Chúng tôi xin ghi
lại một số năm Dậu trong lịch sử của Việt Nam trải qua gần 1500 năm nay:
Tân
Dậu (541): Lư Bôn (c̣n có tên là Lư Bí), người Giao Chỉ khởi binh đánh
Tiêu Tư là Thứ Sử của nhà Lương, tuyên bố độc lập. Sử Việt Nam gọi ông là
Lư Nam Đế (lập ra nhà Tiền Lư trong lịch sử nước ta).
Quư
Dậu (973): Vua Tống sai sứ sang nước ta phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm
Giao Chỉ Quận Vương và Thái tử Đinh Liễn làm Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải
quân Tiết Độ Sứ An Nam đô hộ. Đây là lần đầu tiên nước Tàu phong cho nước
ta chức "Vương". Ngô Quyền chỉ được phong làm Tiết Độ Sứ mà thôi. Từ thời
Đinh Bộ Lĩnh trở về trước cả ngàn năm, chưa có người nào ở nước ta được
vua Tàu phong vương.
Ất
Dậu (985): Thái Hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga ủng hộ Lê Hoàn lên làm
vua (tức Lê Đại Hành) để thay thế nhà Đinh. Năm Tân Tỵ (981). Nhà Tống đem
quân qua đánh, Lê Hoàn thắng được quân Tống trên sông Bạch Đằng. Qua năm
Ất Dậu (985), vua Lê Đại Hành cho sứ mang lễ vật gồm vàng, ngà voi qua nộp
cống phẩm và xin cầu phong. Năm Quư Tỵ (993) nhà Tống phong cho Lê Hoàn
làm Giao Chỉ Quận Vương.
Đinh
Dậu (997): Vua Lê Đại Hành đích thân đem quân đánh Chiêm Thành.
Kỷ
Dậu (1069): Lư Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là
Chế Củ đem về.
Ất
Dậu (1105): Lư Thường Kiệt mất. Ông là một tướng tài, tinh thông thao
lược, làm quan trải ba đời vua, có công "phá Tống, b́nh Chiêm", là anh
hùng của dân tộc chúng ta, được nhà vua cưng yêu vào bậc nhất.
Ất
Dậu (1525): Mạc Đăng Dung nắm giữ quyền lực trong triều đ́nh, bức hiếp
vua. Các quan trung thành với nhà Lê bị Mạc Đăng Dung giết hại hơn 10
người. Đến năm 1527, Mạc Đăng Dung tự xưng làm vua, lập ra nhà Mạc.
Đinh
Dậu (1537): Tướng nhà Minh là Mao Bá Ôn đem quân đánh Mạc Đăng Dung.
Năm sau, Mạc Đăng Dung sai Nguyễn Phi Thái mang thư của vua Mạc sang nhà
Minh xin hàng và dâng đất chuộc tội.
Nguyễn Kim đă lập
con cháu nhà Lê lên ngôi tại Lào (đất Sầm Châu) và đánh chiếm được Thanh
Hóa để chống nhà Mạc.
Tân
Dậu (1561): dưới đời Lê Anh Tông (1556-1573): Vua Lê Trung Tông mất,
không có con nối ḍng. Trịnh Kiểm muốn tự lập làm vua, nhưng ngại ḷng
người c̣n theo nhà Lê, bèn cho người ra Hải Dương hỏi ư kiến Trạng Tŕnh
(Nguyễn Bỉnh Khiêm). Trạng Tŕnh khuyên Trịnh Kiểm: "giữ chùa thờ Phật th́
sẽ được ăn oản". Trịnh Kiểm hiểu ư bèn về t́m được người cháu ông Lê Trừ
(anh vua Lê Lợi) tên là Lê Duy Bang lập lên làm vua tức Lê Anh Tông.
Ất
Dậu (1573): Vua Lê Anh Tông thấy Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền hành nên
âm mưu loại trừ Trịnh Tùng, việc thất bại, vua bỏ trốn vào Nghệ An. Trước
hết, Trinh Tùng lập Hoàng tử thứ năm là Lê Duy Đàm, mới bảy tuổi, lên làm
vua tức Lê Thế Tông. Sau đó cho người đi bắt vua Lê Anh Tông về giết đi.
Từ đó, Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền hành và tự phong cho ḿnh chức "Thái
Phó, Tổng Quốc Chính, Thượng Phụ, B́nh An Vương".
Từ năm 1558, Nguyễn
Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa đến nay, đă có ư hùng cứ một phương nên ra
sức vỗ về dân chúng, huấn luyện quân sĩ, tăng cường sức mạnh để chống lại
họ Trịnh. Trịnh Tùng xin vua Lê phong cho Nguyễn Hoàng làm Thái Phó, hàng
năm phải nộp 400 cân bạc và 500 tấm lụa, ra lệnh cho Nguyễn Hoàng phải
tích trữ thóc lúa để pḥng giữ biên giới phía Nam. Quân Mạc vào đánh Thanh
Hóa, Trịnh Tùng phá được.
Đinh
Dậu (1597): Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, đưa vua Lê Thế Tông về Thăng
Long. Trước đây, sau khi giết được Mạc Mậu Hợp (1592), vua cho Đỗ Uông đem
hai tượng người bằng vàng, bằng bạc và lễ vật qua nhà Minh tŕnh bày t́nh
h́nh... Phái đoàn qua đến Lạng Sơn phải chờ đợi măi mà quan nhà Minh không
cho đến Bắc Kinh. Đoàn hộ tống Đỗ Uông bị dư đảng nhà Mạc phục kích, may
mà Đỗ Uông thoát được. Đinh Dậu (1597), quan nhà Minh là Vương Kiến Lập
đến xem xét vùng biên giới, Hoàng Đ́nh Ái đem 5 vạn quân hộ tống vua đến
ải Nam Quan hội họp với quan nhà Minh để phân định biên giới. Sau khi trở
về kinh thành, vua sai Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Nguyễn Nhân Thiệm
làm Phó sứ mang cống phẩm như lệ các vua thời trước để mừng lễ vạn thọ vua
nhà Minh và xin phong vương. Phùng Khắc Khoan dâng 30 bài thơ chúc mừng
được vua nhà Minh khen ngợi.
Quư
Dậu (1633): Người con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Nguyên tên là Anh
làm phản, viết mật thư hẹn với Trịnh Tráng đem quân vào th́ y sẽ làm nội
ứng. Sau khi thành công, y sẽ được vua Lê chúa Trịnh cho trấn thủ xứ Đàng
Trong và nộp thuế như thời Nguyễn Hoàng. Trịnh Tráng rước vua Lê, đem đại
quân vào đến phía Bắc cửa Nhật Lệ, đợi mười ngày mà không thấy dấu hiệu
ǵ, sinh nghi bèn rút quân. Trong lúc đó, tướng của Nguyễn là Nguyễn Hữu
Dật giữ cửa biên giới rất kiên cố, thừa cơ đem quân tấn công rất hăng say,
quân Trịnh tan vỡ, bỏ chạy, chết quá nửa.
Đinh
Dậu (1657): Được tin Trịnh Tráng mất. Trịnh Tạc được lên làm chúa ở
Bắc Hà, Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần) liền gửi mật thư cho Phạm Hữu Lễ ở
Sơn Tây đi vận động hào kiệt các nơi làm nội ứng. Chúa lại đích thân đem
quân ra tới Quảng B́nh. Phạm Hữu Lễ sai con là Phượng cùng bọn gián điệp
của chúa Nguyễn ở Bắc là Văn Tường, Hoàng Sinh đích thân vào Quảng B́nh
gặp chúa Nguyễn báo cáo t́nh h́nh. Lúc bấy giờ quân Nguyễn đă chiếm được 7
huyện phía Bắc sông Lam nên danh tướng của Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đề
nghị cử đại binh đánh ra Bắc. Nhưng không hiểu sao chúa Hiền Vương lại trở
về Thuận Hóa. Chúa giải thích với các tướng rằng: "Không nên nhân lúc
nhà người ta có tang mà đem quân đến đánh. Vả lại, khi chúa Tiên (Nguyễn
Hoàng) mất th́ Trịnh Tùng cũng cho người vào phúng điếu, thăm hỏi. Nay ta
cũng phải đáp lễ để khỏi mang tiếng ’bất nhân’". Sau đó, Hiền Vương
cho người mang thư và lễ vật ra kinh đô Thăng Long để phân ưu với họ Trịnh
và sai đắp lũy từ phía Nam sông Lam đến cửa biển để pḥng ngự.
Kỷ
Dậu (1669): Năm 1592, Trịnh Tùng thu phục được kinh đô Thăng Long,
giết được Mạc Mậu Hợp nhưng con cháu nhà Mạc vẫn c̣n hoạt động và chiếm
giữ một vùng ở đất Cao Bằng và nhờ nhà Thanh đă can thiệp buộc vua Lê phải
cắt đất bốn châu ở Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc.
Quư
Dậu (1693): Nguyễn Hữu Cảnh (Kính), tướng của chúa Nguyễn đánh bại
Chiêm Thành, bắt được Bà Tranh. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đổi tên
nước Chiêm Thành làm trấn Thuận Thành. Chúa tự xưng tôn hiệu là Quốc Chúa.
Tháng 7 năm đó, Nguyễn Hữu Cảnh dẫn vua Chiêm là Bà Tranh về kinh đô Thuận
Hóa tŕnh diện chúa Nguyễn. Bà Tranh bị giam ở núi Ngọc Trản (thường gọi
là Điện Ḥn Chén) và cấp cho tiền gạo vải vóc đủ dùng. Tháng 8, đổi trấn
Thuận Thành làm phủ B́nh Thuận, cho các quan người Chiêm bị bắt (bọn Kế Bà
Tử) được trở về làm quan tại địa phương và bắt mặc quần áo theo người
kinh.
Tại Chân Lạp, Nặc
Thâm và Nặc Yêm tranh quyền. Thâm cầu viện quân Xiêm (Thái Lan), Yêm cầu
viện quân Việt ở Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Cửu Vân đem
quân giúp Nặc Yêm, đánh thắng quân Xiêm.
Quư Dậu
(1753): Chúa Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh điều
động tướng sĩ 5 dinh B́nh Khang, B́nh Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long
Hồ sang đánh Chân Lạp (nay là Kamphuchia).
Ất
Dậu (1765): chúa Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát mất, ở ngôi 27 năm
(1738-1765), Khi c̣n sống, Vơ Vương chọn Hoàng Tử thứ 9 là Nguyễn Phúc
Hiệu nối ngôi. Nhưng Hiệu mất sớm, con của Hiệu là Nguyễn Phúc Dương c̣n
nhỏ. Hoàng Trưởng Tử là Chương cũng đă chết, nên Nguyễn Phúc Luân (cha của
vua Gia Long) là con thứ hai, được chọn nối ngôi, thường được tham dự
triều chính. Chúa Vơ Vương cũng cho quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh làm thầy
dạy cho Nguyễn Phúc Luân. Nhưng khi Vơ Vương mất th́ Trương Phúc Loan tự ư
thay đổi di chiếu, bắt giam Nguyễn Phúc Luân, Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ
(quan thị giảng, dạy Thái Tử Luân) đều bị giết. Nguyễn Phúc Luân buồn rầu
sinh bệnh, mất. Trương Phúc Loan đưa con thứ 16 của Vơ Vương là Nguyễn
Phúc Thuần lên ngôi tức chúa Duệ Tông.
Đinh
Dậu (1777): quân Trịnh chiếm Thuận Hóa từ đầu năm 1775, ra lệnh cho Lê
Quư Đôn vào Thuận Hóa xét định các khoản thuế của binh và dân. Trịnh Sâm
cho Nguyễn Nhạc làm Trấn Thủ Tuyên Úy Đại Sứ ở Quảng Nam. Được rảnh tay
mặt Bắc, Nguyễn Nhạc lo củng cố mặt Nam, thế lực Tây Sơn càng ngày càng
mạnh lên. Tướng họ Trịnh là Nguyễn Lệnh Tân mật tŕnh cho Trịnh Sâm biết
t́nh h́nh và đề nghị thay thế Phạm Ngô Cầu ở Thuận Hóa v́ sợ Phạm Ngô Cầu
không đủ sức đối phó với Nguyễn Nhạc, có ngày Thuận Hóa sẽ bị mất vào tay
Tây Sơn. Nhưng Trịnh Sâm không nghe và cho Nguyễn Lệnh Tân về Bắc. Tháng 9
năm đó, Trịnh Sâm cho Hoàng Đ́nh Thể vào thay Phạm Ngô Cầu ở Thuận Hóa.
Tại Gia Định, Đỗ
Thanh Nhân ủng hộ chúa Nguyễn Phúc Thuần. Lư Tài ủng hộ Nguyễn Phúc Dương.
Chúa Nguyễn phải đặt Nguyễn Phúc Dương lên làm Tân Chính Vương. Hai bên
chống nhau. Nguyễn Phúc Ánh đứng ra giải ḥa. Biết tin đó, Nguyễn Nhạc cho
em là Nguyễn Huệ đem quân thủy bộ vào đánh Gia Định. Lư Tài đánh nhau với
Tây Sơn bị thua, kéo về Tam Phụ, bị quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân giết.
Chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương chạy về Định Tường rồi về Vĩnh
Long. Các tướng của chúa Nguyễn người th́ chết, kẻ bị bắt, người th́ tự
tử. Tháng 8 năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Dương bị Nguyễn Huệ bắt và
giết di.
Chúa Nguyễn Phúc
Thuần chạy về Long Xuyên cũng bị Tây Sơn giết, ở ngôi 12 năm, thọ 24 tuổi,
không có con nối ḍng. Năm sau, 1778, Nguyễn Phúc Ánh được các tướng tôn
lên làm Nhiếp Chính Vương để chống lại Tây Sơn.
Kỷ
Dậu (1789): Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh: Nguyễn Hữu Chỉnh trốn vào
Quy Nhơn theo Tây Sơn và khuyên Tây Sơn đánh lấy Phú Xuân. Nguyễn Huệ
chiếm được Phú Xuân rồi thừa thắng kéo quân ra Thăng Long diệt họ Trịnh,
trả ngai vàng lại cho vua Lê Hiển Tông (1740- 1786). Vua Lê gả công chúa
Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Mấy hôm sau, vua Lê Hiển Tông mất, cháu nội vua
là Lê Duy Kỳ nối ngôi tức Lê Chiêu Thống. Nguyễn Nhạc liền từ Quy Nhơn ra
Phú Xuân nhưng Nguyễn Huệ đă ra Bắc, Nhạc liền đuổi theo Nguyễn Huệ ra
Thăng Long gặp vua Lê. Sau đó, anh em Tây Sơn bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại và
bí mật rút về, đem theo 60 thuyền của cải vơ vét được từ các kho tàng của
vua Lê chúa Trịnh. V́ tranh chấp quyền lực và của cải, anh em Tây Sơn bất
ḥa, Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Hữu Chỉnh ở
Bắc, cậy công lộng quyền. Sau khi giải quyết xong vấn đề nội bộ anh em Tây
Sơn, Nguyễn Huệ cho Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu
Thống trốn ra khỏi kinh thành Thăng Long, ẩn náu trong nhân gian. Mẹ vua
cùng một số thân thích, cận thần chạy qua Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.
Vua Càn Long cho
Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị đem quân qua nước ta, vua Lê Chiêu
Thống trở về Thăng Long. Quân Thanh tha hồ cướp bóc, hà hiếp dân.
Nguyễn Huệ lên ngôi
Hoàng Đế tại Phú Xuân (1788) niên hiệu Quang Trung và kéo quân ra Bắc.
Trận Đống Đa, ngày 5 Tết Kỷ Dậu (1789), đại thắng quân Thanh. Lê Chiêu
Thống theo Tôn Sĩ Nghị chạy về Tàu, nhà Lê chấm dứt. Nguyễn Huệ cho sứ qua
nhà Thanh xin phong vương.
Trong lúc Nguyễn Huệ
đem quân ra Bắc th́ Nguyễn Phúc Ánh đă chiếm lại toàn bộ đất Gia Định.
Tháng 6 năm Kỷ Dậu (1789), Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh cùng Giám Mục Pigneau
de Béhaine (Bá Đa Lộc) đi cầu viện nước Pháp, đă trở về Gia Định, mang
theo một số tàu chiến, súng ống và mấy người Pháp chuyên về hàng hải như
Chaigneau, Vanier, Manuel, Dayot.... để giúp chúa Nguyễn. Tất cả người và
tàu bè, súng ống này là do Giám Mục Bá Đa Lộc tự ḿnh xoay xở lấy, không
phải do vua nước Pháp giúp. Chúa Nguyễn cho lập xưởng đóng chiến thuyền
lớn, bọc đồng được sáu chiếc tàu lớn và 100 chiếc thuyền đi biển. Ngoài ra
c̣n lập xưởng chế diêm, lưu huỳnh... để làm thuốc súng. Tháng 11 năm đó,
vua tổ chức thao diễn chiến trận, dạy cho lính biết trận pháp để chuẩn bị
đi đánh Tây Sơn.
Tân
Dậu (1801): Vơ Tánh bị vây trong thành B́nh Định. Đông Cung Nguyễn
Phúc Cảnh bị bệnh mất tại Gia Định. Trận thủy chiến lớn nhất trong lịch
sử, quân chúa Nguyễn đáng thắng Tây Sơn tại cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn).
Bị Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng bao vây, hết lương thực, Vơ Tánh tự tử,
lính đầu hàng, thành B́nh Định bị Tây Sơn chiếm. Ngày 1 tháng 5 (âm lịch)
năm Tân Dậu (1801), quân Nguyễn vào cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền). Nghe
tin đại binh của Nguyễn đến, vua Quang Toản của Tây Sơn đem hết quân ra
cửa Eo (tức cửa Thuận An) chống giữ. Ngày 3 tháng 5 (âm lịch), quân Nguyễn
tiến vào cửa Eo, chưa giao chiến mà Nguyễn Quang Toản đă bỏ chạy. Quân Tây
Sơn xin hàng. Đại binh thẳng tới Phú Xuân. Quang Toản bỏ thành chạy ra
Bắc. Chúa Nguyễn trở về nước cũ, cho niêm phong kho tàng, tuyên cáo cho
dân biết. Từ đầu năm 1775, khi quân chúa Trịnh vào Phú Xuân, Nguyễn Phúc
Ánh theo chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định đến tháng ngày 3 tháng 5
Tân Dậu (6-1801), hơn 26 năm xa cách nay Nguyễn Phúc Ánh mới trở về quê
hương.
Ất
Dậu (1825): Sau khi Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh chết, Mỹ Đường là cháu
đích tôn của Vua Gia Long (con của Đông Cung), không được chọn để nối ngôi
mà Hoàng Tử thứ là Nguyễn Phúc Đảm được chọn tức là vua Minh Mạng. Về sau
Mỹ Đường bị vua Minh Mạng buộc tội "loạn luân" và bị giam lỏng ở trong nhà
riêng. Ông thường đến thăm con ở An Ḥa (gần kinh thành Huế). Có người tâu
lên vua là Mỹ Đường có ư bỏ trốn. Vua bảo rằng: "Hành vi của nó hơn là
chó lợn, trẫm nghĩ cái t́nh Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Đông Cung Nguyễn
Phúc Cảnh) nên không nỡ làm tội, nay lại nghe kẻ bậy bạ xui khiến, muốn
làm ǵ chăng?" liền sai thị vệ bắt về, cho lính canh giữ, rồi lại tha.
Nhân việc con cháu nhà Lê là Lê Duy Hoán, Lê Duy Lương nổi loạn ở Bắc, sau
khi dẹp yên, vua ra lệnh cho tất cả trai tráng thuộc con cháu nhà Lê, đều
phải đày đi nơi khác, từ Quảng Nam trở vào, mỗi huyện trên dưới 15
người...
Kỷ
Dậu (1849): Dưới thời vua Tự Đức, từ năm 1848 đến năm 1851, vua đă hai
lần ban hành dụ cấm đạo Thiên Chúa (thời đó gọi là đạo Gia Tô ngày nay là
Công Giáo), lần sau c̣n nghiêm nhặt hơn lần trước: "Những người ngoại
quốc vào giảng đạo th́ phải tội chết, những người đạo trưởng ấy ở trong
nước mà không chịu bỏ đạo, th́ phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở
chỗ nước độc. C̣n những ngu dân th́ các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi
theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v.v...". Năm
Kỷ Dậu (1849) là thời gian người theo đạo Thiên Chúa phải trốn tránh và bị
đàn áp.
Sứ thần nhà Thanh là
Lao Sùng Quang đến Huế phong vương cho vua Tự Đức.
Thấy trong nước xảy
ra nhiều thiên tai loạn lạc, các đại thần dâng sớ xin vua Tự Đức:
a. Cho con cháu của
Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh được ghi tên vào hệ tôn thất v́ trước đây Mỹ
Đường là con của Đông Cung bị tội nên con cháu bị đổi họ...
b. Cho phép con cháu
của các công thần bị tội là Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất được
sửa sang lại phần mộ của các vị ấy. Và cất bỏ hai tấm bia đá khắc chữ
"Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ" và "gian thần Lê Chất phục pháp xứ
".
c. Miễn cho con cháu
nhà Lê phải đày đi xa quê hương nhân vụ Lê Duy Lương nổi loạn từ thời vua
Minh Mạng. Và cho sửa sang lại các miếu thờ, đồ thờ của nhà Lê, giao cho
quan tỉnh Thanh Hóa chịu trách nhiệm chăm sóc. Mục đích của những việc làm
này để giải oan cho những người bị tội và tránh tai họa cho dân. Vua Tự
Đức đều nghe theo.
Tân
Dậu (1861): Quân Pháp do Trung Tướng Charner chỉ huy, đánh chiếm Gia
Định, đồn Kỳ Ḥa (Chí Ḥa) tại Sài G̣n thất thủ, Nguyễn Duy (em Nguyễn Tri
Phương) và Tôn Thất Trĩ tử trận, Nguyễn Tri Phương bị thương. Phạm Thế
Hiển (bị thương) cùng Nguyễn Tri Phương rút lui, được mấy hôm, Phạm Thế
Hiển chết. V́ tội rút quân lui, Nguyễn Tri Phương và các tướng bị cách
chức, cho lập công chuộc tội. Người Miên ở Nam Kỳ nghe quân Pháp đến liền
nhân cơ hội đó chạy theo Pháp, quấy phá tại các địa phương để trả thù
người Việt. Tháng 2, quân Pháp đến đánh chiếm tỉnh Định Tường (Mỹ Tho),
hỏa lực của ta và Pháp quá chênh lệch, không chống cự nổi, phải kéo nhau
chạy về Vĩnh Long. Vua Tự Đức cho Nguyễn Bá Nghi làm Khâm Mạng Đại Thần,
vào Nam Kỳ để đối phó với Pháp. Thấy t́nh h́nh khó khăn nên Nguyễn Bá Nghi
đề nghị gửi thư cho Pháp xin giảng ḥa để làm kế hoăn binh. Trước t́nh
h́nh như thế, vua Tự Đức không vận động toàn dân đoàn kết chống xâm lăng,
trái lại, vua c̣n ra lệnh bách hại người theo đạo Thiên Chúa, triệt để áp
dụng lệnh "phân tháp"... Thực Lục Chính Biên, đệ tứ kỷ, quyển XXIV, bản
dịch Hà Nội, tr.227 chép: "Sức nhắc lại các địa phương phải nghiêm ngặt
chia ghép bọn dân đạo. Trước đây, chia ghép các dân đạo, c̣n nhiều sót
lậu. Đến bây giờ, nghiêm bắt phủ huyện, các địa phương; phàm những dân đạo
trai gái già trẻ, không cứ đă bỏ đạo hay chưa, đều thích chữ vào mặt, chia
ghé đến ở vào xă thôn không có đạo, mà phải quản thúc cho nghiêm. Những
tên đầu mục hung ác vẫn nghiêm giam như cũ. Nếu người Tây dương đến nơi,
th́ đem bọn dân đạo ấy giết cho hết. Phủ huyện nào lại c̣n nhu nhơ dong kẻ
gian, để đến nỗi sinh ra việc ǵ lo ngại, tất phải chiếu theo quân luật
trị tội".
Vua phục chức cho
Nguyễn Tri Phương làm Binh Bộ Thượng Thư kiêm quân vụ Biên Ḥa, trước đă
ban cho kiếm báu và áo chiến, nay cấp thêm ấn quan pḥng và 5 lá cờ lệnh,
5 chiếc tín bài để chỉ huy; Tôn Thất Cáp làm Binh Bộ Thị Lang sung chức
Phụ tế Biên Ḥa quân vụ; Nguyễn Công Nhàn làm quản cơ kiêm đốc binh cùng
Nguyễn Tri Phương bàn tính kế hoạch đối phó với Pháp tại Nam Kỳ. Vua ra
lệnh cho trong nước pḥng thủ và kiểm soát các cửa bể nghiêm ngặt. (Qua
năm sau, 1862, Thiếu Tướng Bonard đem quân chiếm Biên Ḥa và Vĩnh Long,
triều đ́nh phải kư ḥa ước Nhâm Tuất (1862) nhường 3 tỉnh Biên Ḥa, Gia
Định, Định Tường cho Pháp, Nguyễn Tri Phương được trở về Huế rồi ra Bắc
dẹp loạn).
Quư
Dậu (1873): Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) là một thương gia Pháp cho tàu
thủy đi dọc sông Hồng Hà, bán súng đạn cho bọn giặc cướp Cờ Vàng của Hoàng
Sùng Anh và chở muối qua Trung Quốc, gây rắc rối cho quan quân ta. Đại Úy
Francis Garnier ra Hà Nội giải quyết vụ đó, nhưng lại tỏ thái độ che chở
cho Jean Dupuis và đ̣i mở mang buôn bán... Quan ta không chịu và yêu cầu
đợi hỏi ư kiến của triều đ́nh đă. Ngày 01 tháng 10 năm Quư Dậu (1873),
Francis Garnier bất th́nh ĺnh tấn công thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương bị
thương, nhịn ăn mà chết. Pḥ mă Nguyễn Lâm, con của Nguyễn Tri Phương tử
trận. Các quan đều bỏ chạy. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Nam Định,
Ninh B́nh, Hải Dương, Hưng Yên. Pháp đến đâu, quân ta bỏ chạy không kháng
cự. Francis Garnier tự ư bổ nhiệm quan lại cai trị các nơi mới chiếm được.
Triều đ́nh cho Trần Đ́nh Túc ra Hà Nội thương lượng với Francis Garnier.
Đồng thời sai Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài G̣n thương lượng với súy
phủ Pháp về việc rắc rối ở Bắc Kỳ. Trong khi Trần Đ́nh Túc đang nói chuyện
với Francis Garnier th́ nghe tin Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến,
Francis Garnier đem quân đuổi, bị quân cờ đen phục kích giết chết ở Cầu
Giấy gần Hà Nội. Triều đ́nh cho Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài G̣n
thương lượng với Pháp. Sau đó, Việt Nam (Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường) và
Pháp (Philastre) kư ḥa ước Giáp Tuất (6-2-1874) công nhận chủ quyền của
Pháp tại 6 tỉnh Nam Kỳ mà Pháp đă chiếm trước đây. Pháp trả lại Hà Nội và
các tỉnh đă chiếm ở Bắc Kỳ cho ta.
Ất
Dậu (1885): Vua Kiến Phước chết bất ngờ sau một cơn bệnh vào tuổi 16
tuổi. Ngày 02 tháng 8, 1884, hai vị Phụ Chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết đưa người em của Kiến Phước là Ưng Lịch mới 12 tuổi lên ngôi, niên
hiệu Hàm Nghi. Việc tôn phong đă được tổ chức một cách vội vàng và bí mật,
không cho người Pháp biết. Trước đó, hai ông cũng đă bí mật tổ chức một
chiến khu tại Tân Sở (vùng núi phía Tây tỉnh Quảng Trị) và tăng cường bố
trí quân đội tại kinh thành Huế để chống Pháp. Khâm Sứ Pháp ở Huế là
Rheinart phản đối và bắt phải xin phép nước Pháp trước khi lập vua mới.
Nguyễn Văn Tường phải thay mặt triều đ́nh qua gặp Rheinart để thương lượng
và làm đơn xin lập vua Hàm Nghi. Nghe tin Tướng De Courcy từ Hà Nội đến
với 1500 quân, Bà Từ Dũ (Thái Hoàng Thái Hậu) gởi quà tặng để chào mừng
(có tính cách ngoại giao), Pháp cũng từ chối không nhận...
Do sự can thiệp của
Pháp vào nội bộ triều đ́nh Huế và trước những sự nhục nhă mà triều đ́nh
phải chịu nên vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 5 Ất Dậu (đêm 4 qua ngày 5
tháng 7, 1885), quân ta bất th́nh ĺnh tấn công quân Pháp tại đồn Mang Cá
(trong thành nội Huế) và ṭa Khâm Sứ Huế (phía Nam sông Hương). Lúc đầu,
v́ bất ngờ không kịp pḥng bị nên quân Pháp có bị thiệt hại ít nhiều.
Nhưng sau đó, quân Pháp phản công, gây tổn thất nhân mạng, nhà cửa cho ta
rất nhiều. Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn đích thân chỉ huy đánh đồn
Mang Cá thất bại, liền trở vào cung thúc giục vua và Hoàng Gia thu xếp
nhanh để chạy trốn v́ quân Pháp sắp tới nơi rồi. Thuyết trao cho Trần Xuân
Soạn và Tôn Thất Liệt đi hộ tống vua Hàm Nghi và Hoàng Gia cùng các quan
đại thần trong đó có Nguyễn Văn Tường, tất cả khoảng 1.000 người. Trong
lúc đi đường, Nguyễn Văn Tường bàn với bà Từ Dũ trở về đầu thú Pháp để bảo
vệ lăng miếu, cung điện khỏi bị Pháp đốt phá. Bà Từ Dũ đồng ư và ủy thác
cho Nguyễn Văn Tường đi lo vụ đó. Lợi dụng lúc t́nh thế lộn xộn, không ai
để ư, Tường chạy đến nhà thờ Kim Long, xin gặp Giám Mục Caspar, nhờ ông
này làm trung gian cho Tường ra đầu thú với Pháp.
Sáng 23 tháng 5, Ất
Dậu (5-07-1885) quân Pháp chiếm thành nội, tịch thu toàn bộ kho tàng, châu
báu của quốc gia.
Tôn Thất Thuyết đưa
vua lên Tân Sở (miền núi phía Tây Bắc, cách thị xă Quảng Trị chừng 20 cây
số). Nhận thấy để vua ở lại Tân Sở không tiện, ra Bắc th́ bị quân Pháp
chặn đường trên quốc lộ số 1, nên Tôn Thất Thuyết đưa vua vượt sông
Tchépône, qua Lào ra vùng núi Tuyên Hóa (giữa Quảng B́nh và Hà Tĩnh). Tôn
Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi truyền hịch "Cần Vương" chủ trương
"b́nh Tây sát Tả" (đánh giặc Pháp và giết người theo đạo Thiên Chúa), nho
sĩ khắp nơi hô hào dân chúng cùng với quân lính đi đốt phá giết hại người
theo đạo Công Giáo vô tội. Hàng chục ngàn người bị chết oan. Vua ở lại
trong rừng với Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm c̣n Tôn ThấtThuyết ra Bắc,
qua Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.
Sau hai tháng không
t́m được vua Hàm Nghi trở về, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đày qua đảo Tahiti
và ông đă chết ở đó.
Lúc đầu Pháp đưa Thọ
Xuân Vương (Miên Định), chú vua Tự Đức, lên làm Giám Quốc, và đưa Nguyễn
Hữu Độ, Khâm Sai Kinh Lược Bắc Kỳ vào làm Phụ Chính, thay thế Nguyễn Văn
Tường. Ngày 6 tháng 8, Hoàng Tử Ưng Kỵ (Ưng Đường) con nuôi thứ hai của
vua Tự Đức được rước vào cung và đă chính thức lên ngôi vào ngày 9-09 Ất
Dậu (1885), niên hiệu Đồng Khánh. Nước Việt Nam hoàn toàn thuộc quyền cai
trị của Pháp
Đinh Dậu (1897):
Toàn Quyền Paul Doumer tại Hà Nội băi bỏ Nha Kinh Lược ở Bắc Kỳ vào giao
quyền lại cho Quan Thống Sứ người Pháp cai trị, các quan Việt Nam trực
tiếp với Thống Sứ. Paul Doumer cho xây trường học, mở đường xe lửa, khai
thác mỏ than, mở các nhà máy dệt, xi măng, ấn định các thứ thuế, phát
triển nông nghiệp, kỹ nghệ, thương măi, vay vốn của ngân hàng Pháp để đầu
tư v.v... để tăng ngân sách cho nhà nước thuộc địa.
Kỷ
Dậu (1909): Từ năm 1908, Phong Trào kháng thuế bùng nổ lớn ở các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định rồi lan dần ra các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh. Các Nho sĩ trí thức trong nước, nhất là tại miền Trung hô hào
duy tân, cắt tóc ngắn, học chữ quốc ngữ (chữ Việt ngày nay), thanh niên
trốn sang Tàu, sang Nhật du học... Năm 1909 (Kỷ Dậu), Pháp đàn áp mạnh,
một số bị xử tử, bị bắt giam, đày đi Côn Đảo trong đó có Phan Chu Trinh.
Nhân chuyện nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám âm mưu đầu độc lính Pháp ở Hà
Nội (1908) thất bại nên Pháp lùng bắt những người yêu nước, nên từ 1908
đến 1909 (Kỷ Dậu) Pháp ra tay đàn áp, bắt giam, xử tử nhiều thành phần
tranh đấu chống Pháp khiến cho t́nh h́nh dân trong nước rất khốn khổ.
Tân
Dậu (1921): Sau khi qua Trung Hoa, Thái Lan và các nước Âu Châu (Đức
và Anh) để hoạt động, thấy t́nh h́nh tạm lắng dịu, Cường Để bèn trở lại
Nhật. Năm Tân Dậu (1921) ông sống tại Nhật và vẫn liên lạc với các đồng
chí của ḿnh. Riêng Phan Bội Châu, sau khi cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn
Dật Tiên lănh đạo thành công tại Quảng Châu... nhờ quen biết nhiều nhân
vật trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa nên Phan Bội Châu cùng nhóm thanh niên
Việt Nam trở lại Trung Quốc để hoạt động. Năm 1925, ông bị Phan Quang Ngọc
phản bội, chỉ điểm cho Pháp bắt tại tô giới Pháp ở Quảng Châu và đưa về
giam tại Hà Nội.
Quư
Dậu (1933): Tổ chức Việt Nam Phục Quốc đă cử Trần Phúc An (Tức Trần Hy
Thánh) là Ủy Viên Ngoại Vụ qua Nhật dự Đại Hội Thanh Niên Thế Giới (họp
ngày 29-11-1933). Sau khi khởi nghĩa thất bại vào năm 1930 tại Yên Báy,
một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trốn qua Quảng Đông, Quảng Tây,
Vân Nam... Năm Quư Dậu (1933), những người này đă thành lập Việt Nam Quốc
Dân Đảng Trung Ương Ủy Viên Hải Ngoại Biện Sự Xứ: Vi Chính Nam (tức Vi
Đăng Tường) được cử làm Chủ Nhiệm. Về sau Vũ Hồng Khanh lên thay thế Vi
Chính Nam để lănh đạo tổ chức này.
Ất
Dậu (1945): Năm này, nước Việt Nam có nhiều biến cố quan trọng:
Nạn đói lớn nhất tại
Việt Nam, từ Quảng B́nh trở ra Bắc mất mùa, hơn hai triệu người miền Bắc
chết đói. Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, vua Bảo Đại tuyên bố độc
lập: chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Mỹ thả bom nguyên tử xuống hai thành
phố Hiroshima và Nagazaki của Nhật. Vua Nhật tuyên bố đầu hàng. Việt Minh
cướp chính quyền tại Hà Nội. Vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2 tháng 9, 1945,
Hồ Chí Minh ra mắt chính phủ tại Hà Nội, đọc tuyên ngôn độc lập. Theo quy
định của Đồng Minh: vấn đề giải giới quân Nhật, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc
do quân Tàu và từ vĩ tuyến 16 trở vô Nam do quân Anh. Tại miền Bắc, Đại
Tướng Lư Hán đem quân đến Hà Nội, lực lượng vơ trang của Nguyễn Hải Thần
(Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) theo chân quân Tàu về nước. Tranh
chấp giữa phe Quốc Gia và Việt Minh (Cộng Sản). Hồ Chí Minh thành lập
Chính Phủ Liên Hiệp, dành cho phe Quốc Gia 70 ghế trong Quốc Hội (Việt
Cách: 20 và Việt Quốc: 50). Tại Miền Nam, quân Pháp đến Sài G̣n thay quân
Anh và đổ bộ tái chiếm các tỉnh miền Nam và Cao Nguyên. Kháng chiến chống
Pháp tại Nam Bộ bùng nổ. Việt Minh bắt tay với Pháp để loại trừ các đảng
phái quốc gia đối lập với Cộng Sản. Quân Tàu rút về nước và Pháp thay thế.
Phe Quốc Gia bị cả Pháp và Việt Minh tấn công....
Đinh
Dậu (1957): Tại Miền Bắc, sau khi chiếm được một nửa nước Việt Nam,
chính quyền Cộng Sản Hà Nội theo chỉ thị của Trung Cộng, thực hiện chủ
trương cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ một cách dă man. Nhiều người có
công kháng chiến chống Pháp (1945-1954) cũng bị đem ra đấu tố, bị tịch thu
tài sản, bị tù tội hay bị giết. Nhiều người không phải là địa chủ, chỉ có
một ít đất ruộng để sống, có thể khá hơn người khác một chút cũng bị đem
ra đấu tố. Có những xă không có thành phần địa chủ nhưng cán bộ phải "đạt
chỉ tiêu" do cấp trên đưa xuống, nên cũng phải đem một số người vô tội ra
đấu tố, hy sinh họ để báo cáo "đă thực hiện tốt" mọi kế hoạch trên giao.
Hàng trăm người chết oan, chết ức v́ vụ "đấu tố" địa chủ này. Hồ Chí Minh
và Lê Duẫn đi thăm Liên Xô (Nga). Hồ Chí Minh thăm Nam Tư. Phạm Văn Đồng
(Thủ Tướng miền Bắc) gởi thư cho TT Ngô Đ́nh Diệm đề nghị hiệp thương.
Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở ở miền Bắc với tập san "Nhân Văn Giai Phẩm"
giăng các bài chỉ trích, phê b́nh Đảng CS nên các nhà văn, nhà báo, trí
thức ở miền Bắc bị đàn áp, bị giam cầm, tù tội, bị thủ tiêu, không cho cầm
bút viết văn. Các tên tuổi được nhắc nhỡ nhiều nhất là: Phan Khôi, Trần
Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan,
Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang v.v...
Tại miền Nam, sau
khi ổn định t́nh h́nh, tái lập an ninh trật tự, định cư cho cả triệu đồng
bào di cư tỵ nạn Cộng Sản từ Bắc vô Nam sau hiệp định Genève (20-07-1954),
chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă xây dựng nhà cửa, cầu cống, mở mang đường sá,
kỹ nghệ, thương măi phồn thịnh. Ngày 20-02-1957, Việt Nam Cộng Ḥa xác
nhận chủ quyền trên hai quần đảo Tây Sa và Hoàng Sa. Ngày 22-02, 1957,
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị ám sát trong khi đến khánh thành Hội Chợ Ban
Mê Thuột nhưng vô sự, chỉ có ông Đỗ Văn Công (Bộ Trưởng Cải Cách Điền Địa)
bị thương. Hung thủ tên là Hà Minh Chi (tức Phạm Ngọc Phú) làm việc ở Ty
Thông Tin Tây Ninh bị bắt ngay. Ngày 1-3-1957, Bộ Giáo Dục VNCH ban hành
Sắc Lệnh 45/GD thành lập Viện Đại Học Huế. Bộ Quốc Pḥng ban hành Nghị
Định 183-QP bắt buộc thanh niên hạng tuổi 20, 21 phải thi hành quân dịch
trong thời hạn 2 năm. Chính Phủ Đài Loan và Việt Nam CH kư thỏa hiệp cho
những Hoa kiều sinh tại Việt Nam không nhập Việt tịch được hồi hương về
Đài Loan. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ban hành luật cấm Hoa kiều làm 11 nghề.
Bộ Giáo Dục Sài G̣n ban hành Sắc Lệnh 213/GD thành lập Trung Tâm Kỹ Thuật
Phú Thọ. Bộ Nội Vụ Sài G̣n kư Nghị Định thành lập Nha Công Tác Xă Hội Miền
Thượng. Chính Phủ Việt Nam CH trả lời thư của Phạm Văn Đồng: "Khi nào miền
Bắc chấm dứt khủng bố, phá hoại và thực thi dân chủ tự do, khi đó mới có
thể tổng tuyển cử và thống nhất đất nước". Ṭa Án Quân Sự xử 23 người
trong vụ B́nh Xuyên (1955): gồm các ông Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Nguyễn
Hữu Thuần, Trịnh Khánh Vàng, Nguyễn Thành Nghi, Nguyễn Văn Hớn, Nguyễn
Triệu Phương, Nguyễn Văn Hiếu v.v... 8 tử h́nh, 3 khổ sai chung thân và 1
án khổ sai 20 năm. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đi thăm các nước Hoa Kỳ, Thái
Lan, Nam Hàn, Ấn Độ.
Kỷ
Dậu (1969): Sau vụ Tết Mậu Thân (1968): Cộng Sản tổng tấn công vào các
thành phố và thị xă miền Nam, đặc biệt là cuộc thảm sát tại Huế, trên 5000
thường dân vô tội bị giết, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa phản công tiêu diệt
Việt Cộng, số người bỏ hàng ngũ Việt Cộng về hồi chánh lên đến hàng trăm
ngàn. Tổng số VC tổn thất, chết hoặc mất tích lên đến trên 100.000 người.
Kế hoạch b́nh định nông thôn thành công, số VC nằm vùng bị phát hiện, bị
bắt rất nhiều. T́nh h́nh an ninh rất tốt. Năm Kỷ Dậu (1969), là một năm
thắng lợi của VNCH.
Sau vụ thất bại Tết
Mậu Thân, Hồ Chí Minh sinh bệnh nặng và chết vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 (nhưng
Hà Nội phải đợi sau ngày Lễ Quốc Khánh mới công bố nên đă thay đổi lại
ngày chết của Hồ Chí Minh là 3 tháng 9 năm 1969).
Ḥa đàm bắt đầu giữa
Mỹ và Hà Nội được tổ chức tại Paris, hai bên đang thảo luận về thủ tục.
Phía Việt Nam Cộng Ḥa do Đại Sứ Phạm Đăng Lâm làm Trưởng Phái Đoàn và các
ông Nguyễn Xuân Phong là Phó Trưởng Phái Đoàn. Một số chuyên viên như Giáo
Sư Nguyễn Ngọc Huy cũng có mặt để trợ lực cho phái đoàn. Phó Tổng Thống
Việt Nam CH, ông Nguyễn Cao Kỳ, cũng đến làm để giám sát. Phía Hà Nội do
Lê Đức Thọ cầm đầu phái đoàn và Bà Nguyễn Thị B́nh, đại diện cho Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam.
Tân
Dậu (1981): Sau khi đánh thắng miền Nam, thống nhất đất nước, Hà Nội
theo Nga chống Trung Cộng. Pôn Pôt ở Kampuchia theo phe Trung Cộng, gây
hấn với Việt Nam ở biên giới Tây Nam. CS Việt Nam bất đắc dĩ phải đem quân
qua Kampuchia lật đổ Pôn Pôt và dựng lên một chính quyền tay sai của Việt
Nam (Hun Sen). Năm 1979 Trung Cộng đem quân đánh Việt Nam, tàn phá các
tỉnh ở biên giới phía Bắc Việt Nam, gây thiệt hại vô cùng to lớn không thể
lường được. Năm Tân Dậu (1981) là năm Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, một
mặt bị Trung Cộng đe dọa, phải đưa quân pḥng thủ ở biên giới phía Bắc,
một mặt phải đem quân qua bảo vệ chính quyền tay sai ở Kampuchia, một mặt
phải dập tắt các phong trào chống đối ở trong nước đồng thời phải đối phó
với dư luận trên thế giới đang tấn công Việc Nam về vi phạm nhân quyền.
Hàng vạn sĩ quan và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Ḥa cũng như tu
sĩ và tín đồ các tôn giáo đang bị đày đọa trong các trại tập trung cải tạo
với thân phận "người tù khổ sai", đói rách, thiếu thuốc men, phải lao động
đến kiệt sức, nhiều người đă ngă gục. Số người vượt biên đi t́m tự do,
chết trên sông, trên biển hay trong rừng sâu... đă đánh động lương tâm
nhân loại. Các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á và Thái B́nh Dương đầy nhóc các
thuyền nhân vượt biển. Các nước trên thế giới họp nhau t́m giải pháp để
cứu giúp những người cùng khổ này và các chương tŕnh định cư cho thuyền
nhân đă được thực hiện.
Quư
Dậu (1993): Dưới áp lực của Mỹ, Trung Cộng và thế giới, Việt Nam chịu
rút quân khỏi Kampuchia và thực hiện chương tŕnh ra đi có trật tự... Các
thành phần thuộc VNCH bị tập trung cải tạo trên 3 năm được lần lượt ra đi
định cư tại Hoa Kỳ (hoặc tại một nước thứ ba) để làm lại cuộc đời trong
một xă hội tự do dân chủ. Sau khi Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu sụp
đổ, Việt Nam rất lo sợ trước sức mạnh quân sự và tham vọng bành trướng của
Trung Cộng nên một mặt chạy theo Mỹ, đưa ra chủ trương "kinh tế thị
trường", bắt tay với tư bản, cho sinh viên qua Mỹ du học, nhờ Mỹ làm giảm
bớt áp lực của Trung Cộng; mặt khác chuyển hướng để ḥa giải với Trung
Cộng, chấp nhận dâng đất, dâng biển cho kẻ thù để giữ cái ghế cho bọn lănh
đạo CSVN. (Tháng 12, 1999, Việt Nam kư với Trung Cộng hiệp ước phân định
ranh giới trên đất liền để hợp thức hóa phần đất mà Trung Cộng đă chiếm
vào năm 1979 khi đem quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Và
hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, tháng 12-2000).
Ất
Dậu (2005): Nhớ lại hai lần Ất Dậu trước đây: 1885 và 1945, đă có
nhiều biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam chúng ta. Năm
nay, 2005 cũng là năm Ất Dậu, trở lại chu kỳ lục giáp (60 năm) như năm
1945. Hai lần Ất Dậu (1885 và 1945), vua mất ngai, quan mất chức, dân mất
việc, mất đất, mất nhà... Không biết Ất Dậu này (2005) lành hay dữ. Nh́n
lại Thân, Dậu đă qua là những năm chiến tranh, đau khổ chứ không "kiến
thái b́nh". Vậy Thân, Dậu này (2004, 2005) có khác với các năm Thân, Dậu
trong quá khứ hay không? Sách Kinh Dịch viết: "Cùng tắc biến; biến tắc
thông" (Sự việc đi đến tột cùng th́ sẽ có thay đổi; có thay đổi th́ có
hanh thông, may mắn). Mặt trời lên đến tột đỉnh (đúng ngọ) th́ đi xuống và
chuyển dần về chiều. Mùa Đông tới độ rét lạnh tối đa th́ trời ấm dần và
chuyển qua mùa Xuân. Những biện pháp CSVN đang áp dụng nhằm mục đích hạn
chế tự do tôn giáo cũng là những giọt nước cuối cùng làm tràn một ly nước
đă đầy... Chưa biết chuyện ǵ sẽ xảy ra, chờ xem!