ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

Thử Nh́n Lại Bang Giao Mỹ Việt 

 

 Phạm Bá Hoa

 

 Bài này do tham khảo bài viết của giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, đă tŕnh bày tại trường đại học George Mason ngày 11 tháng 9 năm 2004, trong đại hội của “Nghị Hội Toàn Quốc Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn tại Hoa Kỳ”.

 Thưa quí vị, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng chia phần tŕnh bày của ông trong nội dung này làm hai phần: Phần 1 là tiến tŕnh bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam, và phần 2 là những vấn đề đang diễn ra trong mối bang giao đó. Trong mỗi phần, tác giả chia ra từng giai đoạn hoặc từng vấn đề. Khởi đầu là năm 1975 – 1976 mà tác giả gọi là giai đoạn “sai lầm và hờ hững”.

 Trước hết là sai lầm của lănh đạo cộng sản Việt Nam. Họ đồng hóa phong trào chống chiến tranh của người dân Hoa Kỳ, như là sức mạnh đương nhiên cộng vào sức mạnh của họ ngay cả sau cuộc chiến 1954-1975 trên quê hương Việt Nam. V́ vậy mà lănh đạo cộng sản Việt Nam, bám vào cái thư của cựu Tổng Thống Richard Nixon đề ngày 1 tháng 2 năm 1973 gởi cho cựu Thủ Tướng cộng sản Phạm Văn Đồng, theo đó th́ Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc tái thiết nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa sau khi ḥa b́nh được văn hồi trên toàn cơi Việt Nam, bởi hiệp định chấm dứt chiến tranh tái lập ḥa b́nh kư tại Paris tháng 1 năm 1973. Rồi ra cái điều như là trên thế mạnh khi đặt điều kiện đ̣i Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh mới nói đến chuyện bang giao giữa hai nước. Thư của cựu Tổng Thống Nixon có nói đến con số đóng góp ước tính lên đến 3 tỷ 250 triệu mỹ kim. Khối tiền quá sức lớn lao, làm cho lănh đạo cộng sản Việt Nam sáng mắt, và cứ như “thừa thắng xông lên” mà vặn vẹo Hoa Kỳ.

 Trong khi đó về phía Hoa Kỳ, Tổng Thống Ford và chánh phủ của ông đang cay cú v́ chiến tranh Việt Nam, v́ trong một chừng mực nào đó, đă gây ra sự phân hóa trong một số nhân vật chính trị cũng như một số thành phần trong xă hội Hoa Kỳ, nên chánh phủ Hoa Kỳ lên án lănh đạo cộng sản Việt Nam đă vi phạm hiệp định Paris là xua quân đánh chiếm Việt Nam Cộng Ḥa, v́ vậy mà nhà cầm quyền Việt Nam không có quyền đ̣i Hoa Kỳ thực hiện lời hứa viện trợ. Ngược lại, Hoa Kỳ đ̣i lănh đạo cộng sản Việt Nam, phải cung cấp đầy đủ thông tin về số phận những quân nhân Hoa Kỳ bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Đồng thời, lănh đạo cộng sản Việt Nam cũng phải chứng tỏ là không thực hiện tham vọng bành trướng thế lực tại các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á Châu. Đó lần những ǵ mà Hoa Kỳ vừa trả lời cũng vừa đ̣i hỏi nhà cầm quyền Việt Nam cộng sản. C̣n về phần ḿnh, chánh phủ Hoa Kỳ cho lệnh phong tỏa các tích sản của Việt Nam Cộng Ḥa cũ mà không trao cho nhà cầm quyền Việt Nam cộng sản. Cùng lúc, Hoa Kỳ cho áp dụng chính sách phong tỏa kinh tế đối với toàn cơi nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Mặt khác, trong năm 1975-1976, Hoa Kỳ đă 3 lần phủ quyết đơn của lănh đạo cộng sản Việt Nam xin gia nhập Liên Hiệp Quốc.

 1977 - 1978, giai đoạn mà cơ hội bị bỏ lỡ.

 Xin nhớ lại là năm 1977, tại Hoa Kỳ, ông Jimmy Carter đắc cử Tổng Thống. Chắc quí vị c̣n nhớ ông Jimmy Carter là người chống chiến tranh Việt Nam. V́ vậy mà khi lên cầm quyền, Tổng Thống Carter chủ trương “hàn gắn vết thương chiến tranh”. Ông cử ông Leonard Woodcock, một lănh tụ nghiệp đoàn hướng dẫn một phái đoàn sang thăm Việt Nam cộng sản. Trong chuyến thăm viếng này, nhà cầm quyền Việt Nam trao cho phái đoàn 11 bộ hài cốt quân nhân Hoa Kỳ tử trận. Đổi lại, ông Leonard Woodcock, phải tuyên bố là không c̣n người Hoa Kỳ sống sót nào ở Việt Nam, đồng thời tuyên bố việc đ̣i nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải cung cấp đầy đủ thông tin về quân nhân Hoa Kỳ mất tích ở Việt Nam là điều không hợp lư. Thêm nữa, chánh phủ Hoa Kỳ cũng tuyên bố sẽ không phủ quyết đơn của lănh đạo cộng sản Việt Nam xin gia nhập Liên Hiệp Quốc nữa. Do vậy mà nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mới được gia nhập Liên Hiệp Quốc từ tháng 7 năm 1977. Cũng trong giai đoạn này, tuy Tổng Thống Jimmy Carter không chấp nhận bồi thường chiến tranh, nhưng Hoa Kỳ không loại bỏ khả năng viện trợ cho Việt Nam cộng sản. Hoa Kỳ có những lư do riêng để hành động như vậy, mà một trong những lư do lúc ấy là dọn đường cho bước đầu tiên của cuộc thương thảo với lănh đạo cộng sản Việt Nam tại Paris vào tháng 5 năm 1977. Do chủ trương t́m cách bang giao với Việt Nam, những nhà chính trị Hoa Kỳ e ngại sự nhượng bộ quá đáng của Tổng Thống Carter, nên họ lên án chính sách của lănh đạo cộng sản Việt Nam “đổi hài cốt Mỹ để lấy đô la”. Thế là Hạ Viện lẫn Thượng Viện Hoa Kỳ, biểu quyết cấm Hành Pháp viện trợ cho Việt Nam cộng sản.

 Vào mùa Thu năm 1977, trong phiên họp cuối cùng giữa ông Richard Holbrooke của Hoa Kỳ, với ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng ngoại giao của Việt Nam cộng sản, phía Việt Nam vẫn bắt đầu bằng cách đ̣i Hoa Kỳ phải viện trợ như một điều kiện để b́nh thường hóa bang giao giữa hai nước cựu thù. Đến khi t́nh h́nh bang giao giữa Việt Nam cộng sản với Trung Hoa cộng sản căng thẳng, th́ lănh đạo cộng sản Việt Nam chấp nhận bang giao với Hoa Kỳ mà không nói đến điều kiện viện trợ như trước, nhưng điều đó đă quá trễ, v́ Hoa Kỳ đă chấp nhận bang giao với Trung Hoa cộng sản rồi. Từ đó, Hoa Kỳ cắt đứt cuộc thương thảo về vấn đề bang giao với Việt Nam cộng sản.

 1978 – 1981, giai đoạn thù nghịch.

 Thưa quí vị, hẳn quí vị chưa quên là vào mùa Thu năm 1978, lănh đạo cộng sản Việt Nam thực hiện chiến dịch “đánh tư sản mại bản” trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa cũ, gồm cả giới thương gia người Việt gốc Trung Hoa. Đồng thời lănh đạo cộng sản Việt Nam tạo ra cuộc khủng hoảng “thuyền nhân” qua cái gọi là chính sách “đăng kư vượt biển” của những người Việt Nam gốc Trung Hoa.

 Trong bài “Việt Nam Sau Tháng Tư Đen” của tác giả Lê Tùng Minh, do tiết lộ từ bộ phận lưu giữ hồ sơ mật của Bộ Công An, th́ chánh phủ cộng sản cho phép các sở Công An địa phương, tổ chức những chuyến vượt biển cho thành phần người Việt gốc Trung Hoa để lấy vàng bổ sung cho ngân sách nhà nước. Các Sở Công An nhất là tại các thành phố trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa cũ, áp dụng từ tháng 11 năm 1978. Chính sách này nhằm đẩy thành phần có nguồn gốc Trung Hoa ra khỏi Việt Nam, mà không mang tiếng là trục xuất một thành phần có thể là tai mắt của cộng sản Trung Hoa, v́ lúc ấy t́nh h́nh bang giao giữa cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Hoa căng thẳng, do cộng sản Việt Nam đứng hẳn về phía cộng sản Liên Xô. Theo tiết lộ của Đại Tá Trần B́nh, Cục Trưởng Cục Công An, chỉ thị thu 3 lạng vàng trên mỗi đầu người nhưng thực tế các Sở Công An thu mỗi người ghi danh vượt biển đến 7 lạng vàng. Như vậy, trong năm 1978 đến 1972, họ thu được khoảng 700.000 lạng vàng, nhưng không ai biết được là số vàng đó có thật sự vào ngân sách nhà nước hay vào túi riêng của những người liên hệ và những người quyền thế.

 Trước t́nh h́nh căng thẳng với Trung Hoa cộng sản, Việt Nam cộng sản t́m đồng minh bằng cách gia nhập “Tổ Chức Tương Trợ Kinh Tế” (Comecon) do Liên Xô lănh đạo, đồng thời kư hiệp ước thân hữu dài hạn với Liên Xô vào tháng 11 năm 1978. Chỉ một tháng sau đó, lănh đạo cộng sản Việt Nam xua quân sang Cam Bốt đánh quân Khmer Đỏ, và dựng lên chánh phủ Heng Somrin - Hun Sen ảnh hưởng Việt Nam. Phản ứng của lănh đạo cộng sản Trung Hoa là tháng 2 năm 1979, họ xua ơn 200 ngàn quân sang Việt Nam tấn công hầu hết các tỉnh sát biên giới, mà ông Đặng Tiểu B́nh, lănh đạo Trung Hoa cộng sản gọi là “dạy cho Việt Nam cộng sản một bài học”.

 Trong khi quân Trung Hoa cộng sản tràn sang th́ gần một nửa lực lượng quân sự của Việt Nam cộng sản đang chiến đấu trên đất nước Cam Bốt nhỏ bé, lúc ấy dư luận thế giới không quan tâm đến cuộc chiến dọc biên giới Việt Nam – Trung Hoa, mà họ quan tâm đến nền an ninh của khu vực Đông Nam Á do lănh đạo cộng sản Việt Nam đưa quân chiếm đóng Cam Bốt. Cùng lúc, lănh đạo Trung Hoa cộng sản lên án cộng sản Việt Nam là một thứ “Cuba ở Đông Nam Á”. Được hiểu Việt Nam như là cánh tay nối dài của Liên Xô để bành trướng trong khu vực này như Cuba đă thực hiện ở một số quốc gia Phi Châu. Thế là các chánh phủ trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á nương theo Trung Hoa cộng sản, mà giúp phe kháng chiến Khmer Đỏ chống Việt Nam cộng sản. C̣n Hoa Kỳ, trong một góc độ nào đó, cũng ủng hộ Trung Hoa cộng sản chống lại Việt Nam trong mục tiêu ngăn chận Liên Xô “xâm lăng” vùng này ngang qua cánh tay nối dài là Việt Nam cộng sản. Biểu hiện rơ nhất là Hoa Kỳ đă tuyên bố chính sách “ba không”, Đó là “không buôn bán, không viện trợ, và không bang giao với Việt Nam cộng sản”.

 Thưa quí vị, như vậy rơ ràng là Hoa Kỳ với Việt Nam cộng sản, trong thế đối đầu nhau trong cuộc chiến tranh chiếm đóng Cam Bốt do lănh đạo cộng sản Việt Nam tiến hành.

 1982-1986, giai đoạn thương thuyết.

 Năm 1981, Hoa Kỳ có Tổng Thống mới là ông Ronald Reagan. Dư luận đều công nhận Tổng Thống Reagan có chính sách cứng rắn với cộng sản, nhất là cộng sản Việt Nam. Trong lễ khánh thành đài kỷ niệm chiến tranh Việt Nam ở Washington DC, Tổng Thống Reagan tuyên bố “cuộc chiến tranh mà người Mỹ tham dự ở Việt Nam là cuộc chiến tranh có chính nghĩa, và cam kết sẽ đ̣i Việt Nam phải cung cấp tin tức về người Mỹ mất tích trong cuộc chiến đó”. Lời tuyên bố này được loan truyền trên thế giới trong lúc Việt Nam cộng sản đang lâm vào t́nh trạng hết sức khó khăn về kinh tế, dẫn đến đời sống của xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng kiệt quệ. Cộng thêm những áp lực của Hoa Kỳ, của Trung Hoa cộng sản, của các quốc gia Đông Nam Á, và nói chung là áp lực của cả thế giới tự do đối với cuộc chiến tranh chiếm đóng Cam Bốt của Việt Nam, đă đẩy Việt Nam cộng sản vào thế cô lập về kinh tế lẫn chính trị.

 Trong t́nh thế nguy ngập đó, lănh đạo cộng sản Việt Nam đành phải giảm cường độ ương ngạnh mà nhượng bộ thế giới, với bước đầu là chiến dịch vận động một số quốc gia tham dự lễ kỷ niệm 10 năm chiếm được Việt Nam Cộng Ḥa, mà họ gọi là “giải phóng”.

 Tháng 2 năm 1982, Hoa Kỳ gởi một phái đoàn chánh thức sang thăm Việt Nam. Nhưng khác với thời Tổng Thống Jimmy Carter, đây là thời gian mà Hoa Kỳ ở thế thượng phong, nên Hoa Kỳ đặt điều kiện cho việc b́nh thường hóa thiết lập bang giao giữa hai nước. Điều kiện của Hoa Kỳ là:

 Thứ nhất, phải tách rời các vấn đề nhân đạo với các vấn đề chính trị. Vấn đạo nhân đạo phải được giải quyết riêng và thương thuyết trước. Vấn đề nhân đạo nói ở đây bao gồm: tù binh chiến tranh, người Mỹ mất tích tại Việt Nam, giải quyết con lai Mỹ, và giải quyết tù chính trị là những quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Ḥa cũ mà cộng sản gọi là tù cải tạo. C̣n vấn đề chính trị là vấn đề ngoại giao, vấn đề mậu dịch, cũng như vấn đề viện trợ.

 Thứ nh́, vấn đề thương thuyết b́nh thường hóa ngoại giao chỉ bắt đầu sau khi Việt Nam cộng sản rút hết quân chiếm đóng Cam Bốt về nước, và thành thật cộng tác để đạt được giải pháp cho cuộc chiến tranh Cam Bốt. Nhịp độ nhanh hay chậm và phạm vi b́nh thường hóa ngoại giao , sẽ tùy thuộc vào những tiến bộ trong việc giải quyết những vấn đề nhân đạo.

 Và thứ ba, trong khi chờ đợi, Hoa Kỳ vẫn duy tŕ chính sách “ba không” đối với Việt Nam cộng sản, cho đến khi mọi nỗ lực diễn tiến b́nh thường.

 Thưa quí vị, hẳn quí vị không quên là trong bang giao quốc tế, không có vấn đề t́nh cảm mà chỉ có quyền lợi quốc gia là căn bản cho hành động. V́ vậy mà sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hoa Kỳ với Nhật Bản từ hai nước thù địch đă trở thành hai quốc gia cộng tác hỗ tương những vấn đề thế giới cũng như những vấn đề giữa hai nước. Trong khi đó, Hoa Kỳoa K với Liên Xô là đồng minh trong thế chiến thứ hai, nhưng sau chiến tranh trở thành thù địch. Trong cuộc chiến tại Việt Nam, Hoa Kỳ với Việt Nam cộng sản cũng là quốc gia thù địch, nhưng trong một mức độ nhất định, lúc bấy giờ Hoa Kỳ với cộng sản Việt Nam đang tiến tới bang giao, cũng không phải là vấn đề. Mà vấn đề là ở những vị lănh đạo quốc gia, nhất là những quốc gia nhỏ và yếu, phải có bản lănh lănh đạo để đưa đất nước vượt qua những chông gai từ quốc gia thù địch lẫn quốc gia bạn bè.

 Giai đoạn 1987-1992, giai đoạn chậm chạp trong thương thuyết ngoại giao.

 Để chứng tỏ quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc t́m kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, Tổng Thống Reagan cử Thống Tướng Vessey vào chức Đặc Sứ của Tổng Thống trong trách nhiệm t́m kiếm người Mỹ mất tích, và giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh. Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, trong giai đoạn này có nhân nhượng thật sự giữa hai bên.

 Về phía Việt Nam, sau khi ông Gorbachew thực hiện chính sách tái cấu trúc kinh tế (perestroika), cởi mở chính trị (glasnost), và ḥa hoăn với Hoa Kỳ, th́ lănh đạo cộng sản Việt Nam cũng công bố chính sách cải cách kinh tế và đổi mới tư duy. Nguyên nhân dẫn đến chính sách này là kinh tế xă hội chủ nghĩa đưa xă hội Việt Nam đến sát bờ vực thẳm, buộc nhà cầm quyền Hà Nội phải mềm mỏng với Hoa Kỳ và đây là biểu hiện sự mềm mỏng đó: Năm 1986, Việt Nam đồng ư phối hợp với Hoa Kỳ trong nỗ lực t́m kiếm hài cốt người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Năm 1987, Việt Nam bắt đầu mở cửa đón những nhà đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam làm ăn. Năm 1988, Việt Nam bắt đầu triệt thoái quân đội ra khỏi Cam Bốt. Năm 1989, Việt Nam tuyên bố hoàn tất cuộc triệt thoái quân đội từ Cam Bốt về Việt Nam.

 Song song với hành động gọi là mềm mỏng của lănh đạo cộng sản Việt Nam, Hoa Kỳ đáp ứng hành động đó bằng cách giảm bớt hạn chế du lịch Việt Nam, đồng thời cho phép những nhà kinh doanh Hoa Kỳ thăm viếng Việt Nam nhưng chưa được phép đầu tư. Năm 1990, có cuộc gặp gỡ giữa Ngoại Trưởng James Baker với NgoạiTrưởng Nguyễn Cơ Thạch tại New York. Và lệnh hạn chế đi lại của những viên chức Việt Nam được tạm ngưng hiệu lực để ông Nguyễn Cơ Thạch từ New York xuống Washington DC gặp các nhà lănh đạo Hoa Kỳ. Chánh Phủ cũng gởi một phái đoàn sang Việt Nam để nghiên cứu những vấn đề nhân đạo của Việt Nam, và khuyến khích các tổ chức Hoa Kỳ không thuộc chánh phủ trợ giúp nhân đạo cho Việt Nam.

  Tháng 4 năm 1991, lần đầu tiên, một phái đoàn thương mại Hoa Kỳ viếng thăm Việt Nam. Cũng trong tháng đó, chánh phủ Hoa Kỳ có trao cho lănh đạo cộng sản Việt Nam “bản đồ lộ tŕnh” thường gọi là “lộ đồ” gồm bốn giai đoạn, trong đó ấn định rơ những điều mà nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện để đổi lấy các tương nhượng đáp 1ưng của chánh phủ Hoa Kỳ, để từng bước tiến đến b́nh thường hóa hoàn toàn quan hệ ngoại giao. Đồng thời chánh phủ Hoa Kỳ cấp một ngân khoản viện trợ nhân đạo cho Việt Nam là 3 triệu mỹ kim.

 Tháng 10 năm 1991, Ngoại Trưởng James Baker tuyên bố sẳn sàng tiến đến quan hệ b́nh thường với Việt Nam cộng sản. Hai tháng sau đó, chánh phủ Hoa Kỳ cho phép các công ty du lịch Hoa Kỳ được tổ chức những chuyến thăm viếng Việt Nam. Tháng 4 năm 1992, nhằm đáp ứng những nhu cầu căn bản của xă hội Việt Nam, các công ty thương măi Hoa Kỳ được phép bán hàng cho Việt Nam, đồng thời chánh phủ băi bỏ những hạn chế các dự án giúp Việt Nam của những tổ chức không thuộc chánh phủ hay tổ chức bất vụ lợi, và tái lập liên lạc viễn thông quốc tế.

 1993-1998, giai đoạn thiết lập ngoại giao.

 Năm 1993, Hoa Kỳ có vị Tổng Thống mới, là ông Bill Clinton. Chắc quí vị chưa quên là thời trai trẻ của ông Clinton, ông là một trong số sinh viên chống lại sự tham dự của quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam để ngăn chận khối cộng sản nói chung, và Trung Hoa cộng sản nói riêng, bành trướng xuống vùng Đông Nam Á. Cũng v́ vậy mà Tổng Thống Bill Clinton nối tiếp chủ trương của Tổng Thống Jimmy Carter trước đó, muốn tiến đến b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với cộng sản Việt Nam. Nhưng việc thực hiện chủ trương đó không phải là đơn giản, v́ kinh nghiệm bất lợi mà Tổng Thống Carter đă gặp phải, cho nên Tổng Thống Clinton tỏ ra thận trọng. Khởi đầu, Tổng Thống Clinton tuyên bố ủng hộ bản đồ lộ tŕnh b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao của Tổng Thống Bush, đă trao cho lănh đạo cộng sản Việt Nam hồi tháng 4 năm 1991.

 Tháng 4 năm 1993, công ty tư vấn Vatico là công ty Hoa Kỳ đầu tiên được phép mở văn pḥng tại Hà Nội. Một tháng sau đó tức tháng 5 năm 1993, nhân Ngày Chiến Sĩ Trận Vong (Memorial Day), Nghị Sĩ John Kerry hướng dẫn một phái đoàn Nghị Sĩ của hai đảng Cộng Ḥa lẫn Dân Chủ sang thăm Việt Nam. Khi trở về Hoa Kỳ, một số Nghị Sĩ trong phái đoàn, đă lên tiếng khuyến cáo chánh phủ nên xúc tiến việc b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với cộng sản Việt Nam.

 Ngày 2 tháng 7 năm 1993, Tổng Thống Bill Clinton tuyến bố, Hoa Kỳ sẽ không phủ quyết việc các định chế tài chánh thế giới viện trợ cho Việt Nam, và Tổng Thống nhấn mạnh rằng: “Những bước tiến kế tiếp trong việc b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào sự cộng tác của lănh đạo cộng sản Việt Nam trong vấn đề t́m kiếm người Mỹ mất tích. Vấn đề này đă có một số kết quả, nhưng chưa đủ để Hoa Kỳ thay đổi chính sách cấm vận Việt Nam, cũng như đi thêm bước nữa trong vấn đề bang giao với Việt Nam”.

 Tháng 9 năm 1993, Tổng Thống Clinton vẫn gia hạn chính sách cấm vận, nhưng cũng nới lỏng một số chi tiết cho phép các công ty Hoa Kỳ tham dự đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam, nhưng chưa được phép thực hiện những dự án đó.

 Sau nhiều lần tŕ hoăn, cuối cùng th́ Nghị Sĩ John Jerry cũng hoàn tất bản phúc tŕnh. Rồi một nhóm Nghị Sĩ của cả hai đảng tại Thượng Viện, viết thư đề nghị Tổng Thống Clinton băi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam. Ngày 24 tháng 1 năm 1994, Thượng Viện Hoa Kỳ chấp thuận một tu chính án trong đạo luật chuẩn chi ngân sách của Bộ Ngoại Giao, mà nội dung đ̣i hỏi chánh phủ chấm dứt lệnh cấm vận Việt Nam. Và ngày 3 tháng 2 năm 1994, Tổng Thống Bill Clinton ra lệnh băi bỏ cấm vận Việt Nam với lập luận cho đó là cách tốt nhất để giải quyết việc t́m kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.

 Bước kế tiếp là Hoa Kỳ với Việt Nam, bàn về vấn đề tài sản của chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa đang bị Hoa Kỳ phong tỏa sau khi bị cộng sản đánh chiếm. Tháng 1 năm 1995, hai bên đạt đến thỏa thuận vấn đề tài sản và trao đổi văn pḥng liên lạc. Tháng 5 năm 1995, cộng sản Việt Nam chuyển cho Hoa Kỳ một số tài liệu liên quan đến người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, và số tài liệu này được Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ đánh giá là có nhiều tin tức quan trọng hơn bất cứ tài liệu nào mà cộng sản Việt Nam trao cho Hoa Kỳ trước đó. Tháng 6 năm 1995, hai bên kư biên bản trao đổi văn pḥng liên lạc. Tháng 7 năm 1995, Tổng Thống Bill Clinton tuyên bố b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với cộng sản Việt Nam, v́ Tổng Thống Clinton cho rằng, đă đến lúc cần phải tiến tới “hàn gắn vết thương chiến tranh”. Rồi Ngoại Trưởng Warren Christopher, sang Việt Nam khánh thành ṭa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội.

 Tháng 7 năm 1996, Hoa Kỳ trao cho cộng sản Việt Nam một văn kiện liệt kê các điều kiện để b́nh thường hóa về thương mại. Hai tháng sau đó, cuộc thương thuyết đầu tiên về trao đổi mua bán giữa hai nước được tổ chức tại Hà Nội. Ngày 7 tháng 4 năm 1997, Lănh đạo cộng sản Việt Nam bằng ḷng trả những khoản nợ của của Việt Nam Cộng Ḥa là 145 triệu mỹ kim. Mười ngày sau đó, hai bên kư hiệp ước bảo vệ quyền của tác giả. Tháng 5 năm 1997, Hoa Kỳ với Việt Nam trao đổi Đại Sứ.

 Đến đây xem như hoàn tất giai đoạn b́nh thường hóa bang giao, và chuyển sang giai đoạn củng cố mối quan hệ đó.

 Xin nhắc lại là tháng 3 năm 1998, Tổng Thống Bill Clinton quyết định miễn áp dụng tu chính án Jackson-Vanik, tức là cho phép Cơ Quan Đầu Tư Tư Nhân Ngoại Quốc và Ngân Hàng Xuất Nhập Cảng của Mỹ được liên hệ với Việt Nam. Bảy tháng sau đó, tức tháng 10 cùng năm 1998, Phó Thủ Tướng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Mạnh Cầm sang thăm Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ. Ông Cầm là viên chức cao cấp đầu tiên của chánh phủ Việt Nam đến Hoa Kỳ trong một cuộc viếng thăm chánh thức, kể từ sau tháng 4 năm 1975. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng th́ từ đó, những hành động giữa hai nước được xem là dồn dập. Tính đến đầu năm 1999, lănh đạo cộng sản Việt Nam đă trao cho chánh phủ Hoa Kỳ 506 bộ hài cốt của người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Tháng 7 năm 1999, Việt Nam kư một nghị định thư, cam kết mở rộng thị trường Việt Nam cho hàng ngoại quốc, để đổi lấy việc Hoa Kỳ mở rộng cửa cho hàng hóa Việt Nam xuất cảng sang Hoa Kỳ.

 Tháng 3 năm 2000, sau nhiều lần tŕ hoăn, cuối cùng th́ lănh đạo cộng sản Việt Nam đón tiếp Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ, ông William Cohen. Ba tháng sau đó, chánh phủ Hoa Kỳ cam kết viện trợ nhân đạo cho cộng sản Việt nam một ngân khoản 1 tỷ 700 triệu mỹ kim, trong mục tiêu giúp Việt Nam t́m kiếm và phá hủy những bom đạn và chất nổ c̣n lại trên đất Việt Nam từ thời chiến tranh. Tháng 7 năm 2000, Việt Nam với Hoa Kỳ kư hiệp định thương mại song phương. Đến đây hẳn quí vị chưa quên là ông Phan Văn Khải, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam sang Tân Tây Lan (New Zealand) để kư hiệp định thương mại với Tổng Thống Hoa Kỳ, nhưng theo ông Nguyễn Thanh Giang th́ lănh đạo Trung Hoa cộng sản đă xúi Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đột ngột ra lệnh cho Phan Văn Khải hoăn lại, để chờ Trung Hoa cộng sản kư trước với Hoa Kỳ một văn kiện tương tự, sau đó Việt Nam mới kư. Rơ ràng là lănh đạo cộng sản Việt Nam lúc nào cũng “nằm trong ống tay áo” của của lănh đạo Trung Hoa cộng sản.

 Sau đó, Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam vào tháng 11 năm 2000. Đây là sự kiện đánh dấu bước quan trọng trong bang giao giữa hai nước, kể từ sau sự kiện tháng 4 năm 1975. Tháp tùng Tổng Thống Clinton là một phái đoàn hùng hậu, kể cả một số người Mỹ gốc Việt có mặt trong phái đoàn. Nửa năm sau đó, ông Colin Powell, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, một quân nhân đă từng tham chiến tại Việt Nam, cũng đến thăm Việt Nam. Tháng 11 và tháng 12 năm 2001, Quốc Hội Hoa Kỳ và Quốc Hội cộng sản Việt Nam phê chuẩn hiệp định thương mại song phương, và 2 tháng sau đó, Phó Thủ Tướng Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Hoa Kỳ.

 Thưa quí vị, đến đây th́ quí vị vừa nh́n lại những bước đi của Hoa Kỳ với cộng sản Việt Nam, trong thời gian 20 năm kể từ sau tháng 4 năm 1975, và hai nước cựu thù đă thật sự trao đổi ngoại giao ở cấp Đại Sứ vào năm 1995. Đó là bước quan trọng thứ nhất. Bước quan trọng thứ hai là hiệp định thương mại song phương mà Quốc Hội hai nước phê chuẩn vào tháng 11 và tháng 12 năm 2001.

 Tiếp đây là bước quan trọng thứ ba, Hoa Kỳ với cộng sản Việt Nam đang tiến đến mối quan hệ về quân sự, mà khởi đầu là Đô Đốc Dennis Blair, Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, chánh thức thăm Việt Nam hồi tháng 2 năm 2002, tiếp xúc thảo luận với những người lănh đạo quân đội của cộng sản Việt Nam. Để đáp lại, Tướng Phạm Văn Trà, Bộ Trưởng Quốc Pḥng cộng sản Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ hồi tháng 11 năm 2003. Cho đến thời gian này, th́ Tướng Trà là viên chức cao cấp nhất về phía quân sự của Việt Nam đến thăm Hoa Kỳ, kể từ sau tháng 4 năm 1975. Trong cùng thời gian, th́ chiến hạm Vandergrift thuộc Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, cặp bến Sài G̣n. Đây là sự kiện đánh dấu sự có mặt của một số quân nhân Hoa Kỳ trên lănh thổ nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sau 30 năm rút quân khỏi nơi đây kể từ năm 1973. Tháng 12 năm 2003, Vũ Khoan, Phó Thủ Tướng Việt Nam hướng dẫn một phái đoàn đông đảo sang Hoa Kỳ, đến một số thành phố mà ông Vũ Khoan nói là cổ vơ đầu tư và trao đổi thương mại với Hoa Kỳ. Đến tháng 2 năm 2004, Đô Đốc Thomas Fargo, tân Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, đến thăm Việt Nam. Năm tháng sau đó, chiến hạm USS Curtis Wilbur của Hoa Kỳ cặp hải cảng Đà Nẳng ngày 28 tháng 7 năm 2004.

 Vậy là bang giao giữa cộng sản Việt Nam với Hoa Kỳ đă bước khá nhanh trên chặng đường từ chống đối trở thành cộng tác, nhưng không phải v́ vậy mà mọi vấn đề trong bang giao không có những trở ngại bất trắc. Điều này giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng gọi là Những Vấn Đề Trong Bang Giao Việt Mỹ. Vậy, đó là những vấn đề ǵ Xin mời quí vị theo dơi tiếp.

 Vấn đề kinh tế thương mại.

 Có thể nói một cách rơ ràng rằng, kinh tế thương mại là nền tảng trong bang giao Mỹ Việt hiện nay, ít nhất cũng là nền tảng của lănh đạo cộng sản Việt Nam. Dưới nét nh́n của giới thương gia Hoa Kỳ th́ Việt Nam với 82 triệu dân (tính đến tháng 7 năm 2004) là một thị trường tốt, đồng thời vùng đất xa xôi này có nhân công vừa chịu khó vừa có giá nhân công rẻ. Về phía lănh đạo cộng sản Việt Nam th́ Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật, và nhất là vốn đầu tư hết sức lớn lao.

 Thưa quí vị, nh́n đơn giản th́ như vậy, nhưng trong cuộc sống này không phải mọi vấn đề đều đơn giản như những ǵ trông thấy bên ngoài. Chẳng hạn như vấn đề nhỏ trong cuộc tranh chấp cá tra Việt Nam xuất cảng sang thị trường Hoa Kỳ. Nhưng vụ cá tra chưa giải quyết xong, th́ đến vụ tôm Việt Nam bị các nhà nuôi tôm Hoa Kỳ cáo buộc là bán phá giá tại thị trường Mỹ. Đây chưa phải là vấn đề nghiêm trọng, nhưng rơ ràng là cũng gây ít nhiều trở ngại trong ư muốn thân thiện hơn nữa trong bang giao giữa hai nước. Thật ra trong lănh vực thương mại quốc tế, sự bất đồng ư kiến cũng như tranh chấp giá cả là những sự kiện gần như b́nh thường, như trước đây đă từng xảy ra giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản, Hoa Kỳ với Liên Hiệp Âu Châu, Hoa Kỳ với Trung Hoa cộng sản, ..v..v.. nhưng trường hợp với cộng sản Việt Nam th́ khác. V́ lănh đạo cộng sản Việt Nam đang tập tễnh buôn bán với thế giới tự do, nhất là với Hoa Kỳ, và đặc biệt là lần đầu tiên mới biết thế nào là thưa kiện trong buôn bán. Nói cách khác, Việt Nam chưa quen với những bất trắc trong giao thương quốc tế. Cũng nên hiểu rằng, những bất trắc như vậy, chỉ có cách tương nhượng nhau mới giải quyết được, nếu như lănh đạo cộng sản Việt Nam ương ngạnh theo cách hành xử độc tài th́ sẽ hiểu thấu đáo “thế nào là thưa kiện quốc tế”, và khi thấu hiểu th́ sự thể đă muộn rồi.

 Cũng theo giáo sư Hùng th́ những vấn đề về kinh tế thương măi, phần lớn là do kinh tế Việt Nam chưa phải là “kinh tế thị trường”. Do vậy mà những thủ tục áp dụng chưa vào nền nếp buôn bán theo tập quán của thế giới tự do. Mặt khác, do Hoa Kỳ bất măn Việt Nam vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, và nhất là tính cách không rơ ràng trong tiến tŕnh duyệt xét quyết định các dự án đầu tư ngoại quốc (hàm ư hối lộ). Cho nên nhân chuyến Phó Thủ Tướng Vũ Khoan sang thăm Hoa Kỳ cuối năm 2003, phía Hoa Kỳ đă trao cho ông Khoan một danh sách những khiếu nại của các doanh gia Hoa Kỳ đầu tư tại Việt Nam, bao gồm cả những hạn chế trong việc sử dụng đất thuê, chính sách phân biệt đối xử, và những mù mờ khi duyệt xét các dự án đầu tư từ ngoại quốc. Trong khi Việt Nam tỏ ra không hài ḷng các biện pháp bảo vệ thị trường của Hoa Kỳ.

 Nhưng cho dù những sự kiện đă và đang xảy ra như thế nào đi nữa, th́ những con số giao thương giữa Hoa Kỳ với Việt Nam đă gia tăng nhanh chóng từ sau hiệp định thương mại song phương có hiệu lực. Chẳng hạn như năm 2001 là 1 tỷ 500 triệu mỹ kim, tăng lên 2 tỷ 300 triệu vào năm 2002, và năm 2003 lên đến 5 tỷ mỹ kim. Vậy là đối với ngành xuất cảng của Việt Nam, thị trường Hoa Kỳ trở thành lớn nhất thế giới, vượt qua thị trường Nhật Bản trước đó.

 Hiệu quả của hiệp định thương mại Việt Mỹ đă mang về cho lănh đạo cộng sản Việt Nam sự thành công có lẽ hơn mức dự tưởng của họ, thêm vào đó là ngay trong hai tháng đầu năm 2004, đă có hai phái đoàn doanh gia Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam trong chương tŕnh “khuyến khích đầu tư Mỹ tại Việt Nam”. Phái đoàn thứ nhất gồm 14 nhà đầu tư lớn, và phái đoàn thứ hai với 12 hăng lớn dưới sự hướng dẫn của Chủ Tịch Hội Đồng thương Mại Hoa Kỳ - Đông Nam Á.

 Vấn đề trao đổi văn hoá giáo dục.

 Đây là lănh vực mà cả hai bên đều quan tâm, v́ lợi ích của vấn đề này sẽ giúp hai nước tăng cường hiểu biết lẫn nhau, nhưng vấn đề cũng không đơn giản. Nh́n lại những năm gần đây, rơ ràng là những đoàn văn công cộng sản Việt Nam sang trinh diễn tại hải ngoại nhất là tại Hoa Kỳ, đă gặp sự chống đối của Cộng Đồng Việt Nam tại bất cứ nơi nào mà họ tŕnh diễn. Ngược lại, sự tham dự của người Mỹ gốc Việt trong những phái đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam, thường gây ra những vấn đề cho cả hai bên chỉ v́ nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thường dị ứng với sự có mặt của người Việt Nam tị nạn.

 Mặt khác, sự trao đổi giáo dục giữa hai nước cũng không b́nh đẳng nên dễ gây bất đồng, bắt nguồn từ những khác biệt trong nhu cầu giáo dục, nhất là trong phẩm chất của nền giáo dục Việt Nam. Hiện nay, có khoảng 2.500 sinh viên từ Việt Nam sang du học tại Hoa Kỳ, nhưng ngược lại có rất ít nếu không nói là không đáng kể số sinh viên Hoa Kỳ du học tại Việt Nam. Ngoài những học bổng cho sinh viên Việt Nam du học Hoa Kỳ do các tổ chức tư nhân cung cấp, nhánh phủ Hoa Kỳ cũng dành một ngân khoản trợ giúp sinh viên Việt Nam du học các ngành khoa học kỹ thuật lên đến 10 triệu mỹ kim, ngang qua chương tŕnh Fulbright và Vietnam Education Foundation. Chỉ với ngân khoản này th́ sinh viên Việt Nam nhận được ngân khoản viện trợ nhiều hơn bất cứ sinh viên tại các quốc gia khác. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, th́ số sinh viên Việt Nam du học Hoa Kỳ càng động th́ càng nhiều cơ hội đóng góp vào mối bang giao giữa hai quốc gia Mỹ Việt, đồng thời cũng là góp phần vào tính cách mềm dẽo trong mối liên hệ giữa tuổi trẻ trong nước với tuổi trẻ hải ngoại.

 Vấn đề nhân đạo.

 Nhân đạo nói ở đây hầu như qui vào những vấn đề c̣n lại từ thời chiến tranh ư thức hệ. Đó là người Mỹ mất tích, bom đạn chưa nổ, và điều cáo buộc về chất hóa học khai quang rừng rậm. Về ngườ́ Mỹ mất tích tại Việt Nam th́ chánh phủ Hoa Kỳ xem ra bằng ḷng với những kết quả đă đạt được.

 Nhưng thưa quí vị, khi nói rằng Hoa Kỳ bằng ḷng về sự cộng tác của lănh đạo cộng sản Việt Nam, gợi cho người viết bài này nhớ lại vào giữa những năm 60, khi mà Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam Cộng Ḥa th́ nói rằng Hoa Kỳ giúp Việt Nam đánh cộng sản xâm lăng, nhưng khi cần rút quân về nước th́ Hoa Kỳ nói là Việt Nam Cộng Ḥa đă đủ sức chống quân cộng sản xâm lăng. Vậy, liệu lời khen cộng sản Việt Nam trong việc t́m kiếm người Mỹ mất tích có cùng ư nghĩa đó chăng Bởi số hài cốt nhận được chưa đạt đến một phần ba trong tổng số người Mỹ ghi nhận mất tích, th́ Hoa Kỳ có nên dành lời khen thưởng cho lănh đạo cộng sản Việt Nam không Nhưng mà có nên hay không nên th́ sự thể đă như vậy rồi. Chính trị mà quí vị!

 C̣n điều cáo buộc về chất hóa học dùng khai quang những cánh rừng rậm để không cho quân cộng sản dùng làm nơi trú ẩn mà lănh đạo cộng sản Việt Nam gọi là “chất độc màu da cam”. Thật ra màu da cam không phải là màu của chất hóa học, mà là bên ngoài cái thùng đựng chất hóa học đó có đánh dấu bằng màu da cam. C̣n nó có thật sự là loại chất độc đối với con người hay không lại c̣n tùy thuộc mức độ ô nhiễm của từng người, chớ không nhất thiết cứ ở trong khu vực ảnh hưởng chất hóa học là tất cả đều bị dị bệnh hay dị tật cả. Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, một chuyên gia về môi trường đă dẫn chứng và kết luận như vậy trong buổi hội luận tại thành phố Houston vào cuối năm 2002.

 Về bom đạn chưa nổ. Điều này chắc chắn là có, nhưng con số ghi trong bài viết của giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, th́ giới quân sự cộng sản Việt Nam cho là có từ 350 ngàn đến 850 ngàn tấn bom đạn chưa nổ, nhưng không kèm theo dẫn chứng khả dĩ cho thấy con số ước tính đó có thể chấp nhận được, mặc dù Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ thỏa thuận với Bộ Quốc Pḥng cộng sản Việt Nam hồi tháng 2 năm 2003, trợ giúp công tác vẽ lại những băi ḿn và những nơi bom đạn chưa nổ.

 Vấn đề nhân quyền.

 Chính đây là vấn đề nhức nhối nhất trong mối bang giao Mỹ Việt hiện nay, nhất là sự nhức nhối này phần lớn nằm ở phía. Lănh đạo cộng sản Việt Nam cho là v́ lư do an ninh mà họ đàn áp bắt giữ bỏ tù hay quản chế những phần tử đối lập chính trị và những nhà lănh đạo tôn giáo. Đầu năm 2004, bản phúc tŕnh thường niên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về “t́nh h́nh nhân quyền” trên thế giới, trong đó đă chỉ trích Việt Nam vi phạm quyền tự do ngọn luận, tự do bái chí, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, và vi phạm nhiều khía cạnh khác, mà nói chung là vi phạm nhân quyền. Điều đáng lưu ư là chánh phủ Hoa Kỳ một mặt chỉ trích vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, nhưng mặt khác lại cố gắng chống lại áp lực đ̣i ghi cộng sản Việt Nam vào danh sách các “quốc gia cần quan tâm” về vấn đề nhân quyền, dựa theo đạo uật về quyền tự do tôn giáo thế giới. Tiếp đến là Hạ Viện Mỹ trong tháng 7 năm 2004, đă thông qua dự luật Nhân Quyền chỉ trích hành vi xâm phạm quyền tự do chính trị và tự do tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội.

 Lănh đạo cộng sản Việt Nam phản ứng bằng cách lên án bản phúcc tŕnh nói trên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, và dự luật nhân quyền đă biểu quyết thông qua tại Hạ Viện, họ cho rằng Hoa Kỳ đă can thiệp vào nội bộ Việt Nam.

 Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, vấn đề nhức nhối này trong một tương lai có thể thấy được là nó vẫn c̣n đó, và phía Việt Nam sẽ phải t́m cách thích ứng với nó, chớ không thể để sự mâu thuẫn này kéo dài măi sẽ ảnh hưởng đến bang giao giữa hai nước.

 Nh́n từ phía Hoa Kỳ, th́ Hoa Kỳ có những lư do để gia tăng áp lực với lănh đạo cộng sản Việt Nam, như: Thứ nhất, chánh phủ phải đáp ứng đ̣i hỏi của Quốc Hội, của các cơ quan theo dơi những vi phạm nhân quyền, cũng như các tổ chức kgông thuộc chánh phủ, và các tổ chức của Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn. Thứ nh́, luật pháp Hoa Kỳ đ̣i hỏi Bộ Ngoại Giao, hằng năm phải nộp bản phúc tŕnh về t́nh trạng nhân quyền của nhiều quốc gia trên thế giới, do đúc kết các bản phúc tŕnh từ các ṭa đại sứ Hoa Kỳ tại các quốc gia liên hệ. Và sau hết là theo lời của ông Đại Sứ Hoa Kỳ Burghart tại Việt Nam, đă phát biểu tại Asia Society ngày 21 tháng 1 năm 2003 rằng: Nhân quyền là một vấn đề mà người dân Hoa Kỳ thật sự quan tâm. Như vậy, đây là hành động biểu thị của lịch sử cũng như đặc tính trong cơ quan công quyền của Hoa Kỳ, nhưng lănh đạo cộng sản Việt Nam lại gán ghép cáo buộc Hoa Kỳ thực hiện “một âm mưu mờ ám nhằm thức đẩy diễn biến ḥa b́nh tại Việt Nam”.

 Thưa quí vị, nói cho dễ hiểu là lănh đạo cộng sản sợ bị lật đổ do diễn biến ḥa b́nh, mà thật ra ngay từ khi Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc là tự họ đă bắt đầu vào hành tŕnh “diễn biến ḥa b́nh” rồi. Tiếp đến lại cắm đầu cắm cổ xin bang giao với Hoa Kỳ, rồi vận động để được kư kết hiệp định thương mại song phương Mỹ Việt. Tới đây, Việt Nam sẽ gia nhập tổ chức mậu dịch quốc tế. Tất cả những hành động chạy đôn chạy đáo của lănh đạo cộng sản Việt Nam gộp lại, chính là một chuỗi hành động đưa Việt Nam tiến sâu thêm vào cái tḥng lọng diễn biến ḥa b́nh, chớ Việt Nam có bị ép buộc từ quốc gia nào đâu mà than với thở, mà sợ mất dần quyền lực, thậm chí là sợ bị lật đổ!

 Vấn đề Cộng Đồng người Mỹ gốc Việt.

 Đây không phải là vấn đề mới, mà là từ năm 1975, lănh đạo cộng sản Việt Nam đă áp dụng chính sách bắn giết, bắt bỏ tù, đến nhẹ nhàng nhất là chửi rủa phỉ báng nhục mạ tất cả những người Việt Nam không chịu nỗi chế độ độc tài áp bức, đă vượt biên vượt biển, nói cho đúng là vượt lên sự chết để t́m sự sống. Kế đó là những nhà văn nhà báo cộng sản đua nhau viết sách viết báo, tiếp tục phỉ báng nhục mạ Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, mà điển h́nh gần nhất là họ đă ḷn lách đưa được hai đảng viên cộng sản sang Hoa Kỳ dưới danh nghĩa xuất ngoại tu nghiệp, cộng tác với Trung Tâm William Joiner của trường đại học Massachussetts tại Boston, trong chương tŕnh nghiên cứu tái xác định căn cước và vị trí Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn. Qua một số bài viết cùng sách báo của hai đảng viên này từ Việt Nam, đă thể hiện mục đích của họ cùng với Trung Tâm nghiên cứu William Joiner, nhằm phủ định tính cách một Cộng Đồng tị nạn chính trị mà chỉ là những người Việt Nam riêng rẽ đi t́m sinh kế.

 Nhưng theo thời gian, Cộng Đồng Việt nam Tị Nạn đă hội nhập vững vàng vào các xă hội kỹ nghệ nơi định cư, đă trở thành công dân bản xứ, đă có một khối chuyên viên cao cấp lớn lao về khoa học kỹ thuật tân tiến, và khối chuyên viên quí giá này đă làm cho lănh đạo cộng sản Việt Nam thèm muốn đến mức ông Nguyễn Đ́nh Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao cộng sản Việt Nam đă phát biểu trong buội họp tại Ngân Hàng Thế Giới ngày 13 tháng 6 năm 2003 rằng: Điều mà đất nước và lănh đạo ta -tức cộng sản Việt Nam- coi trọng hơn cả là chất xám và trí tuệ, và những hiểu biết những kinh nghiệm của các chuyên viên ở nước ngoài, hiện nay phải nói là cực kỳ quí. Theo như thống kê, trong số khoảng 2 triệu 7 hay 2 triệu 800 ngàn người ở hải ngoại, th́ hơn 200 ngàn hoặc phải xấp xỉ 300 ngàn là các nhà khoa học, là những bộ năo có nhiều kinh nghiệm trong quản lư, nghiên cứu, và phát triển kinh tế”. Cũng trong buội họp đó, ông Nguyễn Đ́nh Bin c̣n than phiền là các tiểu bang và các thành phố tại Hoa Kỳ đă công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ chúng ta, là điều mà họ không thể chấp nhận. 

 Thưa quí vị, lănh đạo cộng sản Việt Nam, sau hơn 20 năm chửi rủa phỉ báng nhục mạ chúng ta, nay đă nhận ra một khả năng và tiềm năng rất lớn trong Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta, có thể đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng quốc gia, cũng như giúp tăng uy thế chính trị và hậu thuẫn cho họ trong các cuộc vận động quốc tế qua các lănh vực chính trị, nhân quyền, và kinh tế. Do vậy mà họ xuống giọng trong nghị quyết 36 -một nghị quyết tương tự cái lệnh tổng tấn công Cộng Đồng tị nạn chúng ta- để gọi Cộng Đồng chúng ta là một phần không thể thiếu trong cộng đồng dân tộc. Họ làm như họ rất yêu thương chúng ta, và ra vẻ như đang ôm chúng ta vào ṿng tay
“cai trị” của họ vậy. Đúng là bây giờ, sau gần 30 năm thống trị toàn cơi nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, lănh đạo cộng sản Việt Nam đă nhận thức đúng về khả năng và tiềm năng Cộng Đồng tị nạn chúng ta, nhưng điều đó đă muộn. Giờ đây họ cứ tưởng chúng ta là người dân dưới quyền cai trị của họ, nên họ muốn sai khiến chúng ta giúp họ tồn tại để tiếp tục thống trị hơn 82 triệu dân trên quê hương Việt Nam, và thống trị luôn Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta tại hải ngoại nữa.

 Lằn ranh dân chủ với độc tài mà chúng ta thường gọi là “lằn ranh quốc cộng”, chính là lănh đạo cộng sản Việt Nam tạo nên từ hơn nửa thế kỷ qua chớ không phải thành phần nào khác. Vậy, lănh đạo cộng sản Việt Nam muốn xóa lằn ranh này để tiến đến khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó Cộng Đồng tị nạn đóng góp mạnh mẽ và toàn diện vào công cuộc xây dựng phát triển quốc gia, th́ chính họ phải thực hiện chớ không kêu gào thống thiết ǵ cả. Trước hết, họ chỉnh trang lại nghĩa trang quân đội (Biên Hoà), hoàn trả tài sản mà họ đă tịch thu dưới mọi h́nh thức của tất cả công dân Việt Nam Cộng Ḥa cũ, bồi thường cho tất cả những tù chính trị gốc là công dân Việt Nam Cộng Ḥa cũ mà họ gọi là “tập trung cải tạo”, và quan trọng hơn hết là họ phải chuyển đổi từ chế độ độc tài sang chế độ dân chủ pháp trị. Mà là chuyển đổi thật sự chớ không phải lừa dối gian trá như họ đă từng làm đâu nhé. Có được như vậy, là Cộng Đồng tị nạn sẽ tự ḿnh tham gia đóng góp.

 Vấn đề quan hệ chiến lược quân sự.

 Đây là vấn đề tế nhị và nhạy cảm nhất trong mối bang giao Mỹ Việt hiện nay. Nh́n từ phía Hoa Kỳ, th́ Việt Nam không c̣n là vị trí chiến lược như trong thời chiến tranh lạnh nữa. Giờ đây, Việt Nam chỉ c̣n là một vị trí khiêm tốn trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ, kể cả sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 trên đất Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ vẫn muốn cải thiện mối quan hệ quân sự giữa hai nước. Điều trở ngại chính trong việc cải thiện này là lănh đạo cộng sản vẫn tự xem họ có vị trí chiến lược cao, cho nên mối quan hệ quân sự lành mạnh không thể xây dựng trên quan niệm cách biệt như vậy. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, th́ hai yếu tố sau đây đă ảnh hưởng đến quyết định mối quan hệ chiến lược quân sự là ḷng nghi ngờ của lănh đạo cộng sản Việt Nam đối với Hoa Kỳ trong khi không dám làm lănh đạo Trung Hoa cộng sản giận dữ.

 Họ nghi ngờ Hoa Kỳ nếu không nói là họ bất b́nh với Hoa Kỳ, điều mà lănh đạo cộng sản Việt Nam luôn cáo buộc Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ của họ, mà những can thiệp này họ lại xếp vào “nguy cơ diễn biến ḥa b́nh” để thay đổi chế độ độc tài của họ, hay chí ít cũng là làm cho họ mất dần quyền hành. Trong khi Hoa Kỳ theo truyền thống một xă hội dân chủ pháp trị, và đó cũng là bản chất chính trị của xứ sở này, một xứ sở mà tổ chức giữa Lập Pháp, Hành Pháp, với Tư Pháp, được thực hiện theo quan niệm “kiểm soát và cân bằng”, cho nên chánh phủ luôn quan tâm cổ vơ cho vấn đề nhân quyền và tiến tŕnh dân chủ hoá trên thế giới, do luật pháp cùng những áp lực từ nhiều phía trong xă hội Hoa Kỳ. Đấy là hai nét nh́n chiến lược hoàn toàn khác nhau, đă tạo nên trở ngại từ sự nghi ngờ của lănh đạo cộng sản Việt Nam.

 Trong khi đó họ không dám có hành động nào khả dĩ khiến lănh đạo Trung Hoa cộng sản giận dữ. Do vậy mà lănh đạo cộng sản Việt Nam rất e dè khi tiếp xúc với Hoa Kỳ, nhất là trong lănh vực quân sự. Nói cách khác, đối với Trung Hoa cộng sản lẫn Việt Nam cộng sản, Hoa Kỳ có nhiều tự do trong việc chọn lựa hơn là Việt Nam.

 Một số học giả và chiến lược gia Hoa Kỳ, tỏ ư lo ngại Trung Hoa cộng sản trở thành thù địch trong tương lai, và nếu sự thể xảy ra như vậy th́ lúc ấy Việt Nam là một trong những quốc gia có thể là vị trí chiến lược của Hoa Kỳ. Nhưng để giải tỏa mối lo này, Ngoại Trưởng Colin Powell đă tuyên bố rằng: “Vấn đề là tùy thuộc vào hai quốc gia muốn ǵ trong mối bang giao giữa Hoa Kỳ với Trung Hoa cộng sản”. Người bi quan th́ ước tính rằng, nếu Trung Hoa cộng sản tiếp tục theo đuổi ư thức hệ đối nghịch với những giá trị của Hoa Kỳ, th́ họ sẽ là địch thủ. Nhưng người lạc quan th́ ước tính ngược lại, theo đó th́ Trung Hoa cộng sản có khả năng tiếp tục theo đuổi chính sách cải tổ để tiến dần đến loại hẳn ư thức hệ cộng sản, trường hợp đó Trung Hoa không c̣n là một địch thủ tiềm tàng đối với Hoa Kỳ nữa. Trường hợp này, Việt Nam cộng sản vẫn chỉ là một vai tṛ thứ yếu trong chiến lược quân sự của Hoa Kỳ.

 Về phía lănh đạo cộng sản Việt Nam, họ vẫn giữ mối lo ngại trung hạn trong vấn đề tranh chấp chủ quyền trên một phần hay toàn thể quần đảo Trường Sa, v́ tham vọng lẫn khả năng của Trung Hoa cộng sản đă từng bộc lộ nơi đây. Ước tính là Trung Hoa cộng sản sẽ không loại bỏ tham vọng này, nhất là khi họ vẫn theo đuổi ư thức hệ cộng sản. Trong t́nh h́nh đó, các quốc gia trong Hiệp Hội Đông Nam Á, đến các quốc gia lân cận như Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, thậm chí cả Liên Hiệp Âu Châu, cũng không phải là đối thủ của Trung Hoa cộng sản. Chỉ có Hoa Kỳ mới có khả năng ngăn chận lẫn khả năng đối phó với Trung Hoa cộng sản. Đây là cái lợi tiềm tàng đối với cộng sản Việt Nam, nhưng không rơ là họ có nh́n ra được điều đó hay không để mà bắt đầu xây dựng vun đắp từ bây giờ cho mối quan hệ quân sự với Hoa Kỳ.

 Thêm nữa, trong thời gian gần đây, dường như Trung Hoa cộng sản có những hành động chia cắt sự đoàn kết trong khối ASEAN để họ giải quyết vấn đề Trường Sa trên căn bản song phương. Điều này phải chăng đă xảy ra vào tháng 8 năm 2003, khi Chủ Tịch Quốc Hội Trung Hoa thăm Phi Luật Tân, hai bên đồng ư để vấn đề tranh chấp Trường Sa sang một bên mà chỉ bàn việc hợp tác khai thác tài nguyên. Rồi tháng 9 năm 2004, khi Tổng Thống Phi Luật Tân thăm Trung Hoa cộng sản, hai bên đă kư thỏa ước cùng hợp tác t́m kiếm khai thác tài nguyên trong vùng quần đảo này. Rất có thể là sự thành công này sẽ khuyến khích lănh đạo Trung Hoa cộng sản tiến xa thêm đối với các quốc gia khác, như Mă Lai Á, Thái Lan, Nam Dương, ..v..v.., th́ cộng sản Việt Nam sẽ rơi vào thế cô lập, lúc ấy cầm chắc là Việt Nam sẽ “chui vào ống tay áo” của Trung Hoa cộng sản, điều mà tiến sĩ cộng sản Nguyễn Thanh Giang thường nói trong những bài viết của ông.

 Cũng theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nếu Trung Hoa cộng sản lấn chiếm Trường Sa theo chiến thuật “tằm ăn dâu” chưa chắc là Hoa Kỳ sẽ lâm trận, nhưng nếu Trung Hoa cộng sản tấn công Đài Loan th́ cầm chắc là Hoa Kỳ sẽ hành động ngay.

 Thưa quí vị, đến đây là hết phần tham khảo tài liệu.

 Tóm lại. Đối với Trung Hoa cộng sản, một quốc gia ngay trên đỉnh đầu Việt nam, luôn xem Việt Nam là nước chư hầu ngày xưa, đồng thời lănh đạo cộng sản Việt Nam ngày nay cũng là đàn em của họ. V́ vậy mà mỗi hành động thân thiện của Việt Nam đối với các quốc gia khác, nhất là Hoa Kỳ, lănh đạo cộng sản Việt Nam phải thông qua cộng sản Trung Hoa bằng những h́nh thức thích hợp nào đó trong khoảng thời gian nào đó. Sau khi Liên bang Sô Viết và các quốc gia cộng sản Đông Âu sụp đổ, cộng sản Việt Nam đành phải tựa vào cộng sản Trung Hoa dù rằng Trung Hoa đă dạy cho Việt Nam bài học đầy cay đắng qua cuộc chiến tranh giới hạn về thời gian lẫn không gian hồi đầu năm 1979. Lúc bấy giờ, lănh đạo cộng sản Việt Nam gọi cộng sản Trung Hoa là bọn bành trướng bá quyền, là kẻ thù số 1 của Việt Nam, nên giờ đây phải qui lụy cộng sản Trung Hoa mới được cộng sản Trung Hoa chấp nhận. Nhưng tham vọng của cộng sản Trung Hoa không phải v́ vậy mà giảm bớt, trái lại, nếu có cơ hội thuận lợi th́ cộng sản Trung Hoa sẽ không tha nước Việt Nam đâu. Lịch sử xa xưa cũng như lịch sử cận đại, đă chứng minh điều đó. Do vậy mà lănh đạo cộng sản Việt Nam như đang t́m lối thoát. oa là

- Người viết suy đoán về lối thoát của lănh đạo cộng sản Việt Nam, là họ thay đổi chính sách đối với Hoa Kỳ, dù rằng họ thường phản đối và cáo buộc Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ của họ. Nhưng qua những tuyên bố của họ, và hằng loạt những phái đoàn cấp bộ trong chánh phủ Việt Nam sang Hoa Kỳ trong khi chiến hạm Hoa Kỳ thăm Việt Nam, rơ ràng là lănh đạo cộng sản Việt Nam đang ‘xuống nước và nhượng bộ’ Hoa Kỳ, mà mục đích của lănh đạo cộng sản Việt Nam nhằm tránh đối đầu với nguy cơ trước mắt về sự sụp đổ của họ. Chắc rằng, lănh đạo cộng sản Việt Nam h́nh dung được điều đó, bởi dân chủ tự do nhân quyền, đang là một trào lưu lan rộng trên khắp thế giới từ sau khi Liên Bang Sô Viết và các quốc gia cộng sản Đông Âu sụp đổ. Nhưng nhượng bộ Hoa Kỳ có phải là để tránh sụp đổ chăng

- Cũng suy đoán rằng, nếu lănh đạo cộng sản Việt Nam tiếp tục nhượng bộ Hoa Kỳ dù chỉ trong một mức độ nào đó, rất có thể họ tránh được sụp đổ do bạo loạn, mà cho dẫu có bạo loạn đi nữa, cũng chính trong hàng ngũ của họ lật đổ họ chớ không phải quân đội Hoa Kỳ, như một số những nhân vật lănh đạo của họ đă từng liên tưởng như vậy, sau khi thấy Hoa Kỳ lật đổ chế độ độc tài tại Afghanistan, chế độ độc tài tại Iraq. Trường hợp tránh được sụp đổ do bạo loạn, điều đó không có nghĩa là chế độ độc tài cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại như đă và đang tồn tại. Tuy là ngoài miệng cũng như trên giấy tờ, kể cả Nghị Quyết của Ban Chấp Hành hội nghị trung ương đảng cộng sản hồi tháng 8 năm 2004 vừa qua, họ vẫn tuyên bố độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội, vẫn chính sách kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa, nhưng qua những hành động của họ trong năm 2003 và 2004, cho phép suy đoán là lănh đạo cộng sản Việt Nam, dù thường xuyên gán ghép hành động “diễn biến ḥa b́nh” mỗi khi cần trấn áp những nhân vật hay những tổ chức đấu tranh cho dân chủ, nhưng có vẻ như họ đang tiếp nhận diễn biến ḥa b́nh một cách từ tốn để giữ được tính mạng.

Nếu ví ván cờ chính trị này như một canh bạc, mà dù canh bạc có diễn biến như thế nào đi nữa th́ phần thua chắc chắn về phía lănh đạo cộng sản Việt Nam, có vẻ như họ hiểu như vậy và họ chấp nhận như vậy, v́ thua ít, thua từ từ, đến thua cuối cùng, may ra c̣n chút thể diện, chớ chẳng lẽ họ tiếp tục ngoan cố đến mức để bị sạch túi trong một cuộc bạo loạn sao/.

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06