Mở ra
những trận “cận chiến pháp quyền” để chống vi phạm nhân quyền ở Việt Nam
Lên tiếng nhân dịp Ngày quốc tế về Nhân quyền 10-12-2005, Luật sư Trần Thanh
Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân quyền ở Paris, đă nhấn mạnh rằng nói
nhân quyền ở Việt Nam vào lúc này là phải nói về vi phạm nhân quyền. Trong cuộc
trao đổi sau đây với biên tập viên Nguyễn An của Đài Á Châu Tự Do, Luật sư Hiệp
khai triển ư kiến trên của ông về mặt luật học và đưa ra phương pháp mà ông gọi
là ‘h́nh sự’ để chống nạn vi phạm nhân quyền ở Việt Nam hiện nay. Dưới đây là
bản ghi âm cuộc phỏng vấn đă được phát đi trong chương tŕnh phát thanh tối
31-12-2005 và sáng 01-01-2006.
R.F.A.: Lên tiếng trong Ngày quốc tế về Nhân quyền 10-12 vừa qua, Luật sư có nói
rằng, bàn về nhân quyền ở Việt Nam hiện nay chỉ nên là việc đưa ư kiến để t́m
cách chống lại nạn vi phạm nhân quyền ở nước này. Đặt vấn đề như vậy có đơn giản
hóa vấn đề quá không, thưa Luật sư?
T.T.H.: Tôi nghĩ rằng không. Từ nhiều năm nay rồi, chúng ta đă nói rất nhiều về
mặt lư thuyết của nhân quyền để bàn về triết lư, về lịch sử, về khái niệm của
nhân quyền, đồng thời c̣n để đưa ra một bản tổng kết đáng quan ngại về t́nh
trạng phi nhân quyền dưới chế độ hiện hành tại Việt Nam. Nói chung, dư luận
trong cũng như ngoài nước đă nghe được rất rơ những lời tố cáo t́nh trạng vi
phạm nhân quyền có hệ thống và thường trực và nhất là những lời kêu cứu gần như
tuyệt vọng của các nạn nhân. Nhiệm vụ tố cáo như vậy có thể tạm coi như đă hoàn
tất. Nhưng v́ nhân quyền cứ tiếp tục bị vi phạm, nên tôi tưởng đă đến lúc nên bổ
sung cho bản cáo trạng này bằng cách phân tích xem v́ đâu mà nhân quyền đă bị vi
phạm đến mức độ nghiêm trọng, và nhất là xem có t́m được cách nào khả thi để
chống lại tệ nạn này hay không?
Theo tôi, nếu đổi cách nh́n vấn đề như thế th́ sẽ thấy ngay được rằng nói nhân
quyền ở Việt Nam hiện nay là phải ưu tiên nói về vi phạm nhân quyền và trong
thực tế có nhiều khả thế chống lại vi phạm nhân quyền nhưng chưa được khai thác.
R.F.A. Như vậy th́ sự bổ sung mà luật sư nói đến có vẻ như một sự thay đổi cách
nh́n về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Nếu đúng như vậy, th́ sự thay đổi cụ thể
ra sao?
T.T.H.: Tôi cho rằng những người tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam nên sửa lại
cách đặt vấn đề nhân quyền. Đừng quá chú trạng về mặt chính trị mà phải t́m cách
giải quyết nó trên địa hạt pháp lư. Lư do là v́ không phải nhà cầm quyền cộng
sản thiếu hiểu biết về nhân quyền theo chuẩn mức quốc tế. Trái lại họ biết rất
rơ. Bằng cớ là từ hơn 20 năm nay, họ đă tự nguyện tham gia hai Công ước quốc tế
về nhân quyền 1966 và mới đây họ đă đưa ra Sách Trắng về nhân quyền để công khai
biện minh cho ḿnh. Tức là Hà Nội đă ư thức được rất rơ sự đe dọa của nhân quyền
phổ quát đối với độc tài đảng trị nên Hà Nội đă tri t́nh chọn lựa đường lối phi
nhân quyền. Nay nếu cứ tiếp tục tranh căi dài dài mong đối thoại là sa vào kế
“dương đông kích tây” của họ. Vậy chỉ c̣n cách phải dùng pháp luật của chính Hà
Nội để đưa họ vào thế phải từ bỏ những hành vi xâm phạm nhân quyền, nếu không từ
bỏ th́ tất phải trả giá đắt.
R.F.A.: Đề nghị Luật sư giải thích rơ v́ sao chỉ có thể giải quyết được vấn đề
vi phạm nhân quyền ở khâu pháp lư chứ không ở khâu chính trị?
T.T.H.: Có hai lư do. Thứ nhất, giải pháp chính trị đă được thi hành từ nhiều
năm nay rồi và đă thất bại v́ không thay đổi được đường lối phi nhân quyền cố
hữu của Hà Nội. Do đó, nay phải chuyển hướng. Thứ nh́, nguồn gốc của vi phạm
nhân quyền là sự lạm quyền dưới mọi h́nh thức của nó. Với một chế độ chính trị
toàn trị, th́ chính trị là chỗ dựa vững chắc cho lạm quyền. Nhưng với pháp luật
th́ khác, lạm quyền không thể công khai nấp bóng pháp luật để hoành hành như đă
nấp bóng chính trị. Biện pháp pháp lư là không cho lạm quyền lẩn trốn pháp luật.
R.F.A.: Tại sao chính trị lại là chỗ dựa cho lạm quyền ở các chế độ toàn trị,
c̣n ở thể chế dân chủ th́ sao. Ông có thể phân tích rơ điều này?
T.T.H.: Về lư thuyết mà nói, th́ cả chính trị lẫn pháp luật đều có khả năng ngăn
trở lạm quyền. Điều này hiển nhiên tại những nước dân chủ chân chính. Như ở nước
Mỹ chẳng hạn, ngay cả Tổng thống nếu lạm quyền cũng bị đem ra đàn hặc. Nhưng ở
Việt Nam th́ khác hẳn, chính trị là thống soái, như chính các viên chức cao cấp
từng tuyên bố. Đảng cầm quyền, tức Đảng Cộng sản đă tự ư ban cho ḿnh đủ mọi thứ
quyền. 60 năm đảng này cai trị đất nước đă cho thấy rằng quyền của Đảng lớn hơn
cả quyền vua chúa ngày xưa. Và c̣n phải nói thêm là c̣n lớn hơn cả quyền của
Thượng Đế.
R.F.A.: Có lẽ luật sư đă nói quá lời!
T.T.H.: Không đâu, cứ phân tích mà xem: Thượng Đế ban cho con người ngay từ khi
nó ra đời quyền sống trong tự do và hạnh phúc, và Thượng Đế không tước đoạt
quyền này của bất cứ ai. Ngược lại, Đảng Cộng sản Viêt Nam năm 1945, khi cướp
chính quyền để đứng ra cầm quyền đă long trọng tuyên bố rằng người dân có những
quyền mà Thượng Đế đă ban cho. Nhưng chẳng mấy chốc Đảng lại t́m đủ mọi cách lần
lượt cưỡng đoạt hết những quyền đă cho dân. Kết quả trước mắt là hiện nay, bất
cứ điều ǵ dân cũng phải xin và đảng có cho th́ dân mới có, thậm chí đến cả
những quyền thờ cúng, như trường hợp các Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
Giáo Hội Phật Giáo Ḥa Hảo, Giáo Hội Tin Lành v.v..., quyền suy nghĩ độc lập như
cụ Hoàng Minh Chính cũng phải theo quy chế “xin cho”. Một nền chính trị trong đó
người cai trị có quyền toàn trị như vậy th́ cần ǵ phải lạm quyền nữa! Hay nói
cách khác, nền chính trị đó đă là mẹ đẻ của mọi lạm quyền rồi.
R.F.A.: Nếu đúng như vậy th́ căn cứ vào đâu mà Luật sư cho rằng pháp luật có khả
năng bài trừ lạm quyền?
T.T.H.: Trên nguyên tắc th́ pháp luật tại Việt Nam là công cụ cai trị của Đảng
cầm quyền. Và muốn chính xác hơn nữa th́ phải nói rằng pháp luật là công cụ đảng
trị. Nhưng v́ thời thế đă thay đổi theo chiều hướng toàn cầu hóa, và nhất là
đảng này cũng phải nương theo chiều hướng ấy mà t́m đường sống nên nó đang bị
những sức ép phải sửa đổi pháp luật để tách rời dần dần pháp luật ra khỏi chính
trị về nhiều mặt, từ mặt làm luật cho đến mặt áp dụng luật và xét xử các tội
phạm.
R.F.A.: Sự sửa đổi ấy như vậy là mang tính tích cực đấy chứ?
T.T.H. Đúng thế. T́nh h́nh mới này đă mang lại cho người dân rất nhiều khả thế
để đ̣i lại những quyền đă bị tước đoạt. Theo tôi, người dân có thể t́m thấy ngay
được những khả thế này trên địa hạt pháp lư và bắt tay ngay vào việc bài trừ lạm
quyền mà không sợ bị đàn áp. V́ không cần có những luật mới, chỉ cần đọc lại cho
kỹ hai bộ luật H́nh sự và Tố tụng H́nh sự cũng đủ để tạo ra những đột phá từng
bước đẩy lui lạm quyền bằng đường lối hợp pháp, và qua đó cải thiện t́nh trạng
phi nhân quyền hiện nay. Dĩ nhiên việc vận động mới này không đơn giản và đ̣i
hỏi những khả năng chuyên môn về luật học. Nhưng theo tôi th́ ở trong nước, đă
sẵn có rồi. Tôi sẽ xin bàn thêm vào chi tiết nếu có dịp thuận tiện.
R.F.A.: Xin cảm ơn Luật sư và xin hẹn sẽ cùng với Luật sư đi vào chi tiết trong
cuộc trao đổi tiếp theo.
Xướng ngôn viên: Quư thính giả vừa nghe cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An của ban
Việt ngữ và Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung tâm Việt Nam về nhân quyền ở
Paris. Trong cuộc trao đổi, luật sư Hiệp đề nghị một vị thế mới để đ̣i cải thiện
t́nh h́nh nhân quyền tại Việt Nam. Trong buổi phát thanh tới, cuộc thảo luận sẽ
đi vào chi tiết vị thế mới này. Mong quư thính giả đón nghe.
Xướng ngôn viên: Trong cuộc trao đổi sáng/chiều nay với biên tập viên Nguyễn An
của Đài chúng tôi, Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về nhân
quyền ở Paris nhận định rằng t́nh thế mới cho phép người dân ở trong nước dùng
hai bộ luật H́nh sự và Tố tụng H́nh sự để chống lạm quyền, nguồn gốc của mọi vi
phạm nhân quyền. Sau đây, Luật sư Hiệp sẽ cùng với Nguyễn An đi sâu vào chi tiết
để tŕnh bày thêm về nhũng triển vọng mới chống vi phạm nhân quyền ở Việt Nam
bằng luật pháp của chính chế độ.
R.F.A.: Cứ theo những ǵ đă được Luật sư tŕnh bày trong cuộc trao đổi
sáng/chiều hôm qua, th́ lạm quyền là nguồn gốc của vi phạm nhân quyền và người
dân ở trong nước không có hy vọng ǵ chống lạm quyền trên diện chính trị. Nhưng
trên diện pháp lư th́ người dân có nhiều khả thế để bài trừ nạn lạm quyền mà bảo
vệ nhân quyền. Phải chăng như vậy là có hai khái niệm khác nhau về lạm quyền,
một khái niệm chính trị, một khái niệm pháp lư?
T.T.H.: Trong một nước chỉ có một quyền lực mang tính chất quốc gia. Do đó chỉ
có một khái niệm lạm quyền thôi. Ở những nước dân chủ pháp trị chân chính th́
quyền lực chính trị được pháp luật hóa, người cai trị không thể muốn có quyền ǵ
cũng được. V́ quyền của tập đoàn thống trị cũng như quyền của tất cả những người
dân bị trị đều do pháp luật quy định, phân định rơ ràng. Người cai trị mà vượt
quá giới hạn do pháp luật ấn định là lạm quyền. Như vậy không thể có hai khái
niệm lạm quyền được. Nhưng ở Việt Nam th́ khác. Quyền lực quốc gia chẳng những
không được pháp luật hóa mà pháp luật lại bị chinh trị hóa, tức là không có sự
phân định rơ ràng. Mặt khác, Đảng lại tự ban cho ḿnh một quy chế đặc biệt đứng
trên dân, ở ngoài và ở trên pháp luật. Có thể nói Đảng đă trở thành một quyền
lực bất khả xâm phạm một cách tuyệt đối. Lại nữa, Đảng đưa ra nguyên tắc Đảng
không bao giờ sai, chỉ có những người thừa hành sai mà thôi. Thành ra về mặt
chính trị không có chuyện lạm quyền v́ quyền ǵ Đảng cũng có cả. Vấn đề Đảng lạm
quyền v́ vậy không được đặt ra. Nhờ đó, Đảng mới đương nhiên và vô hạn định lănh
đạo được đất nước. Về mặt pháp lư th́ Bộ luật H́nh sự hiện hành có dự liệu nhiều
trường hợp lạm quyền nhưng Đảng đă có một loạt khóa an toàn bảo vệ cho Đảng nên
nạn lạm quyền vẫn tác hại và công khai xâm phạm nhân quyền mà Đảng không phải
chịu trách nhiệm h́nh sự v́ lạm quyền.
R.F.A.: Luật sư có thể nói rơ thêm về điều mà ông gọi là ‘loạt khoá an toàn bảo
vệ cho đảng’ khỏi sự chi phối của luật H́nh sự hiện hành?
T.T.H.: Bộ luật H́nh sự 1999 hiện đang áp dụng trong nước, nơi điều 277, chương
XXI, có đưa ra một khái niệm “tội phạm về chức vụ”. Lạm quyền là một tội danh dự
liệu nơi điều 282 của bộ luật H́nh sự. Lạm quyền chỉ là một trong số trên 30 tội
danh khác có tính tội phạm về chức vụ. Như vậy, luật h́nh sự ở Việt Nam không có
khái niệm riêng về lạm quyền để tránh cho Đảng cầm quyền không bị khiếu tố về
những hành vi gọi là “lạm quyền”. Điều 282 nói trên tuy là điều dự liệu và trừng
trị “tội lạm quyền” nhưng chỉ giới hạn trong trường hợp những người đang thi
hành công vụ mà thôi. Tức là không đụng ǵ tới Đảng cầm quyền. Hơn nữa, Việt Nam
dưới chế độ xă hội chủ nghĩa, có hai bộ máy cầm quyền, một do Đảng nắm giữ ở
trong bóng tối và một gọi là chính quyền của nhân dân th́ ở ngoài ánh sáng. Tuy
bộ máy trong bóng tối thực sự tham dự vào việc hành sử quyền lực quốc gia nhưng
những cán bộ hoạt động cho bộ máy trong bóng tối lại không phải là những người
thi hành công vụ nên không thể bị trách cứ về chuyện lạm quyền.
R.F.A.: Nếu như vậy th́ điều ǵ đă khiến cho Luật sư khẳng định rằng có khả thế
ở khâu pháp lư để chống lạm quyền?
T.T.H.: Dưới sức ép của t́nh trạng phi nhân quyền ở Việt Nam xă hội chủ nghĩa
hiện nay, nhà cầm quyền Hà Nội không thể coi sự khiếm trừng về lạm quyền là đất
dung thân bền vững cho ư đồ đảng trị phi nhân quyền được nữa. Những hành vi lạm
quyền mà Đảng cho đến nay vẫn c̣n che dấu được đang có cơ bị lôi ra trước ánh
sáng. Nếu có những cuộc vận động tận dụng các điều khoản liên hệ của hai bộ luật
H́nh sự và Tố Tụng H́nh sự để chọc thủng ṿng đai khiếm trừng th́ chẳng mấy chốc
ṿng đai này có thể sụp đổ như bức tường Bá Linh.
R.F.A.: Ông có thể đưa ra thí dụ cụ thể về sự tận dụng hai bộ luật H́nh sự và Tố
Tụng H́nh sự trong thời sự ở Việt Nam được không?
T.T.H.: Ở Việt Nam vừa xảy ra một trường hợp lạm quyền mà theo tôi có thể làm
đối tượng cho đơn khiếu tố về lạm quyền và tội phạm về chức vụ. Đó là vụ Hoàng
Minh Chính. Cụ vừa 4 lần ường tŕnh khẩn cấp để cho biết cụ đă phát đơn kiện 7
cơ quan truyền thông của Nhà nước v́ đă mở chiến dịch bôi nhọ, vu khống, thoá mạ
công dân Hoàng Minh Chính.. Những hành vi xâm phạm nhân quyền này đă diễn ra
trước sự hiện diện của nhân viên công an mà cụ Chính có ghi tên tuổi đích danh.
Gia đ́nh cụ đă tŕnh báo cho Sở công an để công an đến giữ trật tự, nhưng công
an không giải quyết.
R.F.A.: Những điều mà luật sư vừa trích dẫn th́ đúng là có xẩy ra thật. Ban Việt
ngữ chúng tôi có theo dơi, và cũng phỏng vấn cả hai bên nạn nhân lẫn cơ quan
công an. Nhưng theo ông, với cái nh́n của một luật gia, th́ ông nhận định thế
nào?
T.T.H.: Theo tôi, những hành vi phạm pháp quả tang kể trên là những tội chứng để
vô đơn kiện về mặt h́nh sự các nhân viên công an hữu trách về các tội phạm về
chức vụ v́ đă có những “hành vi xâm phạm hoạt động đứng đắn của các cơ quan, tổ
chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ” dự liệu nơi điều
282 bộ luật h́nh sự 1999. Về điểm này, điều 285 bộ luật h́nh sự cũng là một cơ
sở pháp lư để kiện công an về các tội “Thiếu trách nhiệm” tức là “không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ”. Ngoài ra, c̣n phải vô đơn kiện những
kẻ vô danh - mà cuộc điều tra sẽ t́m ra thủ phạm - về các tội cố ư gây thương
tích, gây tổn hại cho sức khỏe người khác (đ.108), tội làm nhục người khác (đ.
121) ,tội xâm phạm chỗ ở của công dân (đ.124), tội đe dọa giết người (đ. 103)
v.v...Tôi xin nhấn mạnh rằng việc khiếu kiện này đ̣i ḥi một mức độ chuyên môn
cao về luật học, nên phải để luật sư lo.
R.F.A.: Luật sư tiên đoán như thế nào về kết quả của những khiếu kiện mà Luật sư
vừa nêu lên?
T.T.H.: Không có ǵ bảo đảm rằng kiện th́ sẽ thắng. Nhưng cũng không v́ thế mà
khẳng định trước rằng kiện là sẽ thua. Điều quan trọng phải làm là đừng để cho
nhà cầm quyền đảng trị tự do áp dụng pháp luật một chiều để đàn áp đối lập và
dân chúng hầu bảo vệ chế độ bằng mọi giá. Phải bắt độc tài đảng trị trả giá.
Loại phản kháng thuần túy chính tri, dù dưới h́nh thức khiếu kiện như các ông
Phạm Quế Dương, Trần Khuê đă làm trước đây, như cụ Hoàng Minh Chính đang làm qua
4 “Tường tŕnh khẩn cấp” của cụ không đủ để ngăn chặn vi phạm trắng trợn nhân
quyền. Tôi tưởng đă đến lúc phải mở ra những cuộc “cận chiến pháp quyền” bằng
pháp luật của chính chế độ để bảo vệ nhân quyền và thiết lập dân chủ.
R.F.A.: Xin cảm ơn Luật sư Hiệp
(Ư kiến của luật sư Hiệp không nhất thiết phản ánh quan điểm của đài Á châu tự
do)