30 Năm
Sau Vẫn C̣n Tranh Luận: Chiến Tranh Của Mỹ Hay Chiến Tranh Việt Nam?
Lê Xuân Khoa
Cuộc chiến 1945-1954 giữa thực dân Pháp và các phong trào kháng chiến
giành độc lập của các dân tộc Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào thường được các
nhà viết sử gọi chung là chiến tranh Đông Dương. Đối với từng quốc gia
Đông Dương, cuộc chiến này c̣n mang những tên khác nhau nhưng cùng một ư
nghĩa. Chẳng hạn trong trường hợp Việt Nam, đây là chiến tranh giành độc
lập, chiến tranh chống đế quốc Pháp hay ngắn gọn hơn, chiến tranh
Việt-Pháp. Tất cả những cách gọi tên này đều đúng và không có ǵ cần phải
tranh luận. Khi cuộc chiến 1955-1975 tiếp diễn trên lănh thổ Đông Dương
được gọi là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai th́ cách gọi không sai
nhưng nội dung của nó không đơn giản như lần trước, v́ thành phần tham
chiến và thời gian chiến tranh ở mỗi quốc gia Đông Dương không giống nhau.
Trên chiến trường Đông Dương, Hoa Kỳ thay thế Pháp nhưng chỉ trực tiếp
tham chiến ở Việt Nam từ 1965 đến 1972 và hỗ trợ những lực lượng chống
cộng sản ở Lào và Cam-pu-chia. Ngay cả những cuộc dội bom ở hai quốc gia
này cũng không ngoài mục đích chính là ngăn chặn Bắc Việt sử dụng lănh thổ
hai nước láng giềng làm căn cứ tiếp viện cho bộ đội côïng sản ở miền Nam.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất được giải quyết chính thức và toàn bộ
bởi Hiệp định Genève 1954 với Việt Nam là trọng điểm. Trong chiến tranh
Đông Dương lần thứ hai, t́nh trạng ba nước Lào, Việt Nam và Cam-pu-chia
đuợc quốc tế giải quyết vào ba thời điểm cách xa nhau: Lào bằng Hiệp định
Genève năm 1962, Việt Nam bằng Hiệp định Paris năm 1973, và Cam-pu-chia
bằng Hiệp định Paris năm 1991. Mặc dù những đặc tính khác biệt đó, gọi
cuộc chiến tranh 1955-1975 là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai cũng vẫn
đúng trong ư nghĩa tổng quát của chiến trường.
Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề gọi tên cuộc chiến sau hiệp định Genève
1954 đă được tranh căi dai dẳng cho đến nay, ba mươi năm sau chiến tranh,
vẫn chưa đạt được đồng thuận. Những quan điểm bất đồng được xoay quanh
nhiều tên gọi: chiến tranh chống cộng, chiến tranh chống Mỹ-Ngụy, nội
chiến, chiến tranh của Mỹ, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh ủy nhiệm. Bỏ
qua một bên chiến tranh "chống cộng" và "chống Mỹ-Ngụy" chỉ thích hợp
trong thời chiến, ở đây chỉ cần thảo luận về bốn tên gọi c̣n lại thường
được tranh căi nhiều nhất.
Cuộc chiến 1955-1975 ở Việt Nam được gọi là nội chiến v́ sau khi đất nước
bị chia đôi, chính quyền miền Bắc đă để lại cán bộ, chôn dấu vũ khí và
hoạt động bí mật đàng sau các phong trào tranh đấu ở miền Nam; trong khi
đó, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm cũng phát động chiến dịch tố cộng sâu rộng
và mănh liệt. Đảng cộng sản phản công bằng những hành động khủng bố và ám
sát các viên chức Việt Nam Cộng Hoà. Đầu năm 1959 th́ miền Bắc bắt đầu mở
đường xâm nhập bộ đội và vũ khí vào miền Nam qua đường ṃn Hồ Chí Minh và
phát động công cuộc đấu tranh vũ trang với phong trào "Đồng khởi". Năm
1960, Mặt trận Giải phóng miền Nam ra đời được miền Bắc hỗ trợ kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang ở các tỉnh miền Nam. Năm 1963, sau
khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, t́nh h́nh chính trị và quân sự ở
miền Nam càng ngày càng tồi tệ dẫn đến việc Mỹ quyết định đưa quân vào yểm
trợ quân đội VNCH nhưng thực tế nắm vai tṛ chủ động. Đây là giai đoạn "Mỹ
hoá" cuộc chiến cho tới năm 1969 th́ chính quyền Nixon trở lại chương
tŕnh "Việt Nam hoá" chiến tranh và bắt đầu rút quân về nước. Trận chiến
quốc-cộng tiếp tục cho tới khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ vào tháng Tư
1975.
Cuộc nội chiến v́ lư tưởng khác biệt, cộng sản và không cộng sản, có mầm
mống từ những năm cuối thập kỷ 1920 khi Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn
Thái Học cầm đầu được thành lập năm 1927 và Đảng Cộng Sản Việt Nam do
Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Hong Kong năm 1930. Sự khác biệt ban đầu về chủ
trương chỉ trở thành đối nghịch (nhưng chưa giết hại nhau) sau khi cuộc
khởi nghĩa Yên Bái của VNQDĐ bị thất bại năm 1930 và phong trào Xô-viết
Nghệ Tĩnh của ĐCSVN bị Pháp dẹp tan năm 1931 khiến những người c̣n sống
sót của hai đảng đều phải bỏ chạy sang Tàu. V́ sống chung dưới chính thể
Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, các đảng viên cộng sản Việt Nam
đều phải hoạt động âm thầm trong khi các lănh tụ không cộng sản th́ hoạt
động công khai với sự giúp đỡ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ), một số
c̣n được đào tạo tại trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu và lên đến cấp
tướng trong quân đội Trung Hoa.
Nhược điểm của các đảng phái quốc gia là không có tổ chức qui củ và đường
lối minh bạch, chỉ trông cậy vào sự che chở của THQDĐ để chống Pháp trong
khi Trung Hoa dù không ưa Pháp nhưng đang là đồng minh của Pháp chống Nhật
ở Đông Dương. Các lănh tụ quốc gia lại không đoàn kết được với nhau trong
khi không có hoạt động ǵ đáng kể ở trong nước. T́nh trạng đó kéo dài cho
đến khi THQDĐ quá thất vọng với các phe nhóm quốc gia nên đă giúp cho Hồ
Chí Minh đại diện Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đưa người về Việt Nam
tăng cường hoạt động chống Nhật năm 1944. Nhân dịp này Hồ Chí Minh củng cố
được Mặt Trận Việt Minh thành lập từ năm 1941. Cuộc tranh chấp giữa các
đảng phái quốc gia và Việt Minh trở thành những cuộc thanh toán đẫm máu
giữa đôi bên trong năm 1946 và lực lượng quốc gia đă bị tiêu diệt gần hết
trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ trên toàn quốc vào cuối năm đó.
Việt Minh hoàn toàn lănh đạo cuộc chiến chống Pháp và cuộc xung đột
quốc-cộng chỉ tái diễn chính thức và qui mô sau khi đất nước bị chia đôi
và chính thể Việt Nam Cộng Ḥa được thành lập ở miền Nam.
Mặc dù cuộc xung đột 20 năm giữa những người Việt Nam cộng sản và không
cộng sản đă rơ ràng là một cuộc nội chiến có gốc rễ sâu xa, tên gọi này
vẫn không được giới lănh đạo miền Bắc chấp nhận. Để xây dựng và bảo vệ
chính nghĩa của ḿnh, nhà nước cộng sản đă gọi cuộc chiến này là chiến
tranh chống Mỹ cứu nước hay chiến tranh chống Mỹ-Ngụy. Sau chiến tranh, v́
nhu cầu bang giao, th́ gọi là chiến tranh của Mỹ hay do Mỹ gây ra
(American war), nhất là trong trường hợp sử dụng tiếng Anh. Cách gọi
"American war" c̣n có ngụ ư nhắc nhở lỗi lầm của Hoa Kỳ và phủ nhận cách
gọi của người Mỹ là "Vietnam war" (chiến tranh Việt Nam).
Trong một cuộc trao đổi ư kiến gần đây giữa một số học giả quốc tế gồm cả
người Mỹ và Mỹ gốc Việt, có người đă dùng tên gọi "American war" để chỉ
định cả hai cuộc chiến trong thời gian từ 1945 đến 1975, v́ ngoài việc
viện trợ và tham chiến trực tiếp trong cuộc chiến lần thứ hai, chính phủ
Mỹ đă viện trợ tiền bạc và vũ khí cho Pháp trong suốt cuộc chiến lần thứ
nhất. Nhưng nếu đặt tên chiến tranh bằng tên của quốc gia viện trợ th́
cũng phải gọi tên cuộc chiến này là chiến tranh của Liên Xô và Trung Quốc
v́ hai nước này đă viện trợ kinh tế và quân sự rất quan trọng cho chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Cũng hiểu theo cách rộng răi như thế th́
cuộc chiến lần thứ hai phải được gọi là chiến tranh của Mỹ và các đồng
minh Úc, Tân Tây-Lan, Đại Hàn, Phi- Luật-Tân và Thái Lan. Bởi vậy không
nên đặt tên chiến tranh bằng tên của những quốc gia viện trợ hay dự phần
vào cuộc chiến, mặc dù có lư do chính đáng để gọi giai đoạn Mỹ hoá chiến
tranh (1965-1972) là "American war". Cũng nên ghi nhận là Mỹ bắt đầu rút
quân từ 1969, và tên gọi "Vietnam war" chỉ có nghĩa là chiến tranh ở Việt
Nam chứ không phải là "Vietnamese war" tức là chiến tranh của Việt Nam hay
do Việt Nam gây ra.
Đáng chú ư là phần lớn các tổ chức chính trị trong cộng đồng người Việt
hải ngoại cũng không chấp nhận tên gọi cuộc chiến 1955-1975 là "nội
chiến", khẳng định rằng đây là cuộc chiến của dân tộc Việt Nam chống lại
chủ nghĩa và chế độ cộng sản độc tài. Như trên đă nói, đây là cách gọi tên
theo lập trường chính trị chẳng khác ǵ phía cộng sản đă gọi đây là cuộc
chiến tranh nhân dân chống ngụy quân ngụy quyền. Những tên gọi này chỉ có
giá trị nhất định đối với mỗi bên trong những năm đang có chiến tranh mà
thôi.
Sau hết, cần bàn về "chiến tranh ủy nhiệm". Tên gọi này phản ánh một sự
thật hoàn toàn khách quan nhưng không một quốc gia tham chiến nào, trực
tiếp hay gián tiếp, muốn chấp nhận nó để phải mang tiếng xấu. Gọi là ủy
nhiệm v́ từ cuộc xung đột về ư thức hệ, hai phe Việt Nam đă bị các cường
quốc lănh đạo hai khối tư bản và cộng sản sử dụng như những công cụ đua
tranh thế lực trong thời Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ đă dùng chiến trường
Việt Nam để thí nghiệm và tiêu thụ các loại vũ khí kể cả chất độc da cam,
trong khi Liên Xô và Trung Quốc đă nhiệt t́nh giúp đỡ và thúc giục Bắc
Việt tận lực hi sinh và chiến đấu trường kỳ. Các quan sát viên quốc tế hồi
đó đă có một nhận xét rất đúng về dụng ư của Trung Quốc khi viện trợ cho
Việt Nam: "Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng."
Quả thật, giải pháp chấm dứt chiến tranh Đông Dương đều do các nước lớn
sắp đặt sẵn với nhau rồi ép buộc đồng minh Việt Nam, cộng sản hay quốc
gia, phải chấp thuận. Các nhà ngoại giao Hà Nội tại những phiên họp hậu
chiến Việt-Mỹ từ 1995 đến 1998 cũng như các sách vở lịch sử ở Việt Nam đều
xác nhận điều này. Cố ngoại trưởng Trần Văn Đỗ cũng than phiền rằng tại
hội nghị Genève 1954, Pháp đă không cho phái đoàn quốc gia biết cuộc thảo
luận của các nước lớn về việc chia cắt Việt Nam và ông đă được Phạm Văn
Đồng mời họp riêng để t́m giải pháp giữa hai bên người Việt với nhau nhưng
không thực hiện được. Nhờ mâu thuẫn Liên Xô-Trung Quốc, nhờ phong trào
phản chiến rầm rộ của dân chúng Mỹ và lợi thế chính trị đặc biệt sau khi
Tổng thống Johnson tuyên bố không tái ứng cử năm 1968, Việt Nam cộng sản
đă tránh được sự áp đặt của "các nước bạn" trong tiến tŕnh hội nghị "hai
phe bốn phái đoàn" ở Paris (1968-1973).
Như vậy, sau khi đă gạn lọc lập trường chính trị của mỗi bên để xác định
bản chất thật sự của nó trong lịch sử, cuộäc chiếán 1955-1975 phải được
gọi là một cuộc nội chiến đồng thời là chiến tranh ủy nhiệm. Con dân một
nước cùng một ḍng giống-thực tế th́ hầu như gia đ́nh nào cũng có bà con
gần hay xa ở phía bên này hay/và bên kia-đă tàn sát lẫn nhau ít nhất là
trong hai mươi năm, v́ lư tưởng khác nhau mà không hoàn toàn do ḿnh chủ
động. Tổng số người Việt Nam thiệt mạng riêng trong cuộc chiến này, kể cả
quân và dân của cả hai bên, lên tới gần bốn triệu người. Riêng bộ đội cộng
sản c̣n có khoảng 300,000 người chưa t́m được xác. Đất nước và tài sản của
dân chúng cả hai miền đều bị chiến tranh tàn phá đến mức độ chưa từng thấy
trong lịch sử, cho đến nay vẫn c̣n những di hại của bom, ḿn chưa nổ và
chất thuốc khai quang.
Trong chiến tranh ủy nhiệm, phía Việt Nam quốc gia phải chịu sức ép của
đồng minh Hoa Kỳ cho tới những ngày chót của hội nghị Paris. Từ 1965, Hoa
Kỳ hoàn toàn lănh đạo cuộc chiến cho tới 1969 mới bắt đầu giai đoạn chuyển
tiếp Việt Nam hoá chiến tranh, nhưng vẫn nắm quyền định đoạt các phương
tiện chiến đấu, không theo nhu cầu của giới chỉ huy quân sự Việt Nam. Từ
sau hiệp định Paris 1973 th́ Quốc Hội Hoa Kỳ lại mạnh tay cắt giảm viện
trợ kinh tế và quân sự khiến cho miền Nam phải sụp đổ mau chóng hơn cả kế
hoạch dự liệu của các chiến lược gia Hà Nội. Trong khi đó, mặc dù khéo
khai thác mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để được cả hai đồng minh
lớn đua nhau viện trợ, Việt Nam cộng sản cũng không tránh khỏi áp lực của
mỗi "nước bạn", nhất là sự kiểm soát và ngăn chặn của Trung Quốc đối với
những toan tính ngoại giao độc lập của Việt Nam. Hà Nội dứt khoát đi với
Liên Xô khi kư Hiệp ước Hợp tác và Hữu Nghị với Aleksei Kosygin vào tháng
Mười Một năm 1978 và gần như hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Liên Xô
cho đến khi Mikhail Gorbachev và những chính quyền kế tiếp không c̣n có
mối quan tâm chiến lược ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
Người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đều đă có quá nhiều kinh nghiệm
về quan hệ hợp tác với các đồng minh của ḿnh để thấy rằng đồng minh nào
cũng chỉ ủng hộ một nước bạn chừng nào sự ủng hộ ấy phù hợp với lợi ích
riêng của họ chứ không phải v́ cùng theo đuổi một lư tưởng chung. Sau
chiến tranh, bài học ấy có thể là một động cơ cho phe thắng trận tập hợp
được khả năng của toàn dân vào công cuộc tái thiết và phát triển đất nước
thời hậu chiến. Nhưng chính sách sai lầm của các nhà lănh đạo miền Bắc đối
với miền Nam đă làm tê liệt những đóng góp quan trọng của một nửa dân số
toàn quốc trong mười mấy năm cho đến đầu thập kỷ 1990 mới thực sự chuyển
hướng.
Riêng đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhà cầm quyền trong
nước đă sớm nhận ra khả năng đóng góp to lớn của tập thể này vào công cuộc
phục hồi kinh tế cũng như những tiềm năng trí tuệ có thể đẩy mạnh tiến
tŕnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Thái độ đối với tập thể
này thay đổi hẳn, từ việc kết tội người tị nạn là "những kẻ phản bội" đến
sự công khai nh́n nhận họ là "một nguồn lực phát triển quan trọng của dân
tộc." Tuy nhiên, trong khi kêu gọi cộng đồng hải ngoại dẹp bỏ quá khứ,
hướng tới tương lai để cùng chung sức xây dựng và bảo vệ quê hương, Nhà
nước vẫn chỉ ban hành những biện pháp cởi mở hạn chế nhằm đáp ứng lợi ích
vật chất nhỏ nhặt mà chưa thật t́nh ḥa giải trong tinh thần b́nh đẳng. V́
thế những đóng góp chất xám của công dân ngoại quốc gốc Việt chưa vượt qua
mức tối thiểu và các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng
ở hải ngoại vẫn c̣n rất mạnh.
Lịch sử Việt Nam là một thiên hùng sử của một dân tộc hàng ngàn năm tranh
đấu chống ngoại xâm và bảo vệ độc lập cho tổ quốc. Cho đến đầu thế kỷ 20,
do ảnh hưởng của Tây phương, các đảng phái quốc gia và cộng sản ra đời
cũng đều hoạt động chống đế quốc thực dân để giành lại độc lập. Biết bao
nhà cách mạng, cộng sản hay không cộng sản, trí thức hay lao động, đă bị
chính quyền Pháp bắt bớ, tù đày và sát hại. Chỉ đến khi tranh giành quyền
lănh đạo dân tộc th́ hai bên mới lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn và bị các
nước lớn sử dụng trong một cuộc chiến tranh ủy nhiệm. Trong cuộc chiến
này, phe cộng sản v́ nhiều lư do đă thắng phe quốc gia nhưng điều đó không
có nghĩa là chỉ có kẻ thắng trận mới là người yêu nước. Gần đây, một nhà
sử học ở Hà nội đă nhắc đến những nhân vật yêu nước không cộng sản như
Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, và đă có những nhận định xác đáng: "Chủ
nghĩa yêu nước th́ khác nhau nhưng ḷng yêu nước th́ ai cũng có. . . . Tôi
nghĩ rằng con người rất phức tạp, hoàn cảnh lịch sử càng phức tạp. Nếu
chúng ta không đánh giá ḷng yêu nước rạch ṛi, chúng ta sẽ ngộ nhận,
chúng ta sẽ độc quyền yêu nước."
Ba mươi năm sau chiến tranh, đă đến lúc chính quyền trong nước và cộng
đồng hải ngoại cần phải nhận ra thực chất của cuộc chiến, ôn lại những bài
học quá khứ và nh́n nhận nhau với những trao đổi b́nh đẳng hai chiều để có
thể cùng góp công xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ, hội
nhập thành công vào cộng đồng thế giới và có đủ khả năng đối phó với những
đe dọa mới từ phương Bắc. Giữa hai bên, những bước đầu tiên cần phải được
thực hiện bởi chính quyền trong nước một cách thật t́nh và cụ thể. Một khi
thiện chí ấy đă được chứng tỏ, cộng đồng hải ngoại cũng cần phải đáp ứng
tích cực.
Trở lại vấn đề gọi tên cuộc chiến 1955-1975, để các phe liên hệ có thể
vượt lên khỏi những ám ảnh tiêu cực của quá khứ và chấm dứt những cuộc
tranh luận do t́nh cảm chủ quan, cuộc chiến này nên được gọi đơn giản là
"chiến tranh Việt Nam" với ư nghĩa khách quan phi chính trị là chiến tranh
xảy ra trên đất nước Việt Nam. Nội dung phức tạp của nó sẽ được lịch sử
ghi chép một cách đầy đủ và trung thực.
Maryland, Xuân Ất Dậu (2005)