|
| |
TUỆ GIÁC và
ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ
Tin từ Hà Nội: Ngày 23.5.2005, Thủ Tướng Cộng sản
Phan Văn Khải đă tiếp Sư Ông Nhất Hạnh tại phủ thủ tướng. Trong dịp này Sư
Ông có đề nghị sáu điểm về sự cởi mở của Đảng Cộng Sản Việt Nam để có thể
tiếp xúc với cộng đồng Phật giáo trong nước như một tiềm lực lớn lao của
dân tộc và bảy điểm đề nghị nhà nước Việt Nam thực hiện để giải quyết
những khó khăn giữa chính quyền và cộng đồng Phật giáo Việt Nam.
Tổng cộng số đề nghị của Sư Ông Nhất
Hạnh với Phan Văn Khải Thủ tướng Cộng sản Việt Nam là 13 điều, nhưng đọc
kỹ th́ chỉ có ba ư chính hoặc ba vấn đề mà thôi. Sư không dám đặt thẳng
nên cứ nói loanh quanh một cách lẩm cẩm và gượng gạo.
Bảy điểm về Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo, thực ra,
chỉ cần điểm thứ nhất nếu thực hành được một cách thành tâm th́ nó xuyên
suốt hết, không c̣n ǵ để nói thêm cho dài ḍng.
1)
"Xác nhận ư muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi
chính quyền, không can thiệp vào nhau; tôn giáo có thể giúp cho
chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải
theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc
chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành
pháp, bên chính trị có thể đóng góp ư kiến về sự suy thoái đạo đức trong
tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc t́m cầu danh lợi và quyền
bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và
thực tập đưa tới lành mạnh hóa xă hội."
Nhận định:
Sư Nhất Hạnh đề nghị tách rời "giáo quyền ra khỏi chính quyền".
Nói điều này, Sư Nhất Hạnh mặc nhiên xem Giáo Hội Phật giáo hiện nay là
một quyền lực [power/puissance] có khả năng tác oai tác quái, chi phối xă
hội như chính quyền. Quan niệm như thế này không đúng với tinh thần tôn
giáo Á đông nói chung và truyền thống Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam
ngay từ thời Lư Trần tuy Phật giáo phát triển cùng khắp nhưng không bao
giờ có cái gọi là giáo quyền. Sư Nhất Hạnh nói "Vua Lư Thái Tổ đă yểm
trợ cho đạo Phật xây dựng sơ sở giáo hội, và thiền sư Vạn Hạnh đă chỉ bày
thêm cho vua về các đường lối kinh tế, văn hóa, đạo đức và chính trị"
điều này không đúng với sử sách, sư Nhất Hạnh đă cương lên một cách tùy
tiện.
Giáo quyền chỉ xảy ra ở Âu Châu vào thời Trung cổ [middle ages/ moyen Age]
sau khi Đế quốc La mă chấm dứt vào thế kỷ thứ tư (400 AD). Giáo hội Thiên
chúa La mă có một ảnh hưởng lớn nhất trong chính trị, giáo dục, nghệ thuật
và cả tín ngưỡng. Âu châu tuy có diện tích nhỏ nhất, nhưng là sinh quán
của nền văn minh Tây phương và đă có ảnh hưởng lớn đến lịch sử nhân văn
của thế giới. Thiên Chúa giáo đă đóng một vai tṛ quan trọng trong lịch sử
Âu châu. Người không có đức tin Thiên Chúa này thường bị ngược đăi và do
đó đă xảy ra những cuộc Thánh chiến thảm khốc kéo dài cả trăm năm. Có thể
lấy một thí dụ về giáo quyền và chính quyền tại Mễ-tây-cơ vào thập niên
1800, dưới thời hoàng tử nước Áo Maximilian do Pháp suy tôn là hoàng đế
tại đây. Maximilian đă dùng quân đội và giáo quyền để cai trị và đàn áp
dân chúng. Lănh tụ Mễ là Juarez, Benito Pablo nổi dậy lănh đạo nhân dân
chiến đấu giành tự do từ tay thực dân Pháp. Năm 1855, Juarez trở về Mexico
và trở thành Bộ trưởng Tư pháp, ông ta t́m các hạn chế quyền lực của quân
đội và của giáo sĩ. Năm 1867, khi đắc cử Tổng thống, Juarez liền tách rời
giáo hội ra khỏi chính quyền, thiết lập sự khoan dung tôn giáo và thay đổi
hệ thống đất đai của giáo hội. Năm 1866, Hoa Kỳ tỏ dấu hiệu muốn Pháp rút
khỏi Mễ. Pháp đành phải rút vào cuối năm 1866 và đầu 1867. Maximilian bị
hành quyết. Vatican có chi phối các giáo hội tại nhiều quốc gia, nhất là
tại các quốc gia Thiên Chúa giáo đông đảo, thường có nhiều tiến bộ và cải
tổ về kinh tế cũng như chính trị. Vào cuối thế kỷ 19 th́ giáo quyền đă suy
yếu. Sau Thế Chiến Thứ Hai, nhiều quốc gia Đông Âu và Á châu bị chế độ
Cộng sản cai trị. Cộng sản kiểm soát và kềm hăm gắt gao các mặt kinh tế,
văn hóa, tự do xă hội, cá nhân, chính trị và nhất là tôn giáo của mọi
người dân.
Sư Nhất Hạnh vừa nói
"giáo quyền tách rời khỏi chính quyền" như "hai lănh vực riêng
biệt" nhưng lại mâu thuẫn ngay với tư tưởng của ḿnh khi nói tiếp là
"tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn
giáo"... "Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều
hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp..."
Sự phân tích và giảng giải của sư Ông Nhất Hạnh cho Phan Văn Khải Thủ
tướng nghe ra có phần lẫm cẩm, mơ hồ là v́, sư ông không dứt khoát và rơ
ràng trong tư tưởng nên diễn tả không thông suốt.
Thật vậy, Sư N.H. khi nói "cả giáo quyền và chính quyền đều phải có
đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản." không hiểu Sư đang nghĩ
ǵ? Nếu là vô đạo đức là tà giáo, là tà quyền, đương nhiên phải sa đọa và
phá sản. Sự có mặt của Sư ông tại Phủ Thủ tướng của Cộng sản Phan
Văn Khải đúng ra phải là một "thời pháp thí" để giúp cho "đồ tể buông dao"
nhưng tiếc thay! Sư Ông chỉ nói loanh quanh, cứ nhắc đi nhắc lại điều kiện
"đạo đức" và "tuệ giác".
Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, ngài quán tưởng:
"Xa ĺa ham muốn, tâm được yên vui, thanh thản. Tâm yên vui thanh thản là
điều cao quư nhất. Chính tâm ấy mới ở trong đại định để hàng phục mọi ma
chướng."
(Kinh
Tứ Thập Nhị Chương, phần Duyên Khởi, Thái Hư Đại sư giảng).
Người tu hành mà mất Chánh niệm, tâm vọng động và khẩu vọng ngữ th́ làm
sao "hàng phục ma vương"? Kẻ cầm quyền mà lừa dối nhân dân, tham ô móc
ngoặc, th́ làm sao mà "góp ư kiến về suy thoái đạo đức, yểm trợ cho tôn
giáo giáo dục đạo đức, đưa tới lành mạnh hóa xă hội", bạch sư Ông?
RAO BÁN TUỆ GIÁC
Sư Ông nói "tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác". Xin hỏi Sư Ông,
"đóng góp tuệ giác" là đóng góp cái ǵ đây, trong khi đảng Cộng
sản Việt Nam đă là những "đỉnh cao của trí tuệ"! Khi kẻ "phơi
thây trăm họ nên công một người" được xem có công lao hơn cả Phật,
đang tiêu phí hàng năm hơn một tỷ đô la mồ hôi nước mắt của nhân dân cho
cái phàm thân tại Ba Đ́nh mà Sư Ông "tụng" là "biểu tượng cho cội
nguồn và ân nghĩa ấy". Lạy Phật! Xin ngài chứng cho, lăng Hồ Chí Minh
tại Ba Đ́nh là mẫu thu nhỏ của lăng Lê-Nin tại Moscou [Mát-xờ-cơ-va] mà Sư
Nhất Hạnh nói là biểu tượng cho cội nguồn, th́ quả là "hết ư", người Việt
c̣n lương tri không c̣n ǵ để nói với Sư ông nữa! Lăng Lê-nin đă bị phá
hủy v́ nó không phải là cội nguồn của dân tộc Nga, lăng Hồ Chí Minh (trên
bản đồ du lịch Thủ Đô Hà Nội đă có lần ghi là Sở Thú) là một biểu tượng
của vong bản và vọng ngoại, không thể nói là cội nguồn và ân nghĩa.
Sư Ông rao bán "TUỆ GIÁC" cho Cộng sản Việt Nam. Nhưng Sư không cho biết
món hàng "Tuệ Giác" ấy sản xuất ở đâu, thực chất "tuệ giác" là ǵ? Làm sao
để có "tuệ giác" mà đóng góp? Theo lời Sư Nhất Hạnh, th́ "bên tôn giáo
đóng góp tuệ giác" có nghĩa là Cộng sản không có tuệ giác, chỉ là một lớp
chúng sanh "vô minh", ngu muội! Kinh nghiệm đạo và đời cho thấy có nhiều
người tŕ chí trong trí giác nhưng ít khi đạt đến tuệ, nhiều người rất
"trí" nhưng "huệ" th́ khó đạt đến. Có người đọc, tụng rất nhiều kinh điển
Phật, nhưng không ngộ được đạo, nghĩa là có nhiều "giác" mà không "tuệ",
nói nôm na là biết rất nhiều nhưng không thể thâm nhập vào ư nghĩa sâu xa
(vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngô) thế th́
"sản xuất" hàng loạt "tuệ giác" để cung cấp cho Cộng sản Việt Nam quả thật
không phải là chuyện dễ. Ngoài ra, không biết món "Tuệ Giác" mà Sư Nhất
Hạnh đang chào hàng ấy có hợp với khẩu vị của Phan Văn Khải và Cộng sản
Việt Nam không? Có thể Phan Văn Khải sẽ "nương thuyền từ của Sư Nhất Hạnh"
để cải tổ chính sách theo khuyến cáo của Mỹ và Âu Châu cho đỡ chạm tự ái
Đảng mà thôi! Không cải tổ nhân quyền và tự do tôn giáo, "chúng nó sẽ
trừng phạt" cho nên chẳng đặng đừng!
Sư Nhất Hạnh cũng tự măn đă "hàn gắn được nhiều đổ vỡ, dựng lại được
nhiều đổ nát và xây đắp được t́nh huynh đệ với chư Tăng Thừa Thiên đă đến
tụng giới chung với nhau lần đầu ngày 22 tháng 2 năm 2005, sau hơn 10 năm
trời tụng giới riêng đă đem lại hạnh phúc lớn lao cho cả giới xuất gia và
tại gia tại Thừa Thiên, cả trong và ngoài nước". Sự thật đă quá hoang
tưởng rồi đó! Việc tập trung các tăng ni và tín đồ Thừa Thiên về chùa nghe
Sư Nhất Hạnh và "Phái đoàn Phật giáo Quốc tế" thuyết pháp, đối với chính
quyền Cộng sản Việt Nam, th́ "thầy" muốn con số bao nhiêu cũng có, nhưng
nên biết là có số người mà chưa chắc đă có tấm ḷng" của người Thừa Thiên
đâu? "Tụng giới chung" là cái ǵ? Làm sao chỉ một lần "tụng giới chung" mà
Sư biết là đă đem lại hạnh phúc lớn lao cho cả trong nước và ngoài nước?
XUYÊN TẠC LỊCH
SỬ
Lịch sử Việt Nam xưa cho biết là "vua Lư Thái Tổ không hề yểm trợ đạo
Phật xây cơ sở giáo hội" như Sư Ông đă giảng cho Cộng sản Phan Văn
Khải nghe. Bởi v́, ngày xưa, dưới thời nhà Lư, nhà Trần, không có giáo hội
Phật giáo, việc tu hành thường là "nhất sư nhất tự" không có hệ thống
ngang dọc nào cả, làm ǵ có chuyện "yểm trợ xây dựng cơ sở"! Ngày
xưa, "Tăng sĩ ngoài vai tṛ hướng dẫn đời sống đạo hạnh, c̣n
phải lo về các nhu cầu thực tế của dân... Mở lớp dạy chữ tại chùa. Trẻ em
đến học ở chùa không phải để xuất gia, như trường hợp Lư Công Uẩn vậy.
Thiếu người làm thuốc trị bệnh th́ các nhà sư có kiến thức đông y, lo chẩn
mạch hốt thuốc... Là những người có học và gần gũi dân chúng như thế mà
không thuộc về giai cấp thống trị, không theo đuôi chính quyền..."
(Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử luận, Sài G̣n, Lá Bối, 1973, trang
140).
Việt Sử Tiêu Án (của Ngô Thời Sĩ) ghi: "Vua Lư Thái Tổ sinh trưởng nhờ
cửa Phật, sư Khánh Vân nuôi lớn, sư Vạn Hạnh dạy dỗ, thuyết nhân quả ăn
sâu trong ḷng, cho nên khi mới kiến quốc đă sáng tạo nhiều chùa, cấp điệp
độ tăng chúng, muốn đưa cả thế giới vào nước Phật, bất luận hiền ngu đều
muốn cho quy Phật...đến các đời sau, nhà Lư đă lập hơn 300 ngôi chùa, đúc
quả chuông nặng đến một vạn hai ngh́n cân đồng. Khi khánh thành chùa th́
mở hội, xá các tội nhân..." Vua Lư Thái Tổ" xá hết các thứ thuế cho thiên
hạ trong ba năm. Những người Mán trước bị vua Ngọa triều bắt làm tù binh,
đều được cấp cho áo mặc và lương ăn mà tha về."
Theo Việt Sử Tiêu Án, th́ các vua nhà Lư đều nhân từ đức độ, hết ḷng
thương và chăm sóc đời sống nhân dân. Dân bị thiên tai lụt băo hoặc hạn
hán, Vua đều nhận lỗi, v́ tự thấy bản thân thiếu đức cho nên bị trời quở
phạt.
Ngoài ra, cũng không có việc "thiền sư Vạn Hạnh đă chỉ bày thêm cho
vua về các đường lối kinh tế, văn hóa, đạo đức và chính trị" như là
cố vấn thường trực cho Vua. Bởi v́, Sư Vạn Hạnh là một bậc tu hành chân
chính biết phụng sự dân tộc, nhưng luôn luôn vượt lên trên các sở dục của
thế đạo. Sư Vạn Hạnh nhận thấy:
"Thân như điện ảnh hữu
hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Tùy vận thịnh suy hưu bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."
"Thân như bóng hiện có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu héo hon
Việc đời chẳng sá hồi suy thịnh
Suy-Thịnh đầu cành đọng hạt sương"
(Ly Châu dịch)
Sư Vạn Hạnh thiên về mật
tông, có linh tánh cao siêu và thần toán. Sư viên tịch trước vua Thái Tổ.
(Nguyễn Vĩnh Thượng, Tư Tưởng Phật giáo trong văn học thời Lư, trang 33).
Sư Vạn Hạnh thường đưa ra sấm kư, bói toán nên bị thời đó phê là "dị
đoan".
Các sử gia như Ngô Sĩ Liên, Ngô Thời Sĩ không hề nhắc đến chuyện "các
vị cao tăng quốc sư đời trước" nếu "làm cố vấn giỏi th́ có quyền
nhận một chiếc y màu tím" không biết Sư ông Nhất Hạnh lấy chiếc "Tử
Y" (y màu tím) này ở đâu ra?
Hơn nữa, đă xuất gia tu hành mà c̣n muốn đắp thêm chiếc "Y màu tím" nữa
th́ chấp tướng quá sá rồi đó, bạch Sư Ông. Người thực tu, "trong tâm không
thấy pháp ǵ để được, ngoài đời không c̣n môn ǵ để cầu", tu theo kiểu Sư
Ông "tâm cố chấp vào đạo, mỗi lời nói đều kết buộc thêm vọng nghiệp",
đường sa đọa đă bày ra trước mắt!
Phái đoàn "hát bội" do
sư ông Nhất Hạnh (X) cầm đầu,
theo sau là sư bà Chân Không (XX) đang về lưu diễn tại
Việt Nam từ tháng 1/2005, với đầy đủ ban nhạc phường
bát âm, chiêng trống... tùng... t ù n ng .... xoèng ......!!?!
Trong "Cao tăng liệt truyện" của Quốc Sử
Quán Triều Nguyễn, khi nói đến sư Tạ Nguyên Thiều, không thấy nói đến
chuyện sư cố vấn giỏi th́ nhận "y màu tím" bao giờ cả, chỉ ghi rằng: "Hiển
tông Hoàng đế ban thụy là Hạnh Đoan thiền sư và làm một bài kư, bài minh"
khắc vào tháp mà thôi (Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn, Nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội-1995)
Theo tôi, nếu thực sự có tâm "vô ngại" và "vô úy" Sư ông chỉ cần nói với
Cộng sản Phan Văn Khải rằng: "Muốn yên lành, ḥa giải với Phật giáo
Việt Nam Thống Nhất th́ hăy thành thật và dứt khoát giải tán cái giáo hội
do nhà nước lập ra và thừa nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đă
có từ trước ở miền Nam." Phải thực tâm chứ không phải theo lối "bằng
mặt mà không bằng ḷng", "con dao trong tâm" không chịu bỏ xuống th́ chẳng
ích ǵ đâu, Sư Ông ạ!
Chính Thủ tướng Cộng sản Phan Văn Khải cũng đă nghe Thầy Huyền Quang nói
tại Phủ Thủ tướng này, mấy tháng trước đây, đă ghi nhận các "đạo từ" của
Đức Tăng thống, báo chí đă đăng tải, nhưng rồi vẫn cấm cản không cho rời
khỏi Quăng Ngăi. Việc này, Sư Ông chắc biết rơ rồi!
2)
Điểm thứ 2, Sư ông nói: "Trong những năm qua đă có xảy ra nhiều điều
đáng tiếc trong Phật giáo do những hiểu lầm, e sợ, nghi kỵ và vụng về gây
ra. Những điều này đă gây khó khăn không ít cho nhà nước và cho cộng đồng
Phật giáo".
Với câu nói này, Sư Ông đă đứng về phía nhà nước Cộng sản, để phiền trách
Phật giáo Thống Nhất. Bạch Sư Ông, "những điều đáng tiếc" đó, do
đâu mà có? Nếu không có việc Cộng sản bắt bớ tăng ni, chiếm chùa là kho
hợp tác, dùng chính sách hộ khẩu để ngăn cản ư nguyện tu tŕ của kẻ xuất
gia... th́ làm ǵ có chuyện đáng tiếc? để "gây khó khăn không ít cho
nhà nước"? Nếu không lên án tử h́nh và khổ sai các cao tăng trí thức
[Trí Siêu, Tuệ Sĩ, Trí Hải...] của chùa Già Lam, th́ làm sao bị dư luận
quốc tế lên án, bạch Sư Ông? Sư ông đề nghị Nhà nước mời các vị "tôn
túc trưởng lăo trong cộng đồng Phật giáo làm cố vấn cho cả hai cơ quan lập
pháp của nhà nước", chỗ này th́ Sư ông tỏ ra lẫm cẩm và nông nổi quá.
Vừa nói "bảo đảm là các vị xuất gia sẽ không bị mời làm dân biểu quốc
hội, không trở nên hội đồng nhân dân các cấp và Mặt Trận Tổ Quốc vân vân",
rồi đề nghị mời làm cố vấn cho hai cơ quan lập pháp và hành pháp... Xin đề
nghị Sư Ông làm ngay Quốc sư cho nhà nước để độ thêm được mấy triệu đảng
viên Cộng sản, kẻo chuyến đi ba tháng này đoàn Phật giáo Quốc tế mà Sư Ông
nói là "đại diện 30 nước" chỉ mới độ được tổng cộng từ Nam,
Trung, Bắc là 2,100 người. Sư Ông "đă tháo gỡ được nhiều tri giác sai
lầm, nghi ngờ và sợ hải"
3)
Sư ông nói: "Nhà nước muốn được thấy các vị Ḥa thượng Huyền Quang và
Quảng Độ cũng được thoải mái làm các việc như thế, và bảo đảm quư vị có
quyền di chuyển tự do, thuyết pháp và hành đạo trên mọi miền đất nước và
sẽ t́m cách yểm trợ các vị. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một
thực tại. Nếu quư ḥa thượng muốn giáo hội này phục hoạt lại, điều này
không phải là một việc khó. Việc khó là chúng ta phải ngồi lại với nhau để
nói chuyện, để thiết lập lại truyền thông với nhau, để lắng nghe nhau, để
thấy được những khó khăn của nhau và để cùng đi đến những quyết định chung
có thể làm đẹp ḷng cho cả hai phía."
Nói thế này, là Sư Ông đă buộc tội hai vị Ḥa thượng của Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất là gây khó khăn cho nhà nước Cộng sản.
Sư Ông thật là hồ đồ và thượng mạn! Tuệ giác của Sư Ông ở đâu? Mà
đến nỗi lại thấy hai Ḥa thượng Huyền Quang và Quảng Độ được Nhà nước bảo
đảm quyền tự do di chuyển, thuyết pháp và hành đạo trên mọi miền đất nước?
Sư ông ở tại Paris, Pháp quốc, lẽ nào mù ḷa về những thông tin về t́nh
trạng bị "bao vây", "quản chế" và "ngăn đường, đâm thủng lốp xe" không cho
các Ngài đi chữa bệnh hoặc đi thăm nhau khi đau ốm?
Chính tư tưởng của Sư ông đă không lành mạnh và sáng suốt, lời nói của Sư
ông không chính đáng và thật tha, th́ làm sao để truyền thông với nhau
được. Sư ông nói là "Nếu quư ḥa thượng muốn giáo hội này phục hoạt lại,
điều này không phải là một việc khó. Khó là chúng ta phải ngồi lại với
nhau để nói chuyện..." Bạch Sư ông, Sư ông đang đứng trong tư thế của
chính quyền Cộng sản, nói một cách trịch thượng và đầy quyền uy với những
tăng ni không được chính quyền Cộng sản chấp nhận, luôn luôn t́m cách
ngược đăi, bắt bớ, bao vây đó! Không đồng đẳng làm sao ngồi lại với nhau
được? Sư Nhất Hạnh lấy tư cách ǵ để phát ngôn phê phán các vị đại lăo Ḥa
thượng Huyền Quang, Quảng Độ? Sư Nhất Hạnh của Làng Mai, của am Phật sống
Pháp Vân ở Paris! Ông tưởng ông là ai? nếu là Quốc sư của Cộng sản Việt
Nam, th́ ông chỉ có quyền cố vấn và phê b́nh để làm cho Đảng được củng cố
mà thôi, ông không đủ tư cách để đứng ra buộc các tăng ni thuộc giáo hội
Thống Nhất phải ngồi lại với các sư quốc doanh. Đúng là "muốn phục
hoạt th́ rất dễ" chỉ cần ngoan ngoăn nghe theo Đảng Cộng sản th́ sẽ dễ
dàng có quyền di chuyển tự do, thuyết pháp và hành đạo trên mọi miền đất
nước" như sư ông Nhất Hạnh, sư bà Chân Không, có lọng vàng, có bát âm thị
chúng ngay lập tức!
VỀ
SÁU ĐIỂM SƯ NHẤT HẠNH ĐỀ NGHỊ
VỀ SỰ CỞI MỞ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhận định:
Sư Nhất Hạnh phân ra làm sáu điểm cho nhiều, nhưng tựu trung th́ chỉ có
hai ư chính. Ư thứ nhất: người Cộng sản phải ḥa ḿnh với truyền thống dân
tộc, đừng v́ quan điểm Mác-Lénin, duy vật mà lúng túng trong nếp sống của
tín ngưỡng dân gian. Ư thứ hai: người Cộng sản Việt Nam hăy theo giáo lư
từ bi và tuệ giác siêu việt của Phật giáo để bao dung và chuyển hóa hận
thù, để xóa bạo động, ma túy, băng đảng, sắc dục, tu tập để đựợc hạnh
phúc. Dùng tuệ giác Phật giáo để dung ḥa và dân tộc hóa mọi khuyng hướng
du nhập mới hay cũ.
Đây là những đề nghị rởm v́ hời hợt, không có ǵ gọi là cởi mở hay dung
hóa cả. Từ lâu nay các cơ quan tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam vẫn hô
hào cởi trói, cởi mở, đổi mới, ḥa hợp ḥa giải dân tộc, phát huy truyền
thống dân tộc, tiến lên nếp sống văn minh hạnh phúc. Khẩu hiệu: Độc Lập -
Tự Do- Hạnh Phúc vẫn c̣n trên quốc huy Cộng sản, Sư Nhất Hạnh không thấy
hay sao mà đưa ra 6 điểm cởi với mở?
Nói cho đúng th́ phải mở rồi mới cởi thoải mái. Nhưng làm sao có thể bỏ
bài dạy của Quốc tế Vô sản để nhận tổ tiên là Rồng Tiên, khi đảng dạy Tổ
tiên loài người là con khỉ, con vượn, và Bác Hồ khi chết, thay v́ về với
ông bà tổ tiên, bác nói là về với ông Lê, Ông Mác! Bạch Sư Ông, làm sao
đảng viên Cộng sản lại có thể bỏ Lê-nin, Staline, Các-Mác để theo Phật?
Đặc biệt là bỏ "Xít-ta-lin" là người mà Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương
Cộng sản Việt Nam, Tố Hữu đă khóc rằng:
Ông Xít-ta-lin,
ơi!
Như ông mà chết, đất trời c̣n không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười!"
Bạch Sư Ông!
Đạo Phật là đạo cứu khổ cho chúng sanh. Các sư có sứ mạng thuyết pháp độ
sinh, chuyển tạo cuộc đời đau khổ thành an vui, tu tŕ tinh tấn để có thể
hàng ta ma trừ yêu quái quấy phá chúng sanh, chứ không phải theo ma mà
thuyết giảng.
Đức Phật có nói qua một dụ rằng: Khi có người bị bắn một mũi tên tẩm độc,
th́ việc trước tiên và cấp thời là phải rút mũi tên độc ra để t́m cách
giải độc, sau đó mới t́m xem ai bắn và v́ sao lại bắn. Trên cơ thể
Việt Nam hiện nay, mũi tên độc đang cắm vào gây đau đớn và tử vong đó là
đảng cộng sản độc tài với đủ mánh mung gian ác, cần phải nhổ ngay nó đi
th́ người dân mơi có thể có cuộc sống tốt đẹp an vui được. Xin Sư
ông đừng lư thuyết quanh co, gượng gạo nữa.
"Mặc quốc phục hay không mặc quốc phục, thắp cây hương trước đền hùng
hay bàn thờ... để biểu tượng cho sự quư mến cội nguồn và nếp sống ân
nghĩa" Sư Ông thật là chu đáo! Nhưng Sư ông lại quá chú trọng tới
kịch bản và h́nh thức mà quên cái quan trọng là cái tâm thành. Đóng kịch
th́ chắc không ai giỏi bằng Cộng sản Việt Nam đâu, bạch Sư ông. Bởi v́ Bác
Hồ của họ vốn là một kịch sĩ đại tài "un grand comedien!" chắc Sư Ông dư
biết.
Vậy th́ hăy tỉnh thức đừng vọng tưởng nữa.
NGUYỄN CHÂU (30.03.2005)
Phụ Lục: Nguyên
văn sáu điểm của Sư Nhất Hạnh
1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa
truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi
ngày làm đẹp thêm nếp sống ấỵ
2. Người Cộng Sản Việt Nam ư thức rằng cây có cội, nước có nguồn và tổ
tiên là nguồn gốc của ḿnh, từ đó ḿnh đă tiếp nhận được rất nhiều tuệ
giác, kinh nghiệm và nếp sống văn hóa đẹp và lành.
3. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái khi mặc quốc phục và thắp
một cây hương ở Đền Hùng, trên bàn thờ tổ tiên đặt trong nhà ḿnh, và
trước các đài kỷ niệm liệt sĩ. Đền Hùng, bàn thờ tổ tiên và đài liệt sĩ là
biểu tượng cho sự quư mến cội nguồn và nếp sống ân nghĩa, không phải là
đối tượng của một tín ngưỡng thần linh (Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là
một biểu tượng cho cội nguồn và ân nghĩa ấỵ)
4. Người Cộng Sản Việt Nam thấy được rằng phần tôn giáo tín ngưỡng bao
quanh đạo Phật không phải là cốt tủy của đạo Phật. Cốt tủy của đạo Phật là
một nguồn tuệ giác (trí tuệ) siêu việt được tất cả những nhận thức như
có/không, tâm/vật, có khả năng bao dung, có khả năng chế tác t́nh huynh đệ
lớn (từ bi), có khả năng chuyển hóa hận thù, kỳ thị, là những phép thực
tập cụ thể giúp người tháo gỡ được những khó khăn nội tâm, tái lập được
truyền thông, đem lại ḥa giải trong nội thân, trong gia đ́nh và trong xă
hộị Nguồn tuệ giác này và những phép thực tập này nếu được đem áp dụng
đúng phép có công năng xây dựng lại được những gia đ́nh hạnh phúc, những
thôn làng yên vui, những khu phố văn minh không bị những tệ hại xă hội như
tội phạm, bạo động, ma túy, băng đảng và sắc dục xâm chiếm. Truyền thống
từ bi và tuệ giác này đă giúp dân tộc Việt Nam xây dựng nên một nếp sống
thuần từ, kiến tạo được những thế kỷ ḥa b́nh và làm nên bản sắc của nền
văn hóa dân tộc. Bản sắc này được luân lưu trong ḍng máu của tất cả mọi
người Việt, kể cả những người không nghĩ rằng họ là Phật tử.
5. Dù thấy rằng có nhiều
người tự cho là theo Phật giáo nhưng chỉ biết cúng lễ cầu xin, Người Cộng
Sản Việt Nam vẫn cảm thấy thoải mái, không kỳ thị với những người này và
chỉ thấy ḿnh được may mắn hơn, được có cơ hội học hỏi và sử dụng nguồn
tuệ giác đạo Phật để có một chiều hướng sinh hoạt nội tâm phong phú, có
thêm sức mạnh để vượt thắng khó khăn, tạo dựng được cảm thông và hạnh phúc
trong gia đ́nh, tổ chức và thành tựu được sự nghiệp ḿnh một cách mau
chóng.6. Người Cộng Sản Việt
Nam cảm thấy thoải mái sống chung với tất cả các truyền thống nào (đă du
nhập vào Việt Nam từ lâu hay mới du nhập,) có khuynh hướng dân tộc hóa để
trở thành một phần xương thịt của sự sống dân tộc, và t́nh huynh đệ giữa
những truyền thống có đặc tính văn hóa dân tộc ấy là một sự thật không cần
mang danh hiệu và màu sắc tôn giáo, chủng tộc, chủ thuyết, hoặc ư thức hệ.
| |


|