậu quả là Việt-nam tụt hậu so với
các nước láng giềng và vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới. [2]
Bài thuyết tŕnh của GS Thomas Valley dưới đây có cùng một nhận xét này. Sau
đây là 12 chủ điểm của bài thuyết tŕnh. Chúng vẽ lên một bức tranh khá bi
quan về tương lai của kinh tế Việt-Nam. Tất cả hầu như bắt nguồn từ cái nh́n
sai lầm của những nhà lănh đạo về một chính sách phát triển kinh tế quân
b́nh và bền vững.
1. Nhu cầu hiện tại về tri thức ở Việt-Nam c̣n yếu. Sinh viên chủ yếu coi
bằng cấp là bàn đạp để có một việc làm trong khu vực kinh tế quốc doanh. Tuy
nhiên những nhân tài hàng đầu được đào tạo ở nước ngoài hiện không xếp hàng
xin làm việc cho các doanh nghiệp quốc doanh.
2. Nếu những xu hướng hiện nay không thay đổi, các nghiên cứu sinh đang tu
nghiệp ở nước ngoài sẽ không t́m được cơ hội để phát huy đầy đủ tài năng của
họ ở Việt-Nam.
3. Việt-Nam là một trong số những quốc gia duy nhất trên thế giới mà trong
đó tỷ lệ phần trăm vốn được phân bổ cho khu vực nhà nước đang tăng lên. Điều
này có ư nghĩa quan trọng bởi không phải v́ thiếu nguồn lực mà khu vực nhà
nước suy giảm. Nhà nước tiếp tục nâng đỡ các công ty quốc doanh với chi phí
lớn. Những công ty này không thể cạnh tranh trong các thị trường mở và không
có sáng kiến tốt để sử dụng lực lượng tri thức một cách hiệu quả.
4. Việt-Nam không thể gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade
Organization - WTO) trong năm 2005 và chưa chắc chắn gia nhập được trong năm
2006. Giờ th́ chắc chắn rằng con đường gia nhập WTO sẽ khó khăn hơn trong
những năm tới.
5. Những lo ngại thực tế liên quan tới việc phân bổ, sử dụng vốn từ một đợt
phát hành trái phiếu gần đây. Thị trường trái phiếu và cổ phiếu được sử dụng
như một chiếc phanh ḱm hăm tốt độ tăng trưởng của khu vực tư nhân, chứ
không phải là một cách phân phối vốn hiệu quả. Nếu một khu vực mới mở ra, đó
sẽ là những công ty có thể được vay vốn và đây là những công ty nhà nước
hoặc những công ty ''tư nhân'' được ưu đăi cao, có mối liên hệ mật thiết mới
những người đang nắm quyền.
6. Việt-Nam ngày càng tụt hạng trong bảng xếp hạng tham nhũng, cùng với hệ
thống luật pháp c̣n nhiều vấn đề và thậm chí là lộn xộn. Theo Tổ chức Minh
bạch quốc tế. VN cùng với Indonesia và Philippines gia nhập vào nhóm các
nước có t́nh h́nh tham nhũng tồi tệ hơn trong khi Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ
và Trung Quốc đều được nâng hạng.
7. Hệ thống tài chính lành mạnh phát triển chậm chạp.
8. Luật đầu tư thay đổi thụt lùi, quay trở lại với phương pháp tiếp cận từng
dự án, thay v́ đăng kư đơn giản. Việc sửa đổi luật đầu tư gần đây cho thấy
gió đang thổi sai hướng.
9. Những vấn đề liên quan tới cổ phần hoá và đầu tư của nhà nước cho thấy
nhà nước tiếp tục quan tâm tới việc tạo ra sự công nghiệp hoá dựa vào nhà
nước. Điều đó sẽ làm cho khu vực tư nhân hiệu quả hơn thiếu vốn và giới hạn
khu vực này chủ yếu ở những doanh nghiệp có quy mô nhỏ với khả năng cạnh
tranh hạn chế trong các thị trường quốc tế.
10. Nhiều ''điều kiện nhượng bộ'' mà Việt-Nam chống lại sẽ làm giảm t́nh
trạng độc quyền về dịch vụ và hạ thấp chi phí ở Việt-Nam. Do đó làm cho VN
cạnh tranh và xuất khẩu dễ dàng hơn.
11. Việt-Nam sẽ phải ''leo lên chiếc dây giá trị gia tăng'', chứ không chỉ
là một nguồn lao động rẻ và hiệu quả.
12. Theo Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (World Economic Forum – WEF) thứ hạng của
Việt-Nam về khả năng cạnh tranh tăng trưởng cũng đáng thất vọng, chỉ tăng
lên được một nấc từ năm 2001 tới 2005. Căn cứ vào việc trong suốt thời kỳ
đó, nhiều nước châu Phi cũng được đưa vào xếp hạng và Indonesia, Malaysia và
Thái Lan đều lên được hai, ba nấc th́ rơ ràng VN đang thụt lùi.
***
Sau đây là toàn bộ bài tham luận này do Minh Sơn của VietnamNet biên dịch.
NHU CẦU HIỆN TẠI VỀ TRI THỨC Ở VIỆT-NAM: YẾU
Tôi đặc biệt quan tầm tới hệ thống giáo dục đại học Việt-Nam trong nhiều năm
qua. Chắc một số bạn cũng đă rơ, 6 tháng vừa rồi, tôi đă phần nào được biết
đến nhiều ở Việt-Nam thông qua b́nh luận về các chiến lược xây dựng trường
đại học đẳng cấp quốc tế (thông qua người bạn tốt của tôi, ông Nguyễn Anh
Tuấn).
Về bản chất, cải thiện giáo dục đâi học ở Việt-Nam liên quan tới việc tạo ra
nguồn cung cấp kiến thức. Cung cấp các nhà khoa học và kỹ sư là một điều ǵ
đó mà mọi người trong hệ thống đều hiểu. Cần nhiều nỗ lực, thời gian và tiền
bạc mới thành lập được một cơ sở nghiên cứu và đào tạo sinh viên ở tŕnh độ
cao. Vai tṛ của nhà nước trong việc thành lập các cơ sở giáo dục và nghiên
cứu hiệu quả rất khó khăn. Tuy nhiên, nh́n rộng ra, sẽ thấy thêm một vấn đề
khác: Ngay cả khi thành lập thêm nhiều những cơ sở như thế, các nhà khoa học
có tŕnh độ sẽ chỉ trở về hoặc ở lại một quốc gia nơi cần tới và trọng dụng
tŕnh độ, kiến thức của họ. Khi những nghiên cứu sinh của Vietnam Education
Foundation (NCS VEF) học xong, hoàn toàn xác đáng khi xem xét môi trường mà
ḿnh sẽ trở về.
Tôi gọi vấn đề này là nhu cầu về tri thức. Thực ra, tôi muốn nói ǵ khi dùng
cụm từ này? Nền kinh tế của một quốc gia tạo ra nhu cầu về người tài và sáng
kiến của họ. Việc thị trường thưởng công cho những người tài và người có
giáo dục lại tạo ra nhu cầu học tập của mọi người. Đương nhiên, đây là vấn
đề con gà và chất lượng trứng. Rơ ràng, người ta không t́m thấy các trường
ĐH đẳng cấp quốc tế ở những nơi có nền kinh tế kém phát triển. C̣n các nước
phát triển lại có ít nhất một vài trường như thế.
Đối với chúng ta, những người theo sát VN, nhu cầu hiện tại về tri thức ở VN
c̣n yếu. Giáo sư tại các trường đại học hàng đầu ở Hà Nội tin rằng sinh viên
chủ yếu coi bằng cấp là bàn đạp để có một việc làm trong khu vực kinh tế
quốc doanh.
T́nh trạng thiếu nhu cầu về tri thức khuếch đại những vấn đề tồn tại bấy lâu
trong hệ thống giáo dục ĐHVN. Do có quá ít nhu cầu đối với những nhân tài
thực sự và thành tích học tập chẳng quan trọng bằng các mối quan hệ, bằng
cấp bị mất giá trị. Tiêu cực ngày càng tràn lan trong nhà trường. Không chỉ
có vậy, người sử dụng lao động tại TP.HCM thường phàn nàn, cử nhân ra trường
hiện không làm đúng ngành nghề họ theo học.
GS Malcom Gilis, cựu Chủ tịch Đại Học Rice, thành viên của Hội đồng quản trị
của VEF, là một chuyên gia quốc tế lăo luyện về mối quan hệ giữa khoa học và
sáng tạo. GS Gillis giải thích với tôi rằng đa số những sáng chế kỹ thuật
tiên tiến nhất bắt nguồn từ các ngành khoa học cơ bản.
Tôi đề cập tới điều này v́ trong khi xem xét những nghiên cứu sinh (NCS VEF)
hiện nay, có một điểm nổi bật: 70% NCS đang nghiên cứu khoa học máy tính và
kỹ thuật điện cũng như các lĩnh vực kỹ thuật khác. Rơ ràng, sinh viên đang
chọn nghiên cứu những ngành mà trước mắt có nhu cầu. Đây chỉ là quan sát,
không phải sự chỉ trích. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa VEF hiện chưa t́m được
những người giỏi trong các lĩnh vực vật lư, sinh học và hoá học. Với mục
tiêu cải thiện nền khoa học ở VN, đây là một t́nh thế khó xử đối với VEF và
t́nh thế này không có câu trả lời dễ dàng. Hoàn toàn tự nhiên khi chọn những
người giỏi nhất và hoàn toàn tự nhiên khi sinh viên theo học những chuyên
ngành nơi có nhiều việc làm tốt.
Tuy nhiên, Việt-Nam sẽ cần nhiều nhà vật lư học, sinh học và hoá học nếu
thiết lập một trường ĐH đẳng cấp quốc tế và trở thành một bộ phận của hệ
thống khoa học toàn cầu. VEF có lợi thế hơn so với nhiều nhóm khác trong
việc giải quyết điều này và nên xem xét kỹ vấn đề này. Theo quan điểm của
riêng tôi, trong ngắn hạn, cách duy nhất để xây dựng năng lực nghiên cứu cao
học tŕnh độ cao trong những ngành khoa học này là đầu tư đào tạo các sinh
viên khoa học ở nước ngoài.
GS Chung Kim có nói với tôi rằng, ngay cả các NCS khoa học của Đại Học Quốc
Gia Seoul cũng gặp khó khăn khi cạnh tranh trong các chương tŕnh khoa học
dành cho NCS ở Mỹ do trường thiếu năng lực. Những điểm yếu trong đào tạo các
sinh viên khoa học ở Việt-Nam c̣n nghiêm trọng hơn và cần được giải quyết,
song sẽ không thể giải quyết nhanh. Tạo ra những tiến sĩ khoa học tài giỏi
đ̣i hỏi phải có hệ thống giáo dục khoa học tốt dành cho sinh viên.
TẠO RA NHU CẦU TRI THỨC
Giờ, tôi xin trở lại với thiếu nhu cầu tri thức ở VN hiện nay.
Xin bắt đầu với quan sát: môi trường thúc đẩy nhu cầu sáng tạo hầu như là
trách nhiệm của nhà nước v́ nó đ̣i hỏi rất nhiều chính sách phức tạp về
những vấn đề đa dạng. Chẳng hạn như giáo dục, tài chính, luật pháp và chăm
sóc y tế.
Những người quen thuộc với thành tích phát triển kinh tế gần đây của VN có
thể hỏi tại sao nhu cầu lại là một vấn đề.
Thử hỏi, có bao nhiêu quốc gia khác đạt được tốc độ tăng trưởng của Tổng Sản
Phẩm Nội Địa (Gross Domestic Product - GDP) 8% hoặc xuất khẩu trên 20%? Đói
nghèo đang giảm khi nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo Luật
Doanh nghiệp 2000. Đầu tư nước ngoài (foreign direct Investment – FDI) đang
tăng tới mức ngay cả Thái Lan cũng phải lo ngại. Hầu hết, các nước khác sẽ
từ bỏ nhiều thứ để có được thành tích kinh tế này.
Cũng có thể vẽ một bức tranh nền kinh tế VN và những triển vọng ngắn hạn của
nó. Chắc chắn, sẽ ít màu hồng. Ngay bây giờ, tôi muốn giới thiệu với quư vị
một bức tranh như thế và gợi ư rằng những người quan tâm tới nền khoa học VN
nên lo lắng v́ bức tranh nêu lên những câu hỏi nghiêm túc về việc liệu các
NCS đang tu nghiệp ở nước ngoài có t́m được cơ hội để phát huy đầy đủ tài
năng của họ ở VN hay không. Nếu những xu hướng hiện nay không thay đổi, tôi
sợ là họ sẽ không t́m được.
Tôi biết, một số người sẽ coi nhận định này là quá bi quan. Một người bạn
tốt - một quan chức cấp cao VN - từng nói với tôi rằng, nếu là bạn tốt của
VN th́ phải phê phán VN. Tôi tin có rất ít sự phê b́nh mang tính xây dựng
liên quan tới chính sách và thành tựu kinh tế xă hội của VN, cả ở trong nước
lẫn nước ngoài. Trên tinh thần đó, tôi xin tŕnh bày phần phê b́nh dưới đây.
Một phần thành tựu kinh tế của VN đáng được xem xét kỹ hơn - tỷ lệ tăng
trưởng sản lượng công nghiệp. Các nhà kinh tế lưu ư rằng bất kỳ khi nào khu
vực tư nhân (hiện đang tăng trưởng nhanh gấp 2 lần khu vực nhà nước) tiến
gần tới khu vực nhà nước về giá trị, có sự suy giảm đột ngột và không thể
giải thích được về giá trị của khu vực tư nhân. Điều này làm người ta kết
luận rằng, đó không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu dùng dữ liệu sản
lượng công nghiệp năm 2003 làm cơ sở th́ sẽ thấy chưa tới 1/5 tăng trưởng
công nghiệp tới từ các doanh nghiệp quốc doanh.
Điều này mô tả rơ ràng rằng khu vực nhà nước không c̣n đóng ''vai tṛ dẫn
đầu'' trong nền kinh tế VN. Chiếm một phần nhỏ trong tỷ lệ tăng trưởng công
nghiệp, tạo việc làm và xuất khẩu nên chỉ khi tiếp tục thu hút được lượng
vốn lớn th́ khu vực này mới đóng vai tṛ lớn.
Quả thực, VN là một trong số những quốc gia duy nhất trên thế giới mà trong
đó tỷ lệ phần trăm vốn được phân bổ cho khu vực nhà nước đang tăng lên. Điều
này có ư nghĩa quan trọng bởi không phải v́ thiếu nguồn lực mà khu vực nhà
nước suy giảm. Tôi cho rằng tiếp tục nói về ''vai tṛ dẫn đầu'' đối với khu
vực nhà nước là bỏ qua thực tế và làm ảnh hưởng tới tương lai.
6 vấn đề "kinh khủng"
Giờ, chúng ta hăy xem xét một số xu hướng không hỗ trợ một triển vọng xán
lạn:
1. Không thể gia nhập WTO trong năm 2005 và chưa chắn đă gia nhập được trong
năm 2006.
2. Những lo ngại thực tế liên quan tới việc phân bổ, sử dụng vốn từ một đợt
phát hành trái phiếu gần đây
3.Ngày càng tụt hạng trong bảng xếp hạng tham nhũng, cùng với hệ thống luật
pháp c̣n nhiều vấn đề và thậm chí là lộn xộn.
4.Sự phát triển chậm chạp của một hệ thống tài chính lành mạnh.
5. Những thay đổi mang tính thụt lùi đối với luật đầu tư, quay trở lại với
phương pháp tiếp cận từng dự án, thay v́ đăng kư đơn giản.
6.Những vấn đề liên quan tới cổ phần hoá và đầu tư của nhà nước. Hai vấn đề
này cho thấy tiếp tục có sự quan tâm tới việc tạo ra sự công nghiệp hoá dựa
vào nhà nước. Điều đó sẽ làm cho khu vực tư nhân hiệu quả hơn thiếu vốn và
giới hạn khu vực này chủ yếu ở những doanh nghiệp có quy mô nhỏ với khả năng
cạnh tranh hạn chế trong các thị trường quốc tế.
Làm sao mà các kết quả lại tốt đến vậy và các vấn đề lại kinh khủng tới vậy?
Về cơ bản, VN đang nằm ở trung tâm của một ''cơn băo hoàn hảo'' gồm những
yếu tố kinh tế thuận lợi. Hầu hết những yếu tố này nằm ngoài khả năng kiểm
soát của nhà nước. Giá dầu cao, giá các nguyên vật liệu khác cũng tăng mạnh.
Sự thay đổi về địa chính trị (chẳng hạn như do lo ngại về Trung Quốc) đă đẩy
các nhà đầu tư Nhật và Đài Loan tới VN. Viện trợ lên tới hàng nhiều tỷ đôla
mỗi năm. Lượng kiều hối (chỉ tính riêng số tiền chuyển chính thức qua ngân
hàng) đạt gần 4 tỷ đôla. Nếu chúng ta cộng ODA, nguồn thu từ dầu mỏ, FDI và
kiều hối, chúng ta có tổng cộng trên 15 tỷ đôla hay 30% GDP. Nếu khoản tiết
kiệm từ nguồn thu phi dầu mỏ là 10-15%, chúng ta sẽ có nguồn lực trên 40%
GDP.
VN thiếu la bàn
Chính phủ VN không thể kiểm soát được cơn băo hoàn hảo này. Tuy nhiên, Chính
phủ có thể kiểm soát môi trường chính sách. Tôi cho rằng những vấn đề nêu ra
ở trên ngụ ư về chính sách tồi. Nó cho thấy VN thiếu la bàn, nghĩa là những
phân tích để thúc đẩy tiến tŕnh chính sách. Xem xét sơ qua về các vấn đề
kinh tế hiện nay sẽ làm sáng tỏ tại sao tôi lại nói như thế.
Thứ nhất, hăy xem xét câu chuyện VN nỗ lực gia nhập WTO. Nói thẳng là ở đây,
cả 2 bên đều thiếu kỹ năng. Mỹ khăng khăng tiếp tục duy tŕ hệ thống hạn
ngạch dệt may cũ như một điều kiện gia nhập WTO. Điều này hoàn toàn sai. VN
chỉ chiếm chưa tới 3% hàng nhập khẩu dệt may vào Mỹ và không phải là mối đe
doạ lớn đối với ngành dệt may của Mỹ. Trung Quốc chiếm gần 30% song các nước
châu Á khác c̣n ít hơn nhiều (Ấn Độ dưới 6%) và không nên bị loại trừ. Thế
nhưng, VN lại thất bại trong các cuộc đàm phán. Thậm chí, VN c̣n chưa đưa ra
được một đề xuất toàn diện trên bàn đàm phán và đang cố duy tŕ một hệ thống
theo kiểu áp dụng dần dần. Giờ th́ chắc chắn rằng con đường gia nhập WTO sẽ
khó khăn hơn trong những năm tới.
Thật mỉa mai thay khi nhiều ''điều kiện nhượng bộ'' mà VN chống lại sẽ làm
giảm t́nh trạng độc quyền về dịch vụ và hạ thấp chi phí ở VN, do đó làm cho
VN cạnh tranh và xuất khẩu dễ dàng hơn. Người ta có thể cho rằng thất bại
trong việc gia nhập WTO và những khó khăn kinh tế phát sinh từ thất bại này
cuối cùng có thể trở thành chất xúc tác mạnh cho cải cách. Nếu đúng như vậy
th́ khoảng thời gian chưa vào được WTO sẽ cản trở các loại đầu tư mà chắc
chắn sẽ cần các chuyên gia công nghệ cao. Tóm lại, đó là một cơ hội bị mất -
nhượng bộ những quyền lợi đặc biệt và không nhận thức được quyền lợi lâu dài
của bản thân.
Thứ hai, gần đây có đợt phát hành trái phiếu quốc tế 750 triệu đôla. Đợt
phát hành này rất đắt hàng và một số người đang ca ngợi đây là một dấu hiệu
cho thấy VN đang gia nhập vào câu lạc bộ các nước lớn. Có thể đúng như vậy.
Song có một câu hỏi: người ta đang chơi tṛ chơi ǵ?
Toàn bộ số tiền này được dành để cho tổng công ty đóng tàu quốc doanh
Vinashin vay. Công ty đóng tàu tư nhân ABG của Ấn Độ đang xây dựng một xưởng
đóng tàu mới, cỡ lớn. Xưởng này sẽ có khả năng đóng những con tàu 120.000
tấn, đóng tám con tàu cùng một lúc. Xưởng đóng tàu hiện đại đó sẽ chi phí
chưa tới 100 triệu đôla.
Ngay cả khi chi phí cho một xưởng đóng tàu tương tự ở VN cao hơn 50%, chúng
ta có 600 triệu đôla không được giải thích. Tăng cường quyền lợi mà ít quan
tâm tới hiệu quả sẽ không tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế VN và cuối cùng
sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng những công nhân lành nghề, thậm chí là một số
được sử dụng trong dự án này.
Nhân tài hàng đầu không xếp hàng xin việc ở quốc doanh
Vậy VN không thể thành công chỉ bằng cách xây dựng một khu vực xuất khẩu
hiệu quả hay sao? Điều đó c̣n phụ thuộc vào FDI và sự tăng trưởng của các
nhà cung cấp có nhiều khả năng hơn. Nói như giới chuyên môn th́ VN sẽ phải
''leo lên chiếc dây giá trị gia tăng'', chứ không chỉ là một nguồn lao động
rẻ và hiệu quả.
Làm điều đó, cần có môi trường kinh doanh tốt. Tuy nhiên, hạng tham nhũng
của Việt Nam đă giảm từ năm 1997 tới 2005, theo Tổ chức Minh bạch quốc tế.
VN cùng với Indonesia và Philippines gia nhập vào nhóm các nước có t́nh h́nh
tham nhũng tồi tệ hơn trong khi Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ và Trung Quốc đều
được nâng hạng.
Tương tự, thứ hạng của VN về khả năng cạnh tranh tăng trưởng (theo diễn đàn
kinh tế thế giới) cũng đáng thất vọng, chỉ tăng lên được một nấc từ năm 2001
tới 2005. Căn cứ vào việc trong suốt thời kỳ đó, nhiều nước châu Phi cũng
được đưa vào xếp hạng và Indonesia, Malaysia và Thái Lan đều lên được hai,
ba nấc th́ rơ ràng VN đang thụt lùi.
Hăy nghĩ về hệ thống pháp luật. Có tin đồn VN đă mất nhiều cơ hội đầu tư ở
lĩnh vực công nghệ cao do các nhà đầu tư lo ngại về vấn đề bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ. Liệu Intel hay Microsoft sẽ đầu tư nghiêm túc vào một nơi như
thế? Điều đó có thể. Song, nếu VN có một thị trường nội địa lớn như Trung
Quốc. Đáng tiếc là GDP của VN chỉ bằng 50% của Singapore.
Về môi trường luật pháp u ám th́ ít ra các công ty trong nước có thể đối phó
được, mặc dù rất khó khăn. Một vấn đề nữa là không thể có tiền để mở rộng.
Do các ngân hàng quốc doanh chi phối hệ thống ngân hàng và không muốn cho
các công ty tư nhân vay tiền mà không có thế chấp chắc chắn nên các công ty
tư nhân hiệu quả ít có cơ hội để mở rộng, ngoại trừ thông qua lợi nhuận giữ
lại.
Thị trường trái phiếu và cổ phiếu được sử dụng như một chiếc phanh ḱm hăm
tốt độ tăng trưởng của khu vực tư nhân, chứ không phải là một cách phân phối
vốn hiệu quả. Nếu một khu vực mới mở ra, đó sẽ là những công ty có thể được
vay vốn và đây là những công ty nhà nước hoặc những công ty ''tư nhân'' được
ưu đăi cao, có mối liên hệ mật thiết mới những người đang nắm quyền.
Loại công ty này chắc chắc không thể cạnh tranh thực sự và cũng không thể
bắt đầu đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, hoặc thậm chí vay mượn công
nghệ theo một cách sẽ giúp VN tạo ra con đường riêng, hướng tới năng suất
cao hơn. Sự tăng trưởng rất nhanh về tín dụng có lẽ cũng không phải là ngoại
lệ mà là cho các doanh nghiệp nhà nước vay nhiều hơn.
Như vậy, đối với các ngành sử dụng nhiều tri thức th́ điều này chẳng có ǵ
là tích cực về mặt dài hạn. Chỉ mới một nhóm nhỏ các công ty sở hữu 50 triệu
đôla tiền vốn hoặc nhiều hơn, người ta sẽ hỏi: các công ty có khả năng cạnh
tranh quốc tế ở đâu?
Việc sửa đổi luật Đầu tư gần đây cho thấy gió đang thổi sai hướng. Có lẽ mục
đích của luật Đầu tư mới là nhằm cải cách theo hướng một cửa đối với luật
hiện có. Tuy nhiên, như một đại biểu Quốc hội đă nói: ''Có cái gọi là một
cửa song vẫn c̣n nhiều cửa''. Mặc dù có một số thay đổi vào phút cuối song
ấn tượng chung là VN mâu thuẫn và không thực sự muốn làm cho môi trường kinh
doanh dễ dàng. Điều đó đi ngược lại loại tăng trưởng mà VN cần.
Điều ǵ đứng đằng sau phần lớn những vấn đề này? Một cách giải thích là nó
thể hiện nỗ lực phát triển một khu vực sở hữu nhà nước mới, ngay cả khi kinh
nghiệm trong quá khứ không tốt và đ̣i hỏi của các đối tác thương mại khiến
việc làm đó rất tốn kém (về mặt cơ hội xuất khẩu bị mất đi). Tốc độ cổ phần
hoá tiếp tục chậm chạp, giá cả cao và sự lựa chọn nghèo nàn trong nhiều dự
án cơ sở hạ tầng lớn đều chỉ ra mong muốn ngăn chặn và hạn chế các công ty
tư nhân hiệu quả, tạo việc làm và có tiềm năng kỹ thuật tiên tiến.
Nhà nước tiếp tục nâng đỡ các công ty quốc doanh với chi phí lớn. Những công
ty này không thể cạnh tranh trong các thị trường mở và không có sáng kiến
tốt để sử dụng lực lượng tri thức một cách hiệu quả. Theo hiểu biết của tôi
th́ những nhân tài hàng đầu được đào tạo ở nước ngoài hiện không xếp hàng
xin làm việc cho các doanh nghiệp quốc doanh.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin trở lại vấn đề cung và cầu tri thức. VEF đang làm một
công việc tuyệt vời nhằm cải thiện cung và các bạn, những nghiên cứu sinh
VEF là người hưởng lợi trực tiếp của nỗ lực đó. VEF không đơn độc trong công
việc này. Tôi ước tính, các gia đ́nh VN đang chi ít nhất 150 triệu đôla/mỗi
năm để cho con em họ theo học ở nước ngoài. Có nguồn cung tri thức mặc dù
cần một hệ thống ĐH tốt hơn. Tuy nhiên, tôi cho rằng công việc tạo nhu cầu
tri thức mà VN đang làm lại rất tồi.
• Tôi đề nghị tất cả chúng ta cần quan tâm nhiều hơn tới các thể chế giáo
dục, kinh tế, luật pháp và chính sách. Chúng tôi, và VN, phải phát hiện
những điểm yếu liên quan và giải quyết những điểm yếu đó.
Chú thích:
[1] VietnamNet, “Cầu Truyền H́nh Trực Tiếp California - Hà Nội -TPHCM Về
Giáo Dục Đại Học,” 29.12.2005.
[2] Nguyễn Quốc Khải, “Tiến Tới Một Chính Sách Phát Triển Khu Vực Tư Doanh
Tại Việt-Nam, “ Tiếng Nói Dân Chủ Việt-Nam, 03.12.2005. |
| |


|