Việt Nam
và sự đổi mới
Phương Nam - Australia
Phần I - Phải chăng công cuộc đổi mới là do Đảng khởi xướng?
1- Bức tranh đất nước sau đổi mới:
Đại hội 6 ĐCS Việt Nam được tiến hành tại Hà Nội tháng 12.1986 đă thông qua
đường lối đổi mới kinh tế. Mục đích của nó là nhằm tạo ra một cơ chế kinh tế
mới thay thế cho cơ chế chỉ huy tập trung, quan liêu, bao cấp cũ. Chỉ một
thời gian ngắn sau khi đường lối mới đi vào cuộc sống th́ ai ai cũng thấy rơ
là đă có một sức sống mới bừng lên thật mạnh mẽ trên khắp mọi miền đất nước.
Thậm chí nó c̣n gây ngỡ ngàng với chính những người đă từng biểu quyết thông
qua nó.
Nh́n chung dư luận cả trong, ngoài nước đều đánh giá cao và
hết sức ca ngợi bước chuyển biến đầy tích cực này của Việt Nam . Mọi tầng
lớp nhân dân hết thảy đều vui mừng. V́ kể từ nay, tuy vẫn c̣n những khó
khăn, ràng buộc của cơ chế cũ, nhưng về cơ bản th́ cơ chế mới đă xác lập
được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của các đơn vị và cá nhân người
lao động. Điều này tạo nên một xung lực lớn, làm cho năng suất lao động
trong tất cả các ngành vốn bị tụt dốc thảm hại trước đó, nay đă được phục
hồi và tăng dần lên. Nhiều ngành nghề truyền thống của cha ông những tưởng
rồi sẽ bị thất truyền theo năm tháng cũng hồi sinh, nhiều sản phẩm, dịch vụ
mới ra đời, nhiều thị trường mới được khai mở.
Ngành lương thực có thể được coi là một ví dụ điển h́nh chứng
minh cho bước chuyển biến này.
-
Sản xuất lương thực:
Từ chỗ lương thực bị thiếu thường xuyên, có khi là rất nghiêm trọng th́ nay
đă có đủ và bắt đầu có tích lũy. Chẳng những đồng bằng sông Cửu Long - khu
vực thường sản xuất hơn 50% tổng sản lượng lương thực quốc gia có tích lũy,
mà cả miền Bắc và miền Trung cũng có tích lũy. Cuộc họp của bộ chính trị ĐCS
Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh chiều ngày 7.5.1989 đă có một quyết định
mang ư nghĩa chiến lược: cho phép Việt Nam xuất khẩu gạo, và ngay trong năm
ấy cả nước đă xuất được 1,4 triệu tấn.
-
Kinh doanh lương thực:
Khi phần lớn những trạm kiểm soát hàng hóa được lệnh dẹp bỏ th́ hạt gạo Việt
Nam như được chắp cánh bay. Gạo đi về những bản làng xa xôi, tới tận những
hang cùng ngơ hẻm, gạo leo lên những tầng lầu cao và gạo ra nước ngoài. Tất
cả những biến đổi kỳ diệu ấy là do sự vận động tự nhiên của các quy luật
trong kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh,... chứ không cần phải nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng cho ai
như đă làm trước đó.
Ở trong các lĩnh vực văn hóa, xă hội t́nh h́nh cũng rất đáng
mừng:
Nhân dân đă được phép đi lại, cư trú, nói năng, hành đạo,...
tự do hơn trước. Nhiều sinh hoạt văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc vốn
không được khuyến khích trước đó cũng đă được phép xuất hiện trở lại. Chẳng
hạn như hội Lim - Hà Bắc: năm 1987 đă có quyết định của Bộ Văn Hóa - Thông
Tin cho phép được chính thức mở lại. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật ra
đời trong thời kỳ này được công chúng đón nhận nồng nhiệt, v́ chúng đă bắt
đầu nói lên được những tâm tư sâu lắng của thân phận con người,...
Với một bức tranh xă hội rơ ràng là đă sáng sủa hơn trước, có
rất nhiều bài viết, tổng kết, báo cáo của những người có trách nhiệm trong
ĐCS Việt Nam, các nhà nghiên cứu,... được đăng tải trên các phương tiện
thông tin đại chúng trong nước, phần lớn thường có chung một kết luận:
“Công cuộc đổi mới là do Đảng khởi xướng mà công đầu thuộc về
trí tuệ tập thể của Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương ĐCS Việt Nam ”.
Trong bài nhan đề: Đôi Điều Suy Nghĩ Về Vận Mệnh Của Chủ
Nghĩa Xă Hội, ra tháng 7 năm 2000 - Ủy viên Bộ chính trị ĐCS Việt Nam khóa
8, Chủ tịch Hội đồng lư luận TƯ Nguyễn Đức B́nh cũng đă viết :
''…
Việc thực hiện NEP ở Nga, công cuộc đổi mới ở Việt Nam, công cuộc cải cách
mở cửa ở Trung Quốc, đều do ĐCS khởi xướng và lănh đạo, đều nhằm mục tiêu
xây dựng CNXH,...''
.
(xem website:
www.nhandan.org.vn
- mục Diễn Đàn) .
Theo tôi, không ai có thể phủ nhận được vai tṛ của rất nhiều
người trong Đảng mang tinh thần đổi mới từ các cấp ủy ở cơ sở lên tới cấp
trung ương. Trong đó kể cả vai tṛ quan trọng của hai cố tổng bí thư Trường
Chinh (giai đoạn từ tháng 7 - 12.1986) thay cho cố tổng bí thư Lê Duẩn từ
trần, và Nguyễn Văn Linh (từ 12.1986 - 1991) đă thúc đẩy cho đường lối mới
được thông qua. Nhưng để có một cái nh́n khách quan và thực tiễn hơn, chúng
ta cần quay lại với bối cảnh lịch sử lúc ấy.
2 - Bối cảnh lịch sử trước đổi mới:
a) Bối cảnh quốc tế:
Tháng 3 năm 1985, khi M.Goóc-ba-chốp (Mikhail Gorbachev) nhậm chức tổng bí
thư ĐCS Liên Xô, th́ một năm sau đó ông đă đề ra hai chính sách lớn là: Công
Khai và Xây Dựng Lại (Glasnost và Perestroika). Chúng bao gồm cả những vấn
đề đối nội và đối ngoại của Liên Xô. Một trong những thay đổi lớn trong
chính sách đối ngoại ấy là: đă đến lúc Liên Xô không thể chịu đựng được măi
những gánh nặng quá sức cho các nước đàn em trong phe XHCN được nữa. V́ Liên
Xô cũng có biết bao khó khăn nội bộ cần phải giải quyết, nhân dân Liên Xô
cũng thiếu thốn trăm bề và cái chính là sự bao cấp kia quá ư vô lư, không
biết đến bao giờ mới chấm dứt.
Không cần phải tŕnh bày dài ḍng, chúng ta cũng thấy được
ngay là Việt Nam đă bị hụt hẫng như thế nào cả về vật chất lẫn tinh thần từ
sự thay đổi này, kể cả việc mất chỗ dựa duy nhất về mặt quân sự lúc bấy giờ.
Trong khi sự cấm vận của Mỹ vẫn c̣n, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vẫn tiếp
tục căng thẳng. (măi đến năm 1991 mới bắt đầu có những cuộc đàm phán cấp
chính phủ để b́nh thường hóa). Việc quan hệ buôn bán với các nước ngoài phe
XHCN tuy đă có, nhưng chưa đáng kể,...
(những viện trợ theo các hiệp định cũ, coi việc hợp tác toàn
diện với Liên Xô là ḥn đá tảng trong toàn bộ chính sách đối ngoại của Đảng
th́ vẫn c̣n hiệu lực thi hành, nhưng những hiệp định mới th́ giảm hẳn; và
trong một thời gian dài trước đó 70 – 80 % tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam là đến từ Liên Xô và Đông Âu - số liệu của nhà báo Hữu Thọ, UVTƯ Đảng
khoá 8, trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương –
Bản Lĩnh Việt Nam , NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội 1997,
Tr.193).
b) Bối cảnh trong nước:
Trong báo cáo chính trị của đại hội đảng 6 cũng đă thừa nhận một cách tóm
lược như sau:
''
... Sai lầm về cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năm 1985 đă làm
cho nền kinh tế - xă hội Việt Nam lún sâu vào khủng hoảng, phân phối càng
thêm rối ren căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách thâm hụt lớn, lạm
phát phi mă; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, những mất cân đối lớn trong
nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt c̣n gay gắt hơn. Chủ quan nóng vội,
bảo thủ tŕ trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong cải tạo và quản lư. Những
sai lầm nói trên là rất nghiêm trọng về chủ trương chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện, ...''.
Với những khó khăn to lớn ấy, nhất là sự thay đổi từ phía
Liên Xô, đă buộc những người lănh đạo cao nhất trong ĐCS Việt Nam đứng trước
một trong hai sự lựa chọn:
Đổi mới hay là sụp đổ,
và nghị quyết đại hội 6 đă ra đời trong bối cảnh lịch sử như vậy. Nó thực sự
là giải pháp cho một t́nh thế nguy kịch, chứ không phải xuất phát từ một cái
nh́n viễn kiến, có cơ sở khoa học.
3 - Động lực nào đă thúc đẩy ĐCS Việt Nam chấp nhận đổi mới?
Nhiều người trong Đảng sau đó đă có ư kiến: “Thôi th́
cứ cho rằng t́nh h́nh khó khăn đă buộc đảng ta phải đổi mới đi, nhưng nói ǵ
th́ nói công cuộc đổi mới vẫn cứ là do Đảng khởi xướng. Điều đó thể hiện một
tinh thần trách nhiệm cao của ĐCS Việt Nam trước nhân dân.”(!?)
Theo tôi ư kiến trên là không có cơ sở để đứng vững, bởi v́
nếu nói về giai đoạn cuộc sống nhân dân chịu nhiều khó khăn nhất th́ phải là
trước đó. Cụ thể là trong các năm từ 1975 đến những năm đầu của thập niên
1980s. Đó là những năm tháng của ḿ, khoai, sắn, nui, bo bo; của cải tạo và
kinh tế mới, của quốc hữu hóa, hợp tác hóa, tập đoàn hóa, thủy lợi hóa, công
tư hợp doanh hóa một cách tràn lan, độc ác và của sự ngăn sông, cấm chợ gắt
gao. Đó cũng là những năm tháng mà lợn, gà, cá trê Phi, chim Cút, v.v…
''chung sống ḥa b́nh'' với người trong những căn hộ chật chội. Ở đó những
người chủ gầy g̣ của chúng chẳng ai ra lệnh, nhưng đă phải tự hạ quyết tâm
cho ḿnh: chúng tao có thể bị đói, nhưng chúng mày th́ nhất định phải được
ăn no!
Trong bài Đánh Thức Tiềm Lực, nhà thơ Nguyễn Duy cũng đă có
những đoạn viết về giai đoạn ấy như sau:
... Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy làm chi
mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá
nhiều về tiềm lực
tiềm lực c̣n
ngủ yên ...
Xin em nh́n ḱa
- người cuốc đất
(tôi cũng từng
chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo
ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ
nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn ḿnh cao
chĩa cuốc lên
trời
bổ xuống đánh
phập
đẹp lắm chứ cái
tạo h́nh cuốc đất!
xin em nh́n -
người gánh phân, gánh thóc
(tôi cũng từng
ṃn vai gánh phân, gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai
một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái
tạo h́nh gồng gánh
những cái đẹp
thế kia em có chạnh ḷng không?
cái đẹp gợi về
thuở ngày xửa, ngày xưa
nhịp theo tiết
điệu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ
ra không nên tồn tại nữa!
em có chạnh
ḷng chăng?
giữa thành phố
huy hoàng bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù
chiếc xe hơi chạy than
vệt than rơi
tóe lửa mặt đường
em có chạnh
ḷng chăng?
xích lô đạp
càng ngày càng nghênh ngang
xích lô máy và
xe lam chạy dầu vừa nă đại liên vừa phun khói độc
người đi bộ vừa
đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực c̣n
ngủ yên, ...
Thầy giáo giảng
rằng
nước ta giàu
lắm!.
lớp lớp trẻ con
cứ thế học thuộc bài, ...
(bài thơ dài gần 200 câu, được sáng tác trong các năm từ 1980
- 1982, nhưng bị cấm măi đến năm 1987 mới được in trong tập Mẹ Và Em).
T́nh h́nh nghiêm trọng đến mức mà các cô gái đang t́m chọn
người yêu cho ḿnh đă phải tự động ''hạ điểm chuẩn tuyển sinh'' xuống chỉ
c̣n:
Một yêu anh có may ô
hai yêu anh có cá khô ăn dần
ba yêu rửa mặt bằng khăn
bốn yêu có thuốc đánh răng hàng ngày. (!)
(khuyết danh)
Mà không hạ sao được khi ''cánh thí sinh'' cũng rất ''hoàn
cảnh'' :
Bắt cởi trần phải cởi trần
cho may ô mới được phần may ô. (!)
May sao nhờ sự linh hoạt trong việc xử lư t́nh huống ấy đă
cứu văn được t́nh h́nh. Chứ nếu không th́ cánh kia cũng đành chịu ''thất
học'', c̣n các cô th́ cũng không có ''học tṛ''!
Chẳng những là khó khăn về vật chất, mà đời sống tinh thần
của nhân dân cũng rất nghèo nàn và bị o ép nặng nề. Người dân không được
phép nói công khai về những nỗi buồn của chiến tranh, cũng như những nỗi đau
trong ḥa b́nh; bao năm trời, đa số họ chỉ dám giữ kín ở trong đầu.
Cố nhà văn - đại tá quân đội Nguyễn Minh Châu trong bài Hăy
Đọc Lời Ai Điếu Cho Một Giai Đoạn Văn Học Minh Họa, đăng trên báo Văn Nghệ,
số ra ngày 5.12.1987 đă phần nào nói lên được nỗi sợ hăi ấy của giới văn
nghệ sỹ nói riêng và cũng là của nhân dân nói chung:
''
... Rất thảm đối với nhân cách của một người văn nghệ sỹ là hễ cầm bút là
phải nghĩ đến né tránh, che chắn, rào đón, đối phó,...''
và:
'
'... Văn chương ǵ mà muốn viết một câu trung th́ phải viết một câu nịnh?
Hèn, hèn chứ, nhà văn nước ḿnh tận trong tâm can ai mà chẳng thấy ḿnh hèn?
Cái sợ nó làm ḿnh hèn,...''.
Đời sống của nhân dân bị khó khăn o ép là vậy, nhưng có lẽ
lúc đó những người lănh đạo cao nhất trong ĐCS Việt Nam đều cho rằng: phe
XHCN đang mạnh, Liên Xô dưới thời của cố tổng bí thư L.Brêgiơnép (L.Brezhnev
1906 - 1982) là rất hào hiệp. ĐCS Việt Nam chưa thấy có dấu hiệu nào của sự
đe dọa mất quyền lực và do vậy, nhu cầu đổi mới cũng không có cơ sở để phát
sinh! Mọi nỗ lực của đảng lúc ấy được dồn hết vào việc lănh đạo đất nước
thực hiện cho kỳ được đường lối do Đại hội 4 đề ra năm 1976:
''
... Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng,...''.
Chỉ có điều là cứ càng nắm vững chuyên chính vô sản bao nhiêu
th́ cuộc sống của nhân dân lại càng khó khăn, điêu đứng bấy nhiêu. (tất
nhiên việc nắm chắc tay súng bảo vệ bờ cơi là cần thiết, nhưng đó là chuyện
hoàn toàn khác). Nhân dân miền Nam chỉ một thời gian ngắn sau ngày 30.4.1975
''được'' chia lửa chuyên chính vô sản cùng với đồng bào miền Bắc của ḿnh,
đă chỉ c̣n biết ngửa mặt kêu trời : ''Mấy ổng cái ǵ cũng muốn bắc (bắt),
chỉ có cây cầu là hổng có thấy bắc.''(!)
(trong báo cáo chính trị của đại hội ĐCS Việt Nam lần thứ 5
họp tháng 3.1982 cũng vẫn nhấn mạnh:
''…Đại
hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng XHCN và đường lối xây
dựng nền kinh tế XHCN của đại hội 4,...'' . (
Xem
http://www.org.cpv.vn
, mục ĐH ĐCS VN).
Từ những tŕnh bày trên ta có thể rút ra kết luận:
Chính nguy cơ đe dọa mất quyền lănh đạo đất nước mới vừa là
nguyên nhân sâu xa, vừa là động lực chính thúc đẩy những người nắm thực
quyền trong ĐCS Việt Nam buộc phải chấp nhận đường lối đổi mới kinh tế vào
năm 1986. Nó tuyệt đối không phải là do ''tinh thần trách nhiệm cao của ĐCS
VN trước nhân dân'' như có người đă nêu ư kiến.
4 - Ai là người đă thực sự khởi xướng công cuộc đổi mới?
Theo tôi đúng là có nhiều ĐVCS mang tinh thần đổi mới
nhất là ở cơ sở, nhưng xét trên toàn bộ hệ thống đảng là chống đổi mới, càng
lên cao ở cấp trung ương càng chống mạnh. Bởi v́ chính chủ nghĩa Mác - Lê
Nin đă mách bảo họ rằng : nếu từ bỏ cơ chế kinh tế chỉ huy, tập trung th́
việc mất quyền duy nhất lănh đạo đất nước của ĐCS Việt Nam chỉ c̣n là vấn đề
thời gian.
Chính nhân dân ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam mới là những
người thực sự khởi xướng công cuộc đổi mới. Họ đă làm điều này khi âm thầm,
lúc công khai nhưng rất bền bỉ và quyết liệt từ nhiều năm trước đó. Bởi v́
họ đă không thể chịu đựng được măi cái đói, cái nghèo mà lúc này cũng đồng
nghĩa với cái nhục nữa. Và họ đă vùng lên, quyết ''xé rào'' để bung ra làm
ăn sinh sống, bất chấp cái giá mà họ có thể phải trả. Ai không tin điều này
xin hăy t́m hiểu thêm câu chuyện của những người nông dân Vĩnh Phú mà ngay
từ năm 1966, khi c̣n chiến tranh đă đề xuất với ông Kim Ngọc - Bí thư tỉnh
ủy lúc ấy một cách làm mới: cho phép khoán sản phẩm cuối cùng trong nông
nghiệp tới từng hộ nông dân (gọi tắt là khoán hộ), nhằm thay thế cho lề lối
đi làm theo tiếng kẻng của Hợp tác xă hoàn toàn thiếu sức sống trước đó.
Nghị quyết hội nghị thường vụ tỉnh ủy Vĩnh Phú được ra đời sau đó đă phân
tích rơ 8 điều lợi của khoán hộ.
Toàn bộ hệ thống Đảng khi biết chuyện đă la hoảng lên và cái
''cỗ máy nghiền'' kia lập tức vận hành. Những quyết định kỷ luật được tung
ra cho những người ''dám cả gan'' ấy, với các ''tội danh'' đại loại như:
''Phủ định đường lối hợp tác hóa nông nghiệp, mưu toan phục hồi lại con
đường tư hữu của người nông dân,...''. Thế nhưng, chân lư cuối cùng lại
thuộc về những người bị kỷ luật, chứ không thuộc về những người đă ra quyết
định kỷ luật họ. (cũng cần lưu ư là cấp ra quyết định kỷ luật Bí thư tỉnh ủy
tất nhiên phải là cấp trung ương) .
Chính v́ có những người nông dân b́nh thường và những ĐVCS
can đảm ấy, cùng biết bao người khác trên khắp đất nước dám đương đầu với cỗ
máy nghiền kia, th́ nhiều năm sau mới có chỉ thị 100 của Ban Bí Thư Trung
Ương mùa xuân 1981, cho phép khoán sản phẩm cuối cùng trong nông nghiệp đến
nhóm và người lao động (nhưng vẫn duy tŕ hệ thống hợp tác xă); Nghị quyết
10 của bộ chính trị tháng 4.1988 cho phép giao đất canh tác đă hợp tác hóa,
để xă viên được trực tiếp sử dụng,... Kết quả là sản lượng thóc cả nước tăng
từ 12 triệu tấn năm 1981 lên 15 triệu tấn năm 1987, rồi 32 triệu tấn năm
2000 và nông nghiệp Việt Nam 15 năm qua liên tiếp được mùa, dù có những năm
đất nước gặp thiên tai rất nặng.
Ở trong các ngành và lĩnh vực khác, nhân dân cũng phải gánh
chịu muôn vàn khó khăn không kém. Nhà viết kịch tài ba Lưu Quang Vũ nay đă
mất, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống đă viết nên vở kịch Tôi Và Chúng Ta
(đoàn kịch nói Hà Nội tŕnh diễn), được công chúng cả nước
đón nhận nồng nhiệt vào giữa thập niên 1980s. Năm tháng đă trôi qua, nhưng
những ai đă từng xem nó đều như c̣n nghe văng vẳng đâu đây những lời của
giám đốc một xí nghiệp công nghiệp - Hoàng Việt, chúng vừa uất ức nghẹn
ngào, vừa như muốn thét vào mặt những đại diện của cơ chế cũ: ''…
Các anh quẳng chúng
tôi xuống nước bảo chúng tôi bơi nhưng lại trói chân, trói tay chúng tôi lại
th́ làm sao chúng tôi bơi được?…''và:
''…
Những nguyên tắc được sinh ra là để phục vụ cho cuộc sống,
chứ không phải cuộc sống phục vụ cho những nguyên tắc!...''.
Thế nhưng, cỗ máy ấy vẫn lạnh lùng quay nhằm cố bảo vệ cho kỳ
được ''những nguyên tắc của chủ nghĩa xă hội''. Mọi biến đổi tích cực của
đất nước những năm qua một mặt chứng tỏ rằng: sự cần cù, thông minh và khả
năng ḥa nhập của con người Việt Nam vào một thế giới đang biến đổi hàng
ngày là rất đáng khâm phục và tự hào. Nhưng mặt khác nó cũng cho người ta
thấy rơ sự ḱm hăm và mức độ tàn phá của cơ chế cũ đối với đất nước là khủng
khiếp đến chừng nào. (nếu đem so sánh những thiên tai với những hậu quả mà
những ''thiên tài'' đă trút xuống cho đất nước bao năm trời th́ quả vẫn là
chuyện nhỏ!). Bằng chứng là chỉ cần khi ĐCS Việt Nam trả lại cho nhân dân
một phần quyền tự do mà họ đă bị tước đoạt trước đó thôi (thông qua cái gọi
là: ''Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất xă hội chủ nghĩa.'') th́ họ hoàn
toàn có thể tự đứng vững trên đôi chân của ḿnh, cho dù nguồn viện trợ đến
từ các nước XHCN đă giảm dần, rồi sau đó là gần như mất hẳn.
Từ những tŕnh bày trên ta cũng có thể rút ra kết luận:
Nếu nói rằng ĐCS Việt Nam đă lănh đạo công cuộc đổi mới th́
đúng (v́ có chịu buông ra đâu!),
nhưng nếu lại nói ĐCS Việt Nam đă khởi xướng công cuộc đổi mới là hoàn toàn
sai.
5 - Một vấn đề lớn cần làm rơ:
Tuy nhiên trong thực tế lại nảy sinh một điều trớ trêu
và rất phổ biến là : có nhiều người trong Đảng hôm qua đă từng không từ một
thủ đoạn nào để chống lại đổi mới, th́ hôm nay đùng một cái lại nghiễm nhiên
trở thành ''những chiến sỹ đi đầu trong công cuộc đổi mới''!
Đề cập đến ''tính tiền phong'' này trong bài CHIA TAY Ư THỨC
HỆ, anh Hà Sỹ Phu cũng đă viết :
''
Bản chất lạc hậu, không tiền phong nhưng muốn giành vị trí tiền phong th́
quy tŕnh giành lấy tiền phong phải diễn ra theo 4 bước tuần tự:
Bước 1: thấy cái ''tiền phong thật'' ngược với ḿnh, nên coi
là phản động.
Bước 2: không chống được, đành buông lỏng, để cái ''tiền
phong thật'' tồn tại không chính thức.
Bước 3: thấy cái ''tiền phong thật'' hữu hiệu, hợp lư nên
phải làm theo.
Bước 4: tuyên bố cái ''tiền phong thật'' ấy là do ḿnh khởi
xướng.
Trong thực tiễn ''cách mạng'' Việt Nam, từ việc to, việc nhỏ
đều có thể dẫn ra vô số sự kiện đă diễn ra theo kiểu ấy, tức là lếch thếch
chạy theo thực tiễn để đoạt lấy tiền phong,...''.
Tiến tŕnh 4 bước trên làm cho người đọc không khỏi không
liên tưởng đến câu chuyện cổ tích Thạch Sanh - Lư Thông của dân tộc.
Một câu hỏi đặt ra là: điều ǵ đă làm cho người ta có thể vơ
vào cho ḿnh một chiến công lớn của nhân dân như vậy? Theo tôi câu trả lời
thật giản dị: chính thể chế chính trị chỉ có duy nhất một đảng lănh đạo đất
nước đă là “nhân
tố chủ yếu quyết định cho thắng lợi ấy”.
Những chuyện tương tự, nếu là ở các nước có nền dân chủ thực sự, th́ dù họ
thuộc đảng đang ở vị trí đối lập hay đảng đang nắm quyền, dẫu có muốn cũng
không thể làm được. Ở một đoạn khác trong bài trên, anh Hà Sỹ Phu cũng đă
viết đại ư:
''…
Người cộng sản rất thích chơi tṛ ''đạo đức'' nhưng không dám chơi tṛ
''quân tử'', dùng đạo đức con người có thể lừa cả ḿnh, nhưng khi ḷng đă
cất lên tiếng quân tử th́ con người phải đối diện với chính lương tâm ḿnh
không trốn vào đâu được, bởi nó cụ thể như thế nên đạo đức giả th́ dễ nhưng
quân tử giả th́ không dễ chút nào, thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay,...''.
(
xem
http://members.aol.com/vietnamgo/hasphu.htm
) .
Nhưng tôi tin rằng lịch sử rồi sẽ rất công bằng: Thạch Sanh
là Thạch Sanh mà Lư Thông là Lư Thông, chứ không lẽ nào những gă Lư Thông
hôm qua đă từng thả đá lấp hang hại người, lại hết loạt hóa thành những
chàng Thạch Sanh vào hang cứu người hôm nay được. Bởi v́ như thế th́ quá bất
công, những bất công đă kéo dài từ suốt nửa sau của thế kỷ 20, rồi nay sang
luôn cả thế kỷ 21 này, dứt măi chưa ra.
Họ - những gă Lư Thông thời đại ấy đă nêu thêm một gương rất
xấu cho dân tộc nói chung và nhất là cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay nói
riêng.
Phần II - Sự đổi mới hôm nay và một số vấn đề của nó.
1- Về tính duy nhất của đảng cầm quyền:
Có ư kiến cho rằng: hôm nay ĐCS Việt Nam đă quyết tâm
đổi mới, mọi việc đều đang biến đổi hàng ngày hàng giờ. Rồi Đảng sẽ mở rộng
dân chủ cả trong nội bộ và ra ngoài xă hội hơn nữa. Đảng sẽ cải cách hành
chính, sẽ trẻ hóa, trí thức hóa đội ngũ của ḿnh. Đảng sẽ nghiêm túc tiếp
thu mọi ư kiến phê b́nh, đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân và xử lư nghiêm
khắc mọi hiện tượng tiêu cực,… Đất nước nhất định sẽ tiến lên!
Nhưng theo tôi tất cả những thay đổi đó nếu có, cho dù là
thực tâm cũng không giải quyết được tận gốc của vấn đề. Bởi v́ nguyên nhân
sinh ra chúng, xuất phát từ thể chế chính trị độc đảng là vẫn c̣n nguyên. V́
vậy cái cơ chế do thể chế chính trị ấy sinh ra dứt khoát sẽ không chống được
tham nhũng, cũng chẳng chống được buôn lậu và tất nhiên, nó cũng không xóa
được những áp bức, bất công trong xă hội đă và đang càng ngày càng sâu sắc,
kể cả những bất công trong nội bộ ĐCS Việt Nam.
Tương tự đối với việc giải quyết những vấn đề khác của đất
nước như: xây dựng và thực hiện các quyền tự do căn bản của con người: tự do
tư tưởng, báo chí, ngôn luận, tín ngưỡng, lập hội, ḥa giải và ḥa hợp dân
tộc, v.v… Nhưng lại phải luôn thỏa măn nguyên tắc:
“Đoàn
kết, thống nhất dưới sự lănh đạo của ĐCS Việt Nam”(!?),
th́ theo tôi chính điều này mới là không tưởng. V́ vậy tất nhiên nó cũng
không thể xây dựng được một xă hội dân chủ được đa số nhân dân Việt Nam chấp
nhận.
Điều này chẳng những đúng với Việt Nam mà c̣n đúng với toàn
hệ thống XHCN nói chung. Hăy lấy trường hợp Cu Ba với vấn đề tuổi tác làm ví
dụ: năm 1959 - khi Phi Đen (Phidel Castro) và các đồng chí của ông tiến hành
cuộc khởi nghĩa vũ trang, lật đổ được chế độ Batista và bắt đầu công cuộc
xây dựng CNXH ở Cu Ba, th́ tuổi đời của họ đều chỉ trên dưới 30, nghĩa là
c̣n rất trẻ. Nhưng không phải v́ thế mà hôm nay sau hơn 40 năm, những người
cộng sản của nước này đă xây dựng được một nền dân chủ thực sự, nếu như
không muốn nói là ngược lại: sự độc tài.
Thậm chí chính những người trẻ tuổi một khi đă nắm được quyền
lực rồi lại có nhiều cơ sở để ''yêu tha thiết'' với chế độ độc đảng hơn cả.
Bởi v́ là trẻ hơn nên thời gian nắm quyền lực của họ cũng sẽ lâu hơn.
Ở Việt Nam, trước những quốc nạn tham nhũng và buôn lậu ngày
càng lan tràn như hiện nay, đă làm cho nhiều người dân cùng có chung một suy
nghĩ chán chường: ông nào lên th́ cũng vậy thôi. Có khi cứ để mấy ông già
làm lại c̣n đỡ hơn, v́ các ông ấy “ăn đủ” rồi nên biết đâu các ông ấy c̣n
thương dân (!?). Chứ bây giờ lại đưa mấy “bố trẻ” lên, các bố ấy “ăn” chưa
đủ th́ c̣n báo dân, hại nước nữa!
Theo tôi, bất cứ một hệ thống quyền lực nào từ cổ chí kim,
nếu nó chỉ được xây dựng bởi một lực lượng chính trị duy nhất, lại không có
khả năng thay thế, th́ dẫu ban đầu lực lượng ấy được tập hợp bởi đa số những
con người có tấm ḷng trong sáng, sự dấn thân và một lư tưởng cao đẹp cũng
không bao giờ trở nên tử tế lên được. Chắc chắn cùng với thời gian nó sẽ dẫn
tới sự thoái hóa, biến chất của toàn bộ hệ thống. Bởi v́ là duy nhất nên nó
không thể tạo được một Cơ Chế Hăm thực sự hữu hiệu: một khi mà anh luôn được
nắm quyền lănh đạo “trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối đất nước, cương quyết
không chia xẻ với ai”, th́ dù cái ''tam quyền'' cuả anh có ''phân lập'' kiểu
ǵ rồi cũng nhập một mà thôi.
Ở Việt Nam, dư luận cũng thường bàn tán rằng: mỗi lần có những vụ án lớn
mang tầm cỡ quốc gia th́ trước khi ṭa nghị án, lại nghe Bộ chính trị họp!
Nền dân chủ hiện đại đă t́m ra những công cụ rất sắc bén để
tạo ra một cơ chế hăm hữu hiệu lên đảng đang cầm quyền. Đó là những lá phiếu
của cử tri - những người đóng thuế. Là sự kiểm tra, kiểm soát và chất vấn
thường xuyên của các đảng đối lập. Là vai tṛ quan trọng của giới truyền
thông,... để nếu đảng cầm quyền có làm sai điều ǵ th́ cũng sớm bị phát hiện
và ngăn chặn kịp thời. Nhưng ở các nước XHCN th́ tất cả những công cụ trên
hoặc là không được phép xuất hiện, hoặc nếu có th́ cũng thường chỉ là h́nh
thức, mang nặng tính tŕnh diễn. Do vậy đă nảy sinh một mâu thuẫn rất dễ
nhận ra là: khi những nghị quyết của ĐCS được ban hành th́ chúng gây tác
động, ảnh hưởng lên toàn xă hội, tức là rất mở. Nhưng khi đề cử và bầu nhân
sự của Đảng - những người sẽ làm và thông qua những nghị quyết kia, th́ lại
là ''công việc nội bộ của đảng'', tức là rất đóng và tất nhiên là họp kín!
2- Kiên tŕ với tính định hướng XHCN - Những mâu thuẫn giữa
quan điểm và thực tiễn:
Trong chương tŕnh cầu truyền h́nh đón chào năm 2000,
khi điểm qua những sự kiện lớn trên thế giới của thế kỷ thứ 20 vừa qua, một
nữ phát thanh viên của Đài truyền h́nh trung ương đă đọc một đoạn văn sau
đây:
''
... Vào thập kỷ cuối của thế kỷ, những biến động xă hội dẫn đến sự tan ră
của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, tuy nhiên phải nói rằng đây
chỉ là cuộc khủng hoảng của những mô h́nh phát triển, chứ không phải là thất
bại của CNXH như một h́nh thái kinh kế - xă hội. Những mô h́nh phát triển
trung thành với ư tưởng của CNXH và mang bản sắc riêng vẫn đang phát triển
thành công ở Trung Quốc hay Việt Nam. Các nước TBCN cũng đang phải tự điều
chỉnh mọi phương diện để tự tồn vong. Biểu hiện là con đường thứ 3 hay Chủ
nghĩa tư bản mầu hồng đang lên ngôi ở một loạt nước Tây Âu...''(!)
Hăy khoan nói đến cách lập luận luẩn quẩn theo kiểu ''con
kiến mà leo cây đa'' của đoạn văn trên, (có người c̣n nhận xét là nó tuy
nghèo cơ sở thực tiễn, nhưng lại rất giầu ''tinh thần''… cà cuống!)
mà chỉ nói đến nội dung của nó: con đường thứ 3 nào, CNTB mầu hồng nào đang
lên ngôi? Cái gọi là ''bản sắc riêng'' của Trung Quốc hay Việt Nam hôm nay
là ǵ? Cũng lại thôi không nói đến chuyện đúng hay sai của “Chủ nghĩa xă hội
khoa học” nữa. Nhưng thử hỏi xem, cả Trung Quốc lẫn Việt Nam hôm nay c̣n
thực sự trung thành được bao nhiêu phần trăm với những
''Ư tưởng của CNXH'' mà những nhà cộng sản tiền bối đă vạch
ra?
C̣n bao nhiêu phần trăm là của thứ ''Tư bản lưu manh và bệnh
hoạn''?
(chữ của anh Hà Sỹ Phu).
Trong dự thảo nghị quyết đại hội ĐCS Việt Nam lần thứ 9, đang
được đưa ra cho nhân dân đóng góp ư kiến, th́ quan điểm bao trùm có tác dụng
quyết định đến phương hướng, nhiệm vụ của cả đất nước trong giai đoạn tới
vẫn cứ là:
''…
Lịch sử thế giới đă, đang và sẽ c̣n trải qua những bước quanh
co, xong loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH v́ đó là quy luật
tiến hóa của lịch sử.''!
Hay nói tương tự như Lê Nin hồi đầu thế kỷ 20: "Chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là cái pḥng chờ của chủ nghĩa xă hội''!
Tuy nhiên, chúng ta hăy thử h́nh dung một chút: nếu quả đúng
quy luật tiến hóa của lịch sử diễn ra như vậy, th́ một ngày nào đó nước ta
sẽ từ một nước đang đi đằng đuôi sẽ nhảy phắt lên hàng đầu!
(theo những số liệu điều tra gần đây th́ Việt Nam xếp hàng thứ 8/13 nước
nghèo nhất hành tinh. Tức là ta cũng thuộc 1 trong những nước của khối "G8",
nhưng xếp theo thứ tự từ dưới lên!). Để
một lần nữa, Việt Nam lại tiếp tục được gánh vác cái ''sứ mệnh mà lịch sử
giao phó'' là dẫn dắt nhân loại tới cái tương lai tươi sáng kia!
Cái tương lai mà không hiểu v́ sao nhân loại “ngu lâu” này, ngồi măi trong
cái ''pḥng chờ'' ấy mà không chịu nhận ra!
Chỉ có điều trước khi được hưởng cái hạnh phúc ''vui ǵ hơn
làm người lính đi đầu'' ấy, th́ dân tộc ta vẫn phải trải qua ''những bước
quanh co'', vẫn phải ''đẩy mạnh hơn nữa nhiều mặt công tác''; trong đó có
công tác xuất khẩu lao động sang các nước ''Tư bản giẫy chết''. Phải làm sao
để những chiếc ''ṿi bạch tuộc'' ở chính quốc kia ''cơ bản hoàn thành'' việc
hút cạn kiệt sức lực dân ta th́ lúc ấy ''xét về thực chất'', Việt Nam đă có
chủ nghĩa xă hội!
Quả thật, vẫn biết là không phải nhưng nhiều khi tôi cứ thầm trách hồn
thiêng sông núi sao măi không về phù hộ cho dân tộc thoát khỏi cơn mê này.
(trong hội nghị về xuất khẩu lao động kéo dài 2 ngày 8 và
9.6.2000 tại Hà Nội, thủ tướng Phan Văn Khải tuyên bố: ''Xuất khẩu lao động
và chuyên gia là một chiến lược trước mắt và lâu dài,...'' và cũng theo
nguồn tin từ báo chí trong nước th́ năm 2000 Việt Nam đă xuất khẩu được
38.000 lao động. Dự kiến chỉ tiêu thực hiện năm 2001 sẽ là 50.000 người.)
Dỹ nhiên nói như vậy không có nghĩa là tôi phản đối việc xuất
khẩu lao động. Bởi v́ có khi đây là cứu cánh cuối cùng của nhiều gia đ́nh
Việt Nam hôm qua và hôm nay. Mà chỉ muốn nói lên sự mâu thuẫn giữa quan điểm
của những người bảo thủ trong ĐCS Việt Nam với thực tiễn cuộc sống hôm nay.
Chính môi trường chính trị đă và đang diễn ra trên đất nước ta mới là nguyên
nhân sâu xa, khiến cho những con người Việt Nam phải chịu muôn vàn đắng cay
ở ngay trong nước cũng như khi họ ra nước ngoài. Ai không tin điều này xin
t́m hiểu thêm t́nh trạng của những người công nhân Việt Nam trên đảo Samoa,
thuộc Mỹ mà báo chí trong nước gần đây cũng có đăng tải, hoặc t́m hiểu thêm
rất nhiều ví dụ khác đă phát sinh trong các xí nghiệp do người Nam Hàn, Đài
Loan,… làm chủ ở Việt Nam hiện nay.
Theo tôi, hệ thống XHCN đă có một giai đoạn hội được những
điều kiện tốt nhất để thực hiện những ư tưởng cộng sản của ḿnh. Đó là những
năm từ đầu thập niên 1950s đến cuối thập niên 1970s. V́ lúc ấy là c̣n cả một
hệ thống, với rất nhiều người c̣n tin vào sự tất thắng cuối cùng của nó và
một ḷng một dạ đi theo. Tất cả đều ''hăng hái tiến lên dưới ngọn cờ của
đảng tiền phong và của lănh tụ tối cao.''
Thậm chí ở Trung Quốc khi ''Người cầm lái vĩ đại'' bảo làm
thép th́ người người làm thép, nhà nhà làm thép. Bảo đi diệt chim sẻ th́ cả
nước ra quân đi săn lùng, tận diệt cho kỳ được đàn chim tội nghiệp kia.
Ở Việt Nam cũng vậy, có những lúc, những nơi người ta đă từng
đưa ra khẩu hiệu: ''Bát cơm, quả cà cộng với tinh thần cộng sản chủ nghĩa để
xây dựng chủ nghĩa xă hội!''. Rất nhiều người lương thiện với nhiệt t́nh
cách mạng cao độ đă không nề hà gian khổ và quyết dấn thân. Tất cả những
điều được cho là ''phi XHCN'' thuộc mọi lĩnh vực của đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa, xă hội đều bị bao vây, ngăn chặn, bức hại,…
Tức là mọi điều kiện cho ''cuộc thực nghiệm'' mô h́nh CNXH
đều đă được thỏa măn với khả năng cao nhất có thể. Nhưng một khi đă ''tận
nhân lực'' đến như vậy rồi mà kết cục vẫn là sự sụp đổ của Đông Âu và Liên
Xô, th́ vấn đề là phải lật ngược những “ḥn đá tảng” kia lên xem ở dưới nó
là cái ǵ? Đấy là chưa kể đến cái gọi là nước Campuchia Dân Chủ dưới thời
của bè lũ PolPot -Ieng Sary, được chính quyền Bắc Kinh giật dây và nuôi
dưỡng: ở đó nếu ai không chịu tuân theo lệnh họ th́ cứ lấy cuốc mà bổ vào
đầu nhau, nhằm xây dựng một thứ ''CNXH thuần khiết''!
Khiến cho chỉ trong 4 năm từ 1975 - 1979 đă có khoảng 1.5 - 1.7 triệu người
bị giết, chiếm 20% dân số nước này.
Do vậy, sẽ thật là nhẫn tâm và độc ác với những ai ở Việt Nam
đến hôm nay rồi mà vẫn c̣n mưu toan đem cả dân tộc ra để thực nghiệm tiếp
những ư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Bằng cách đó họ đă làm cái công
việc giống như của tầng lớp vua quan phong kiến nhà Nguyễn gần 2 thế kỷ
trước: luôn trung thành một cách mù quáng với Khổng Tử, Mạnh Tử, một ḷng
một dạ hướng về ''Thiên triều'', để rồi đất nước đă bỏ lỡ chuyến tầu văn
minh công nghiệp xuất phát từ phương Tây; dân tộc tiếp tục ch́m đắm trong
đói nghèo lạc hậu, và sau đó là bị người Pháp đô hộ gần 100 năm.
Có điều là những vua quan nhà Nguyễn xưa th́ thực sự tin
rằng: ''Cái bọn Phú Lang Sa, bọn Tây Phương kia là man di mọi rợ'', chứ
không phải như nhiều người trong tầng lớp vua quan thời nay, dù chẳng c̣n
mảy may tin ǵ vào các cụ Mác, Lê nữa, nhưng cứ vờ vờ vịt vịt để đánh lừa cả
một dân tộc. Họ chính là những người luôn t́m cách chơi tṛ ''đạo đức'' với
nhân dân: miệng th́ nói rằng lấy dân làm gốc, nhưng thực chất là họ chỉ muốn
lấy gốc làm thớt mà thôi! Đây mới là điểm khác nhau lớn giữa người xưa và
người nay cần làm rơ. Dỹ nhiên tôi không có ư nói đến những người cộng sản
chân chính mà tôi luôn kính trọng. Thực tế th́ đa số họ cũng đều đă thuộc
tầng lớp bị trị rồi. Bởi v́ cái hệ thống''sàng'' kia rất tinh khôn và lăo
luyện trong việc ''lọc'' người.
Chúng ta cũng nên khách quan mà nh́n nhận rằng trong số bốn
nước XHCN c̣n sót lại, th́ chính hai nước Cu Ba và Bắc Triều Tiên (Bắc Hàn)
mới thực sự là trung thành với mô h́nh của CNXH hơn cả. Nhưng hôm nay, đời
sống của nhân dân hai nước này khó khăn ra sao th́ ai mà không biết. C̣n với
Trung Quốc và Việt Nam th́ nào phải “chính chuyên” ǵ!
Động lực làm nên sự chuyển biến tích cực trong những năm qua là do sự vận
hành của cơ chế thị trường, dựa trên căn bản sự tư hữu về tư liệu sản xuất;
là sự tiếp nhận nguồn vốn và công nghệ, mà chủ yếu là đến từ các nước TBCN.
Chứ đâu phải là xuất phát từ quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân lao
động, vào những nguyên lư của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Những năm qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của cả Việt Nam và
Trung Quốc đều đạt khá cao (từ 5 đến 10% / năm), nhưng đây là điều b́nh
thường đối với những nước mới bước vào giai đoạn phát triển. Điều này 30 -
40 năm về trước, các nước trong khu vực cũng đă trải qua, khi họ được tiếp
nhận nguồn vốn và công nghệ của Mỹ và các nước phương Tây,... Nhưng cùng với
thời gian, tỷ lệ trên sẽ giảm dần theo quy luật. Rất nhiều người đă bị nhầm
lẫn về tính ''ưu việt'' này.
3- Vấn đề nhận thức lại:
Theo tôi vấn đề là phải làm sao thoát ra được phương
pháp tư duy xưa, cùng những vùng miền của năo trạng cũ. Một khi đă thoát ra
được rồi th́ chúng ta hăy thử đặt ra cho ḿnh những câu hỏi sau :
- V́ sao trước đây ở miền Bắc, năng suất lao động trong những
mảnh ruộng 5% mà các hộ xă viên được tùy ư sử dụng lại luôn cao hơn năng
suất trên những cánh đồng hợp tác xă, chiếm tới 95% qũy đất đai c̣n lại?
- Ai đă tạo ra cái cơ chế cũ và duy tŕ nó bao năm trời để
ngày nay mỗi khi nhớ về nó ta vẫn thường chậc lưỡi: ôi cái ''thời bao cấp''
ấy mà, nhắc lại làm ǵ?
- Nếu anh bị người ta trói lại, rồi nay do t́nh thế, họ buộc
phải nới lỏng cho anh một chút. Anh vội vàng cảm ơn họ như ơn cứu mạng th́
điều đó có ổn không?
- Nếu như trước kia, khi Việt Nam xây dựng CNXH c̣n cả một hệ
thống XHCN hỗ trợ, kết cục ra sao đă quá rơ ràng. C̣n nay trong cảnh ''chợ
chiều'' này - Khi hệ thống đă tan đàn, xẻ nghé, mà vẫn cứ phải tiếp tục
''định hướng'' vào đấy th́ rồi đất nước sẽ đi về đâu?
- Tại sao hễ ĐCS Việt Nam cứ càng hô hào ''định hướng XHCN''
bao nhiêu, th́ tốc độ tích lũy tài sản của các nhà tư bản đỏ thời nay lại
càng tăng lên tới mức chóng mặt bấy nhiêu?
- Tại sao chống buôn lậu và tham nhũng không đạt hiệu quả?
Tại sao mọi chiến dịch ''Xây dựng và chỉnh đốn đảng'' đều đă bị đánh trống
bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột?
(theo một cuộc khảo sát gần đây của Tổ Chức Tư Vấn Về Các Rủi Ro Chính Trị
Và Kinh Tế (P.E.R.C), có trụ sở đặt tại Hồng Công đă cho ra kết quả: Việt
Nam đứng đầu trong bảng sắp hạng các nước có guồng máy hành chính cồng kềnh,
kém hiệu qủa và khó làm ăn nhất thuộc khu vực châu Á , với O điểm là không
có khó khăn, 10 điểm là khó khăn tối đa, nước ta đạt 9.5 điểm. (xem
www.lenduong.net
ngày 27.2.2001.)
Ở trong lĩnh vực văn hóa - thông tin cũng vậy:
- V́ sao những chuyện rất nên kể cho nhân dân biết như
Chuyện Kể Năm 2000
của nhà văn Bùi Ngọc Tấn th́ lại bị cấm? C̣n chuyện ''vơ vào'' nói ở phần I,
vốn bị ông bà ta ngày xưa rất ghét, cho là điều cấm kỵ với con cháu th́ lại
cứ kể, mà lại c̣n kể rất nhiều và rất dai?
( xem
Chuyện Kể Năm 2000
- Website:
http://www.lmvntd.org/).
- V́ sao với những biến động lớn về tôn giáo, sắc tộc,…diễn
ra gần đây ở Huế và một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên
th́ báo, đài lại chỉ cho đăng những ư kiến phê phán những người đă tham gia
vào đấy? Những ư kiến ủng hộ họ có hay không? Nếu có tại sao không cho đăng?
Có phải họ là “Những
phần tử lợi dụng quyền tự do dân chủ của nước CHXHCN Việt Nam”
để chuyên gây rối. Rồi lại bị “Các thế lực thù địch từ bên ngoài kích động
và giật dây”,… Hay họ là những tầng lớp nhân dân bị áp bức, bóc lột quá lâu
ngày nay không thể chịu đựng được nữa và quyết vùng lên đấu tranh ?
- Vấn đề cũng tương tự đối với loạt bài của nhà báo Nguyễn
Như Phong đăng trên tờ An Ninh Thế Giới hồi tháng 1 năm 2001 vừa qua, với
những chỉ trích nhắm vào các ông Hà Sỹ Phu và Mai Thái Lĩnh:
Theo tôi, chưa nói đến chuyện đúng sai thuộc về ai, nhưng ít
ra là sau đó nếu không phải là tờ An Ninh Thế Giới, th́ cũng nên là một tờ
báo khác tạo cơ hội cho những người bị chỉ trích được tự bảo vệ ḿnh, như
vậy mới phải lẽ. Chứ ai lại đi ''hướng dẫn dư luận'' bằng cách anh th́ được
quyền viết, nói và đăng báo thoải mái, c̣n tôi th́ bị trói tay, bịt miệng
lại th́ lo ǵ mà anh không ''toàn thắng''? Với điều kiện “đấu tranh với
địch” thuận lợi như thế th́ làm ǵ mà không tạo ra những người cầm bút đă
viết một câu nịnh rồi lại viết tiếp những câu nịnh nữa, chứ làm ǵ có nửa
câu trung nào? Ai là Mặt Thật c̣n ai là Mặt Nạ đây? Thông tin như vậy là đa
chiều, hai chiều hay chỉ có một chiều? …
(xem
www.thongluan.org
và
www.lmvntd.org
)
Nếu mở rộng tầm nh́n hơn nữa, ta có thể đặt tiếp những câu
hỏi sau :
- V́ sao nếu đem các cặp Đông và Tây Đức, Bắc và Nam Triều
Tiên, Trung Quốc lục địa với Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao ra để so sánh, th́
ưu thế rơ ràng là nghiêng hẳn về các vế sau. Xét cả về mức sống, quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc?
- V́ sao chúng ta chỉ thấy những ḍng người di cư từ những
vùng đất
“một triệu lần dân chủ hơn” sang những vùng đất đối nghịch
phía bên kia, mà không phải là ngược lại?
- V́ sao người Mỹ lại chọn Việt Nam mà không phải là một nước
nào khác làm điểm nóng để nhảy vào can thiệp từ đầu thập niên 1950s? Liệu có
đúng là do nguyên nhân: ''Đế quốc Mỹ v́ sinh sau đẻ muộn nên phải đi xâm
chiếm thêm thuộc địa, nhằm thiết lập nên một thứ chủ nghĩa thực dân kiểu mới
ở Việt Nam'' hay là do những nguyên nhân nào khác? …
Một khi đă giải đáp được cho ḿnh những câu hỏi đó rồi, th́
chúng ta cũng tự giải đáp được luôn sự mâu thuẫn giữa quan điểm: “Xây đựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” với thực tiễn hôm nay. Nó v́
dân tộc hay chỉ v́ một thiểu số nắm đặc quyền, đặc lợi?
Cũng cần nói thêm rằng: tháng 8 năm 1989, tức là chỉ 3 tháng
trước khi bức tường Berlin sụp đổ, Cuộc Cách Mạng Nhung ở Tiệp Khắc giành
được toàn thắng (tháng 11.1989),… th́ tại hội nghị lần thứ 7 BCHTƯ ĐCS Việt
Nam khóa 6, đă ra một nghị quyết có tên là Một Số Vấn Đề Cấp Bách Về Công
Tác Tư Tưởng Trước T́nh H́nh Trong Nước Và Quốc Tế, trong đó ngay ở điều 1
ghi rơ:
''…Khẳng
định tính tất yếu lịch sử của CNXH và những thành tựu vĩ đại của hệ thống
XHCN thế giới,...''.
(xem
http://www.cpv.org.vn,
mục Đại Hội ĐCS VN.)
Điều này khiến cho mọi người dân Việt Nam quan tâm đến vận
mệnh đất nước lại càng thấy ḷng ḿnh như có lửa đốt: một khi mà trí tuệ của
cả một BCHTƯ vốn được coi là tiến bộ, là đổi mới thế mà c̣n đưa ra một nhận
định lớn, có kết quả bị thực tiễn phủ nhận ngay sau đó như vậy, th́ nội nó
chỉ đại diện cho ĐCS Việt Nam không thôi cũng đă không xứng đáng rồi; chứ
nói ǵ đến chuyện lại c̣n đại diện cho trí tuệ và bản lĩnh của cả một dân
tộc?
Nguy cơ ấy nay c̣n không? Với tất cả những ǵ đă và vẫn đang
diễn ra và với phát biểu sau đây, tôi cho rằng chẳng những nó vẫn c̣n, mà
lại c̣n tệ hại hơn nữa:
''…
Thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam đă đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn
đất nước, quá độ đi lên CNXH. Thế kỷ 21, chúng tôi quyết tâm bảo vệ vững
chắc nền độc lập, thống nhất của tổ quốc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân,
tiếp tục đi theo con đường đă chọn dù 50 năm, 100 năm hay lâu hơn nữa, chúng
tôi cũng không bao giờ nao núng, CNXH nhất định thành công.''.
(phát biểu của TBT Lê Khả Phiêu tại hội thảo quốc tế Việt Nam Trong Thế Kỷ
20 - tháng 9 năm 2000 - website:
http://www.mofa.gov.vn
, phần chính sách ngoại giao/ phát biểu và diễn văn.)
Nghĩa là giả sử một đứa trẻ được sinh ra vào đầu thế kỷ 21
này, th́ đến cuối thế kỷ khi tṛn 100 tuổi, có thể nó vẫn chưa nh́n thấy mặt
mũi của CNXH ra sao cả. Biết đâu trước lúc lâm chung, nó lại vẫn ''được''
nghe một ông TBT ĐCS Việt Nam nào đó lúc ấy (của Đại hội lần thứ 29 chẳng
hạn!) tiếp tục thao thao: rằng ''chúng tôi sẽ không bao giờ nao núng'',
''chúng tôi sẽ tiếp tục đi theo con đường đă chọn dù 50 năm, 100 năm hay lâu
hơn nữa, CNXH nhất định thành công.''!
Đi với tốc độ ấy là
“Tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”
hay là “ta”
cứ nhẩn nha, đủng đỉnh mà đi? Theo tôi, họ là những người đă mất hẳn mối
liên hệ với nhân dân. Họ không c̣n biết, hoặc cố t́nh không biết nguyện vọng
tha thiết của đại bộ phận dân tộc hôm nay là ǵ nữa rồi.
4 - Suy nghĩ thêm về một ư kiến đă đề xuất:
Với mong muốn được góp sức ḿnh cùng với nhân dân t́m
lối ra cho đất nước, trong bài Việt Nam Đất Nước Tôi viết tháng 6 năm 2000,
tôi có nêu ư kiến đề nghị tổ chức một cuộc Trưng Cầu Dân Ư ở Việt Nam với
câu hỏi: Việt
Nam nên hay không nên theo chế độ đa đảng?
Tôi cho rằng để giải quyết được tận gốc những quốc nạn của
đất nước hôm nay và cũng để mở đường cho đất nước tiến lên, th́ cách tốt
nhất là hướng tới một nền dân chủ đa nguyên đích thực, trong đó yếu tố đa
đảng là không thể thiếu được. Dỹ nhiên tôi cũng không chủ quan cho rằng sự
đa đảng như một chiếc đũa thần mà có nó là có tất cả, nhưng nó là điều kiện
cần . Bởi v́ chỉ khi dựa trên nền tảng ấy nó mới tạo được tiền đề cho những
bước dân chủ tiếp theo. Từ đó mới có đủ điều kiện để lựa chọn được những con
người, những lực lượng chính trị tốt nhất, tùy theo từng giai đoạn phát
triển của đất nước.
5 - Hai điểm cần làm rơ thêm:
a) Có người cho rằng: thế nếu cụ Hồ không t́m đến được với Lê Nin vào năm
1920, để rồi 10 năm sau sáng lập và rèn luyện ĐCS Việt Nam, th́ lấy lực
lượng nào mà tổ chức và lănh đạo dân tộc ta chiến thắng được hai cuộc chiến
tranh với Pháp và Mỹ, giành lại được độc lập tự do, thống nhất được đất
nước, trên cơ sở vũ khí lư luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin?
Ở đây tôi không có ư tŕnh bày về những nguyên nhân và tính
chất của hai cuộc chiến ấy, và liệu đất nước có thể tránh được chúng hay
không nhất là cuộc chiến tranh sau với người Mỹ, nếu như CT Hồ Chí Minh
không mang con đường của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về Việt Nam, mà chỉ xin lưu
ư tới vấn đề ''Vũ khí lư luận'' nói trên:
Đối với lịch sử giữ nước của dân tộc ta th́ việc chiến đấu và
chiến thắng giặc ngoại xâm, kể cả nhiều lần phải đương đầu với những thế lực
rất hùng mạnh, không phải là chuyện mới mẻ chưa từng xảy ra. Bằng chứng rơ
ràng nhất là việc chiến thắng giặc Nguyên vào thế kỷ thứ 13 đời nhà Trần,
gắn liền với tên tuổi của vị tướng lừng danh thế giới Trần Hưng Đạo: vó ngựa
của quân Nguyên đă từng chinh phục nhiều dân tộc từ châu Á sang châu Âu,
nhưng khi đến Việt Nam th́ chúng đă gặp thất bại. Chẳng những thất bại 1 lần
mà thất bại tới 3 lần. Chỉ có điều là ông cha ta thuở ấy nào đă biết đến các
ông Mác, Lê Nin là ai? Bởi một lẽ giản đơn là phải đến 6 thế kỷ sau th́ các
ông kia mới ra đời.
Một điểm quan trọng nữa là: trong cả 3 lần chiến thắng ấy, tổ
tiên ta không hề phải nhờ đến sự giúp đỡ nào từ bên ngoài. Bởi v́ chính họ
cũng bị quân Nguyên đô hộ, kể cả các nước lớn như Nga, Trung Hoa.
Những chiến thắng trước và sau đó như Bạch Đằng, Chi Lăng,
Đống Đa,... gắn với tên tuổi của những vị anh hùng dân tộc khác như: Ngô
Quyền, Lê Lợi, Nguyễn Trăi, Quang Trung,… càng khẳng định thêm cho điều này.
Tất cả đều diễn ra trước khi các ông kia sinh ra.
b) Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, nhiều nước trên thế
giới lo ngại về một trung tâm sức mạnh tuyệt đối, không có đối trọng xuất
phát từ nước Mỹ. Những nhà lănh đạo trong ĐCS Việt Nam cũng đă nhiều lần lên
tiếng về điều này và ủng hộ cho một thế giới đa cực, có đối trọng. Nhưng nếu
đă như vậy th́ cần phải công bằng và nhất quán. Chứ không thể về mặt quốc tế
th́ chống sự đơn cực quyết liệt, c̣n ở trong nước th́ lại ''sắt son'' tới
cùng với sự độc đảng được.
Như trong bài Việt Nam Đất Nước Tôi đă tŕnh bày quan điểm
của ḿnh rằng:
Trong suốt 56 năm qua kể từ ngày 2.9.1945 đến nay, trước dân tộc ĐCS Việt
Nam vẫn luôn là tự xướng danh, chứ không chính danh!
Nếu muốn chính danh ĐCS Việt Nam cần phải giành được chiến thắng trong một
cuộc Bầu cử tự do. C̣n nếu thua th́ phải nhường quyền lănh đạo đất nước lại
cho các đảng khác đă thắng, rồi chờ đến kỳ bầu cử sau. Như vậy mới là công
bằng và phù hợp với nền dân chủ của thời đại mới. Tức là ĐCS Việt Nam phải
chấp nhận một sự đua tranh trên chính trường như tất cả các ĐCS ở các nước
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Úc,... hàng trăm năm qua, hoặc như ở các nước cộng ḥa
cũ thuộc Liên Xô, Đông Âu hơn 10 năm qua.
Xét ở một góc độ nào đó, nó cũng giống như trong một giải
bóng đá tranh chức vô địch quốc gia mà ở đó, những điều luật đem ra áp dụng
phải tạo được sự b́nh đẳng thực sự cho những đội tham gia. C̣n cơ hội có
chiếm được vị trí số 1 hay không th́ lại tùy thuộc vào khả năng của mỗi đội:
Nếu thành tích thi đấu của anh là cao nhất anh sẽ là đội vô
địch, nếu không th́ phải chịu đứng ở thứ hạng thấp hơn. C̣n nếu kém quá th́
có khi phải xuống hạng, thậm chí phải chấp nhận cả chuyện giải thể hay sát
nhập. Nhưng những cầu thủ giỏi và có phong cách thi đấu tốt th́ vẫn luôn
được khán giả tin yêu và ủng hộ. Họ không có lư do ǵ để lo ngại thất nghiệp
cả; một số sẽ nghỉ thi đấu và chuyển sang làm các công việc khác thích hợp
hơn. C̣n những ai vẫn quyết tâm ở lại để xây dựng và củng cố đội ḿnh th́
cũng là điều tốt. Nếu chỉ xét riêng về tính quân tử và ḷng trung thực, họ
xứng đáng được mọi người kính trọng.
Một nền bóng đá quốc gia nếu muốn phát triển th́ không thể
chấp nhận t́nh trạng chỉ có một đội bóng nào đó, do muốn chiếm măi ngôi ''vô
địch'' của ḿnh bằng cách cứ nói khơi khơi rằng: "Trong điều kiện hiện nay
cũng như trong tương lai, không có sự cần thiết khách quan nào để tạo dựng
nên những đội bóng khác!
Mọi ư kiến đ̣i ''đa đội'' đều là lạc lơng và xa lạ với thực tiễn, là dối trá
và lừa bịp. V́ ''đơn đội'' đă là sự lựa chọn của khán giả rồi. Lịch sử thời
đại cũng đă chứng minh như vậy."(!?)
Theo tôi, có lẽ không có khán giả nào bỏ tiền vào sân mà chỉ
để xem có mỗi một đội bóng cứ xắn quần xắn áo, tất tả chạy ngược chạy xuôi,
rồi sau đó là xăm xăm lên nhận Cup bao giờ.
6 - Những lời thay cho kết luận:
Ngày nay dân tộc ta hoàn toàn có đủ điều kiện để chọn
lại đường đi cho dân tộc ḿnh. Chắc chắn cả dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn một
người hoặc một lực lượng chính trị nào đó chọn. Nếu những ai đang nắm thực
quyền trong ĐCS Việt Nam vẫn t́m đủ mọi cách để cố bám víu đến cùng vào sự
duy nhất,
th́ chính họ đang chống lại cả một dân tộc và xu thế tiến bộ của thời đại.
Kể cả việc họ phản bội lại chính những đồng chí cũ của ḿnh hiện c̣n sống,
cùng biết bao người đă ngă xuống trên khắp các nẻo đường mặt trận.
Họ cũng chẳng thực sự tôn kính ǵ chủ tịch Hồ Chí Minh qua
việc cứ đem “Tư tưởng Hồ Chí Minh” ra làm chiếc b́nh phong, nhằm che đậy cho
những việc làm khuất tất. Bởi v́ khi c̣n sống, chính cụ Hồ Chí Minh cũng đă
hơn một lần khẳng định rằng: ông không hề có tư tưởng ǵ đặc biệt cả, mà chỉ
có năng lực hoạt động thực tiễn. Càng ''đeo râu đội mũ'' cho ông, họ càng
làm khổ ông. Chính họ đă và đang là những người vừa trực tiếp, vừa gián tiếp
quấy rối giấc ngủ của ông, chứ không phải là ''giữ yên giấc ngủ của Người'',
như họ vẫn thường nói.
Ngay với Mác và Ăng Ghen họ cũng chẳng trung thành ǵ. Bởi v́
cả hai ông lúc sinh thời, ít ra cũng đă thừa nhận sự tồn tại của những đảng
công nhân khác bên cạnh đảng cộng sản :
''…
Những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết
và sự liên hiệp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước...''
và:
“
... Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các
đảng công nhân khác...''.
(trích Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản
1848 - phần II ) .
Tôi cũng viết bài này như những lời trần t́nh cùng độc giả
của ḿnh. Chúng hoàn toàn không phải là để đả phá hay công kích bất cứ một
cá nhân nào, dù là trong những bài viết có thể tôi đă nhắc đến họ. Tôi nghĩ
rằng mong muốn của tôi cũng giống như của biết bao người Việt Nam khác là
được góp một phần công sức dù nhỏ, nhằm chuyển biến được căn bản t́nh h́nh
đất nước trong một
diễn biến ḥa b́nh,
đưa nước ta ḥa nhập tốt vào thế giới đang biến đổi mạnh mẽ.
Sự ḥa nhập về kinh tế tự bản thân nó đă chứa đựng những điều
kiện tự nhiên cho sự ḥa nhập về chính trị và ngược lại; giữa chúng có mối
quan hệ hữu cơ và biện chứng để thúc đẩy hoặc ḱm hăm lẫn nhau. Điều đó tùy
thuộc vào khả năng tận dụng hay bỏ lỡ của mỗi quốc gia. Nếu đất nước vẫn
phải tiếp tục chịu đựng t́nh cảnh như hiện nay là: run rẩy chấp nhận sự ḥa
nhập của vế trước và phủ nhận hoàn toàn vế sau, th́ nguy cơ lớn nhất chính
là sự gặm nhấm, ăn ṃn do đủ các loại ''axít'' gây ra. Nó không phải là sự
ḥa nhập mà dân tộc đang thiết tha mong đợi. Nó chính là sự ḥa tan trong
đau đớn, tủi nhục.
Và do đó, cơ hội mà thời đại mới đang mở ra cho dân tộc ta có
thể rút ngắn được phần nào khoảng cách đă bị tụt hậu quá xa so với thế giới.
Với các nước trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) - những nước mà phần lớn trước
Cách Mạng Tháng 8.1945 đều có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam, cũng sẽ bị
tiêu tan.
Một khi t́nh h́nh diễn ra đúng như vậy th́ trách nhiệm ấy,
những người bảo thủ hiện đang nắm thực quyền trong ĐCS Việt Nam hôm nay, sẽ
phải trả lời trước dân tộc và lịch sử trong nay mai khi dân tộc ấy chuyển
ḿnh. Chính họ chứ không phải ai khác lại một lần nữa cố t́nh bỏ lỡ chuyến
tầu văn minh trí tuệ mà lẽ ra dân tộc đă được hưởng sớm hơn. Với lịch sử và
dân tộc họ là tội phạm chứ không phải là nạn nhân!
Nền dân chủ thực sự cho Việt Nam dẫu phải trải qua những gian nan thử thách,
nhưng nhất định cuối cùng dân tộc cũng sẽ giành được nó. Bởi v́ quy luật
muôn đời của con người là: "cùng
tắc biến, biến tắc thông
" - Không có điều ǵ bị dồn nén đến cùng cực mà không biến, và một khi đă
biến th́ ắt sẽ thông!
Tháng 4 năm 2001 - Xuân Tân Tỵ