Viện Trợ Và Tham Nhũng
Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
...dân đóng thuế của nước cấp viện lại tài trợ cho một thiểu số đảng viên cán bộ
của các nước cầu viện mà cứ tưởng rằng đang giúp đỡ dân nghèo xứ ấy...
Tuần qua, các định chế tài chính quốc tế có phiên họp hàng năm tại Washington DC
và một vấn đề được giới lãnh đạo quốc tế đề cập tới chính là nạn tham nhũng qua
viện trợ cho nước nghèo. Trong bối cảnh của những bức xúc nóng hổi tại Việt Nam
về tham nhũng, điển hình là vụ PMU18, Diễn đàn Kinh tế Đài RFA có cuộc trao đổi
sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Nguyễn An thực hiện để đề cập đến
nạn tham nhũng tiền viện trợ.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, theo lịch trình hoạt động thường xuyên, tuần
qua, hai định chế tài chính quốc tế là Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
IMF có phiên họp định kỳ tại trụ sở đặt tại Washington DC và lần này, vấn đề
tham nhũng lại được đặc biệt chú ý. Xin ông lược trình về phiên họp này cho
thính giả cùng rõ.
- Hàng năm, hai định chế này thường có hai phiên họp, mùa Xuân vào hạ tuần Tháng
Tư và mùa Thu vào hạ tuần Tháng Chín, với sự tham dự của giới lãnh đạo tài chính
và ngân hàng của các nước, ngoài giới chức điều hành hai định chế này. Năm nay,
phiên họp mùa Xuân được triệu tập tại thủ đô Hoa Kỳ trong hai ngày 22 và 23, còn
phiên họp mùa Thu sẽ triệu tập ngày 18 Tháng Chín tại Singapore. Để chuẩn bị các
kỳ họp ấy, họ lập báo cáo tình hình qua một số phúc trình về kinh tế tài chính
thế giới với từng chủ đề được chú trọng.
Năm nay, họ công bố báo cáo thứ ba về việc theo dõi tình hình kinh tế các nước
nghèo, với trọng tâm là nâng cao phẩm chất của viện trợ, cải cách ngoại thương
và chế độ cai trị để đạt mục tiêu xoá đói giảm nghèo của thiên niên kỷ do Liên
hiệp quốc đặt ra, trong đó nạn tham nhũng được đề cập. Trước đấy, ngày 11 vừa
qua, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới là ông Paul Wolfowitz đã công bố chiến lược
giải trừ tham nhũng để cứu giúp các nước nghèo, trong đó có việc tăng cường kiểm
soát viện trợ và kiểm điểm chế độ cai trị và nạn tham nhũng tại các nước nhận
viện trợ. Nói chung, tham nhũng hay những vụ tai tiếng như PMU18 tại Việt Nam đã
có từ lâu, còn việc các định chế quốc tế đề cập đến vấn đề này là chuyện chung,
chứ chẳng phải vì Việt Nam, hoặc có dụng ý gì vì những việc đang xảy ra tại Việt
Nam.
Hỏi: Chúng ta đi vào nội dung của đề tài, theo như ông phân tích, thì viện trợ
thế nào mà để xảy ra tham nhũng? Xin ông nói rõ về thể thức trước khi ta đề cập
đến vấn đề.
- Viện trợ từ các nước giàu qua các nước nghèo có nhiều mục tiêu và thể thức. Về
mục tiêu, có loại viện trợ nhân đạo, thường là cho không và hướng vào một chương
trình rõ rệt và ngắn hạn; bên cạnh và quan trọng hơn có loại viện trợ phát
triển, nhắm vào các dự án phát triển dài hạn, được tài trợ dưới hình thức cho
vay nhẹ lãi, có thời gian miễn trả tiền vốn khá lâu, gọi là "thời gian ân hạn",
và thời hạn hoàn trả hay hoàn trái kéo dài trong mấy chục năm.
Về thể thức, ta có viện trợ đa phương của các tổ chức quốc tế, vận động vốn trên
thị trường tài chính và cả nguồn tài trợ của các chính phủ; và có loại song
phương của từng chính phủ, gọi là ODA, cơ bản thì cũng là từ ngân sách quốc gia
nghĩa là từ tiền thuế của dân mà ra. Khi viện trợ theo thể thức ODA, chính quyền
của các nước giàu cũng cần các tổ chức chuyên môn quốc tế, như Ngân hàng Thế
giới hay Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc là UNDP thực hiện cho mình
về mặt kỹ thuật.
Ở bên kia, tiếp nhận viện trợ - nhất là loại phát triển, là dài hạn - là chính
phủ các nước nghèo. Họ giao cho các bộ, ban ngành đón nhận và sử dụng viện trợ
căn cứ trên những cứu xét và thỏa thuận với nguồn cấp viện. Thí dụ như chính phủ
Hà Lan hay Thụy Điển muốn viện trợ cho Việt Nam để thực hiện một dự án nào đó
thì bộ Ngoại giao, Sứ quán hay cơ quan viện trợ của họ không trực tiếp xây cầu
hay mở lớp huấn luyện đào tạo cho mình mà giao cho một cơ quan chuyên môn của
quốc tế có kinh nghiệm thực hiện việc ấy. Các cơ quan này mới thuê nhân viên hay
công ty tiến hành theo những thỏa thuận giữa nước cấp viện và nước cầu viện.
Hỏi: Thế vì sao trong hệ thống có rất nhiều thành phần tham dự này lại có nạn
tham nhũng?
- Theo thiển ý của tôi, 80% xảy ra là vì gian ý của công chức cán bộ bên cầu
viện và 20% là sự cẩu thả, thậm chí toa rập, của bên cấp viện, với các chuyên
gia hay công chức quốc tế có đầy kinh nghiệm và biết rõ từng chuyện nhưng vẫn có
thể nhắm mắt bỏ qua.
Hỏi: Ông có nhận xét hơi bất ngờ, xin ông giải thích cho rõ được không?
- Viện trợ phát triển là một tiến trình chuyên môn phức tạp mà dân thọ thuế của
các nước giàu không biết rõ, cơ quan ngoại giao hay viện trợ thì chú trọng đến
yếu tố chính trị hoặc kết quả trên đại thể, cụ thể là số ngân khoản viện trợ và
mục tiêu sử dụng để báo cáo thành quả với quốc hội hay quốc dân. Thực tế thì thi
hành kỹ nghệ viện trợ ấy là việc của một số chuyên gia hay công chức của bên cấp
viện và bên cầu viện, mà mục tiêu của thành phần này thường không được và cũng
khó được định lượng cho chính xác.
Thành quả nói chung thì vẫn chỉ là trong năm qua đã viện trợ bao nhiêu tiền để
xây cất mấy trăm cây số xa lộ hay mấy chục cây cầu. Con số càng cao thì coi như
viện trợ càng nhiều, phẩm chất ra sao nhiều khi không rõ. Và trong nghề thì cả
hai bên cấp viện lẫn cầu viện đều biết kỹ thuật rút ruột dự án viện trợ; vấn đề
là có nói ra hay không mà thôi. Bên nhận thì có gian ý, bên cho thì đôi khi có
biết cũng lờ để còn tiếp tục thực hiện dự án khác. Hiện tượng ấy mới khiến người
ta nói đến giới công chức hay chuyên gia viện trợ là "quý tộc của sự nghèo
khốn." Và Chủ tịch Ngân hàng Thế giới mới muốn chấm dứt tình trạng này.
Hỏi: Chuyện này đâm ra không đơn giản là do gian ý của một số công chức tham ô
trong các nước cầu viện mà có chân rết lan rộng hơn hay sao?
- Đấy chỉ là chuyện thường tình của con người vì ở đâu cũng có thể nhìn ra mối
lợi - mà bất chính hay chính đáng thì còn tùy hoàn cảnh, nhất là tùy khung cảnh
luật lệ. Khi biết là một dự án viện trợ nào đó có thể bị sử dụng sai, nhiều khi
người ta cũng bỏ qua để khỏi gây vấn đề và mất cơ hội có việc tốt lương cao. Tuy
nhiên, phải nói rõ là tham nhũng dễ xảy ra trong lãnh vực viện trợ chủ yếu là do
gian ý của bên cầu viện, mà bên cấp viện thì ưa nói chuyện theo ngôn ngữ ngoại
giao và có than phiền thì cũng kín đáo và nhẹ nhàng thôi.
Vì vậy, từ năm 1996, Ngân hàng Thế giới đã lần đầu tiên nói đến nạn tham nhũng
và nghiên cứu rất sâu rộng mà 10 năm sau, tân Chủ tịch của định chế này vẫn phải
đề ra sách lược diệt trừ tham nhũng. Ông Paul Wolfowitz này là người quả quyết
và dám làm nên tôi nghĩ rằng sẽ có kết quả khả quan hơn. Một điều ông vừa khẳng
định là sẽ cho các công ty vi phạm tham nhũng vào sổ đen và niêm yết danh sách
trên trang điện toán của Ngân hàng Thế giới.
Hỏi: Ông nói đến các công ty, họ làm gì trong đấy mà có thể vi phạm và bị đưa
vào sổ đen?
- Họ nhận lãnh thực hiện các dự án viện trợ chẳng hạn, hoặc có hành vi mua chuộc
công chức của nước cầu viện để giành được hợp đồng. Những việc sai quấy ấy từ
phía cấp viện sẽ bị kiểm soát gắt gao hơn .
Hỏi: Bây giờ, nói đến phần trách nhiệm của các nước cầu viện, vì sao dễ xảy ra
tham nhũng?
- Cầu viện là các nước nghèo, với cơ chế chính trị hành chánh thô sơ, có khi độc
đoán, và báo chí hay dư luận lại không biết chuyện phức tạp, mà có biết cũng
chẳng có quyền lên tiếng. Các nước cấp viện lại phải khéo nhân nhượng để khỏi
mang tiếng kỳ thị, khắt khe. Một thí dụ ai cũng thấy là từ mấy chục năm nay, các
nước cấp viện đã trút bao nhiêu tiền của vào châu Phi mà việc xóa đói giảm nghèo
vẫn chưa đạt kết quả tương xứng, mà chỉ đẻ ra công chức triệu phú.
Viện trợ thường do công chức của nước giàu chuyển qua công chức của nước nghèo,
qua trung gian các chuyên gia hay doanh nghiệp tư nhân nhận lãnh việc thực hiện.
Người cho thì ít phải báo cáo với dân thọ thuế, nếu người nhận cũng chẳng báo
cáo với dân nghèo ở trong nước thì ta dễ có môi trường lỏng lẻo cho lạm dụng ở
giữa. Vì vậy mà nhiều người chủ trương là nên hạn chế viện trợ và nên giúp qua
thị trường tư doanh để tránh nạn "cha chung không ai khóc" và nhất là tránh tăng
cường vai trò đã quá lớn của chính quyền các nước nghèo với đường lối kinh tế
bao cấp. Ta vốn biết là càng bao cấp thì công chức cán bộ càng có nhiều quyền
hạn.
Hỏi: Đã vậy, quốc gia cấp viện nào cũng có điều kiện ràng buộc của mình với mục
tiêu giành việc thực hiện dự án viện trợ cho doanh nghiệp của mình phải không?
- Thông thường thì vậy và đây là điều dễ hiểu. Chính quyền một xứ viện trợ cho
một xứ khác thì tất nhiên muốn doanh nghiệp của mình sẽ đấu thầu thực hiện. Với
loại viện trợ đa phương thì việc đấu thầu thi công được mở rộng cho nhiều công
ty có quốc tịch khác. Tuy nhiên, một điều hợp lý và cần thiết là nếu quốc gia
cầu viện có khả năng thực hiện lấy thì nên giao cho doanh nghiệp của họ. Vấn đề
đặt ra là chính quyền độc tài hay bao cấp thì lại đòi giành lấy trách nhiệm thi
công cho guồng máy hành chính hay công ty quốc doanh của mình và tham nhũng dễ
xảy ra trong môi trường ấy. Vụ PMU18 tại Việt Nam là một thí dụ điển hình. Đâm
ra dân đóng thuế của nước cấp viện lại tài trợ cho một thiểu số đảng viên cán bộ
của các nước cầu viện mà cứ tưởng rằng đang giúp đỡ dân nghèo xứ ấy.
Hỏi: Trước sự kiện ấy, sách lược của Ngân hàng Thế giới để giải trừ tham nhũng
trong viện trợ là những gì?
- Trước tiên, về tinh thần thì Ngân hàng Thế giới cho rằng tham nhũng là minh
chứng rõ rệt của một chính quyền bất lực, làm suy yếu cơ chế và lệch lạc thị
trường. Từ tinh thần này, họ chú trọng nhiều hơn đến khả năng cai trị, gọi là
governance, hay quản lý của chính quyền các nước cầu viện.
Về sách lược thì họ có nhiều bước thực hiện. Trước hết, trong nội bộ, Ngân hàng
Thế giới sẽ rà soát và tăng cường tinh thần chống tham nhũng nhờ các loại viện
trợ như tín dụng, tặng dữ hoặc kỹ thuật. Đồng thời, họ cũng chú trọng nhiều hơn
đến các lãnh vực như cải cách luật lệ, quy chế công vụ, báo chí và tự do ngôn
luận, việc tản quyền trong bộ máy hành chánh và sẽ còn tìm cách đối thoại để hợp
tác với chính người dân và hội đoàn tại nơi cầu viện nhằm tạo ra thế lực đối
trọng và kiểm soát chính quyền. Nôm na là viện trợ cho dân hưởng thì cần giúp
chính người dân biết ra điều ấy mà đòi hỏi chính quyền phải có trách nhiệm giải
trình.
Hỏi: Nhưng còn nạn tham nhũng xảy ra do chính các công chức trong các dự án do
Ngân hàng Thế giới tài trợ thì sao?
- Về các dự án thì Ngân hàng Thế giới đang áp dụng một hệ thống kiểm soát và
giám định mới. Sẽ có nhiều chuyên gia chống tham nhũng được họ gửi tới làm việc
với chính quyền các nước cầu viện dưới hình thức là đơn vị kiểm toán hay ủy ban
diệt tham nhũng. Tiến độ là tình hình tiến triển sẽ được công bố để mọi người
cùng thấy kết quả và bảo đảm là tài nguyên viện trợ không chảy qua chỗ khác.
Trong ngân hàng cũng sẽ có các toán điều tra có đủ phương tiện để tìm ra sai
phạm hay kiểm điểm tình hình khi có dự án bị phê bình là có nạn tham nhũng. Theo
Chủ tịch Wolfowitz thì Ngân hàng Thế giới sẽ quan niệm lại các dự án viện trợ để
ghép ngay vào nội dung những biện pháp khuyến khích việc giải trừ tham nhũng.
Tôi nghĩ rằng quan trọng nhất trong ngần ấy góc cạnh vẫn là người dân các nước
nghèo phải biết kiểm điểm và dám tố giác khi thấy có nạn tham nhũng trong viện
trợ. Cứ nhắm mắt cúi đầu là còn khuyến khích tham nhũng.