Lạm
Dụng Môi Trường: Một Bước Đưa Đến Bất Ổn Chính Trị
Theo
tin tức mới nhất trong 9 tháng đầu năm 2005, Trung Quốc đă có mức phát triển
vượt bực là 9,5%. Như vậy, trong ṿng 10 năm trở lại dây TQ đă tăng vọt mức phát
triển đều đặn từ 8% trở lên, nâng lợi tức đầu người hiện nay lên đến khoảng 950
Mỹ kim hàng năm. Từ kết quả nầy, một số góc độ khác nhau phản chiếu trên nhiều
lănh vực kinh tế-chính trị- xă hội; do đó, đă soi rọi cho chúng ta thấy thêm
được nhiều khía cạnh tích cực và tiêu cực trong xă hội TQ, một quốc gia đông dân
nhất trên thế giới.
Về khía cạnh tích cực, so với sức tăng trưởng trong 10 năm qua, TQ đă một phần
nào giải quyết nạn xóa đói giảm nghèo cho khoảng 40 triệu cư dân căn cứ theo
thống kê. Nhưng ngược lại t́nh trạng phát triển vượt bực trong thời gian qua đă
làm cho xă hội TQ phải đối mặt với hai vấn nạn nghiêm trọng hơn và có thể đưa
đến những xáo trộn chính trị của đất nước nầy trong một tương lai không xa. Đó
là:
- Khoảng cách giàu nghèo ở nước nầy ngày càng cách xa giữa tầng lớp được ưu đăi
và tuyệt đại đa số những người dân cùng khổ, chính điều nầy có thể khơi mào cho
những bất ổn xă hội do người dân đứng lên;
- Mức phát triển trên đă gây ra nhiều vần nạn môi trường, mà hậu quả là hiện
tại, trên cùng khắp các nơi đă thiết lập những khu công nghiệp của TQ đều vấp
phải sự chống đối trực tiếp của người dân địa phương.
Bài viết nầy có mục đích tập trung vào việc quan sát và phân tích t́nh trạng ô
nhiễm môi trường của quốc gia TQ, hậu quả tất nhiên của sự phát triển bừa băi và
không kế hoạch bảo vệ môi trường. Các tiến độ và cường độ của các cuộc biểu
t́nh, những sự chống đối tự phát của người dân TQ có thể làm cho chúng ta có cái
nh́n xuyên suốt và chính xác hơn về chính sách phát triển cũng như t́nh trạng
bất ổn của xă hội nầy.
Sự đề kháng của người dân TQ
Trước t́nh trạng phát triển ồ ạt và không có sự cân bằng giữa phát triển và bảo
vệ môi trường, TQ đă tạo dựng song hành ngoài những thành quả kinh tế đă đạt c̣n
có một t́nh trạng môi trường xuống cấp ngày càng tệ hại. Theo ước tính của các
chuyên gia môi trường thuộc Chương tŕnh Môi trường LHQ (UNEP), chi phí cần
thiết để sửa chữa hay hạn chế những vấn nạn môi trường xảy ra trong quá khứ và
hiện tại là 7% của ngân sách hàng năm của nước nầy. Từ đó, người dân sống ở đồng
quê, nông dân, những người chăn nuôi, trồng trọt... ngược lại không thừa hưởng
được những phúc lợi đến từ phát triển mà phải chịu thêm nhiều thiệt hại do ảnh
hưởng của môi trường. Cho nên, họ đồng loạt đứng lên đ̣i hỏi nhà cầm quyền TQ
phải cải thiện và giải quyết t́nh trạng ô nhiễm môi trường không khí, đất đai,
và nhất là nguồn nước mặt và nước ngầm.
Họ không cón ǵ để mất. Sự can đảm nhờ đó tăng lên cao. Điển h́nh nhất là cuộc
nổi dậy của dân làng Huaxi, ngoại ô thành phố Dongyang, thuộc tỉnh Zejiang (Tứ
Xuyên) vào tháng tư vừa qua. Cuộc nổi dạây chống lại cảnh sát hiện vẫn c̣n đang
tiếp tục mặc dù nhà cầm quyền địa phương đă quyết định di dời khu sản xuất công
nghiệp tại làng nầy. “Chúng ta hảy chiến đấu cho đời sống, cho sức khỏe của con
cháu của chúng ta. Chúng ta hảy bảo vệ ruộng lúa và vườn rau cải trong làng”. Đó
là khẩu hiệu và là một chứng liệu cho sự quyết tâm của dân làng Huaxi.
Trên toàn lănh thổ TQ qua cuộc khơi mào của dân làng Huaxi đă bộc phát và trở
thành một hiện tượng toàn quốc mặc dù các vụ nổi dậy đă xảy ra từ hơn 10 năm
qua, nhưng cường độ cũng như tầm ảnh hưởng không lan rộng và có tính cách quốc
gia. Theo TS Li Lianjiang, chuyên gia chính trị học nghiên cứu về sự phản kháng
của nông dân thuộc viện đại học Baptist Hong Kong, th́ từ năm 1993 trở đi, trung
b́nh có 10 ngàn vụ nổi dậy của người dân phản kháng nhà cầm quyền trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Các cuộc phản kháng nầy được nhà cầm quyền TQ gán tên là
“những xáo trộn công cộng”. Con số nầy đă tăng bất ngờ trong năm 2004, lên đến
74 ngàn vụ, trong đó nông dân đứng lên để đ̣i hỏi cải thiện môi trường, được đền
bù tương xứng trong các chương tŕnh di dời nhà cửa, đất đai của người dân để
xây dựng cơ xưởng kỹ nghệ quốc doanh hay cho ngoại quốc đầu tư.
Trở qua TQ, đứng trước t́nh thế trên, nhà cầm quyền trung ương dường như đang bị
phân tâm trước việc giải quyết những yêu cầu môi trường của nông dân. Một là dựa
trên nguyên tắc bảo vệ môi trường, và yêu cầu thiết yếu của người dân là chính
đáng và cũng là một động cơ giúp nhà cầm quyền nhận thức rơ được nơi nào cần
phải lưu tâm trước những sự lạm dụng môi trường của địa phương. Thứ nữa, sự lo
ngại của trung ương về những bất ổn chính trị qua các vụ nổi dậy của nông dân.
Do đó, tùy theo trường hợp, TQ vừa đàn áp nổi dậy vừa lắng nghe để giải quyết
những vấn đề của người dân nêu ra.
Câu chuyện một ḍng sông
Sông Shaying, một phụ lưu của sông Huai chảy qua tỉnh Henan (Hồ Nam) miền trung
TQ. Qua nhiều năm, Huo Daisan, một nhà môi trường học và cũng là một cổ động xă
hội đă nhận định rằng con sông nầy là nguyên nhân của hàng ngàn trường hợp ung
thư của dân làng sống dọc theo hai bên bờ sông. Theo báo cáo, đă có 118 dân làng
Huang Meng Ying đă chết v́ ung thư trên tổng số 2.600 cư dân từ năm 1990. Tin
tức nầy đă được đưa lên hàng đầu của báo New York Times mùa thu năm 2004 cũng
như truyền h́nh TQ đă báo động nhiều kỳ sự việc nầy.
Tuy nhiên, Bộ Y tế TQ chỉ đáp ứng sơ sài qua vài mẫu nước sông để phân tích kiểm
nghiệm mà thôi. Rồi im lặng hẳn! C̣n dân làng phải tiếp tục chiến đấu với những
cơn bịnh nghiệt ngă cùng với những món nợ khổng lồ do chi phí y tế. Huo đă vận
động thành công việc thành lập Hội Bảo Vệ Sông Huai (Huai river protectors) hầu
hy vọng gây được sự chú ư về vấn nạn trên đến nhà cầm quyền trung ương và địa
phương.
Từ năm 1998 trở đi, ông tiếp tục chụp ảnh và báo động cho dân làng t́nh trạng
cập nhật của ḍng sông. Vào tháng 7 năm 2002, trước khi ông Xie Zhenhua, Trưởng
Cơ quan Bản vệ Môi trường Quốc gia thời bấy giờ viếng thăm sông Huai, Huo rất
ngạc nhiên khi thấy nước sông sạch và trong hơn. Nhưng ngay sau khi cuộc viếng
thăm chấm dứt, ḍng sông trở nên đen xậm ngay à luôn luôn có một lớp bọt màu tím
hiện diện ở trên mặt nước. Vào năm 2000, 6 nông dân bị trợt té ở ống cống thông
ra ḍng sông Huai và bị chết ngay sau đó.
Nguyên nhân chính của việc biến sông Huai thành ḍng sông đen là do công ty
Lianhua Group, một công ty lớn nhất thế giơí sản xuất bột ngọt, hợp doanh cùng
với công ty Aginomoto của Nhật Bản. Công ty xử dụng hàng trăm ngàn công nhân,
nằm trên thượng nguồn của sông Huai. Năm 2003, công ty đă bị phạt 1,2 triệu Mỹ
kim, nhưng t́nh trạng vẫn không thay đổi cho đến hiện tại v́ chính phủ trung
ương đă đầu tư không nhỏ vào chính công ty nầy.
Trường hợp Việt Nam
Nh́n lại Việt Nam, chỉ riêng tại các tỉnh miền Bắc trong sáu năm qua có trên 365
đợt gồm hơn 22 ngàn nông dân lên Hà Nội dựng lều, bán trụ gây sức ép về an ninh
và trật tự xă hội ở thủ đô. Điều nầy chưa hề xảy ra trong suốt gần 50 năm cầm
quyền của nhà nước CS VN trước đây. Điều nầy cũng nói lên được những bất ổn xă
hội đă bắt đầu manh nha từ những năm gần đây. Và nông dân VN, những người thấp
cổ bé miệng, hiện nay đă biết dứng lên đ̣i được đối xử công b́nh hơn. Đây là một
hiện tượng lớn chúng ta cần quan tâm. Và đây cũng là bước đầu cho tiến tŕnh dân
chủ hóa của VN , một bước tiến tuy chậm nhưng sẽ là những bước vững chắc ngơ hầu
mang lại bầu không khí tự do cho toàn thể người dân đang sống trong sự kềm kẹp
của chế độ.
C̣n câu chuyện của ḍng sông Huai, cũng không khác câu chuyện của ḍng sông Biên
Hoà tại nơi nhà máy sản xuất bột ngọt và hóa chất cơ bản của công ty Vedan, một
công ty do Đài Loan làm chủ. Năm 1997, công ty nầy đă được Sở Môi trường thành
phố HCM đề nghị đóng cửa, nhưng t́nh trạng vẫn không thay đổi và nhà máy vẫn
tiếp tục sản xuất mạnh và liên tục cho đến ngày nay. Phế thải lỏng vẩn tiếp tục
đi vào ḍng sông và phế thải rắn vẫn đi “chu du” khắp nơi thậm chí lên tận Tây
Ninh và đă bị địa phương làm biên bản. Nhưng đâu cũng vào đấy. Ngay chính tuần
báo nỗi tiếng của Hoa Kỳ là Chemical Engineering News thời bấy giờ cũng đă loan
tin và h́nh ảnh đầy đủ vấn nạn ô nhiễm ḍng sông trên.
Ảnh hưởng của các cuộc nỗi dậy
Có hai ảnh hưởng quan trọng cần nêu ra đây: ảnh hưởng lên kinh tế và đầu tư
ngoại quốc và ảnh hưởng đến những xáo trộn xă hội và chính trị tại TQ, kết quả
của các cuộc đấu tranh của nông dân.
Trước sự gia tăng các cuộc phản kháng của người dân, những nhà đầu tư ngoại quốc
nhâùt là trong kỹ nghệ hóa chất bắt đầu chùng bước trong việc thiết kế và đầu tư
vào quốc gia nầy trong vài năm trở lại đây. Đối với những nhà đầu tư ngoại quốc
họ rất chú tâm đến việc xử lư chất thải rắn và lỏng cũng như kiểm soát việc ô
nhiễm không khí một khi đă xây dựng nhà máy tại quốc gia nầy. Do đó, với tầm
nh́n chung, họ cũng mong mơi các nhà đầu tư nội địa cũng phải đặt ngang tầm bảo
vệ môi trường và sản xuất để hy vọng làm dịu bớt phản kháng của người dân.
Tuy nhiên các suy nghĩ tích cực trên không có cơ sở đứng vững trong trường hợp
áp dụng cho TQ v́ không thể nào có một sự b́nh đẳng trong việc áp dụng luật lệ
môi trường giữa các công ty ngoại quốc và quốc nội. Chính v́ luật môi trường TQ
c̣n quá nhiều điểm mơ hồ (mà luật môi trường Việt Nam cũng chẳng khá ǵ hơn) cho
nên cán bộ địa phương tùy tiện suy diễn và thi hành, nhất là khi có “thủ tục đầu
tiên” của người bản xứ th́ mọi trở ngại về giấy phép như thủ tục lập Biên bản
tác động môi trường cho một cơ sở mới thành lập sẽ được thông qua dễ dàng cũng
như giấy phép hoạt động. Do đó, các công ty ngoại quốc hiện tại rất e dè trong
việc đổ thêm đầu tư vào quốc gia nầy.
Đứng về mặt xă hội, ngày càng có thêm nhiều chỉ dấu về các xáo trộn xă hội ở
những nơi có khu công nghiệp h́nh thành. Các xáo trộn càng trở nên bạo động hơn
trong việc tranh chấp đất đai của người dân v́ được bồi thường không xứng đáng
với giá trị đă có của người dân; cũng như việc đ̣i hỏi chính đáng của họ là các
khu công nghiệp phải nghiêm chỉnh chấp hành quy định của luật bảo vệ môi trường
trong sản xuất. Tiếc thay, trung ương không có biện pháp mạnh mẽ để giải quyết
vần đề và Cơ quan Bảo vệ Môi trường Quốc gia không đủ quyền lực để sửa chữa
những sai trái của địa phương. Do đó, t́nh trạng bất ổn ngày càng lan rộng, báo
hiệu cho một tương lai không mấy sáng sủa cho Trung Quốc trong những ngày sắp
tới.
Thay lời kết
TQ đă thấy và thấy rất rơ những thách đố của người dân và các xáo trộn xă hội
vừa kể trên. Nhưng nhà cầm quyền đă có phản ứng trong những ngày gần đây như thế
nào? Thay v́ lựa chọn con đường phát triển bền vững, ứng hợp với chiều hướng
ṭan cầu hóa như phát triển phải đi song hành với việc bảo vệ môi trường ngơ hầu
xoa dịu được các phảng kháng của người dân. Ngược lai, TQ lại chọn con đường
“đàn áp” dưới nhiều h́nh thức như:
- Mùa hè năm nay, đảng CS TQ ra lệnh tất cả các cơ quan truyền thông ở TQ phải
“chia xẻ” và kiểm chứng các thông tin nhạy cảm về an ṭan thực phẩm với cơ quan
hữu trách trước khi thông tin trên được phổ biến trên báo chí hay truyền thanh,
truyền h́nh.
- Hiện có nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) về môi trường đang hiện diện ở TQ
nhưng không có tổ chức nào có tầm cở như Greenpeace để có thể có tiếng nói trung
thực. Tổ chức Greenpeace không được hoạt động ở TQ. C̣n các tổ chức NGO c̣n lại
phải kết hợp chặt chẽ và phù hợp với những quy luật nhạy cảm thích hợp với chiều
hướng giải quyết của nhà cầm quyền TQ về môi trường và an ṭan sức khỏe.
- Dù phải chịu áp lực của nông dân phản kháng, nhưng đứng trước những vụ kiện
tụng, TQ luôn đứng về phía các công ty gây ô nhiễm môi trường và phần thiệt tḥi
luôn ở về phía người dân thấp cổ bé miệng v́ không kham nỗi phí tổn cho vụ kiện
cũng như trước những lư lẽ của cường quyền.
Từ tất cả những hiện trạng phân tích trên đây, nếu chúng ta đổi tên Trung Quốc
thành Việt Nam, sông Huai thành sông Biên Ḥa hay sông Sài G̣n, và tên của những
khu công nghiệp TQ thành khu chế xuất Tân Thuận hay Sông Bé, chúng ta sẽ thấy
những âm bảng tương đương như những vấn nạn môi trường đang xảy ra ở TQ. Cũng
như Việt Nam hiện tại cũng đang đối mặt với sức phản kháng của người dân ở khắp
nơi trên quê hương.
Việt Nam cho đến hôm nay vẫn tiếp tục khai triển từ mô h́nh chính trị cho đến
những chính sách và kế hoạch kinh tế rập khuôn theo TQ, cũng như cung cách làm
ăn và giải quyết vấn đề bằng bạo lực của cường quyền; quy luật ngàn đời của xă
hội chắc chắn sẽ xảy ra cho Việt Nam. Đó là sự cáo chung của chế độ.
Mai Thanh Truyết
West Covina, 11/2005