| ||||||
|
Saigon Nhỏ ngày 29.7.2005 Tú GànWestmoreland và chiến tranh Việt NamHôm 18.7.2005, Đại Tướng William Childs Westmoreland đă qua đời tại viện dưỡng lăo Bishop Gadsden ở Charleston, South Carolina, nơi ông sinh sống trong 5, 6 năm qua với vợ, hưởng thọ 91 tuổi. Cơ quan truyền thông Hoa Kỳ đă nói rất ít về cái chết của ông, mặc dầu ông đă đóng một vai tṛ quan trọng trong chiến tranh Việt Nam, và chiến lược, chiến thuật của ông đă một thời gây tranh luận sôi nổi tại Hoa Kỳ. H́nh như người Mỹ muốn quên ông như muốn quên chiến tranh Việt Nam. Nhưng người Việt tỵ nạn khó quên được ông v́ những ǵ ông đă làm cho Việt Nam Cộng Ḥa, kể cả sau khi thất trận. Nhân sự ra đi của ông, chúng tôi xin nhắc lại một số tranh luận về cách thức điều khiển cuộc chiến Việt Nam của ông để từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm. VÀI NÉT VỀ TƯỚNG WESTMORELAND Đại Tướng William Childs Westmoreland sinh ngày 26.3.1914 tại Saxon, Spartanburg county, South Carolina. Ông tốt nghiệp Trường Vơ Bị West Point năm 1936 lúc 22 tuổi, sau đó phục vụ trong Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, chiến đấu từ Bắc Phi đến Sicily và Âu Châu. Năm 1944, ông được thăng lên Đại Tá khi mới 30 tuổi. Năm 1947 ông phục vụ trong Sư Đoàn 82 Nhảy Dù của Hoa Kỳ với chức vụ Tham Mưu Trưởng và chiến đấu tại Triều Tiên. Năm 1955, ông trở về làm Tổng Thư Kư Bộ Tổng Tham Mưu, dưới quyền điều khiển của Tướng Maxwell D. Taylor, sau đó đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 101 Nhảy Dù của Hoa Kỳ. Từ năm 1960 đến 1963, ông làm Giám Đốc Trường Vơ Bị West Point. Năm 1964, ông đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Nhảy Dù Hoa Kỳ. Tháng 6 năm 1964, ông được cử làm Chỉ Huy Trưởng Cơ Quan Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) thay thế Tướng Paul Harkins. Năm 1965, ông được tạp chí Time bầu làm “Man of the Year” với lời ca tụng ông như là “hiện thân dũng cảm của một người Mỹ đang chiến đấu”. Nhưng hai năm sau, ông bị sử gia Arthur M. Schlesinger Jr. phê phán: “Wesmoreland có thể ch́m xuống trong lịch sử như là một tướng đại bất hạnh kể từ Custer”. Ông bị chỉ trích nặng nề về chiến thật “lùng và diệt” (search and destroy) và không tiên liệu được biến cố Tết Mậu Thân. Tháng 7 năm 1968, Tổng Thống Johnson đă cử Tướng Creighton Abrahams thay thế ông. Ông trở về Mỹ và làm Chủ Tịch Tham Mưu Liên Quân. Ngày 30.6.1972 ông về hưu sau 36 năm phục vụ trong quân ngũ. Hai năm sau, ông được Đảng Cộng Ḥa đưa ra ứng cử Thống Đốc bang South Carolina, nhưng ông chỉ được có 43% tổng số phiếu. Năm 1974, ông cho xuất bản cuốn hồi kư có tên là “A Soldier Reports” (Người Lính Phúc Tŕnh) nói về cuộc đời binh nghiệp của ông. Cuốn hồi kư này đă gây nhiều tranh luận. Tháng giêng năm 1982, hăng Columbia Broadcasting System (CBS) và kư giả Mike Wallace đă cho mở trên hệ thống truyền h́nh của hảng này một chương tŕnh có tên là “The Uncounted Enemy: A Vietnam Deception” (Kẻ thù không đếm được: Sự dối trá Việt Nam), cho phổ biến những tài liệu tố cáo Tướng Westmoreland và bộ tham mưu của ông đă công bố những con số thiệt hại không thật của Cộng quân để tạo ra những sự tiến bộ biểu kiến về cuộc chiến Việt Nam với kết luận: “Tướng Westmoreland không yêu nước và không trung thành khi thi hành nhiệm vụ của ḿnh.” Tướng Westmoreland đă kiện CBS và kư giả Mike Wallace đ̣i bồi thường 120 triệu Mỹ kim v́ đă phỉ báng ông. Ṭa bắt đầu xét xử vụ này kể từ 9.10.1984. Hai luật sư của Tướng Westmoreland là Dan M. Burt và David M. Dorsen dẫn chứng được rằng nhiều tài liệu đưa ra đă bị dẫn giải sai. Nhưng v́ Tướng Westmoreland là một người nổi tiếng (public figure) nên c̣n phải chứng minh các bị đơn đă có ác ư (malice) mới có thể được bồi thường thiệt hại. Sau nhiều cuộc thương lượng kéo dài, ngày 18.2.1985, Tướng Westmoreland và hăng CBS đă đi đến thỏa thuận như sau: Ông từ bỏ vụ kiện, c̣n hăng CBS phổ biến một lời tuyên bố nói rằng hăng kính trọng sự phục vụ của Tướng Westmoreland và “không bao giờ có ư định quả quyết hay không tin tưởng rằng Tướng Westmoreland không yêu nước và không trung thành...” CHIẾN THUẬT “LÙNG VÀ DIỆT” Khi đến làm Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, Tướng Westmoreland nhận thấy rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh không có giới tuyến, nên ông đă đưa ra chiến lược như sau: Bảo vệ vùng duyên hải và ngăn chận đường xâm nhập của Cộng quân, sau đó xử dụng chiến thuật “lùng và diệt” (search and destroy) để làm tiêu hao lực lượng của Cộng quân trên toàn lănh thổ miền Nam Việt Nam. Chiến thuật “lùng và diệt” đặt căn bản trên sự tin tưởng rằng hỏa lực và kỷ thuật của Hoa Kỳ vượt trội hơn Cộng quân nên quân đội Hoa Kỳ có thể phát hiện những nơi có địch và đến tiêu diệt chúng. Các đơn vị mở cuộc tấn công phải là cấp tiểu đoàn trở lên, với quân số ít nhất là 750 người. Các đơn vị này được chuyển vận bằng trực thăng với sự yểm trợ của pháo binh, tiến vào những nơi có lực lượng Cộng quân trú đóng và tiêu diệt chúng. Các đơn vị này cũng có thể mở các cuộc hành quân thẳng vào các căn cứ địa của Cộng quân. Nhưng mục tiêu của các cuộc hành quân là tiêu diệt địch chứ không phải chiếm lănh thổ. Sau khi “t́m thấy, tấn công và thanh toán” (find, fix, and finish) địch, đơn vị tấn công trở về căn cứ của ḿnh và đợi lệnh mở cuộc hành quân khác. Sư Đoàn 173 Nhảy Dù vừa đến Việt Nam ngày 7.5.1965 đă được Tướng Westmoreland cho triển khai ngay ở Cao Nguyên Trung Phần. Hai ngày sau, 3.000 quân của sư đoàn này đă được tung vào Chiến Khu D, khoảng 20 dặm ở phía tây bắc Sài G̣n. Nhưng v́ các đơn vị này được huấn luyện và trang bị để chiến đấu ở Âu Châu, nên gặp rất nhiều khó khăn khi phải chiến đấu trong rừng rậm ở Việt Nam. Tướng John P. McConnell, Tham Mưu Trưởng Không Quân, và Tướng David M. Greene, Tư Lệnh Hải Quân, đă phản đối mạnh mẽ chiến thuật của Westmoreland. Tướng James Gavin lên tiếng kêu gọi quân đội Hoa Kỳ nên giới hạn sự yểm trợ Quân Lực VNCH trong việc thiết lập một số đầu cầu và bảo vệ những đầu cầu đó, để Quân Lực VNCH mở các cuộc hành quân tấn công địch. C̣n Tướng Edward Lansdale nói rằng lực lượng của Mỹ được đưa đến Việt Nam là để giúp b́nh định và chống chiến tranh nổi dậy chứ không phải để mở những cuộc hành quân như thế. Andrew F. Krepinevich, cựu Thiếu Tá Bộ Binh và là nhà quân sử, đă nói: “Tướng Westmoreland đă thất bại v́ chú trọng làm tiêu hao lực lượng địch thay v́ ngăn chặn địch và bảo vệ dân chúng”. Quả thật chiến thuật “lùng và diệt” địch đă sát hại được rất nhiều Cộng quân, nhưng v́ không ngăn chận được đường xâm nhập của Cộng quân qua ngả Lào và Cam-bốt, nên số Cộng quân tại miền Nam chẳng những không giảm bớt mà c̣n gia tăng! Các trận bom B.52 cũng đă không phá vỡ được hệ thống tiếp tế của địch. Trong khi đó, chương tŕnh b́nh định cũng không thành công, nên Tướng Westmoreland lại xin thêm quân. BIẾN CỐ TẾT MẬU THÂN Biến cố thứ hai đă làm Tướng Westmoreland mất uy tính là không tiên liệu đưôc cuộc tổng tấn công của Cộng quân vào Tết Mậu Thân. Ngày 20.1.1968, Hà Nội cho Sư Đoàn 325 mở cuộc tấn công vào căn cứ Khe Sanh ở phía tây bắc tỉnh Quảng Trị, nơi có một lực lượng hùng hậu của Mỹ trú đóng, để đánh lạc hương. Căn cứ Khe Sanh nằm trong một ḷng chảo dài khoảng 2 cây số và ngang 1 cây số, chung quanh có núi cao bao bọc. Căn cứ này được thành lập để ngăn chận Cộng quân xâm nhập qua sông Bến Hải rồi theo đường Đông Trường Sơn (tức Quốc lộ 14) đi xuống miền Nam. Lúc đó có khoảng 6.000 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đang đóng tại Khe Sanh. Lúc đầu Cộng quân pháo kích ồ ạt vào Khe Sanh khiến 20 TQLC Hoa Kỳ bị tử thương và 109 bị thương. Sau đó, chúng mở cuộc tấn công vào các ngọn đồi 881 và 861. Lúc đó, mặc tại hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên đă có khoảng 50.000 quân Mỹ, trước cuộc tấn công nói trên của Cộng quân, Tướng Westmoreland đă ra lệnh cho Sư Đoàn 1 Không Vận Hoa Kỳ đến tăng cường cho vùng này. Một chiến đoàn thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù của VNCH cũng được lệnh tăng cường cho vùng hỏa tuyến. Sư Đoàn Dù VNCH đă gởi ra vùng này Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 7. Trong khi quân lực Hoa Kỳ và VNCH lo pḥng thủ vùng giới tuyến, tối 29.1.1968, tức mồng một Tết Mậu Thân, Cộng quân bắt đầu mở cuộc tấn công vào 28 tỉnh lỵ và thành phố trong số 44 tỉnh của VNCH, kể cả đô thành Sài G̣n. Thẩm vấn các cán binh Cộng Sản bị bắt, cơ quan an ninh được biết, để mở cuộc tổng tấn công này, Cộng quân đă chuẩn bị như sau: 1.- Bí mật đưa vũ khí vào cất dấu trong các thành phố sẽ bị tấn công. Những vũ khí này gồm cả B.40, B.41 và súng AK. 2.- Cho các cán binh giả thường dân với giấy tờ hợp lệ xâm nhập vào nội thành, sau đó được hướng dẫn đi quan sát các mục tiêu sẽ tấn công. 3.- Khi đến giờ tấn công, các đặc công hay cán binh nằm vùng mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào các mục tiêu đă chỉ định. 4.- Các đơn vị chủ lực từ ngoài thành phố tăng viện vào, xử dụng cả pháo binh. 5.- Cán bộ chính trị hô hào dân chúng đứng lên ủng hộ Cách Mạng và cướp chính quyền. Cộng quân đă xử dụng 97 tiểu đoàn và 31 đại đội vào cuộc tấn công này, chia ra như sau: Vùng I: 35 tiểu đoàn và 18 đại đội. Vùng 2: 28 tiểu đoàn. Vùng 3: 15 tiểu đoàn, hầu hết vào thủ đô. Vùng 4: 19 tiểu đoàn. Cuộc tấn công đă kéo dài từ 29.1.1968 đến 29.2.1968 th́ bị đánh bại, v́ nhiều dự liệu của Cộng quân đă không xẩy ra. Kết quả tổn thất của hai bên như sau: Quân lực VNCH: Tử thương: 3.501; bị thương: 10.678; mất tích 543. Tổng cộng: 14.722 người. Vũ khí bị mất: 106 súng cộng đồng và 1.418 vũ khí cá nhân. Quân Đội Mỹ: Tử thương: 2.832; bị thương: 15.832; mất tích: 352. Tổng cộng: 19.016 người. Cộng quân: Tử thương: 41.181; bị bắt: 7.391. Tổng cộng: 48.572 người. Vũ khí bị tịch thu: 2.923 súng cộng đồng và 9.079 súng cá nhân. Thường dân: 14.300 chết, 24.000 bị thương và 672.000 phải đi tỵ nạn, 72.000 căn nhà bị hư hại. Qua tổn thất này, lực lượng Cộng quân tại miền Nam lúc đó c̣n khoảng 283.500 quân, chia ra như sau: Tác chiến: 110.000; tham mưu và hậu cần: 33.700; du kích: 60.200, và các bộ chính trị: 79.000. Thất bại lớn nhất của Cộng quân là số cán bộ nằm vùng đă được cài lại trong các thành phố từ 1954 đă bị lộ diện: một số bị chết, một số bị bắt và số c̣n lại không thể tiếp tục hoạt động được nữa. Nhưng biến cố này đă gây ra những ảnh hưởng tâm lư bất lợi cho việc theo đuổi cuộc chiến Việt Nam. Sau đây là một vài thí dụ điển h́nh: Trong cuốn “The Tet Offensive: Intelligence Failure in War”, James J. Wirtz đă viết: “Cuộc tấn công Tết là một trận đánh quyết định của chiến tranh Việt Nam, bởi v́ ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với các thái độ của người Mỹ trong việc dính líu đến Đông Nam Á. Sau Tết, nhiều người Mỹ trở nên bị vỡ mộng... Đối với công chúng Mỹ và ngay cả các thành phần của chính quyền, cuộc tấn công Tết chứng minh rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ... đă gây ảnh hưởng không đáng kể trên ư muốn và khả năng của Việt Cộng và Bắc Việt.” Bà Peggy Howard, b́nh luật gia của tờ Ball State News, đă viết: “Mặc dầu có sự xác quyết rằng địch đă bị tổn thất một số lớn quân số, vụ đó là một sự thắng trận lớn về tâm lư đối với Bắc Việt.” Trong bài “The Anti-War Movement in the United States”, Mark Barringer nhận định: Sau Tết, dư luận quần chúng của Hoa Kỳ đă thay đổi một cách đột ngột, hơn một nữa quần chúng chống leo thang. Những người bất đồng chính kiến leo thang bạo động. Trong tháng tư, những người phản đối chiến tranh đă đến chiếm khu hành chánh của Colombia University, cảnh sát phải dùng sức mạnh để tống xuất họ. Các cuộc bố ráp đă xẩy ra tại Baltimore, Milwaukee và sau đó là Chicago, v́ những người hoạt động đă vấy máu trên các hồ sơ và xé rách giấy tờ...” Trong cuốn “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học” xuất bản năm 1996, Đảng CSVN nhận định về biến cố Tết Mậu Thân như sau: “Đă chọn đúng hướng tiến công rất hiểm là thành thị, sáng tạo cách đánh mới trong Tết Mậu Thân – Xuân 1968 rất bất ngờ và đầy hiệu lực, giằnh thắng lợi oanh liệt khi Mỹ đang dốc cố gằng cao nhất về quân sự, tạo được bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng; làm rung chuyển cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới; làm lung lay tận gốc ư chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, mở đầu quá tŕnh xuống thang chiến tranh của đế quốc Mỹ. “Tuy nhiên, ta cũng mắc một số khuyết điểm lớn như chủ quan trong việc đánh giá t́nh h́nh, đề ra yêu cầu chưa thực sát với t́nh h́nh thực tế lúc đó; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay để đánh giá lại t́nh h́nh và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta... cho nên đă gặp khó khăn trong một thời gian. Mặc dù có những khuyết điểm, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) vẫn giữ một vị trí to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.” (tr. 79). Có một biến cố trong vụ tổng tiến công Tết Mậu Thân có thể khai thác để làm đảo ngược thế cờ là cuộc tàn sát đẩm máu của Cộng quân ở Huế, nhưng rất tiếc Bộ Ngoại Giao và Bộ Thông Tin của VNCH đă không biết khai thác đúng mức. Sau khi làm chủ t́nh h́nh ở Huế, Cộng quân đă kêu gọi tất cả quân, cán, chính VNCH ra tŕnh diện và nộp vũ khí. Một số người ra tŕnh diện được cấp giấy và cho về, nên hầu hết những người khác cũng đă làm theo. Sau khi đă nắm đủ danh sách là lư lịch, Cộng quân đă kêu tất cả ra tŕnh diện và bắt giữ luôn. Nhờ sự chỉ điểm của những tên đi theo Việt Cộng sau vụ nổi loạn cướp chính quyền thất bại của Phật Giáo ở Huế trong ba năm 1964, 1965 và 1966 như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngưyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Lê Văn Hảo, v.v., Cộng quân nắm rất vững các thành phần đảng phái và tôn giáo có tinh thần chống Cộng ở Huế nên mở cuộc lùng bắt. Tất cả những người bị bắt đều bị hạ sát tập thể tại nhiều nơi như Trường Trung Học Gia Hội, trường An Ninh Hạ, chùa Tăng Quang Tự, chùa Từ Quang, Cồn Hến, chùa Theraveda (Gia Hội), lăng Tự Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Gia Long, Thượng Ḥa, Khe Đá Mài, v.v. Trong số các nạn nhân, người ta thấy có cả những người ngoại quốc như bốn người Đức dạy ở Đại Học Y Khoa Huế: Bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, Bác sĩ Raimund Discher, và Bác sĩ Alois Alterkoster. Họ bị bắt ngày 5-2-1968 và về sau người ta t́m thấy xác họ ở gần chùa Tường Vân. Cộng quân ra lệnh cho những người bị bắt đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn bom đạn. Nhưng sau khi đào xong, Cộng quân trói thúc ké tay chân những người nầy, quăng xuống hố, rồi lấp đất lại chôn sống. Cũng có nhiều người bị chém mất đầu hay bị bắn. Theo cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” (Nxb. Vintage Press, New York, 1976), Bác sĩ Elje Vannema, người có mặt tại Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, cho biết theo tài liệu kiểm kê được qua 22 mồ tập thể, số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người. Trong cuốn “Công và Tội”, ông Nguyễn Trân cho biết: "Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị Việt cộng giết và chôn tập thể: 790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xă và xă bị gán cái tội "cường hào ác bá", 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, hằng trăm thanh niên tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số Phi Luật Tân." Trong “Encyclopedia of the Viet Nam War”, David T. Zabecki cho biết số thi hài nạn nhân t́m được trong các mồ chôn tập thể ở Huế là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích. Nếu Bộ Ngoại Giao và Bộ Thông Tin VNCH biết dựng những cảnh tang thương này thành phim hay tập ảnh như bộ phim “Cánh Đồng Chết” của Cam-bốt, rồi cho phổ biến ở Hoa Kỳ và Âu Châu, chắc chắn sẽ tạo được những phản ứng tâm lư tốt. Người Mỹ hay người Âu Châu nh́n h́nh ảnh các mồ chôn tập thể, đám tang cải táng tập thể, các buổi lễ cầu siêu hay cầu hồn cho nạn nhân, cảnh vợ khóc chồng, con khóc cha, v.v... sẽ không bao giờ có thiện cảm với Cộng Sản. PHẢN ỨNG CỦA WESMORELAND Trong cuốn hồi kư mang tên “War in Vain” (Cuộc chiến bị miệt thị), Tướng Westmoreland nói rằng nếu Tổng Thống Johson không nghe quá nhiều lời cố vấn sai lầm và không bỏ qua kế hoạch của ông là từng bước ném bom Bắc Việt và mở các cuộc hành quân qua Cam-bốt và Lào, cuộc xung đột có thể đă chấm dứt trong chiến thắng của Hoa Kỳ. Ông viết: “Vào mùa Xuân năm 1967, tôi đă nói với Tổng Thống Johnson trước sự hiện diện của các cố vấn ở Guam rằng nếu trào lượng đồ tiếp tế của địch qua dăi đất Lào không được chận lại, cuộc chiến có thể vô định. Cuộc tấn công Tết của Cộng Sản Bắc Việt không bao giờ được người Mỹ nh́n thấy trong viễn tượng. Như hầu hết các cuộc chiến tranh, chiến lược phản tấn công là một phản ứng của địch khi thừa nhận rằng chiến lược của họ không thành công và cần thay đổi. “Trận Bulge trong Đệ Nhị Thế Chiến là một trường hợp tương tự. Nhưng vụ Tết được một số người mô tả ngược lại như là chúng ta đang thua ở miền Nam. Sự thật không hề có sự nổi dậy của dân chúng miền Nam chống lại chính phủ Sài G̣n, mặc dầu Cộng Sản đă nói trước như thế, sự thật là có một sự thất bại về chính trị của Hà Nội, nhưng hậu phương của chúng ta trông thấy rất ít.” Ông cho biết Đô Đốc Thomas H. Moore, một cựu Chủ Tịch Tham Mưu Liên Quân đă nói với ông: “Chúng ta phải tấn công ra Bắc, ở đó mọi người là kẻ thù, ở đó anh không lo lắng anh có bị những người bạn dân sự bắn anh hay không... Nhưng Lyndon Johnson không muốn lật đổ chính quyền Bắc Việt Nam. Quả thật, chỉ có một lư do duy nhất để đi vào cuộc chiến là lật đổ chính quyền mà anh không thích.” Ông than phiền Tổng Thống Johson đă leo thang cuộc chiến quá chậm, từ chối không cho mở cuộc tấn công vào các căn cứ của địch trên đất Cam-bốt và Lào, từ chối cung cấp cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa những trang bị tương xứng, và thất bại trong việc tạo niềm tin trong dân chúng Hoa Kỳ. Ông cũng than phiến Tổng Thống Nixon và nhà thương thuyết Kissinger đă bỏ rơi Sài G̣n bằng những nhượng bộ trong hiệp định ngưng bắn vào tháng giêng năm 1973, cho phép quân đội Bắc Việt được ở lại miền Nam. Ông tin khi Hoa Kỳ kư Hiệp Định Paris vào tháng 1 năm 1973 là đă bán đứng VNCH cho Cộng Sản. Ông kể thêm: “Hơn hết tất cả, họ đă tuyên bố trên hệ thống truyền h́nh và báo chí Hoa Kỳ rằng sự bóp méo sự thật của họ đă làm cho dự luận quần chúng quay lại chống chiến tranh.” “Năm 1981, khi chúng tôi bàn chuyện gẩu trong một buổi cơm chiều tại Charleston, South Carolina, họ đă đề nghị với tôi một hệ luận: “Một bài học phải học là những người trẻ sẽ không bao giờ được đưa ra mặt trận, trừ khi đất nước đang ủng hộ họ.” Những tranh luận về cuộc chiến Việt Nam như thế không bao giờ dứt. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Tướng Westmoreland nh́n nhận: “Định mệnh đă đưa tôi phục vụ 4 năm ở vị trí Tư Lệnh Quân Đội trong một cuộc chiến mất ḷng dân nhất của quốc gia này”. Nhưng Tướng Westmoreland vẫn giữ vững một nhận định cho đến những ngày tháng cuối cùng cuộc đời: “Chúng ta đă thành công trong việc chặn đứng đà phát triển của Cộng Sản xuống khu vực Đông Nam Á. Về mặt quân sự, không thể nói là cuộc chiến tranh thất bại. Nhưng trong tính cách một quốc gia, chúng ta đă không giữ được cam kết với dân chúng miền nam Việt Nam”. Nhân Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa tại New Orleans, Louisiana, vào năm 1987, đứng trước một cử tọa gồm hàng ngàn cựu quân nhân Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, Đại Tướng Westmoreland đă tuyên bố: "Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn." (On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.) Với sự hiểu biết của một nhà quân sự, Tướng Westmoreland không thể hiểu được tại sao các nhà lănh đạo chính trị Hoa Kỳ lúc đó nhất quyết đổ quân vào Nam Việt Nam và khi đă đổ quân vào rồi, tại sao họ lại không chịu áp dụng tất cả mọi biện pháp để thắng cuộc chiến đó một cách nhanh chóng. Có lẽ ông cũng không thể hiểu được tại sao năm 2003 Tổng Thống Bush đă mở cuộc tấn công Iraq bằng mọi giá, bất chấp sự phản đối của Liên Hiệp Quốc và dư luận quốc tế, mặc dầu ông đă thấy trước rồi nó cũng sẽ đi vào t́nh trạng như chiến tranh Việt Nam trước đây Nhưng rơ ràng là TƯ BẢN MỸ KHÔNG THUA trong cuộc chiến nào! Hôm 25.7.2005, linh cửu Tướng Westmoreland đă được an táng tại Trường Đại Học Quân Sự West Point. Chúng ta cùng đốt cho ông một nén hương để tưởng nhớ một vị tướng đă hết ḷng với quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Xin vĩnh biệt Tướng Westmoreland. Tú Gàn
|
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |