Nghiên-Cứu Biên-Giới Việt-Trung.
Đi t́m ngọn núi Khấu-Mai (Khấu-Mai Sơn, Khấu-Mai Đỉnh hay
Khấu-Mai Lĩnh) hay là t́m thủ-phạm vụ « bán đất, nhượng biển ».
I/ Chi-tiết
từ tài-liệu « mật » của đảng CSVN :
Một bài
bút-kư được kư tên Nguyễn Chí Trung - theo tác-giả th́ được viết xong vào đêm
21 tháng 7 năm 2002 - đă được « Câu-Lạc-Bộ Dân-Chủ » công-bố ngày 25 tháng 11
năm 2003 dưới tựa-đề « Tài-Liệu Mật Của Đảng CSVN »[i].
Theo nội-dung tài-liệu, ta biết Nguyễn Chí Trung nguyên là thư-kư riêng của Lê
Khả Phiêu và Phiêu nguyên là Tổng-Bí-Thư đảng CSVN từ tháng 12 năm 1997 đến đầu
năm 2001. H́nh-thức bài tài-liệu như để t́m hiểu các vấn-đề gọi là «thực-chất từ
đại-hội đảng IX trở về trước »[ii],
nhưng mục-đích chính có lẽ nhằm biện-hộ những việc làm của Lê Khả Phiêu trong
thời-gian ông này tại chức, tức trước đại-hội IX. Nguyễn Chí Trung cho rằng
Phiêu là nạn-nhân của những âm-mưu đánh-phá của 3 vị cố-vấn là các ông Đỗ Mười,
Lê Đức Anh và Vơ Văn Kiệt. Theo tài-liệu, nhân-dịp đại-hội đảng toàn quân, từ
ngày 3-1 đến 11-1-2001, Lê Đức Anh tố Lê Khả Phiêu 10 tội, xin trích
nguyên-văn 2 « tội » quan-hệ:
1.- Bán đất, bán biển cho Trung Quốc.
2.- Lộ bí mật ư đồ chiến lược với Giang Trạch Dân.
Những
vấn-đề khác, gồm 8 điều, thuộc nội-bộ đảng CSVN, kể cả việc v́ sao hoăn việc
kư-kết hiệp-ước kinh-tế với Hoa-Kỳ, th́ không thuộc phạm-vi bài viết nầy nên
không tiện trích ra.
Nguyễn Chí
Trung phản-biện hai điều buộc tội trên nguyên-văn như sau :
« LĐ Anh nêu vụ Phiêu đi thăm TQ
đối thoại với Giang Trạch Dân là phạm tội bán đất , bán biển, là lộ bí mật chiến
lược của đảng, là độc đoán. Đi về không báo cáo với Bộ chính trị, không cho
Nguyễn Mạnh Cầm cùng dự họp là biểu hiện sự thậm thụt sao đó...
Sự thật vụ việc này là: Xuất phát từ phía TQ, GT Dân mời Phiêu sang thăm. Ta
thăm ḍ ư của họ chỉ TBT gặp TBT? Họ trả lời mỗi bên 4 người: TBT, thư kư TBT,
trưởng ban đối ngoại TW, chánh văn pḥng TW. Ta cũng muốn nhân dịp này thăm ḍ
thái độ của TQ đối với Mỹ, đối với CNXH. Kế hoạch đi thăm do ban đối ngoại TW
làm, Mạnh Cầm thông qua… Khi vào pḥng họp do sơ xuất Cầm bước vào pḥng bị ngăn
lại ngay v́ không dúng thành phần quy định .
Nội dung bàn ta thoả hiệp chữa lại cột mốc biên giới ở vĩ tuyến… do TQ yêu cầu.
Họ lập luận trước kia do công nhân đưa cột mốc không tới đỉnh núi đành bỏ lai
sườn núi, bây giờ đưa cột mốc lên đỉnh núi.
Về biển : Hai bên đấu tranh cuối cùng đă đi đến thoả thuận xác định 3 vùng biển,
ở ngoài khi Vịnh Bắc Bộ là vùng đánh cá chung của cả 2 bên. »[iii]
Ta nhận
thấy rất có thể Nguyễn Chí Trung là một trong 4 người đă tham-dự buổi họp mật
với phe Trung-Quốc gồm có Giang Trạch Dân, v́ Trung là thư-kư của Phiêu. Nếu vậy
Nguyễn Chí Trung sẽ là một nhân-chứng lịch-sử cho vụ thương-thuyết mật giữa
những chóp-bu trong hai đảng CS về vấn-đề lănh-thổ và lănh-hải.
Nội dung
buổi họp liên-quan đến việc thay đổi biên-giới ta thấy có nhiều điểm không
rơ-ràng. Trên đất liền th́ nói đến việc « chữa lại mốc biên-giới ở vĩ-tuyến… do
TQ yêu-cầu ».
Câu nầy
thiếu ư, người ta nói tọa-độ của cột mốc, tức gồm kinh-độ và vĩ-độ cột mốc… chứ
không thể nói « cột mốc ở vĩ-tuyến… ». Cột mốc ở đây phải là cột mốc biên-giới
cắm theo các Công-Ước Pháp-Thanh 1887 và 1895. Điều đáng chú ư là toàn-bộ những
cột mốc biên-giới cắm theo Công-Ước 1887 và 1895 th́ chỉ có một số mốc được
xác-định theo tọa-độ phương-vị từ (azimuth magnetique). Những cột mộc nầy ở trên
đường biên-giới giữa tỉnh Quảng-Đông, nay thuộc Quảng-Tây, với tỉnh Quảng-Ninh
của Việt-Nam. Không có cột mốc nào được xác-định theo tọa-độ kinh-độ và vĩ-độ.
Tất-cả những cột mốc c̣n lại được xác-định qua việc mô-tả vị trí tương-đối của
nó. Việc nầy cho thấy Nguyễn Chí Trung đă không viết hết, hay đă viết nhưng lúc
phổ-biến th́ xóa đi những chi-tiết về cột mốc. Yếu-tố đáng chú-ư được tiết-lộ là
vị-trí của cột mốc : trên sườn một trái núi. Phe Trung-Quốc cho rằng « trước
kia công-nhân đưa cột mốc không tới đỉnh núi đành bỏ lại sườn núi ». Hai vị
Tổng Bí-Thư hai nước « thỏa-hiệp chữa lại» để « đưa cột-mốc lên đỉnh
núi ».
Cột mốc nầy
là cột mốc nào, có tầm quan-trọng ra sao mà khiến Giang Trạch Dân, nguyên Tổng
Bí-Thư đảng CS Trung-Hoa, người quan-trọng bậc nhất Trung-Quốc thời đó, với biết
bao chuyện quan-trọng hơn gấp trăm ngàn lần phải lo về kinh-tế, chính-trị,
xă-hội… cho một tỉ 300 triệu người Hoa ; phải đích thân can-thiệp, yêu-cầu sửa
đổi ?
Chắc-chắn
cột mốc nầy phải có cái lai-lịch rất đặc-sắc, rất quan-trọng nên mới được những
nhân-vật chóp-bu của hai quốc-gia chiếu-cố như thế. Cột mốc nầy ở đâu ? Mang số
mấy ? Cột mốc ở sườn núi có phải là do công-nhân không đưa lên núi, như ư-kiến
của Giang Trạch Dân, hay tại v́ vị-trí của nó được xác-định theo công-ước là như
thế ?
T́m hiểu
lịch-sử đường biên-giới Việt-Trung ta thấy có nhiều vùng biên-giới có diện-tích
quan-trọng đă bị thay-đổi chủ-quyền do ảnh-hưởng của các Công-Ước Pháp-Thanh,
nhưng không thấy ai đề-cập tới hay đề-nghị sửa-chữa.
Nhận thấy
cột mốc lạ lùng nầy đă được sự quan-tâm đặc-biệt của Giang Trạch Dân, người viết
bài nầy v́ thế cố-gắng tập-họp một số tài-liệu biên-giới Việt-Trung, tŕnh-bày
ra đây, hy-vọng làm sáng-tỏ được những bí-mật chung-quanh cột mốc nầy.
Riêng những
ǵ liên-quan đến phần lănh-hải, sự tŕnh-bày của Nguyễn Chí Trung cũng không
rơ-ràng lắm. Nhưng tựu-trung lại, chính Lê Khả Phiêu đă « thỏa-thuận » với Giang
Trạch Dân để kư lại 2 hiệp-ước về lănh-thổ và lănh-hải cũng như một kết-ước khác
xác-định vùng đánh cá trong Vịnh. Những thiệt-hại cho Việt-Nam do sự phân-định
lại Vịnh Bắc-Việt đă được tác-giả tŕnh-bày trong bài viết trước đây « Từ
Công-Ước Bắc-Kinh 1887 đến Hiệp-Ước Phân-Định Vịnh Bắc-Bộ 2000 : Non Nước
Ngậm-Ngùi ». Độc-giả có thể t́m đọc lại và thẩm-định.
II/ Khảo-sát
các cột mốc theo Công-Ước Bắc-Kinh 1887 và 1895.
1/ Tóm-lược
công-tŕnh phân-định và phân-giới (tức công-tŕnh cắm mốc):
Việc
phân-định và phân-giới (cắm mốc) biên-giới hai xứ Việt-Trung bắt đầu ngày 12
tháng 1 năm 1886, là ngày họp khai-mạc giữa các đại-diện của các ủy viên
phân-giới Pháp-Trung tại Đồng-Đăng (Lạng-Sơn). Theo bản tường-tŕnh của dân-biểu
M. Dureau de Vaulcompte thuộc Ủy-Ban khảo-sát công-ước biên-giới Pháp-Thanh,
phái-đoàn Pháp được thành lập vào tháng 8 năm 1885, gồm có các vị sau: Bourcier
de Saint Chaffray, chủ-tịch; Scherzer, Đại-Tá Tisseyre, Thiếu-Tá Bouinais,
Bác-Sĩ Néïs, M Haitce là phụ-tá. Phía bên Tàu đề-cử hai phái-đoàn độc-lập. Một
phái-đoàn do Ủy-Viên Hoàng-Gia Tchéou-To-Joun thành-lập từ tháng 11, phụ trách
biên-giới Vân-Nam. Một phái-đoàn khác do Teng-Tcheng-Sieou làm chủ-tịch,
Tuần-Phủ Quảng-Tây là Li-Ping-Heng làm phụ-tá, phụ-trách biên-giới Lưỡng-Quảng.
Trong bức h́nh của tờ báo La République Illustrée (2-10-1886) sau đây, ta thấy
trên thực-địa có một vài thay đổi về nhân-sự. Ở giữa là M. B. Saint Chaffray,
Công-Sứ Toàn Quyền (Ministre plénipotentiare), phía trái (theo Tàu, chỗ phía
trái là chỗ danh-dự) ông nầy là Teng Tcheng-Seou, thuộc Tổng-Lư Nha-Môn
(Tsong-Ly Ya-men, có thẩm-quyền như bộ Ngoại-Giao) và Li-Ping-Heng, Tuần-Phủ
Quảng-Tây. Phía tay phải ông Chaffray là ông Wang-Tche-Tchouen, Taotai de Grains
vùng Canton và ông Li-Hing-Jouei, cựu giám-đốc xưởng đóng tàu Thượng-Hải. Hàng
thứ hai, tính từ phía bên phải là bác-sĩ Néis, nhà thám-hiểm vùng Bắc Thái, Lào
và Ấn-Trung. Ông Bouinais, Đại-Úy Thủy Quân Lục Chiến, đại-diện bộ Hải-Quân. Ông
Haitce, phó lănh-sự, nhà Hán-học. Mr Hart, anh (em) của ngài Robert Hart,
Quan-Thuế Hoàng-Gia, tham-mưu cho phái-đoàn Tàu. Li-Chéou-Tien, thông dịch viên.
Trung-Tá Tisseyre, bộ tham-mưu, đại-diện bộ Chiến-Tranh. Cuối cùng là ông
Delenda, chưởng-ấn, thư-kư cho phái-đoàn Pháp. Tổng-cộng nhân-sự hiện-diện trong
tấm-h́nh (xem h́nh) chụp tại Đồng-Đăng tại buổi họp khai-mạc cho công-tŕnh
phân-định biên-giới Việt-Trung là 12 người.
Sau 2 năm
phân-định (1885-1887) và mười năm phân giới (1887-1897), đă có một số biên-bản
được kư-kết, trong đó biên-bản bế-mạc công-tŕnh phân-định biên-giới, sau nầy
gọi là « Công-Ước Bắc-Kinh 1887 » cùng với 308 cột mốc được cắm. Đường biên-giới
thuộc lănh-phận Quảng-Đông, từ Đông sang Tây, có 33 cột mốc được cắm. Các cột
mốc cắm vùng nầy là cột mốc kép (phía Việt-Nam cắm một cột số n th́ phía bên
Trung-Hoa cũng cắm một cột mốc có cùng số n). Riêng các cột mốc có số thứ-tự
17-18-19-20-21-22 là các cột chung. Đường biên-giới vùng tỉnh Quảng-Tây được
chia làm hai đoạn. Đoạn 1 từ B́nh-Nhi (điểm tính từ sông Ḱ-Cùng) cho đến điểm
giao-giới hai tỉnh Quảng-Tây và Quảng-Đông có 67 cột mốc, cắm từ Tây sang Đông.
Đoạn thứ 2 từ B́nh-Nhi đến giáp-giới tỉnh Vân-Nam có 140 cột mốc, cắm từ Đông
sang Tây. Đường biên-giới vùng Vân-Nam th́ được phân chia ra làm năm đoạn.
Phía hữu ngạn sông Hồng là đoạn thứ 5, được phân-định lại theo công-ước Gérard
năm 1895. Trong đoạn nầy th́ từ sông Hồng đến sông Đà (Rivière Noire) th́ không
cắm mốc. Từ sông Đà đến biên-giới Lào có 4 cột mốc được cắm theo thứ tự từ
Đông sang Tây. Cột thứ 1 ở « miệng núi Phúc-Ngỏa », cột thứ 2 ở « miệng núi
Chỉ-Sưởng », cột thứ 3 « giáp Mường Sa và Mường-Bun », cột thứ 4 ở « cửa trại
Sông Mặc-Ô ». Những chữ ghi trong ngoặc kép là ghi từ nguyên-văn tiếng Việt của
biên-bản cắm mốc. Chiếu theo nguyên bản tiếng Pháp th́ « miệng núi » dịch từ chữ
« col », tức là « đèo ». Vùng tả-ngạn sông Hồng, theo biên-bản phân-định th́
đường biên-giới được chia làm bốn tiểu đoạn. Nhưng bước qua việc phân-giới th́ 4
tiểu đoạn chia theo biên-bản phân-định không được tôn-trọng v́ các ủy-ban
phân-định đă bỏ sót một đoạn biên-giới. Tuy-nhiên, các ủy-ban phân-giới đă
phân-định lại đoạn biên-giới bỏ sót và cũng chia vùng biên-giới nầy thành 4 tiểu
đoạn. Đoạn thứ nhứt, đường biên-giới từ hợp-lưu của sông Hồng với sông Lũng-Pô,
xuôi theo đường trung-tuyến sông Hồng, bắt qua sông Nậm-Thi. Biên-giới đoạn nầy
là ḍng sông th́ không cắm mốc. Đoạn 2 đến từ sông Nậm-Thi đến sông Kosso (Tiểu
Đổ Chú Hà) th́ có 21 cột mốc. Đoạn ba từ Tiểu Đổ-Chú hà đến Cao-Mă-Bạch có 19
cột mốc được cắm. Đoạn 4 từ Cao-Mă-Bạch đến điểm giao-giới Vân-Nam và Quảng-Tây
gồm có 24 cột mốc được cắm. Như thế tổng-cộng gồm có : Từ sông Hồng đến biển có
304 cột mốc. Từ sông Hồng đến biên-giới Lào có 4 cột mốc. Tức là có 308 cột mốc
tất cả.
Để t́m
hiểu cột mốc lạ-lùng « ở trên sườn núi » là cột mốc nào, hợp-lư th́ ta phải
khảo sát tất cả các cột mốc cắm trên núi, trên sườn núi, dưới chân núi trong
danh-sách gồm 308 cột mốc ghi trong các biên-bản phân-giới.
Các cột
mốc được cắm trên đèo th́ có rất nhiều, viết hết ra đây th́ sẽ rườm-rà, nhưng
không viết ra th́ sợ thiếu chính-xác. Đèo, được người xưa dịch là « miệng núi »,
là đường xuyên qua núi. T́m hiểu quá-tŕnh cắm mốc 1887-1897, ta thấy những vùng
biên-giới có nhiều tranh-căi, đôi khi dẫn đến bế-tắt, là vùng biên-giới
Quảng-Đông và Quảng-Tây. Vùng biên-giới Vân-Nam do Đại-Tá Pennequin phân-giới
(1895-1897) th́ cũng có tranh-chấp nhưng những tranh-chấp này không quan-trọng.
Những cột mốc vùng biên-giới Vân-Nam được hai ủy-ban thỏa-thuận cắm tại những
điểm có nhiều người qua lại. Nhưng đây là vùng núi non, nên đa-số cột được cắm
trên đèo, là đường qua núi, thông-thương giữa các làng, xă, chợ búa ở hai nước
VN và Trung-Hoa. Dân địa-phương qua lại đều thấy, không ai lạ-lùng ǵ trước
những cột mốc như vậy. Hơn nữa, vùng biên-giới Vân-Nam không quan-trọng cho
Trung-Hoa về mặt chiến-lược. Vân-Nam, như tên gọi là « mây phương Nam », là một
vùng cao-nguyên, đất cao ngang mây, núi non hiểm-trở. Trong vùng giáp-giới với
VN không có ngọn núi nào có thể đe-dọa một thành-phố hay một vùng trù-phú ở
Vân-Nam. Ngược lại, vùng biên-giới Quảng-Tây th́ khác. Địa-h́nh vùng biên-giới
Quảng-Tây và VN là « núi liền núi, sông liền sông », nhưng núi hầu hết th́ ở
phía Việt-Nam. Phía Trung-Hoa có một số vùng là đồng-bằng. Những đồng-bằng
quan-trọng, dân-cư trù-phú là các vùng Long-Châu, Bằng-Tường, Ninh-Minh,
Thái-B́nh… Những cửa ngơ thông-thương chánh giữa VN và Trung-Hoa là những đường
qua Nam-Quan, B́nh-Nhi Quan, Thủy-Khẩu Quan… dẫn đến các địa-danh trên. Lịch-sử
quan-hệ hai nước cho thấy, VN và Trung-Hoa có nhiều lần chạm trán với nhau. Quân
Trung-Hoa đi vào VN qua các cửa ải vùng Quảng-Tây. Phe VN thắng được TH, hay
ngăn được bước tiến quân của Trung-Hoa, một phần là nhờ vào địa-h́nh tại đây
hiểm-trở.
Cột mốc
trên sườn núi mà Giang Trạch Dân đích thân can-thiệp để đưa lên đỉnh núi,
chắc-chắn phải rất quan-trọng về chiến-lược cho Trung-Hoa HIỆN NAY và tương-lai.
Tầm quan-trọng mỗi thước đất tại núi nầy tương-tự như từng mét vuông biển trong
Vịnh Bắc-Việt. Có như thế Giang Trạch Dân mới đích thân can-thiệp và xem việc
thương-thuyết nầy là một trong những điều-kiện trọng-yếu để Trung-Hoa và VN
thiết-lập bang-giao b́nh-thường. V́ vậy việc tŕnh-bày tỉ-mỉ từng cột mốc cắm
trên núi, nhất là vùng Quảng-Tây, sẽ là một việc rườm-rà cần-thiết. Vùng
biên-giới Vân-Nam đă kiểm-điểm, từ các biên-bản cắm mốc đến các nhật-kư ghi lại
việc cắm mốc, nhận thấy không có ǵ quan-trọng, không có chi-tiết nào liên-quan
đến vấn-đề, nên không nhắc.
2/ Các cột
mốc cắm trên núi :
2.1 Đoạn từ
biển đến Bắc-Cương Ải : Có 4 cột mốc, một cột không số (mốc chung) là tảng đá
lớn ở trên đỉnh núi Khanh-Hoài Lănh ; cột 2 là cột mang số 20, ở trên đỉnh ngọn
núi phân-chia thượng nguồn của hai con sông Tiểu Khanh Vi và sông Ma-Song ; cột
3 mang số 22, cắm trên ngọn Thanh-Long Lănh, cao độ 843m ; cột 4 là cột số 33,
cắm trên một ngọn đèo tọa-lạc ở giữa hai núi có độ cao 746m và 750m, cách
thung-lũng Bắc-Cương 340m về phía Nam[iv].
2.2 Đoạn từ Bắc-Cương Ải đến Chí-Mă Ải : Chiếu theo biên-bản (bản chánh) ngày 21
tháng 4 năm 1891, kư tên Frandin (Đại-Tá), Chủ-Tịch Ủy-Ban Pháp. Biên-bản nầy
chưa được Tổng-Lư Nha-Môn cũng như Công-Sứ Pháp tại Bắc-Kinh thông-qua nhưng nó
có hiệu-lực nhờ vào biên-bản kư ngày 19 tháng 6 năm 1894 giữa Đại-Tá Galliéni và
ông TaoTai Long-Châu. Thời-kỳ đại-tá Galliéni phụ-trách phân-giới th́ hai ủy-ban
Pháp và Trung-Hoa có thẩm-quyền quyết-định và kư-kết, không phải đưa về Bắc-Kinh
như trước. Biên-bản nầy công-nhận hiệu-lực những công-tŕnh phân-giới do ông
Frandin đảm-trách. Biên-bản 21 tháng 4 năm 1891 có ghi chi-tiết về vị-trí cột
mốc trong khi biên-bản chính-thức, phần chép lại các cột mốc được cắm từ
công-tŕnh Frandin, th́ không ghi chép chi-tiết về vị-trí.
Cột thứ 2
(tương-ứng số 66 theo biên-bản chính-thức 19-6-1894) cắm trên đỉnh Bắc-Cương
Sơn ; cột thứ 4 (số 63) cắm trên đỉnh Qui Tong Son; cột thứ 11 (số 57) cắm trên
đỉnh Đông-Môn Sơn ; cột thứ 20 (số 49) cắm trên ngọn Ngoc Hao Son.
[v]
2.3 Đoạn từ
Chí-Mă Ải đến Trấn-Nam Quan : Trích cùng biên-bản như đoạn 2.2 ghi trên :
Cột thứ 2
(số 41), trên đỉnh thứ nhứt, ở phía Tây-Bắc cột thứ 1 (cột thứ nhứt trên đường
từ Phai-Sam đến Chí-Mă) ; cột thứ 5 cắm trên Lo Nung Son; cột số 7 cắm trên ngọn
Na-Lộc Sơn ; cột thứ 10 (số 34) cắm trên ngọn Kim-Cương ; cột thứ 11 (số 33) cắm
trên ngọn Mỹ-Mục Sơn ; cột thứ 15 (số 29) cắm trên ngọn Tam-Tị Sơn ; cột thứ 20
(số 24) cắm trên ngọn Phái-B́nh Sơn ; cột thứ 24 (số 21) cắm trên ngọn đồi, phía
trước một công-sự Trung-Hoa (Khôn-Long)[vi].
2.4 Đoạn từ
Trấn-Nam Quan đến B́nh-Nhi Quan : Trích cùng tài-liệu như đoạn 2.2 :
Cột thứ 16
(số 3) cắm trên ngọn đồi, cách cao điểm (cote 294) 250m về phía Đông-Bắc ; cột
thứ 18 (số 1) cắm trên một ngọn đồi nh́n xuống sông Ḱ-Cùng, cách sông 150m.[vii]
2.5 Đoạn từ
B́nh-Nhi Quan đến điểm giao-giới Quảng-Tây và Vân-Nam, viết theo biên-bản
« Procès-verbal résumant les opérations de l’abornements de la province du
Kwang-Si » ngày 16 tháng 6 năm 1894 :
Cột mốc số
2, tên Khuoi Lan Son, trên sườn ngọn đồi ở phía Bắc Khuoi-Lam ;
cắm ở kế con đường ṃn. Cột mốc số 3, tên Pou-Kinh-Linh, trên ngọn đồi ở phía
Đông Na-Lương và cắm trên con đường Ti-Ngai (Tu-Ai). Cột số 6, Pou Mou Son, trên
đồi phía Tây Ban-Khio. Cột số 7, Pou Men Linh, trên đồi ở phía Tây-Nam Khuoi
Thuong (Khuoi Son). Cột số 14, Tou Na Kha, cắm bên hữu ngạn của con suối chảy
dưới chân, phía Đông của ngọn Khấu-Mai (Cao May). Cột
số 15, Khấu Mai Lĩnh (Khau-Moué), cắm trên sườn phía Đông của núi Khấu-Mai.
Cột số 16, Khấu-Mai Lĩnh, cắm dưới chân, phía Tây-Bắc của núi Khấu-Mai.
Cột số 28, Na Ho, trên ngọn đồi, phía Bắc của đập nước (mé tả ngạn của ḍng
sông). Cột số 33, Pha Duc, trên đỉnh đèo nh́n xuống thung-lũng nhỏ tên Lung Noi.
Cột số 35, Lung Loc, trên ngọn đèo phân cách hai thung-lũng Lung Loc và Lung
Han. Cột số 36, Canh Thong, trên đèo, 10m phía trước một hàng rào lớn bằng đá.
Cột số 39, Canh Sat, trên đỉnh đèo, cách làng Ban Sat khoảng 300m. Cột số 40,
Canh Song, trên ngọn đèo. Cột số 43, trên đỉnh đèo, cách làng Ban Bay khoảng
500m.Cột số 44, Khou Sen, trên đỉnh đèo phân-cách hai thung-lũng Lung Ki và Coc
Mang. Cột số 45, Nam Tan, trên đỉnh đèo phân-cách hai thung-lũng Lung Phang và
Lung Thang. Cột số 59, trên cao ngọn đèo, tại điểm mà con đường thâu hẹp lại do
những tảng đá. Cột số 60, Lung Nam, Trên đèo và ở kế con đường. Cột số 61, Lung
Hoa, trên đèo và ở kế con đường. Cột số 68, Co Gia, trên đỉnh đèo, bên lề đường
đi Lung Anh. Cột số 69, Lung Anh, cắm gần đỉnh đèo và ở dưới chân bức tường đá.
Cột số 70, Canh Khan, trên đỉnh đèo. Cột số 75, Co Chi, trên đỉnh đèo, phía Nam
và gần rào cản mé dưới Lung Man. Cột số 84, Lung Na, trên đỉnh đèo, cách rào cản
12 bước. Cột số 91, Tu Khau, trên đèo và ở gần con đường. Cột số 101, Lung Hoai,
trên đường từ Lung Hoai đến Lung Xen, tại một cái đèo do một bức tường đá tạo
thành. Cột số 102, Lung Hoai, trên đường từ Lung Hoai đến Lung Po, tại một cái
đèo nh́n xuống đồng-bằng Lung Po và đèo nầy được tạo thành do một bức tường đá.
Cột số 103, Na Lung, trên đường từ Ta Lung (Tàu) đến Kha-Yan (VN) tại nơi mà
đường nầy vượt qua đèo. Cột số 106, Lung Tai, bên lề phía Bắc của con đường từ
Lung Tai đến Nam Son, tại một cái đèo. Cột số 110, Pin Tian, trên đồi phía Nam
của con đường ṃn đi từ Tin Tiau đến Tonkin, tại điểm mà con đường nầy ra khỏi
thung-lũng của con suối Pin Thian. Cột số 111, Lung Kem, trên đèo, ở giữa hai
thung-lũng Lung Kem (Tàu) và Loc Son (VN), phía sau một ngôi nhà hoang trên
lănh-thổ VN. Cột số 115, Pau Ly, trên một trong nhiều đỉnh đồi tạo-thành đường
phân-thủy của hai phụ-lưu sông Bằng-Giang, gần một con đường đi Soc Lung. Cột số
116, Koué La, trên một đỉnh đồi tạo thành đường phân-thủy ghi trên. Cột số 117,
Koué La, cũng trên một đỉnh đồi, cách khoảng 600m cột trước, tại nơi mà đường
phân-thủy bẻ quẹo thành gốc vuông để đi về phía Nam. Cột số 118, Lung Mou, trên
một đỉnh có rất nhiều cây cối, ở phía Đông của làng Lung Mou (Tàu) . Cột số 120,
Tum Tieu Kha, trên một ngọn đồi, ở phía Tây và cách cột mốc trước khoảng 1km,
bên đường từ Lung Tao đến Bo Gai. Cột số 123, Si Ma, trên đỉnh một trái núi cao
có đường từ Nam Tien đi qua. Cột số 124, Hia Siu Xa, tại một cái đèo đi vào rất
khó-khăn, tại đó có con đường từ Po Deo (Tàu) đi ngang qua, theo hướng Bắc-Nam.
Cột số 125, Sau Siu Xa, cũng ở tại một cái đèo hiểm-trở mà tại đó có con đường
từ Pech Deo đi ngang qua, theo hướng Đông-Tây. Cột số 126, Mai Cam Sau, trên
đỉnh đèo hiểm-trở, có con đường từ Naon Lien đi ngang qua. Cột số 137, Cu Shon,
tại một cái đèo nhiều đá lởm-chởm, có con đường từ Con Chon đi ngang qua VN. Cột
số 138, tại một cái đèo nhiều đá lởm-chởm, có con đường từ Hia Tio (Tàu) đến
Lung Lang đi ngang qua. Cột số 139, Lung Bo, tại cái đèo đá lởm-chởm, có con
đường từ Lung Bo (Tàu) đến Lung Lang (VN) đi ngang qua.
[viii]
3/ Vị-trí
cột mốc trên núi Khấu-Mai (Pháp viết Khao-Moué, Cao-May):
Xem lại
tất-cả biên-bản cắm mốc và nhật-kư của các viên quan phụ-trách việc cắm mốc, ta
thấy mỗi cột mốc được cắm, ngoài công-nhân cắm mốc, c̣n có sự chứng-kiến của hai
sĩ-quan, một của Pháp và một của Tàu. Xem nhật-kư tường-thuật lại công-tŕnh
phân-giới Quảng-Tây ghi lại dưới đây ta sẽ kiểm-chứng việc nầy. Mỗi cột mốc cắm
xong đều có lập biên-bản và có chữ kư của đại-diện hai bên.
Việc mà
Giang Trạch Dân cho rằng cột mốc ở trên sườn núi là do công-nhân không đem lên
đỉnh đành bỏ lại sườn núi, là việc không thể xăy ra.
Không thể
có vấn-đề công-nhân không đem lên đỉnh, phải bỏ cột mốc nửa đường như vậy. Hai
viên sĩ-quan, một của Pháp, một của Tàu, không lẽ cùng đồng-thuận với nhau để
công-nhân bỏ cột mốc giữa chừng vậy sao ? Xem lại hồ-sơ phân-giới ta thấy hai
nên Pháp-Hoa tranh với nhau từng rẻo đất. Nếu hai vị sĩ-quan nầy cùng đem
sức-lực của ḿnh ra khiêng mốc lên núi để cắm mốc th́ ta có thể đặt giả-thuyết,
v́ leo núi mệt-mơi nên bỏ giữa chừng. Đọc lại những tài-liệu mô-tả việc tốn kém
cho nhân-sự cắm mốc ta thấy đây quả thật là một gánh nặng cho Pháp thời đó. V́
thế mà đến khoảng thời-gian ông Galliéni đảm-trách phân-giới, ông này được lệnh
phải « chấm dứt bằng mọi giá » việc cắm mốc, kể cả việc nhượng-bộ. Ta thấy
công-nhân, phía Việt cũng như Tàu, không hề thiếu. Mỗi đoàn phân-giới có đến vài
trăm người. Trong đó phu-phen đến hết 90% nhân-số.
Tóm lại,
chỉ c̣n hai giả thuyết : Cột mốc nầy bị dời từ trên đỉnh xuống hoặc đă được cắm
ở đó theo công-ước.
Theo một
tài-liệu, c̣n xếp vào loại mật, số 23132/0, ngày 16 Octobre 1948, của một
nhân-viên của Sở Địa-Dư Đông-Dương (Service Géographique), có nhiều cột mốc
trong tỉnh Lạng-Sơn bị dời đi. Cột mốc Khấu-Mai có bị dời đi không ?
Chiếu theo
danh-sách những cột mốc được cắm trên núi ghi trên (ngoại-trừ vùng Vân-Nam), ta
thấy có một số cột mốc được cắm trên sườn đồi và sườn núi. Đó là : Cột mốc số 2,
tên Khuoi Lan Son, trên sườn ngọn đồi ở phía Bắc Khuoi-Lam. Cột số
14, Tou Na Kha, cắm bên hữu ngạn của con suối chảy dưới chân, phía
Đông của ngọn Khấu-Mai (Cao May). Cột số 15, Khấu Mai Lĩnh,
cắm trên sườn phía Đông của núi Khấu-Mai. Cột số 16, Khấu-Mai Lĩnh,
cắm dưới chân, phía Tây-Bắc của núi Khấu-Mai. Các cột mốc nầy ở trên
biên-giới giữa Lạng-Sơn và Quảng-Tây, thuộc huyện Thất-Khê, phủ Tràng-Định tỉnh
Lạng-Sơn.
Giả-thuyết
cột mốc dời xuống sẽ không ổn, v́ không ai dời mốc mà đem phần thiệt-hại về cho
ḿnh hết cả. Bởi v́ tất-cả hồ-sơ tố-cáo việc dời mốc cho thấy tắc-giả các vụ dời
mốc là phía người Hoa. Không người Hoa nào ra công lên núi bưng cột mốc chạy về
phía ḿnh hết cả.
V́ thế, cột
mốc trên sườn núi mà Giang Trạch Dân đề-cập sẽ là một trong những cột mốc cắm
trên sườn núi. Đó là cột mốc số 2 hay cột số 15. Hai cột mốc nầy cùng nằm trong
đoạn biên-giới từ B́nh-Nhi Quan cho đến Thủy-Khẩu Quan. Cột số 2 không có tầm
quan-trọng chiến-lược, nhưng cột số 15 có tầm quan-trọng cực-kỳ. Ta sẽ
kiểm-chứng yếu-tố nầy ở vài hàng dưới đây.
Ta thấy có
đến 3 cột mốc được cắm chung-quanh ngọn Khấu-Mai : Cột 14 dưới chân phía Đông,
cột 15 cắm trên sườn phía Đông, cột 16 dưới chân phía Tây-Bắc. Hiếm thấy việc
tỉ-mỉ nầy trên biên-giới Việt-Trung. Chưa hết, ngày 2 tháng 3 năm 1936, lúc 15
giờ, biên-bản cắm cột mốc số 14 bis được kư-kết giữa các ông : Đại-Úy
Chubilleau, Ủy-Viên Hành-Chánh Thất-Khê ; Đinh Văn Trân, Tri-Phủ Tràng-Định với
quí ông : Ha Cho Ly, Ủy-Viên Cảnh-Sát Thủy-Khẩu ; Ho Tchau Wan, Thư-Kư Cảnh-Sát
Biên-Giới Thủy-Khẩu. Cột 14 bis có ghi : Frontière Sino-annamite ; Borne
14-bis ; 580 mètres Sud-ouest de la borne 14 ; Est, Sud-Est de la borne 15. Cột
14 bis cách cột 14 là 580m về phía Tây-Nam ; cột ở phía Đông Đông-Nam cột số 15.
Việc nầy
cho thấy chung-quanh cột 15 đă có những tranh-chấp sau này.
Nhưng cột
15 được cắm trên sườn núi th́ nó cách đỉnh là bao nhiêu ? Biên-bản cắm mốc không
ghi chi-tiết nầy.
Nhưng
nhật-kư của Ủy-Ban Phân-Giới[ix]
do Đại-Tá Servière, sau đó là Đại-Tá Galliéni cầm đầu có ghi lại tỉ-mỉ : Đất của
tổng Đèo-Lương đă đem đổi lấy đỉnh ngọn núi Khấu-Mai (Khau-Moué, Cao-May hay
Khao-Moué).
Những đoạn
quan-trọng liên-quan đến ngọn Khấu-Mai trích ra như sau:
Ngày 30
tháng 11. Các ủy-viên Tàu cắm cột mốc số 15 tại núi Khau-Moué, thuộc đất
An-Nam, bất-chấp sự phản-đối của ủy-viên Pháp. Việc trục-trặc nầy được
báo-cáo cho Đại-Tá qua một công-hàm.
….
Ngày 2 tháng
12. Ông Dumat trở về Long-Châu.
Ngày 4 tháng 12. Ông Dumat đến nha-môn
Tổng Lư Đại
Thần với
thông-dịch-viên Tchang-Chai-Yin, để phản-đối việc cắm cột mốc trên núi
Khau-Muoé. Ông quan Tổng-Lư
Đại-Thần
(tức ông Tao-Tai Long-Châu, Tri-Phủ Long-Châu, có tên là Tsai Hai Pin, ghi-chú
tg) dường như công-nhận nguyên-tắc việc khiếu-nại của
chúng ta nhưng nói rằng việc nầy sẽ bàn-luận sau với Đại-Tá
(tức đại-tá Servière, ghi-chú tg).
....
Họp giữa
quan Tổng-Lư Đại-Thần và Lănh-Sự Pháp. Trong buổi họp viên quan nầy nói
chắc-chắn rằng những thương-thảo của Ủy-Ban (1892) đă cho Tàu phân nửa núi
Khau-Moué. Ông ta hứa với Đại-Tá Servière phía Tàu sẽ không xây thành-lủy trên
núi nầy. TLĐT cũng nói rằng sẵn-sàng thương-lượng việc nầy với Ủy-Ban Pháp,
nhưng chỉ trên những điểm căn-bản. (Ông này nói thế nhưng không có văn-thư ǵ,
ghi-chú tg)
….
18 tháng 12.
Ông Dumat trở về Long-Châu sau khi cắm được 13 cột mốc, từ 7 tháng 12 đến 13
tháng 12. Hầu hết các cột mốc nầy đều lấn sang An-Nam. (Ba cột mốc được
dời đi sau nầy)
…..
Ngày 27 và
28 tháng 12. Lănh-Sự Pháp tại Long-Châu đến Lạng-Sơn để gặp ông Đại-Tá Galliéni
để bàn công-việc v́ ông nầy vừa nhận chức chỉ-huy trưởng Vùng II Quân-Sự và
kiêm-nhiệm luôn trọng-trách phân-giới. Đại-Tá Galliéni tỏ ư muốn nhượng-bộ
trên vấn-đề Đèo-Lương nhưng với điều-kiện phải được đền-bồi tương-xứng
để có được một đường biên-giới thiên-nhiên thật tốt
….
24 tháng 5.
Trung-Úy Quérette viết rằng hai cột mốc 26 và 27 đă bị Tàu làm bể, và cắm lại
phạm sâu vào lănh-thổ An-Nam nhiều cây-số. Cdt Famin khiếu-nại tức th́ với
Taotai, yêu-cầu ông nầy gởi đến lập-tức Thủy-Khẩu một ủy-viên để cắm lại các cột
mốc, chung với Trung-Úy Quérette. Cùng lúc, ông nêu lên vấn-đề tại
Khau-Moué-Ling, tại đây hai cột mốc cắm sai vị-trí, bất-kể những lời b́nh-nghị
của các sĩ-quan ủy-viên Pháp. Ông Taotai trả lời rằng các cột mốc 26 và 27 đă
được cắm đúng chỗ của chúng lần đầu tiên, tuy vậy, chừng nào mà ủy-viên đă cắm
chúng cùng với ông Quérette hiện thời không có mặt tại Long-Châu trở về lại, vị
ủy-viên nầy sẽ được gởi đến gặp ông Quérette để nghiên cứu vấn-đề. Về phần
Khau-Moué, nguyên-nhân rắc rối, ông Taotai sẵn ḷng dời các cột mốc chút ít và
ủy-viên đi kèm với ông Dumat, sau khi kết-thúc công việc ở các cột mốc 26 và 27
sẽ đến Khau-Moué. Vậy hiển-nhiên đây là một cách từ-chối khéo. Ông Taotai muốn
kéo dài công việc, bởi v́ ông Khao, ủy-viên đi kèm với ông Dumat th́ hiện-diện
tại Long-Châu.
….
29 tháng 5.
Thư của ông Détrie nói rằng các viên quan đ̣i phân nửa núi Khau-Moué. Không thể
dời cột mốc số 15 trong t́nh-trạng nầy. Mặc khác, cột mốc số 16 cũng cắm không
đúng chỗ.
30 tháng 5.
Ông Khao trở về Long-Châu; ông đă thay cột mốc số 26, nhưng không muốn thay cột
mốc số 27, v́ ông cho rằng cột nầy đă ở đúng vị-trí của nó. Sau một hồi lâu
thảo-luận giữa các ông Tchang, Tcheou, và Khao, mọi người đồng-ư rằng cột số 27
sẽ được cắm lại. C̣n về Khau-Moué, dường như không làm ǵ được, ông Taotai trả
lời bất-chấp mọi b́nh-nghị, kể cả những lời khuyên của các viên quan: Tôi
không hiểu bản-đồ, nhưng Khau-Moué phải thuộc về Tàu.
….
2 tháng 6.
Đến Ha-Dong, nơi đây mọi người gặp Trung-Úy Détrie. Sau vài phút bàn thảo, mọi
việc đều được dàn-xếp. Hai bên trao đổi những câu văn sẽ được khắc lên các cột
mốc, qua đó phía người Pháp cam-kết không xây thành-lũy trên ngọn Khau-Moué, đổi
lại, phía Tàu cho phép lưu-thông trên các con đường qua Tàu, ở dưới chân ngọn
Khau-Moué. Commandant Famin nhấn mạnh với Taotai rằng: “Mọi việc dàn xếp
ổn-thỏa, ông không c̣n làm khó được nữa và ông biết rằng các cột mốc không thể
dời xa hơn 1 lư!” Ông Taotai trả lời: “Không c̣n những khó-khăn có thể nữa; quí
ông có thể cắm mốc dưới chân Khau-Moué!”
….
7 tháng 6.
Tướng Su (Sử Kinh Báo, ghi-chú của tg) đến nơi. Công việc thỏa-thuận ngay
tức-khắc, hầu như không tranh-luận rằng cột mốc số 15 ở trên đỉnh sẽ được dời
xuống cắm ở triền núi; cột số 14 th́ không thay đổi; cột số 16 th́ sẽ dời xuống
triền của đỉnh Cao-Danh. Phía bên Pháp cam-kết sẽ không xây trên đỉnh Khau-Moué,
ngược lại, họ được phép đi lại tự-do trên các con đường bên Tàu, đi qua dưới
chân phía Tây của núi Khau-Moué. Tướng Su chỉ định một viên quan thuộc nha-môn
của ông là ông Léang để đi kèm với Trung-Úy Détrie đến Khau-Moué.
….
Tướng Su
yêu-cầu rằng người ta sẽ khắc lên cột mốc tại đĩnh Khau-Moué rằng núi nầy xem
như là vùng trung-lập. Nhưng Commandant từ-chối quyết-liệt và nói thêm rằng ông
không muốn làm việc với viên quan tên Khao, v́ ông nầy chỉ tạo chuyện khó-khăn,
không cần phải gởi ông ta lên Khau-Moué và ra lệnh cho ông Détrie trở về liền
nếu ông Khao phụ-trách công việc.
….
9 tháng 6.
Trung-Úy Détrie và một viên quan Trung-Hoa lên đường đi Khau-Moué.
11 tháng 6.
Ủy-viên của tướng Su trở về Long-Châu. Ông nầy cho rằng chúng ta hữu-lư nhưng
giải-thích rằng cột mốc trên đỉnh phải dời đi rất xa so với vị-trí hiện-tại.
Tướng Su, v́ không muốn phần lỗi về phía ông Taotai, muốn chia phần sai biệt ra
làm hai. Cdt Famin tuyên-bố rằng ông ta không thể chấp-nhận đề-nghị nầy. Dầu
vậy, trong một cuộc nói chuyện vào buổi xế với tướng Su, Cdt đồng-ư đưa vấn-đề
nầy lên Đại-Tá Galliéni, chỉ rơ vị-trí mới là chỉ nhượng cho phía Pháp có 200
thước tính từ đỉnh Khau-Moué (Tất-cả những cao-điểm khác đều thuộc về chúng ta).
Đại-Tá Galliéni v́ muốn dứt-điểm bằng mọi giá, nên trả lời: Đồng ư. Câu trả lời
nầy chuyển đến tướng Su tức th́. Ủy-viên của tướng Su lên đường trong đêm đó để
đến Khau-Moué, mang theo những dặn-ḍ của Cdt Famin đến với Trung-Úy Détrie.
….
13 tháng 6.
Trung-Úy Détrie trở về Long-Châu. Đúng như những ǵ đă thỏa-thuận, cột mốc số 14
chuyển đi, cột 15 dời xuống khoảng 200 mét ở về triền phía Đông của đỉnh
Khau-Moué. Cột số 16 dời xuống triền phía Đông của đỉnh Cao-Danh.
….
18 tháng 6.
Colonel gởi văn thư cho Taotai để cam-kết rằng người Pháp sẽ không xây trên đỉnh
Khau-Moué một công-sự lớn lao nào, ngoài một lô-cốt nhỏ khoảng 30 người. Ông
Taotai gởi văn thư cho Đại-Tá qua đó công-nhận quyền lưu-thông tự-do của người
Pháp trên những con đường thuộc Tàu, đi qua chân núi phía Đông Khau-Moué.
Đọc lại một
phần tài-liệu nầy ta thấy việc cắm mốc tại Khấu-Mai khó biết bao nhiêu. Viên
sĩ-quan Pháp cắm mốc tại Khấu-Mai là Trung-Úy Détrie. Tiên khởi th́ những
ủy-viên người Hoa đă cắm mốc trên đỉnh núi nầy vào ngày 30 tháng 11 năm 1893,
bất-chấp sự phản-đối của ủy-viên Pháp. Ngày 13 tháng 6 năm 1894, cột mốc này bị
nhổ lên và đem xuống cắm tại sườn núi. Ông tướng Sử Kinh Báo năn-nỉ, lấy lư-do
đem mốc xuống nặng-nề khó-nhọc, viện thêm lư-do giữ thể-diện cho ông Tao-Tai,
đề-nghị chia khỏang-cách ra làm hai, cột mốc v́ vậy được cắm trên sườn, cách
đỉnh 200m. Ông tướng này cũng xin-xỏ « trung-lập hóa » đỉnh núi nầy, nhưng chỉ
thành-công một nửa. Người Pháp cam-kết không đặt công-sự lớn,
nhưng đặt một lô-cốt 30 người trên đỉnh. Vị-trí chính-thức
cột mốc 15 là : trên triền phía Đông núi Khấu-Mai và cách
đỉnh 200m.
Đây là một
trái núi có tầm chiến-lược quan-trọng v́ nó nh́n xuống Long-Châu, Bằng-Tường,
tức kiểm-soát cả những vùng nầy. Chính v́ thế mà viên Tổng-Lư Đại Thần là
Tri-phủ Long-Châu nhứt-định dành núi nầy : « Tôi không hiểu bản-đồ nhưng
Khau-Moué phải thuộc về Tàu ». Tướng Sử Kinh Báo, một nhà quân-sự, yêu-cầu
trung-lập hóa Khấu-Mai. Trong khi Đại-Tá Galliéni đă nhượng đất thuộc tổng
Đèo-Lương để « có một đường biên-giới thiên-nhiên thật tốt ». Trái núi nầy là
cây đinh trong mắt người Hoa. Nó c̣n của Việt-Nam th́ không dễ ǵ quân Tàu tiến
quân sang VN qua lối Quảng-Tây. Cũng v́ việc nhượng đất Đèo-Lương mà thác
Bản-Giốc hiện nay có tranh-chấp chủ-quyền. Đèo-Lương là phần đất ở Đông-Bắc tỉnh
Cao-Bằng, có lẽ trước thuộc phủ Trùng-Khánh. Phía Tây-Bắc đất Đèo-Lương là thác
Bản-Giốc. Nếu không mất Đèo-Lương sẽ không có tranh-chấp Bản-Giốc, thác nầy sẽ
nằm sâu trong lănh-thổ Việt-Nam 2km.
III/ Kết-Luận :
So với Hiệp-Ước Biên-Giới kư tháng 12 năm 1999, ta thấy núi Khấu-Mai ở khoảng
giữa hai « giới-điểm » 41 và 46, tương-ứng với Thủy-Khẩu Quan và B́nh-Nhi Quan.
Từ giới-điểm 42 đến giới điểm 44, có 3 đoạn biên-giới bị thay đổi. Đó là các
đoạn biên-giới « theo đường đỏ ». Núi Khấu-Mai phải ở một trong các « đường đỏ »
nầy. Nhưng hiện nay ta không thể kiểm-chứng v́ không có bản-đồ đính kèm
hiệp-ước.
Theo bản-đồ
của sở Địa-Dư Đông-Dương th́ Trung-Hoa chỉ được một góc nhỏ của núi Khấu-Mai
(bản-đồ đính kèm).
Bấy nhiêu
bằng-chứng cho thấy người Hoa, xưa nay, bằng mọi giá muốn « nuốt » ngọn
Khấu-Mai. Người viết dám quả-quyết rằng cột mốc mà Giang Trạch Dân, nguyên Tổng
Bí-Thư đảng CS Trung-Hoa, đề-cập phải là cột mốc trên sườn phía Đông của núi
Khấu-Mai.
Trung-Hoa
đă nuốt hay chưa, c̣n lại cho Việt-Nam bao nhiêu, những nhân-viên phân-giới hiện
nay ở Việt-Nam ắt phải biết. Ông Nguyễn Chí Trung chắc cũng biết. Nhưng dễ ǵ họ
mở miệng. Họ chỉ mở miệng để « choảng » nhau, để thanh-tóan nhau, hay để
tranh-dành quyền-lực với nhau. Những chuyện « bán nước, buôn dân » chuyện là
bí-mật quốc-gia, phải ngậm miệng mới ăn tiền.
Tóm lại, ít
nhất 2 trong 10 điều Lê Đức Anh tố-cáo Lê Khả Phiêu có dựa trên sự thật.
Ông Nguyễn
Chí Trung thấy sao ?
Pháp-Quốc,
những ngày cuối năm,
Trương Nhân
Tuấn
[ii] Nguyên-văn phần nhập-đề :
HỎI: Thực chất từ đại hội đảng
IX trở về trước (từ thập kỷ 90 TK20) là vấn đề ǵ?
-Vấn đề cá nhân hay chính trị ?
-Quan điểm đường lối hay nhận thức
-Tác phong, phương pháp hay thủ đoạn lật đổ??? Và bắt nguồn từ đâu???
-ĐÁP: (Đọc để tự hiểu tu thân, không bàn, phê phán hay phổ biến ).
[iii] Nguyễn Chí Trung tố lại Lê
Đức Anh như sau : « LĐ Anh lộng quyền muốn thống lĩnh quân đội , biến
quân đội theo ư đồ riêng của ḿnh, xích gần với Mỹ (bởi v́ lịch sử chính trị
của Anh c̣n mờ ám, không phải là đảng viên. » . Cũng từ tài liệu nầy
chúng ta thấy Lê Khả Phiêu và nhóm ủy-viên trung-ương miền Trung « đấu »
Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Mạnh Cầm, Vũ Oanh, Trần Bạch Đằng (đứng sau lưng Vơ Văn
Kiệt)… là những người chủ-trương bỏ XHCN (26-6 đến 1 tháng 7 năm 1996).
Nguyễn Chí Trung cũng khen-ngợi Lê Khả Phiêu : « 1.- Kiên định con đường
tiến lên CNXH , giữ vững định hướng XHCN .
2.- Đối ngoại giữ vững độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế ( hoà nhập chứ
không hoà tan ).
3.- Đối nội đề ra cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng… ».
Tuy-nhiên, trong hồi-kư của Trần
Quang Cơ, nguyên Thứ-Trưởng bộ Ngoại-Giao, viết lại th́ vào ngày 5 tháng 9
năm 1990, sau cuộc họp giữa các cán-bộ chóp-bu hai nước VN và Trung-Hoa tại
Thành-Đô (thủ-phủ Tứ-Xuyên) th́ Lê Đức Anh có nói như sau : “ Mỹ và
phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên
bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rơ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm. Ta phải t́m đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” Việc nầy
cho ta thấy lập-trường Lê Đức Anh về Trung-Hoa và Hoa-Kỳ chưa rơ-rệt. V́
thế, lời « tố-cáo » của Nguyễn Chí Trung cho rằng Lê Đức Anh muốn theo
Hoa-Kỳ th́ không rơ-ràng, không có ǵ chứng-minh.
Hiện nay, trong nước cũng như
hải-ngọai, xôn-xao vụ tướng Nguyễn Nam Khánh « đập » Lê Đức Anh và đàn em là
Nguyễn Chí Vịnh. Nghe nói có Đại-Tướng Vơ Nguyên Giáp đứng sau Nguyễn Nam
Khánh. Nhưng liệu đứng sau Vơ Nguyên Giáp có Lê Khả Phiêu hay không ? V́
theo tài-liệu của Nguyễn Chí Trung, Ông Giáp đứng sau ủng-hộ Lê Khả Phiêu
trong nhiều chuyện. Việc không kư hiệp-ước thương-măi với Hoa-Kỳ là một. Lê
Khả Phiêu hận Lê Đức Anh lắm, mười điều ông Anh tố ông Phiêu làm ông này
« phiêu » luôn chức tổng bí-thư. Có phải đây là thời-điểm Lê Khả Phiêu rửa
hận hay không ?
[iv] Nguyên-văn tiếng Pháp trích từ
biên-bản phân-giới kư ngày 29 tháng 12 năm 1893:
BORNE NON NUMEROTEE.
est
représentée par un rocher très visible au sommet du Khanh hoaï Lanh et sur
lequel les inscriptions communes aux deux puissances sont gravées.
BORNE COMMUNE n° 20
au sommet de la montagne qui
sépare le cours supérieur de la rivière de Tieu Khanh Vi et celui de la
rivière de Ma-Song.
Repérage (azimuths magnétiques)
sommet du Khanh hoaï
Lanh
101°
sommet du Tieu Khanh
Lanh
145°
BORNE COMMUNE n° 22
au sommet du (en annamite Thanh
Long Lanh, en chinois Te’ing Loung Lin) côté 843.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du (en annamite Loc Dang
Lanh, en chinois Lou Teng Ling) 149°
Sommet de (en annamite Truong Nhi,
en chinois Tchang Eurl) 204°
BORNE COMMUNE n° 33
au col situé entre les côtes
746 et 750 ; à 340 métres au S ; de la vallée de Bac Cuong Aï.
[v]
Nguyên-văn tiếng Pháp trích từ biên-bản 21 tháng 4 năm 1881 :
2e
borne : sur le sommet de Pac-Cong-Son
4e
borne : sur le sommet de Qui-Long-Son
11e
borne : sur le sommet de Long-Mong-Son (có thể viết lộn Long, thay v́ Tong,
chiếu theo nguyên bản chữ Hán đọc là Đông).
20e
borne : au sommet de Ngoc-Hao-Son
[vi] Nguyên văn tiếp Pháp như sau :
2e
borne : sur le premier sommet au N-O et à 800m de la 1e borne
5e
borne : sur le sommet de Lo-Nung-Son
7e
borne : au sommet de Na-Loc-Son (côté 409)
10e
borne : au sommet de Kim-Kam (côté 402)
11e
borne : au sommet de Mey-Moc-Son
15e
borne : au sommet de Sam-Sie-Son
20e
borne : sur le sommet de Paï-Binh-Son
24e borne : sur le
sommet placé face du fort chinois de Kouei-Tao
[vii] Nguyên-bản tiếng Pháp :
16e
borne : sur le mamelon situé à 250m au N.E. du point coté 294
18e borne : sur un
mamelon dominant le Song Ki-Cung à 150m de la rivière
[viii]
Nguyên văn tiếng Pháp như sau :
N° 2, Khuôi Lan Sơn, sur la pente
du mamelon au côté Nord de Khuoi Lam. A côté du chemin.
N° 3, Pou Kinh Linh, sur le
mamelon à l’Est de Ka-Luong et sur le chemin de Ti-Ngai (Tu-Ai).
N° 6, Fou Mou Son, sur le mamelon
à l’Ouest de Ban-Khio.
N° 7, Pou Men Linh, sur le mamelon
au S-E de Khuoi Thuong (Khuoi Son).
N° 14, Tu Na Kha, sur le rive
droite de l’arroyo au pied et à l’Est du Cao-May.
N° 15, Khau Moy Linh, sur le
versant Est du Khau-Moy.
N° 16, Khau Moy Po, au pied et au
N.O. du Khau Moy.
N° 28, Na Ho, sur le mamelon au N.
du barrage (rive droite de la rivière).
N° 33, Pha Duc, Au haut du col qui
domine le petit cirque de Lung Noi
N° 35, Lung Loc, Au haut du col
qui sépare les cirques de Long Loc et de Lung Han
N° 36,Canh Tong, Au haut du col à
10 m en avant d’une grande barricade en pièrres sèches
N° 39, Canh Sat, Au haut du col et
à environ 300m du village de Ban Sat
N° 40, Canh Song, Au haut du col
N° 43, Canh Khou, Au haut du col à
environ 500m du village de Ban Bay
N° 44, Khou Sen, Au haut du col
qui sépare les cirques de Lung Ki et de Coc Mang
N° 45, Nam Tan, Au haut du col qui
sépare les cirques de Lung Phan et de Lung Thang
N° 59, Da Giao Kha, En haut du col
à l’endroit où les rochers rétrécissent le passage
N° 60, Lung Nam, En haut du col au
bord du chemin
N° 61, Lung Hoa, En haut du col au
bord du chemin
N° 68, Co Gia, En haut du col, au
bord du chemin de Lung-Anh
N° 69, Lung Anh, Presque en haut
du col au pied d’une muraille rocheuse
N° 70, Canh Khan, En haut du col
N° 75, Co Chi, En haut du col, au
S et près de la barricade au dessus de Lung-Man
N° 84, Lung Na, En haut du col
rocheux à 12 pas au SE de la barricade
N° 91, Tu Khau, Dans le col et
près du chemin
N° 101, Lung Hoai, Sur la route de
Lung-Hoai à Lung-Xen à un col formé par un mur en pièrres sèches
N° 102, Lung Hoai, Sur la route de
Lung-Hoai à Lung-Po à un col fermé par un mur en pierres sèches qui domine
la plaine de Lung-Po
N° 103, Na Lung, Sur la route
allant de Ta-Lung (Chine) à Kha-Yan (Ton-Kin) au point où elle traverse un
col
N° 106, Lung Tai, Sur la bordure N
du chemin allant à Lung-Tai à Nam-Son (Tonkin) à un col traversé par ce
chemin
N° 110, Pin Tian, Sur un mamelon
au S d’un sentier allant de Pin-Tiau au Tonkin à l’endroit où ce sentier
sort de la vallée de l’arroyo de Pin-Thian
N° 111, Lung Kem, A un col entre
les cirques de Lung-Kem (Chine) à Loc-Son (Tonkin) derrière une maison
isolée qui appartient à l’Annam
N° 115, Pau-Ly, Sur un des
mamelons qui forment la ligne de partage des eaux des deux affluents du
Sung-Bang-Giang près d’un chemin allant à Soc-Lung
N° 116, Koué La, Sur un mamelon de
la même ligne de partage des eaux
N° 117, Koué La, A l’environ 600m
de la précédente, sur un sommet, à l’endroit où la ligne des mamelons tourne
à l’angle droit pour prendre la direction du S
N° 118, Lung Mou, Sur un sommet
très boisé à l’Est du village de Lung-Moù (Chine)
N° 120, Tum Tieu Kha, Sur un
mamelon à l’Ouest et à environ 1Km de la précédente sur un chemin de
Lung-Tao à Bo-Gai
N° 123, Si Ma, En haut d’une
montagne élevée où passe un chemin venant de Nam-Tien
N° 124, Hia Siu Xa, A un col
d’accès difficile traversé par un chemin venant de Po-Dèo (Chine) et dont la
direction est à peu près N.S.
N° 125, Sau Siu XaA un col d’accès
difficile traversé par un chemin venant de Pech-Dèo (Chine) et dont la
direction est à peu près Est-Ouest.
N° 126, Mai Cam Sau, En haut d’un
col d’accès difficile traversé par un chemin venant de Naon-Lien
N° 137, Cu Shon, Au col rocheux
traversé par un chemin venant de C̣n Chon et passant en Annam
N° 138, Hia Thio, Au col rocheux
traversé par le chemin de Hia-Tio (Chine) à Lung-Lang (Tonkin)
N° 139, Lung Bo, Au col rocheux
traversé par le chemin de Lung-Bô (Chine) à Lung-Lang (Ton-Kin)
[ix] Xem nguyên-bản nhật-kư cũng
như bản dịch của tác-giả tại trang nhà :
www.bgvn.net