|
| |
THƯƠNG QUÁ PHẬN BÈO NGƯỜI LÍNH TRẬN
NHỮNG NGÀY LÊ LẾT KIẾP PHẾ BINH
MƯỜNG GIANG
Những
ngày tháng tư năm đó, không biết sao mà trời bổng đổ mưa thật sớm và lớn hơn
bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những
người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Thiết, Long
Khánh,Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Ḥa và Sài G̣n.
Trong
cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học tṛ,
làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt mù
đạn pháo.
‘ Bồ Đào mỹ tửu,
dạ quang bôi
dục ẩm tỳ bà, mă thượng thôi
tuư ngọa sa trường, quân mạc vấn ?
cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi ‘
Bốn câu
thơ cổ trong bài ‘ Lương Châu Từ ‘ của Vương Hàn (687-726), tự Tử Vũ, người
Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, cũng là một trong những thi gia nổi tiếng đời nhà
Đường, đă nói lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên
giới, nên mấy ai dám nghỉ tới chuyện trở về ? Và giọt mưa nào đây, vừa lăn
trên má , đă khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến
củ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi
bạn vữa ngă gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.
Tất cả
đă thành cổ tích.. Giờ chỉ c̣n biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa củ.
Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế
kỷ này, nên đă cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ
chết th́ bị dầy mồ, tan xác, c̣n người sống, nếu không sống kiếp mây chiều
lang thang, th́ cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương
hận, mà khóc cho quê hương v́ đâu máu xương chất ngất, v́ đâu mà kiếp sống của
con người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.
Tất cả
chỉ c̣n là kỷ niệm trong nhớ , vào những ngày đầu đời, mẹ bỏ con trong gánh,
dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và
Pháp. Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với
bom đạn làm rách vở da thịt của quê hương. Rồi cũng v́ người, v́ ‘ tang bồng
hồ thỉ, nam nhi trái, mà giôc ngước cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng
cay, uống cạn hạnh phúc của chính ḿnh.
Đất nước
hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đă dày ṿ người lính miền
Nam , trong mưa bom đạn xéo trùng hằng Rốt cục những người nằm xuống, những kẻ
ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đả trả xong cái
nợ ‘ da ngựa bọc thây ‘, tủi nh́n từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù
bôi nhọ và khép kín.
Trưa
30-4-1975 Sài G̣n thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương, trên sông
Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17, tới mũi Cà Mâu, đă chính thức thuộc về lănh
thổ Xă Hội Chủ Nghĩa, đệ tam quốc tế cọng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô Viết.
Cũng từ giơ phút đó, khi mà chiếc mặt nạ ḥa b́nh của người cọng sản đă cởi,
để lộ những khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, th́
cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than
ôi tất cả đă muộn rồi, họ đă ngă gục , không phải tại chiến trường v́ đạn pháo
của VC, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẳng, Phan Thiết, Sài G̣n.. bởi chính
những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng lưỡi ng̣i bút, của chính phe
ḿnh.
Ai chẳng
một lần về với đất ? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống chết
sao cho ư nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa chết
nhưng coi như đă chết v́ thương tật chiến trận và những vết thương ḷng. Họ
không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đă gởi lại chiến trường một phần
thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc.. và ngay tại
Sài G̣n, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC giết chết. Họ ở
lại làm vật hy sinh, cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một
chút thời gian, một bầu trời an toàn, một ḍng sông lặng sóng, giúp cho mọi
người , từ dân tới lính, b́nh yên di tản.
Nay th́
từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng ma của
quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết phận bèo
khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang nhưng
thân phận của người thương binh, chẳng có ǵ mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa,
rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị bỏ lại ở những quân y
viện , làng phế binh, không c̣n đại bàng, đồng đội và hậu phương. Bây giờ th́
dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xă nghĩa, trước sự xa hoa thừa
mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, aó gấm về
làng, mà trong ḍng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ
huy và đồng đội củ.
‘ Có làm
lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngả, đoạn trường. Có làm dân thời ly
loạn, mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô t́nh,
héo úa c̣n thua cây cỏ. Có là người thương phế binh, sau khi xuất viện, bỏ lại
một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết
tận cùng là đời của người lính về chiều lại c̣n mang thương tật. Hỡi ôi những
mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc
đời ?
‘ ngày xưa, là lính
v́ đời chiến đấu
là cầu đem người
sang sông
hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên
vệ đường ..
’
’
1-THÂN PHẬN CỦA
NGƯỜI LÍNH VNCH :
Ngay khi
VC chiếm dinh Độc lập, vào buổi trưa ngày 30-4-1975, th́ tại thủ đô Hoa Thịnh
Đốn, Đại sứ VNCH là Trần Kim Phương, đă nghẹn ngào tuyên bố trước báo chí Mỹ
:’ làm đồng minh với Hoa Kỳ là đi vào tử điạ ‘.Gần ba mươi năm qua, vết thương
của người vong quốc, chưa kịp đóng vảy, th́ mới đây, vào ngày 29-9-2004, qua
chương tŕnh ‘ No spin zone’ của đài Fox. Một kư giả tên O’Reilly, sau khi bàn
tán chuyện chính trị của A Phú Hăn và Iraq, lại kéo VNCH vào cuôc, qua gợi ư
:’ V́ Nam VN đă không chiến đấu cho tự do, nên họ không có tự do ngày nay ‘ ,
Câu hỏi được TT.Bush ‘ YES’ .
Điều này
cho thấy người Mỹ, dù là đảng nào chăng nửa, trước sau vẫn không có một chút
ǵ là tự vấn lương tâm, về hành động bất lương, bất nhơn, bất nghĩa của ḿnh
trước đây, khi phản bội một đồng ḿnh, đă từng chung lưng chiến đấu, v́ tự do
của nhân loại, trước sự nhuộm đỏ của chủ thuyết Mác-Lê.
Thật ra
câu trả lời của TT. Bush, nếu cách đây vài chục năm, khi mà nhiều người Mỹ
cũng như ngoại quốc, kể cả một ít người Việt Quốc Gia, c̣n bị VC lường gạt,
bưng bít, th́ họa hoằn thiên hạ tin đó là sự thật. Nhưng giờ, những huyền
thoại về đánh Mỹ cứu nước của VC đă rơi rớt theo chiếc mặt nạ làm tay sai cho
đệ tam quốc tế. Đồng thời, hồ sơ và bí mật về cuộc chiến Đông Dương 1945-1975,
đă được chính phủ Hoa Kỳ giải mả gần hết. Trong lúc đó, suốt bao nhiêu năm
qua, đă có rất nhiều tác giả lương thiện trí thức ngoại quốc, đă thẳng thắn ca
tụng cuộc chiến đấu anh dũng của người lính VNCH, đồng thời không tiếc lời chê
trách và phê b́nh người Mỹ là hạng con buôn chính trị, đă v́ quyền lợi riêng
tư, mà bán đứng đồng minh Nam VN, cũng như họ từng phản bội Đài Loan ngày
trước. Do trên sự suy đoàn của TT Bush :’ v́ không chịu chiến đấu, nên để mất
miền Nam ‘, chắc là không được mấy người quan tâm, trong đó có các cựu quân
nhân VNCH, hiện đang giúp thêm phiếu, trong kỳ bầu cử tháng 11 sắp tới. Để ông
Bush có cơ hôi, thắng Kerry, kiếm thêm một nhiêm kỳ tổng thống. Đó là sự thật
rơ ràng mà nay ai, kể cả VC cũng đều biết ,nên đâu c̣n ai dám lấy thúng úp voi
?. Nam VN mất không phải v́ người Miền Nam không chịu chiến đấu, mà chính do
người Mỹ, đă dùng viện trợ, để bó tay người lính đang chiến đấu và sắp chiến
thắng giặc thù. Chính TT Nixon và Ngoại Trưởng Kissinger, đă bóp chết ḥa b́nh
và tự do thật sự của Nam VN đă có, khi đem bán đứng tự do đó cho VC, để rút
quân về nước, đổi lấy một nhiệm kỳ tổng thống. Cũng câu chuyện khôi hài trên,
mới đây DB Loretta Sanchez , đă phát biểu trên chương tŕnh ‘ The O’Reilly
Factor ‘, khẳng định lời phát biểu của TT.Bush , đả sai lầm và không đúng sự
thật. Ông c̣n lấy làm tiếc, là trước đây, TT .Bush đă không chịu t́nh nguyện
sang chiến đấu tại chiến trường VN, nên đă không biết ǵ hết về cuộc chiến vừa
qua, trong đó đă có hằng triệu quân dân Nam VN, chiến đấu bên cạnh quân đội
Hoa Kỳ. Một số c̣n sống sót sau cuộc chiến, đă tới Mỹ tị nạn cọng sản, và họ
vẫn tiếp tục chiến đấu không ngừng nghĩ, để dành cho được tự do, dân chủ chân
chính tại quê hương VN, mà chính Hoa Kỳ đă trực tiếp bóp nát trước năm 1975.
Những thành quả đạt được khắp nẻo đường hải ngoại, như chính quyền công nhận
lá cờ vàng biểu tượng của quốc dân VN, tượng đài vinh danh chiến sĩ Việt-Mỹ,sự
h́nh thành các cộng đồng lớn mạnh của người Việt tị nạn, các vụ biểu t́nh
chống Trần Trường trương cờ máu, ảnh quỷ và các phái đoàn VC cũng như kinh
tài. Ngoài ra sự ngồi lại của tập thể cưụ chiến binh VNCH, bao gồm cả lực
lượng cảnh sát, cán bộ xây dựng nông thôn và thế hệ hậu duệ, suốt một năm qua
rất tốt đẹp... Đó không phải là sự tranh đấu của người Việt hiện nay, để đ̣i
lại tự do dân chủ của ḿnh, bị chính Hoa Kỳ dùng viện trợ tước đoạt từ mấy
chục năm về trước.
Hoa Kỳ
đă một ḿnh một chợ, dàn dựng lên, cái gọi là hiệp đinh Ba Lê-1973, ngưng
chiến và ḥa binh cho VN. V́ đă có chủ đích, nên hiệp định này, chỉ có hai
điểm đem lợi ích cho họ,được thi hành nghiêm chỉnh. Đó la việcợ quân Mỹ phải
triệt thoái hết về nước, theo đúng hạn chót đă ấn định vào ngày 29-3-1973 và
quân xâm lăng Bắc Việt , được Hoa Kỳ cho phép ở lại Nam VN. Chỉ điều khoản thứ
hai này, đủ chứng tỏ Hoa Kỳ không bao giờ muốn kư ḥa ước với cọng sản, để
thực thi sự ngưng chiến và t́m kiếm ḥa b́nh cho VN. Trái lại ngụy tạo, hiệp
định Ba Lê năm 1973, để có cơ hội công khai và hợp pháp, viết lên bản án tử
h́nh của VNCH, ngay từ lúc kư. Hành động bất lương của một siêu cường, đă
khiến cho bao chục triệu người Nam VN, chẳng những đă tan nhà nát cửa, gia
đ́nh ly tán, mà c̣n bị hủy diệt nền tự do dân chủ, mà họ đă dùng xuơng máu,
huyết lệ của chính ḿnh, để bồi đắp, xây dựng và duy tŕ liên tục từ 1955 đến
cuối tháng 4-1975. Cũng v́ sự gian manh trên, từ đó uy tín của nước Mỹ không
c̣n được thế giới tự do tin tưởng và mong cậy kết giao hợp tác.
Đă thế,
hai vị TT của Mỹ là Nixon và Ford, c̣n trắng trợn, nhổ nuốt những lời hứa hen
đă được quốc hôi, chính phủ nước ḿnh kư nhận ban hành, đồng thời với những
thơ riêng mực đen giấy trắng , liên tục gởi cho TT Nguyễn Văn Thiệu, rằng là
hăy kư hiệp định, để tiếp tục có viện trợ. C̣n nếu VC bội ước, th́ Hoa Kỳ sẽ
lập tức dội bom, cũng như trở lại tức khăc, bảo vệ VNCH. Nhưng tất cả chỉ là
cuội, chẳng những Hoa Kỳ ngoảnh mặt trước sự sự công khai vi phạm hiệp ước
ngưng bắn của VC , mà c̣n tàn nhẫn cúp hết viện trợ đă hứa, dành cho QLVNCH có
phương tiện, chống lại cuộc xâm lăng Nam VN của khối đệ tam cọng sản quốc tế.
Thực
chất cuộc chiến VN tới nay vẫn là một đề tài được tranh luận dai dẳng, chính
TT. Bush khi tuyên bố ‘ Yes’ trên đài Fox, về một vấn đề gai gốc mà bản thân
chưa biết trọn, chứng tỏ là Hoa Kỳ, dù đă tốn nhiều máu xương tiền bạc về cuộc
chiến đó, vẫn chưa hiểu thấu cái chiến tranh, mà Cọng sản gọi là ‘ chiến tranh
cách mạng ‘, đă đánh bại người Mỹ và thế giới tự do, tại hai mặt trận Trung
Hoa lục địa và Nam VN. Thực chất cuộc chiến đó, nay qua thời gian và những
khai quật của lịch sử, cho thấy đó chỉ là một thứ chiến tranh vừa du kích lẫn
qui ước, trong mục đích dấy loạn và khuynh đảo thế giới, bằng hành động phi
nhân man rợ, chứ không có ǵ là cao siêu huyền diệu, như một số triết gia trí
thức Tây Phương và Hoa Kỳ, từng ca tụng điên cuồng trong quá khứ. Người Mỹ v́
không thực tâm chiến thắng tại trận địa, trong khi có đủ điều kiện để chiến
thắng, đó mới chính là thực chất của cuộc chiến Đông Dương.
Nói
chung, qua kinh nghiệm xướng máu của chính người Việt Quốc Gia, trong suốt 70
năm tranh đấu, cho thấy Hoa Kỳ, Thế Giới Tự Do cũng như Nam VN, đă thua VC qua
cuộc chiến, chỉ một lư do duy nhất . Đó là sự hèn nhát của tập thể, v́ sợ và
ích kỷ, nên đă vô t́nh hay cố ư, yểm trợ đắc lực cho Bắc Việt các nguồn t́nh
báo, nhân lực và tiếp tế. Một sự kiện lích sử, mà không hề thấy tại các nước
bị chia đôi, sau thế chiến 2 như VN, Đức, Triều Tiên và Đài Loan. Do trên, Nam
VN không bị cọng sản cưởng chiếm, cũng là chuyện lạ.
V́ đâu
phải mất nước ? một câu hỏi đă đè nặng trong tâm trí người Việt sống sót sau
cuộc chiến. Bởi chính họ đă có mặt hay thật sự chứng kiến toàn bộ cuộc chiến,
từ đầu cho tới trọn ngày 30-4-1975, khi Dương Văn Minh ra lệnh Nam VN buông
súng đầu hàng. Rơ ràng trong suốt cuộc chiến từ năm 1955-1975, dù có mặt Hoa
Kỳ và Đồng Minh hay chỉ một ḿnh chiến đấu đơn độc, QLVNCH vẫn luôn làm chủ
chiến trường, tại hầu hết các mặt trận nhỏ lớn, quan trọng như Tết Mậu Thân,
Mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc, Kontum, B́nh Định, Quảng Trị. Ngay những ngày
tháng 4-1875, trong giờ thứ 25, dù phải chống trả với thù trong giặc ngoài,
QLVNCH vẫn chiến đấu anh dũng tại các mặt trận Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan
Thiết, Phước Long, Tây Ninh-Hậu Nghĩa và nhất là Xuân Lộc, đă làm quân xâm
lăng Bắc Việt, phải khiếp sợ la làng, đổ thừa Mỹ trở lại, giội bom nguyên tử.
Ngày 30-4-1975, khi các quân đoàn Bắc Việt, từ tám hướng siết chặt ṿng vây
Thành Đô, nhưng bên trong vẫn c̣n đủ an toàn, để Hoa Kỳ dùng trực thăng bốc
người ra chiến hạm. Trên sông Sài G̣n cũng như khắp bầu trời, cũng chính là
những sinh lộ, bởi v́ khắp nơi c̣n có sự chiến đấu của SD3,5,7,9,18,21,22,25
BB, của Lữ Đoàn 3 Xung Kích, SD Dù, Biệt kích Dù-Lôi Hổ, TQLC, Thiết Giáp,BDQ,
DQP+NQ,XDNT,CSDC và ngay cả những Thiếu Sinh Quân, Nhân Dân Tự Vệ. Tất cả đă ở
lại chiến đấu tới cùng, và đă làm vỡ mặt Hà Nội, khi những chiếc T54,PT76 vừa
tới Ngă Tư Bảy Hiền, đă bị các chiến sĩ Liên Đoàn 81 BCND và Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù
bắn hạ. Lịch sử VN cận đại, là những trang huyết lệ, được người lính trận viết
tại chiến hào, hố bom và ngay trên cơ thể của ḿnh, chứ không phải qua những
tài liệu, nói là của Tây Tàu, Nga Mỹ, vừa được giải mả. Chính sử gia Tư Mă
Thiên, nhờ bản thân bị đoạn trường , mà viết nên một thiên sử kư tới nay, vẫn
được thế nhân ngưỡng phục..
** CUỘC CHIẾN KHÔNG
CẦN THẮNG **
Tuy văn
khố Hoa Kỳ nói là đă cho giải mật nhiều tài liệu lịch sử có liên quan tới cuộc
chiến vừa qua nhưng những điều vừa bật mí, thật sự chưa được đưa hết ra ánh
sáng. Do muốn t́m hiểu sự thật về một cuộc chiến, đă làm cho Hoa Kỳ phải sa
lầy và mang rất nhiều tai tiếng, nên suốt mấy chục năm qua, nhiều nhân vật ,
từ những quân nhân thuần tuư đă tham dự cuộc chiến như Đô Đốc Grant Sharp, Đại
Tướng William C. Westmoreland.. hay trong ngành ngoại giao như GS Tiến Sĩ
Stephen Young, Robert Sharphen, William Colby.. đều thắc mắc về sự bại trận
của Hoa Kỳ, mà theo họ , chẳng bao giờ có thể xảy ra, trong một cuộc chiến vô
cùng chênh lệch, giữa hai đối thủ, cho dù phía sau lưng VC có Liên Xô, Trung
Cộng và khối Đông Âu chống lưng giúp đỡ tận lực.
Đúng như
Đô Đốc Grant Sharp , cựu Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, viết
trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Strategy For Defeat ‘ hay là ‘ Cuộc Chiến Không Cần
Thắng ‘, trong đó vị Cựu Tư Lịnh , cũng là một tướng lănh từng tham dự tại
chiến trường Nam VN nhiều năm, nói rằng Ông và thuộc cấp dưới quyền, bị các
nhà lănh đạo của nước Mỹ, tại Hoa Thạnh Đốn, cột chặt một tay, khi họ chiến
đấu tại VN. Thảm kịch này măi tới năm 1985, sau khi chính phủ Hoa Kỳ ban hành
một số luật mới, cho phép giảm độ mật , th́ Bộ Quốc Pḥng mới cho in phổ biến
hai mươi sáu trang , tóm tắt luật chiến đấu của QL.Hoa Kỳ tại Đại Hàn và VN,
gọi là ‘ Rules of Engagement ‘.
Đọc
Congressional Record, làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và
thương xót cho những đồng đôi, đồng bào, suốt hai mươi năm qua, v́ chiến đấu
chống sự xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom
và bàn tay VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như Lính Mỹ không được bắn VC, trừ
phi chúng tấn công trước. Không lực Mỹ không được giội bom vào xe của VC khi
chúng ở cách đường ṃn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ
Mig nếu chúng không gây hấn, không giội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi
trường. Cuối cùng , nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào
và Kampuchia..
Chính
phủ Hoa thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không được
thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà c̣n báo trước những bí mật quân sự, quốc pḥng
cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường ṃn HCM,
hành quân Lam Sơn 719.. Đó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ
Trưởng QP Mỹ Phil Golding, thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia
đ́nh tử sĩ Hoa Kỳ :’ Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với
nhữn mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến v́ chính trị, nên không
thể tiêu diệt VC được ‘.
Do sự
phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘ đánh không cần
thắng ‘, nên dân chúng đă xuống đường, đă đảo mà báo chí thời đó, gọi là do
phản chiến giựt dây. Thật sự , người Mỹ đă quá chán ngấy cái tṛ đem con bỏ
chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên
đă giận dữ đ̣i Hoa Thịnh Đốn ‘ Hăy cút khỏi VN ngay, hăy chấm dứt cái tṛ
chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này .’
Tóm lại
qua cuộc chiến VN,do đầu óc con buôn, người Mỹ đă đánh mất tất cả mọi ư thức
về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của
dân chúng, hại cho 55.000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300.000 quân nhân các
cấp bị thương tật. Trong khi đó, người lính VNCGH, dù là một quân đội bất hạnh
nhất thế giới, theo cáo cáo của MACV , Command History hay Dwight Owen, một cố
vấn Mỹ tại VN, th́ đối với các quân nhân VNCH, CHỈ CÓ CHẾT, TÀN PHẾ HAY ĐÀO
NGỦ, mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người Lính chiến trong
thời loạn lạc. Ngoài ra, tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VM đào ngủ,
nhưng không phải họ đầu hàng VC, mà trở về quê nhà, gia nhập lực lượng DPQ+NQ,
để được chiến đấu bên cạnh vợ con, gia đ́nh. Sau rốt, tính đến đầu năm 1975,
QLVNCH đă có 231.508 tử sĩ và 95.371 phế binh. Thương tủi nhất là những ngày
tháng sau đó, cho tới khi Nam VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đă có hằng vạn dân
lính vô tội, đă gục ngă trên chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn.
Nhiều tử sĩ cũng như thương binh đă bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, v́ đồng đội không
thể làm ǵ hơn giữa chốn loạn quân. Chính Nhảy Dù từ ngày thành lập, cho tới
khi tan hàng, cũng đă phải nuốt lệ, bỏ lại xác đồng đội, tại Mặt Trận Xuân Lộc
tháng 4-1975, như Phạm Huấn đă viết, khi được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm,
mịt mù lửa đạn..
** BÁO CHÍ TÂY
PHƯƠNG BẺ CONG NG̉I BÚT, GÓP PHẦN LÀM SỤP ĐỔ VNCH **
Trước sự
sụp đổ nhanh chóng và vô lư của Nam VN không phải tại chiến trường, mà ngay ở
các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân Đôn, La Mă, Huế-Đà Nẳng
và Sài G̣n, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc, đă phẫn nộ và bày tỏ thái độ
khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng
tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ng̣i bút, xuyên tạc sự thật, phỉ
báng đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp
Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH. Đề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và
Tây Phương viết lách, đem lên truyền thanh truyền h́nh, đó là người lính VNCH
hèn nhát không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và người Mỹ khinh miệt.
Hai câu
hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự thật đă
xác nhận ‘ KHÔNG ‘.Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện tinh
thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục., vẫn không
thiếu những binh sĩ đào ngủ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng
và chính cưu TT. Bill Clinton, v́ hèn nhát nên đă trốn quân dịch pháp định.
QLVNCH chỉ mới được thành lập , được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế
giới, lại bị chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường,
hậu phương, bạn địch. Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng
với tiền tử tuất, phế tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ..
vậy mà họ vẫn một đời đem máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ
màu cờ, sắc áo và từng sinh mạng cũng như tất đất của quê hương. QLVNCH là
sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không c̣n họ, mạng người Nam
VN lá rụng, đă gục ngă tại Mậu Thân Huế-Sài G̣n, trên các đại lộ kinh hoàng
quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết tập thể
vào ngày 30-4-1975. Như sử gia Edward S.Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘
Fifteen Decisive Battle Of The World ‘ năm 1851 ‘ Tầm quan trọng của một cuộc
chiến, là những ǵ ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai ‘.Những
ǵ đă xảy ra tại Nam VN, sau 30 năm bị cong sản cưởng chiếm, đă đủ trả lời về
tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa Robert S.McNamara, cựu bộ trưởng QP. Thời TT
Kenedy, đă giải thích một chiều, trong hồi kư của ḿnh ‘ In Retrospect-The
Tragedy and Lesson of VN ‘.
Nhưng
không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo chí
lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nh́n cảnh đời bi thảm của phận lính
bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đă thay thế người
nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát , bỏ đồng minh tháo chạy
về nước trước sự tấn cộng của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ
bán đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ kư vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó
tàn nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nh́n miền nam sụp đổ.
Không có
ǵ tồn tại với thời gian, trừ chân lư. V́ vậy những câu chuyện hề của Henry
Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975, hay
lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nh́n của Mặt Trận Ma
giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài G̣n thất thủ : ‘ cám ơn báo chí và
kư giả Tây Phương, đă góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này
đáng kể là người Mỹ ‘.
Đây là
tất cả sự thật , vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry
H.Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm ‘ Heroic Allies ‘ nói
lên vinh quang và sự hănh diện của một quân lực , từ lâu đă bị bọn trí thức vô
liêm sỉ , tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền
lố lăng và cuồng ngạo của Hà Nôi cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ
năm châu chán ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ c̣n trơ lại bộ xương gầy đét,
không c̣n ǵ để cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một
số quạ đen, diều hâu , bu tới rỉa rói như lúc chợ c̣n đông khứa.
Trong
tài liệu đặc biệt ‘ How Media Bias Distorts Our View of the World ‘ của kư giả
Allan Brownnfiels, nói rằng v́ hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá mù
quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel Castro, trong lúc thẳng
tay sỉ nhục bôi lọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô t́nh
nhưng đă làm cho cọng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của
lịch sử sau đó lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được
ưu tiên trạng trọng trong xă hội lúc đó, là những công tử tiểu thu đài cát của
giới địa chủ, địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo
thực dân Pháp bốc lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua
Pháp, Mỹ du học thành luật sư, bác sỷ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí
Minh và đảng VC ở miền Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm
chủ nửa miền đất nước vào năm 1954 . Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá
trớn của Nam VN, những thành phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ng̣i bút,
làm cho thế giới tự do lầm lạc , nghĩ rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người
b́nh thường, yêu nước, nên nỗi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ.
Tóm lại nhờ những trí thức này, mà VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC chính
thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu.. trong bộ
đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và cọng sản
đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở miền Nam và các mạng
lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản, của người Việt
quốc gia Nam VN, mất đi cái ư nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều
khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt cục,
cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi VC, của báo chí,
truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.
Từ năm
1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu dồn
dập ở hậu phương . Đây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra, của những thông tín
viên, kư giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật , có kèm h́nh ảnh, không
phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi lọ
những quân đội, đang trực diện với cọng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam
VN. Có thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS
tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng
xôi đậu, đă trở thành những mẫu thông tin ‘ ăn khách’ , theo đơn đặt hàng của
thị trường Mỹ và Tây Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền, Tết
Mậu Thân 1968, VC chết thảm khắp nơi, đă thành chiến thắng, chiếm được ngay cả
Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây
Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đă không hề một chữ tường thuật những
hành vi khủng bố, giết người tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế,
năm 1972 và những ngày di tản máu lửa hận hờn
Người
lính VNCH vừa đánh giặc phương Bắc, vừa chống đỡ búa ŕu truyền thông báo chí
trong nước cũng như phong trào phản chiến tại Mỹ và tây phương, được liên kết
bởi trí thức, sách báo và tuyên truyền. Đó cũng là lư do đưa đến sự sụp đổ tất
yếu của một dân tộc hiền ḥa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh v́ mang thân phận nhược
tiểu
2-THƯƠNG QUÁ NGƯỜI
PHÊ BINH VN :
Tất cả
h́nh như chỉ c̣n có kỹ niệm, sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta, những
kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo ṿng đời nổi trôi của ḍng sông lịch
sử, dù vô lư, dù hờn căm, dù bất công thương hận.
Mất nước
nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, ră ngũ tan hàng đầu sông cuối bể,
tha phương th́ dần chết trong men đời cay đắng, c̣n tù ngục chịu cảnh nhục
hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đả đi hết rồi, chỉ c̣n ở đây là những thương phế
binh xa củ, những hồn ma cô quạnh , sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết
thương đời không hề hối hận :
‘ Di tản khó, sâu
ḍi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây śnh mặt nát, lạch mương
tanh..
’
’
( Tô Thuỳ Yên)
Ta thán
phục, ta hănh diện biết bao, khi đọc được những trang sử củ. Sẽ vui cười hớn
hở cùng với tiền nhân qua những lần b́nh Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên
sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân
vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho
người trong nước, gia trẻ lớn bé, đều nguyện một ḷng giết giặc cứu nước tại
Hội Nghi Diên Hồng. Sau này mới vở lẽ, th́ ra đó là tinh thần trách nhiệm,
cũng như bổn phân của kẽ sỉ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao
quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người b́nh dân ít học.
‘ Tôi không là
tôi nửa,
từ khi được xuất ngủ
có quạ đen đậu trên đấu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..
’
’
Thanh
niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên
chúng ta ngày nay mới c̣n có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có
làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh, sau khi được xuât
ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người
mẹ già, từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột
cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy , có khi c̣n đau đớn trăm
chiều. Ai đă tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu , chỉ một lần vào thăm
người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá
sấu, vô t́nh c̣n vương văi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường
thiên lư, t́nh cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật c̣n rất trẻ, những người
mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần ṃ ngửa tay chờ bố
thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh
QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà v́ đời, v́
người gánh chịu :
Theo sử
liệu, ta biết Nha Cựu Chiến Binh và Nạn Nhân Chiến Cuộc, trược thuộc Bộ Quốc
Pḥng. Đầu tiên Nha này là một Bộ, được thành lập vào tháng 8-1952, có một An
Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó, bộ này bị hủy bỏ, tất cả các vấn
đề liên hệ tới cưu chiến binh, đều giao cho Bộ Y Tế, với một Nha riêng gọi là
Nha Tổng Thư Kư, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh.
Thời
VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sài G̣n. Ngày
29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc CCB và NNCC đưọc thành lập, trụ sở ở đường Đoàn
Thị Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung
Ương và các Ty trực thuộc .
Đầu năm
1969, một biến cố lớn đă xảy ra tai thị xă Nha Trang, tỉnh Khánh Ḥa. Đó là vụ
Y Sĩ Đại Uư Hà Thúc Nhơn, trưởng trại 12 Tai, mắt, mũi, họng, thuộc Quân Y
Viện Nguyễn Huệ. V́ dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quóc Anh,
với sĩ quan hành chánh Đặng Mai,toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của
thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét , phân loại trợ cấp,
miễn dịch. Đại Uư Nhơn đă cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng
Khánh Ḥa lúc đó là Đại Tá Lư bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43
Biệt Lập, ra lệnh cho DPQ bắn trọng thương và đă chết khi chở vào cấp cứu tại
Cam Ranh.
Ngày đưa
tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Ḥa đứng dậy đ̣i quyền
sống. Taị Sai G̣n, Trung Úy mù BDQ.Đổ văn Lai, đang cùng một số phế binh nặng,
đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh H́nh, đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng
biểu t́nh, cắm dùi khắp Đô Thành, đ̣i Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của
họ, trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung
đô la xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp
nước, làm cho chính quyền trung ướng cũng như tại các tỉnh bối rối, v́ không
thể dùng bạo lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính, nên ai
nỡ xuống tay .
Rồi Tổng
Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sài G̣n, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội Trưởng, PB
Nguyễn Bính Thịnh, tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu, tổng thư
kư. Ngoài ra c̣n có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn
Hàng thành lập.
Thời Đệ
Nhị Cộng Ḥa (1967-1975), nếu TT Thiệu có chính sách ‘ Người cầy có ruộng ‘,
th́ Phó TT. Nguyễn Cao Kỳ, cũng chủ trương ‘ Phế Binh có nhà’. Nói chung bắt
đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Phế binh, cô nhi quả phụ càng ngay càng
được cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước. Nạn chèn ép, d́m sổ trợ cấp để làm
tiền cũng chấm dứt, kể từ năm 1972, chính phủ cho thành lập Ty Cựu Chiến Binh
tai các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rải, ngoại trừ, sổ trợ cấp đầu tiên được
kư cấp từ Bộ. Cũng từ đó, nguời cô nhi, quả phụ và thương phế VNCH, được sống
an nhàn hơn buổi trước, với các quyền lợi thiết thực, tương xứng, từ trợ cấp,
xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu tiên cho họ.
Rồi th́
hằng loại Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xă. Riêng những
phế binh đă có nhà, không muốn vào Làng, dược trợ cấp một ngân khoản 60.000
đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.
Làm
người b́nh thường , sống trong thời loạn, đă phải khốn khổ v́ miếng cơm manh
áo, huống chi phận lính nghèo, lănh đồng lương chết đói, vậy mà c̣n bị trí
thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ..
‘ Giọt mưa trên
lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng v́ tan chiến tranh chồng về
mẹ lần ṃ, ra trước ao, nắm áo ngưởi xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đă ḷa v́ quá
đợi chờ..
’
’
(Phạm Duy)
Nhưng
chiến tranh chứa dứt và vẫn c̣n khốc liệt, nhưng người xưa nay đă thành tàn
phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần ṃ trở về làng xưa,với những kẻ
thân yêu, mong chút t́nh thân đùm bọc.
Ai có
cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi v́ đạn B40, lần ṃ trên chiếc xe lăn,
quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống ? Có thương không những
người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán
vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và c̣n nửa, c̣n trăm ngàn thảm kịch của
tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn
đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh
tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp
sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng
là chuyện b́nh thường
Hai mươi
năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ ǵ chăng nửa, th́ xác của nam
nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đă chất cao như núi, máu chảy thành
sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, ḥa b́nh, tự do, thống nhất. Người cả
nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hăm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều
thứ gông, cả cọng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền.
Nhưng
thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ củ c̣n,
được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi.. thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực
nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính
sống th́ đi tù, lính chết th́ cầy mộ, c̣n lính què đui tàn phế, th́ bị xua
đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của ḿnh.
19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Ḥa-Sài G̣n.
Thảm họa
ǵ đă đến với các thương bệnh binh c̣n đang điều trị, khi giặc về ? Có ai cầm
được nưóc mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối
gót đắt d́u ra cổng. Người sáng giắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cơng người trọng
bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương văi với nước mắt đoanh tṛng của những nạn
nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số
chết v́ vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, v́ vết
thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh
họ, c̣n có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngă ba Chú Iá, G̣ Vấp, những
người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa
xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.
Cuộc đổi
đời nay đă xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi năm
rồi ta c̣n sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đă là
điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế
binh năm nào, không biết nay ai c̣n ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có
sống hay đă chết, th́ hận nhục, thương đau cũng đâu có khác ǵ. Bởi tất cả đâu
có khác ǵ bóng ma trơi , những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn
nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong ṿng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ
huy củ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại. Xin hăy thương
lấy ho, hăy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngả. Phế binh cũng
là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại. Hăy rớt một chút ân thừa cho
những thây người c̣n sống sót trong bể hận trầm luân. Hăy cho họ một chút t́nh
thương trong cơn hấp hối.Hăy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong
căn nhà VN to lớn,đă được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường
viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một ṿng hoa tặng người chiến sĩ ca
khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.
Ngày xưa
người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài
quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối
duyên xưa :
‘ Xin v́ chàng xếp
bào cởi giáp
xin v́ chàng giũ lớp phong sương
v́ chàng tay chuốc chén vàng
v́ chàng điểm phấn, đeo hương năo nùng
liên ẩm, đối ẩm, đ̣i phen
cùng
chàng lại kết, mối duyên đến già ..
’
’
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhưng
người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, v́ khi quê hương vừa ngưng
tiếng súng, lập từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào
tù. Lính chết đă rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi
ra khỏi cuôc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương
hơn người lính VNCH ?
‘ Dâu binh lửa nước
non như củ,
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương’
(Chinh Phụ Ngâm)
Cuộc đời thanh niên
thời loạn ly, rốt cục chỉ c̣n lại nổi buồn thiên cổ, xin hăy nâng ly rượu sầu
lên môi mà nhớ .’-
Xóm Cồn
10-2-04
Mường Giang
| |


|