Trả lời
phỏng vấn của Việt Tide
Giáo sư Đỗ Mạnh Tri: “Tôn giáo phải giúp người dân biểu lộ được sự phẫn nộ của
ḿnh trước các tội ác và bất công trong xă hội”.
LTS: Sáng ngày thứ Ba, 29 tháng 11 vừa qua, nhiều ngàn người đă đổ về Hà Nội để
tham dự lễ thụ phong 57 linh mục thuộc 8 giáo phận ở miền Bắc Việt Nam. Buổi lễ
diễn ra dưới sự chủ tọa của Hồng y Cresezio Sepe, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo của
Ṭa Thánh Vatican. Nhân dịp này, Việt Tide gọi điện thoại sang Paris hỏi ư kiến
giáo sư Đỗ Mạnh Tri và được ông dành cho cuộc phỏng vấn sau đây do Đinh Quang
Anh Thái thực hiện.
Giáo sư Đỗ Mạnh Tri là một trí thức Công giáo. Từng trách nhiệm tờ Tin Nhà. Sau
khi Tin Nhà đ́nh bản, ông tiếp tục cộng tác với nhiều tạp chí như Diễn Đàn Giáo
dân, Viễn Tượng Việt Nam. Ông cũng là tác giả của nhiều tập sách giá trị như
“Ngón tay và Mặt trăng”, “Di sản Mác xít tại Việt Nam”… và đồng tác giả của “Hai
ngàn năm một thuở, Ba mươi năm Công giáo Việt Nam dưới Chế độ Cộng sản” (vừa
phát hành). Giáo sư Đỗ Mạnh Tri sinh ngày 11 tháng Chạp năm 1931 tại Nam Định.
Trước khi về hưu, ông dạy triết.
Việt Tide: Giáo sư nhận định ra sao về ư nghĩa việc truyền chức cho 57 linh mục
tại Việt Nam ạ?
Giáo sư Đỗ Mạnh Tri: Năm mươi bẩy linh mục được thụ phong cùng một lúc là điều
chưa bao giờ xảy ra dưới chế độ cộng sản Việt Nam. Người chủ toạ lễ truyền chức
lại chính là Hồng y Cresezio Sepe, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo của Ṭa thánh
Vatican từ Roma sang Việt Nam. Sự kiện này biểu lộ ḷng ưu ái của Giáo chủ và
Giáo triều Rôma đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam, đồng thời khiến ta đặc biệt
chú ư tới mối liên hệ phức tạp giữa Vatican và Hà Nội hiện đang trong giai đoạn
‘nóng’ và h́nh như có chiều khởi sắc ? Vậy ư nghĩa của lễ truyền chức linh mục
cho 57 thầy phó tế th́ nhiều lắm.
Đối với nội bộ của Giáo hội Công giáo Việt Nam, tại miền Bắc, có thêm 57 linh
mục, dĩ nhiên là rất tốt, quá tốt. Có thêm một lúc những 57 linh mục, c̣n đ̣i ǵ
hơn ? Nhưng xin đừng vội loá mắt trước những con số : 57 tân linh mục cho toàn
miến Bắc, tức cho chừng 800 trăm giáo xứ ! Ai cũng biết, cho tới nay, mặc dầu
một vài thay đổi, miền Bắc vẫn thiếu linh mục một cách thê thảm. Một giáo phận
như giáo phận Lạng Sơn, với 18 giáo xứ rải rắc trên hơn 14 ngàn cây số vuông của
ba tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, mà theo thống kê của Niên giám 2004, chỉ
có 3 linh mục cho 5.583 giáo dân, trong 3 vị đó, th́ một vị sinh năm 1904 ! Giáo
phận Bùi Chu, với một lănh thổ nhỏ hơn nhiều, nhưng với 129 giáo xứ và 370.000
giáo dân, chỉ có 56 linh mục. Về lượng đă thế, về chất người ta không thể không
có những nghi vấn về việc tuyển sinh, đào tạo… V́ được vào chủng viện hay không,
vào chủng viện rồi, có được lănh chức linh mục hay không, c̣n phải tuỳ thuộc
chính quyền các cấp. Mà tiêu chuẩn của chính quyền khác hẳn, nếu không nói là
mâu thuẫn với những đ̣i hỏi chính đáng của Giáo hội.
Về phía chính quyền, đă cho phép thụ phong 57 linh mục, lại c̣n “tạo điều kiện”
để nghi lễ được chuẩn bị một cách đ́nh đám và diễn ra một cách trang trọng, kể
cũng là một màn tuyên truyền cho “chính sách (đàn áp) tôn giáo trước sau như
một” của “Đảng và Nhà nước ta”. Chính Đức cha Ngô Quang Kiệt, Tổng giám mục Hà
Nội, trong bài trả lời phỏng vấn đài RFI ngày 28.11 cũng công nhận rằng sự kiện
chính quyền cho phép tryuền chức bằng ấy linh mục và chấp thuận việc Ṭa Thánh
Vatican thiết tập giáo phận Baria “cho thấy chính sách về tôn giáo của Việt Nam
đă có cởi mở, thông thoáng và đồng thời mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam và
Toà Thánh Vatican đă có chiều hướng cởi mở tốt đẹp”.
Người ngoài nh́n vào, thấy Chính quyền xem ra dễ dăi đối với Công giáo, giữa lúc
nhiều tôn giáo khác đang bị đàn áp thẳng tay. Như Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất, Giáo hội Tin lành Mennonite, Phật giáo Ḥa Hảo. T́nh trạng này có
thể làm nảy sinh những so b́ giữa các tôn giáo.
Việt Tide: Từ năm 1975 đến nay, có bao giờ Ṭa thánh Vatican và riêng Giáo hội
Công giáo tại Việt Nam nêu vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo với giới lănh đạo
của chế độ không, thưa giáo sư?
Giáo sư Đỗ Mạnh Tri: Thưa anh, Toà Thánh cũng như hàng Giáo phẩm Công giáo Việt
Nam đă lên tiếng nhiều lần, và một cách minh bạch. Xin chỉ nhắc lại những diễn
văn trao đổi cách công khai và trang trọng nhân dịp viếng mộ hai thánh Tông đồ
lần cuối cùng của các Giám mục Việt Nam vào đầu năm 2002. Tôi nhớ rơ, trong bài
diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha, Đức cha Nguyễn Văn Hoà có nói rằng từ ngày
thiết lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (1980), các giám mục đă nhiều lần lên tiếng
để nói lên những đ̣i hỏi về quyền con người và của Giáo hội.
Đức Gioan Phaolô II, trong bài đáp từ nhắc lại mấy nguyên tắc căn bản trước khi
đi vào trường hợp cụ thể của Việt Nam : Tôn giáo và chính trị là hai lănh vực
khác nhau và độc lập với nhau trong cùng một xă hội, nhằm phục vụ cùng một con
người; vậy giữa đôi bên phải có sự cộng tác lành mạnh; để có sự cộng tác lành
mạnh này, chính quyền phải tuyệt đối tôn trọng tính tự chủ của tôn giáo. Tự do
tôn giáo, v́ thế, là một quyền căn bản của con người. Có thể nói, tự do tôn giáo
là mẹ của mọi thứ tự do, v́ tự do tôn giáo là quyền được tự do biểu lộ ra ngoài,
một cách cá nhân hay tập thể những xác tín ḿnh có trong ḷng : tự do nói, tự do
viết, tự do làm, tự do hội họp, tự do truyền bá v.v… Dĩ nhiên, trong sự tôn
trọng tự do của người khác. Sau đó Đức Thánh Cha đă không ngại nêu lên những đ̣i
hỏi cụ thể của Giáo hội Công giáo Việt Nam về cơ sở vật chất cũng như về nhân sự
và sinh hoạt. Nguyên một việc, Gioan Phaolô II, xin các Giám mục, anh em của
ngài, khi trở về Việt Nam, loan báo cho toàn thể giáo dân Việt Nam biết Đức
Thánh Cha hằng cầu nguyện cho họ, và mời họ noi gương các thánh tử đạo Việt Nam
lănh nhận những thách đố của Tin Mừng, đủ nói lên những chèn ép và hạn chế vẫn
c̣n đè nặng lên Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Có điều nói như trên, là nói về đường lối chung của Giáo hội. Nh́n theo gịng
thời gian, th́ cũng có lúc cương, lúc nhu. Nh́n vào cá nhân th́ trong hàng giáo
phẩm cũng có nhiều cách ứng phó. Trước đây người ta đă từng đối chiếu thái độ
của Đức cha Nguyễn Kim Điền, Tổng giám mục Huế và Đức cha Nguyễn Văn B́nh, Tổng
giám mục Sài G̣n. Hiện nay, sau hai lá thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và của
Đức cha Phạm Minh Mẫn phê phán chế độ “xin cho”, lại có tiếng nói của Đức cha
Ngô Quang Kiệt, Tổng giám mục Hà Nội, có vẻ “cơỉ mở” với chính quyền. Trả lời
phỏng vấn của báo Lao Động dịp lễ Giáng Sinh 2003, Đức cha Kiệt có nói : “Thực
tế chính sách của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo là cởi mở, tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tạo điều kiện để giáo dân sống tốt đời đẹp đạo”… Những lời phát biểu như
thế, cho thấy trong hàng giáo phẩm công giáo không có sự thống nhất về quan điểm
đối với t́nh trạng nhân quyền và sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam.
Việt Tide: Một vị Hồng y của Ṭa thánh từng nhận định rằng, tự do của Giáo hội
Công giáo tại Việt Nam là tự do của một con chim bay nhẩy trong lồng. Giáo sư
nghĩ sao về lời nhận định này ạ?
Giáo sư Đỗ Mạnh Tri: Tôi đồng ư với nhận định đó. Hồng y Phạm Minh Mẫn, Tổng
giám mục địa phận Sài G̣n, có lần đă phát biểu nguyên văn rằng: “tự do mà chúng
tôi muốn (nó) to bằng cái bàn, trong khi tự do người ta cho th́ (nó) bằng cái
tách uống nước thôi”. Nói trắng ra, quyền tự do nói chung, quyền tự do tôn giáo
nói riêng, hiện nay không có tại Việt Nam. Cái gọi là “tự do” hiện nay tại Việt
Nam là những thứ mà Nhà nước cho phép, chứ quyền tự do thực sự th́ không có.
Chẳng hạn một quyền rất đơn sơ là quyền đi lại trong nước, đồng bào chúng ta
cũng không có; v́ đi đâu cũng phải có hộ khẩu; tạm trú, tạm vắng đều phải khai
báo với công an. Dạo sau này, họ cũng bớt kiểm soát nhưng một khi họ định kiểm
soát người nào, th́ họ vẫn vịn vào những quy định của họ để bắt chẹt người dân.
Tư do là một quyền của dân chúng mà đồng bào ḿnh không có. Chúng ta cần khẳng
định rằng, dưới chế độ hiện tại, Việt Nam không có quyền tự do. Chỉ có những cái
gọi là “tự do”, là những cái người ta cho ḿnh được phép làm. Các quyền đó, Đức
Hồng y Phạm Minh Mẫn gọi là “chế độ xin-cho”. Nghĩa là dân xin th́ có thể được
nhà nước cho. Nhưng cho hay không cho c̣n tuỳ người cho và thái độ của người
xin.
Việt Tide: Cho tới nay, chế độ cộng sản tại quê nhà chúng ta vẫn xem tôn giáo là
một thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng; vậy mà họ lại để cho 57 linh mục được
truyền chức, trong khi mặt khác họ vẫn khe khắt với các tôn giáo khác. Theo nhận
định của giáo sư th́ trong bối cảnh đó, làm cách nào để chúng ta hài ḥa thống
nhất với nhau được ạ?
Giáo sư Đỗ Mạnh Tri: Thưa anh, tôn giáo ru ngủ hiện nay Nhà nước Cộng sản không
ngại đâu. Trái lại. Tôn giáo ru ngủ dân, th́ chế độ càng an tâm làm ăn. Tôi rất
e ngại khi chính quyền này cho phép cách dễ dăi và coi như một nguyên tắc thực
tiễn : những ǵ chính quyền này cấm không cho người dân làm, thường là điều tốt,
và những ǵ họ không cấm mà c̣n “taọ điều kiện” cho dân làm th́ dân phải cảnh
giác. Năm mươi bẩy linh mục một lúc, tốt lắm. Nhưng trong những điều kiện và
hoàn cảnh nào ? Với ư đồ ǵ ? (Tôi nhớ đă có lần trả lời phỏng vấn của anh rằng
Cộng sản là một thủ thuật nắm và giữ chính quyền bằng bất cứ biện pháp nào, kể
cả những biện pháp nhân đạo). Như chính anh nói : Chính quyền ra vẻ dễ dăi với
Công giáo trong khi vẫn khe khắt với các tôn giáo khác. Nhưng, đổi lại những dễ
dăi đó, ḿnh có mất ǵ không ? “Ai lo cứu mạng sống ḿnh, th́ sẽ mất”, lời cảnh
cáo này của Phúc Âm, người công giáo cần suy gẫm. Không dùng được Uỷ ban Đoàn
kết Công giáo để thao túng Giáo hội, biết đâu chính quyền chẳng đang t́m cách
làm cho Giáo hội trở nên giống như Uỷ ban đó ? Về sự hài hoà, riêng trong giới
Công giáo, liệu có sự hài ḥa hay không? Hay chỉ là cái hài ḥa chung bề ngoài
bao hàm nhiều bất đồng, khác biệt và mâu thuẫn nội bộ. Giữa các tôn giáo cũng
thế. Theo tôi, trước khi có những sinh hoạt chung thực tâm với nhau, các tôn
giáo phải vượt qua tất cả những mưu mô của chính quyền nhằm chia rẽ các tôn
giáo. Chế độ hiện nay rất giỏi trong việc tạo ra chia rẽ trong nội bộ các tôn
giáo và giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Việc đầu tiên cần làm là không để
bị rơi vào bẫy của nhà nước. Sau đó, chúng ta phải nhấn mạnh rằng, các tôn giáo
có trách nhiệm rất lớn đối với đời sống tâm linh của dân chúng. Nhiệm vụ của tôn
giáo không phải là lật đổ chính quyền. Việc đó là của những người làm chính trị.
Vai tṛ chính yếu của các tôn giáo là làm sao nói lên được tiếng nói, nếu không
đồng nhất, th́ cũng tương đối thống nhất với nhau, trước những tệ nạn xă hội, tỷ
như tệ nạn tham nhũng, t́nh trạng đồi bại luân thường đạo lư. . . .Tất cả những
chuyện xấu sa đó, các tôn giáo, chẳng những có quyền, mà c̣n có bổn phận phải
lên tiếng tố cáo. Hơn thế nữa, các tôn giáo c̣n phải tố cáo nguồn gốc gây nên
những tệ nạn đó ; phải tố cáo cái chính thể không tôn trọng tự do của con người,
không đếm xỉa ǵ tới phẩm giá của con người. Chế độ hiện nay huênh hoang đủ thứ,
kư đại những công ước quốc tế về nhân quyền, nhưng thực tế họ vẫn coi thường tất
cả mọi giá trị tinh thần và quyền lợi của người dân. Tôn giáo có phận sự phải
bênh vực, phải lên tiếng mạnh mẽ, phải tố cáo tất cả những sự vi phạm những giá
trị đó. Chẳng hạn sờ sờ trước mắt là tệ nạn buôn bán phụ nữ, tệ nạn phá thai;
chúng ta phải biết phẫn nộ và không thể nhắm mắt làm ngơ. Phẫn nộ không có nghĩa
là hận thù. Vấn đề là làm sao để giúp người dân biểu lộ được thái độ phẫn nộ
trước các tội ác và bất công trong xă hội? Đó là trách nhiệm của tôn giáo.
Việt Tide: Cám ơn giáo sư đă trả lời phỏng vấn của chúng tôi.