Tiếng trống
đồng Mê Linh
BBC, 6/4/05
Trương thái Du
Việt tại Đà Lạt, tháng tư 2005
T́m hiểu về cổ sử VN là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều
tranh căị Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập trương
thái Du quanh vấn đề t́m lại manh mối về Hai Bà Trưng.
Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ư
kiến tranh luận, phản hồi từ quư vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương
kính và lành ma.nh.
Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi t́m hiểu cổ sử VN của tác giả
và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận
rộng răị Về cơ bản cách tiếp cận này như sau:
1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương
quốc của Đường Nghiêu Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương
(nay thuộc Hồ Bắc, Trung quốc). Sau hàng ngàn năm năm tiến của các đoàn quân
đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương năm. Chỉ đến thời
Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.
2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được h́nh thành tại Đồng
Đ́nh Hồ (Hồ Nam, Trung quốc) khoảng năm Nhâm tuất 1199 tCN. Các vua Hùng
cuối cùng trong số 18 vua Hùng đă chạy giặc Sở xuống đồng bằng tây Giang,
Quảng tây, Trung quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang
Đồng Đ́nh Hồ là Văn Lang tây Giang. Thục Vương tự tên Phán của nước thuộc
(Quí Châu - tây bắc Quảng tây) đă thôn tính Văn Lang tây Giang và dựng lên
nước tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Đồng Đ́nh Hồ tiếp tục di chuyển
xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 tCN (năm triệu Đà thôn
tính tây Âu Lạc). Ở mảnh đất VN cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xă hội theo
mô h́nh Văn Lang Đồng Đ́nh Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không c̣n liên
kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khaị Vua Hùng của họ chỉ c̣n là
thử lănh tụ trị từng khu vực nhỏ, tức là như từ trưởng, tộc trưởng mà thôị
3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng tây, Quảng Đông, Bắc VN
và đăo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc ḿnh là Đất Nước, khi kư âm bằng
Hán tử nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt thường
Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại
Phiên Ngưng cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. từ đây sinh ra tù tây Âu Lạc tương
đương với tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chũ tây này tồn
tại cho đến hôm nay trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng tâỵ Do
đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên.
Sau năm 179 tCN người Lạc Việt ở tây Âu Lạc chạy giặc triệu Đà xuống Bắc
Việt đă dung ḥa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh
em cùng cổi rễ Lạc Việt Đồng Đ́nh Hồ. Chính cổi rễ ấy đă che hết những mối
nối kư ức, những khoảng trống và "mưu mô" của sử sách Trung quốc, biến cổ sử
VN thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.
Mặc dù c̣n rất nhiều sai sớt, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đă
phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lơi của ḿnh nên được các
nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. trong khi vẫn tiếp tục chỉnh
lư chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sẽ
mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết.
Mùa xuân 2005, tṛn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ ḿnh v́ nước, xin được
viết bài này như nén hương ḷng thành kính đang lên Hai Bà. Mong âm linh
liệt mẫu giúp đỡ con cháu VN của ḿnh làm sống dậy tiếng trống đồng bất
khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nh́n khác đi với h́nh
ảnh sáo ṃn vay mượn "phất cờ khởi nghĩa" của cuộc binh biến mang tên tự do
mà Trưng Trắc là lănh tụ, là vị Vua Bà bất tự đầu tiên và cũng là cuối cùng
của mảnh đất tiền VN.
1. thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?
Rất nhiều sử gia đă đồng t́nh rằng theo thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc
tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà c̣n sát cánh bên
phu nhân của ḿnh trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mă Viện tấn công, đuối sức,
ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế
nào th́ thủy Kinh Chú bỏ lủng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng
tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mă Viện bắt và chém
đầu rồi đem thủ cấp về tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn
có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán thư chép bà Trưng Trắc bị xử trạm. Ở đây tôi
muốn trả lời câu hỏi: tại sao sử gia phong kiến VN lại mượn tay Tô Định khai
tử ông Thi.
Ư kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi
viết sử phải "giết" ông thi, v́ nếu ông c̣n sống mà bà Trưng Trắc làm vua
th́ ngược lẽ thánh hiền Khổng Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ h́nh
như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ
rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công
chúa), Vũ thuộc Nương (bắt nàn công chúa), thiều Hoa (đông quân tướng quân),
Diệu tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. theo tôi sẽ bịa đặt
c̣n ẩn chứa hàm ư sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm
của cuộc nổi dậỵ
Trưng trắc và trưng Nhị đă tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại
Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ ḿnh là bà Man thiện. thành công,
Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của
bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em traị Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này
đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái , rồi Hận
người thăm bạo, thù chồng chống quên phất cờ khởi nghĩạ Chuỗi luận thật tṛn
trịa, dễ ru ngủ người đờị thật sự nó đă ru biết bao thế hệ người Việt ngủ
ngon hằng ngàn năm.
Quả t́nh ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất môn
đăng hộ đối với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân
được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này).
Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi
lấy vợ ông đi ở rể hay rước đâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đă theo chế độ
phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chẳn Chu
Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai tṛ của kẻ làm đâu trong một
gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.
Vai tṛ của ông thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công
khá mờ nhạt. thay vào đó là h́nh ảnh trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là
điều hiển nhiên, xă hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và trưng Nhị là
hàng thừa kế thứ nhất
Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải
theo vợ sang Mê Linh. Vai tṛ của ông thi trong cuộc binh biến và cả sau khi
binh biến thành công khá mờ nhạt. thay vào đó là h́nh ảnh Trưng Nhị, em gái
Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xă hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế
tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí trưng Nhị c̣n có thể
thừa kế cả anh rể ḿnh nữa, điều này hoàn toàn không có ǵ xa lạ với nhiều
bộ tộc c̣n chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có
thể lấy chuyển hôn nhân của Mỵ Châu và trọng thủy trước đó hơn 200 năm làm
một điểm tựạ H́nh ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ
chạy khỏi Cộ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một thái
tử trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử Tam Quốc Chí của trần thỏ
(năm 233 297): Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu
Chân, anh chết th́ em trai lấy chỉ đâụ
Tôi đám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng
sông Hồng vẫn c̣n theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái
niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như
là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đ́nh mang họ mẹ,
chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền th́ đi xa hơn, quyền
hành gia đ́nh và xă hội nằm tất ở nữ giới, lănh tụ phải là nữ giớị Do đó
việc tồn tại các năm thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn
với nội dung mẫu hê.. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn
bản huyền sử VN, mặc dù nó đă bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập
khá bài bản và công phụ
Rơ Nhật phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm Mẹ - Đất
(núi) và Cha Nước. trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: Long Quân
nói: ta là ṇi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất,
tuy khí âm dương họp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hứa tương khắc, gịng
giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rơ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ
không phải Âm. Minh chúng thêm ở đây: Tết Đoan Dương (ngày nóng Nhật trong
năm, dương khí cuộc thiện) hay c̣n gọi là Đoan Ngở mừng 5 tháng 5 âm lịch
cũng là ngày giơ^~ Âu Cợ Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo
chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giơ^~ mẹ bằng giơ^~ chạ trong
câu ca đao: Công cha như núi thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
cặp Mẹ - Đất (núi) và Cha Nước trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đă bị chế
độ phụ hệ hoán đội trật tự một cách rất khéo thành Mẹ - Nước và Cha Núi
(đất). Bản thân yếu tố Thái sơn rặt tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của
sự thay đổi ấỵ Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của
bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách t́nh cờ
lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga
và Yoni của người Chiêm thành. tuy nhiên khi so sánh ngực người năm và người
nữ th́ rơ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các
góc nh́n mà thôị
2. Một cách lư giải toàn cảnh
Năm 111 tCN Lộ Bắc Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của
họ triệụ tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang
tính khái niệm theo cách của nhà tần (nó tương đương với Giao Chị của nhà
Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán thư là Đạm
Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chị, Cửu Chân và
Nhật Năm. Giao Chị, Cửu Chân và Nhật Năm tiếp tục là khái niệm, thứ khái
niệm nói lên tính tự cao, tự đăi, ḷng thăm và chủ nghĩa bành trướng của nhà
Hán.
Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương năm đă chiếm được
và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ),
đầu công nguyên nhà tây Hán bắt đầu ḍm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chị,
Cửu Chân và Nhật Năm. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh thái thứ của
quận Giao Chỉ là tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này
chắc chắn chỉ là lănh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa thông
giao đến đất mới thăm ḍ, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô
hô.. Công việc của tích Quang c̣n đang dở th́ trung Nguyên hỗn loạn v́ Vương
Măng cướp ngôị
Năm 23 Lưu tú dẹp được Vương Măng tiếm quyền nhưng trường An đổ nát, hoang
tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu
Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử
sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà tích Quang và Nhâm Diên áp dụng
khi ấy không ngờ c̣n lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc h́nh thức khá
ngây thợ Đến tận VN sử lược của trần trọng Kim gần đây vẫn c̣n viết: Người
ấy (Tích Quang) hết ḷng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho
nên dân trong quận có nhiều người kính phục. Và Dân sẽ quận ấy (Cửu Chân) ái
mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.
Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định t́nh h́nh sau hai cuộc thám sát, Hán
triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành
thực dân hóa quận Giao Chi.. Nhiệm vụ của tân thái thứ chắc chắn là phải xây
dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn
tiệc thực dân, chứ không thể măi măi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ
đăi Hán. Có thể Tô Định đă tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên
tự tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sự tạị Không c̣n những hành động
khoan ḥa vờ vĩnh kiểu tích Quang, Nhâm Diên. tự do của người bản xứ đă bị
xâm hại nghiêm tro.ng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận
nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đă đứng lên hiểu
triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.
Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng t́nh hưởng ứng
khắp nơi. Tô Định chuồn tháng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông,
Trung quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra tṛ nào để sử sách
hoặc dân gian truyền lạị Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được
xây dựng ở trên là hợp lư. Qui mô đội quân chiếm đóng cửa Tô Định rất nhỏ,
chống thể đánh dấm ǵ được.
Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều
này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng
hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.
Mùa xuân năm 42 Mă Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chi.. Bằng
kinh nghiệm lọc lơi của một tên tướng phong kiến, Mă Viện kiên nhẫn đóng
quân tại Lăng Bạc và nghe ngóng t́nh h́nh. Hai Bà Trưng chủ động tấn công
trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba V́). Mă Viện
tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đă bắt được Hai Bà Trưng. tàn quân
Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan ră. Dân gian VN có hai ngày giơ^~
Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quư Măo, âm lịch), có lẽ ngày đầu là
ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành h́nh. Ở đây xuất
hiện hai khả năng: Một là Mă Viện giữ Hai Bà để đủ hàng nhằm kêu gọi nhóm
nghĩa quân chưa buông vũ khí ra tŕnh diễn. Hai là Mă Viện thuyết phục Hai
Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta
cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đă không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ
ḿnh.
Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mă Viện dẫn đến một liên tưởng hơi
ngoài lề: Hậu Hán thư không ghi nhận tổng quân số của Mă Viện nhưng chỉ
riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn
hai vạn lính. Vậy ít nhất Mă Viện phải thống lĩnh lực lượng gặp rưỡi con số
này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mă Viện đă giết hại
cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lăng Bạc. Như thế có
thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng trờm trèm con số vài vạn, ngang ngựa với
quân Mă Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cộ Loa của An Dương Vương
thực sẽ được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng tây
như giả thuyết của tác giả bài này), th́ tại sao Hai Bà Trưng không củng cố
thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thuộc địa đền Cộ Loa Đông
Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bờ sông lớn,
suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn
bị một cuộc kháng chiến dài lâụ Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa
thành từng hiện hữu ở VN có thêm một nghi chúng phủ nhận.
Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm
không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên b́nh diễn văn minh mà dè dặt
nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mă Viện có thể tiên liệu trước
, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước
một mô h́nh xă hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xă hội, phân
công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước . Sự thật là
Hai Bà Trưng đă phải đương đầu với Mă Viện, một tên tướng xâm lăng nên
nguyên nhân thất bại cốt lơi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu
hết người VN, không phân biệt tŕnh độ nhận thức.
3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài dảo xa
Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trạm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn
quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mă Viện tiếp tục
truy kích đến cuối năm 43 th́ hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải
hàng phục. tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đă lên thuyền ra
khơị thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lư và là chi tiết quan trọng, v́
trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do
trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacạ
Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi ḥa lẫn vào những
bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ VN ngày naỵ Họ đă góp phần xây dựng nên đế
chế Chiêm thành sau nàỵ
Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo
biển Malaca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau,
sống ở đảo Sumatra, indonesiạ Họ có khoảng 4 triệu người , chiếm dân số của
đăo 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo
Peninsular, Malaysiạ Họ cũng là người Minangkabaụ Họ vượt eo Malaca đến đây
định cư khoảng từ tK 15 đến tK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện
tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan
dịch nghĩa là Nước (số) chín. Chũ nước ở đây đồng nghĩa với chữ Nagar -
nước, xứ sở của người Chiêm thành và chữ Lạc nác, nước của người Lạc Việt
xưạ thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.
Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn
theo chế độ thị tộc mẫu hê.. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. tuy nhiên
trưởng tộc lại là nam giớị Lănh thổ chung của họ chia thành những vùng tự
trị có tên là Luak (Lạcả). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do
các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Unđang. Người nữ giữ quyền thừa kế
trong thị tộc gọi là turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế
thứ hai gọi là turun Nyi (tiếng Bahasa indonesia lần lượt đọc là t'run
ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc
lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, trưng Nhị [1].
Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong
thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị
em gái ḿnh và những đứa cháụ Nữ giới lập gia đ́nh thường ở lại nhà cha mẹ
ho.. Những người chỉ đă lập gia đ́nh luôn có mối liên hệ gần gũi với các em
gái chưa lập gia đ́nh, thậm chí họ c̣n ở chung với nhaụ Ở indonesia hôm nay,
người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏị Điều này được tạo nên một
phản bội sắc thái văn hóa Minangkabaụ Năm nhi Minangkabau phải rời gia đ́nh
đi t́m tương laị Họ buộc phải thành công. Khắp indonesia ta gặp rất nhiều
các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalaụ Họ theo đạo Hồi đă vài thế kỷ. tuy
nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đă ḥa hợp một cách đáng ngạc
nhiên.
Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau
luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại hoặc. Ngành
du lịch indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để
thu hút du khách. trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người
Minangkabau đă không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đă di
cư đến Năm Dương bằng thuyền.
Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: Ở
indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu
bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn h́nh thuyền, một mặt lại
giống mái cong của đ́nh chùa VN [2].
Xin hăy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất
ḥa giữa người Minangkabau và người Java, thay v́ giải quyết bất ḥa đó bằng
một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chỏi trâu để phân
đi.nh. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người
Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của
ḿnh sẽ đè bẹp chú nghé kiạ Vậy mà yếu đă thắng ma.nh. Người Minangkabau bỏ
đói con nghé nhiều ngàỵ trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé.
Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ ḿnh. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để t́m
vú. Con trâu kềnh càng đă bị chết v́ đao đâm thuộc bu.ng. Và người
Minangkabau đă chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến
thắng, kabau là trâụ
Bất kỳ người Việt nào cũng t́m thấy ở câu chuyện trên một thứ ǵ đó thật gần
gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian trạng Quỳnh
dùng nghé đấu trâu của sứ tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một
tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và
ḷng yêu chuộng ḥa b́nh, ḥa hợp, lấy trí tháng lực, hóa giải mâu thuẫn
bằng trái tim nhân hậụ Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể
thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do VN tổ chức, tức Seagame 2003, đă được
chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử.
Phải chăng người Minangkabau ở indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con
cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn
gọi Trưng Trắc, trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai
hoặc một nhóm người phụ nữ VN bất khuất. Câu trả lời đang ở một tương lai
rất gần.
4. Vua Bà và trống đồng
Xưa từ Hùng ư chỉ thủ lĩnh một vùng. tùy thư (thế kỷ Vi), thiên Địa Lư Chí
Hạ c̣n ghi Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng. Con
vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trước thuộc, qui mô chắc cũng như
làng xă ngày naỵ Chũ Làng có thể xuất phát từ chữ Lang trong Quan Lang,
người Mường gần đây vẫn c̣n Quan Lang. Vậy có thể hiểu Hùng là người đứng
đầu thị tộc mẫu hê.. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ h́nh thành đảng nhà nước sơ
khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lănh tụ của nhà nước sơ khai ấỵ
Khi lưu vong đến Quảng tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Đồng Đ́nh Hồ vẫn c̣n
gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung
đột giữa Thục vương tự và Vua Hùng. tuy vậy trước và sau thời điểm 179 tCN
(năm triệu Đà thôn tính tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 tCN (năm Lộ
Bắc Đức b́nh định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông
Hồng có lẽ đă không thể bảo tồn h́nh thái xă hội Văn Lang cũ. Điều này khá
dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc
gốc Nam Á du canh du cũ với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp,
mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại Đến đầu công
nguyên, ít nhất là t́nh h́nh dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông
Hồng đă được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai
Bà Trưng đă liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan,
xưng vương.
Ở xă hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của từ trưởng, tộc
trưởng. Cũng tùy thư nói: Khi chiến tranh th́ trống đồng được đánh, người
người khắp nơi nghe lời hiểu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng
người sở hữu trống đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của
Mă Viện với quốc bảo trống đồng. thật vậy, Mă Viện năm chinh đă phá vỡ liên
minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt
tự trị ở đơn vị Làng. thế là sau khi giết hại vợ chồng bà trưng, Mă Viện vội
vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ găy các cuộc phản kháng
tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bạn chất gốc của vấn đề xem ra rất
kín kẽ, c̣n hiện tượng Mă Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ
làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được
trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn ḷa x̣a che mắt sự thật lịch sử.
Tôi đă gặp rất nhiều người VN không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống
đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu
chúng lư. Họ bảo không như người trắng tại khu tự trị Quảng tây Trung quốc
(tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc triệu
Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 tCN) vẫn c̣n sử dụng trống cho lễ hội,
trống đồng ở VN chỉ đào được nơi các vừa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên
nhân mang tên Mă Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đă
phải dành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu ḿnh măi măi trân
trọng và giữ ǵn nó Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan ră h́nh
thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất VN cổ, Mă Viện đại diện cho nhà Đông Hán
cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xă. Do được tự
trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người VN đă luôn được nuôi dưỡng dưới
các nếp nhà sau lũy tre làng. từ Làng Nước sinh ra từ đâỵ Làng trở thành một
đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800
năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô
lê.. Khi người Việt có quốc gia rồi, th́ làng xă lại trở về thế đối lập một
cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung
ương. Để dung ḥa lợi ích nhà nước và làng xă, mỗi làng đă được chính quyền
chẳnra một vị thần được ưa chuộng Nhật để sắc phong làm thành Hoàng. Như vậy
mâu thuẫn đă được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng
là thánh linh (hoặc một con người có thật đă được thánh hóa), được ông vua
của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.
5. Kết luận
Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Đồng
Đ́nh Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ trường Giang khi văn minh Hoa Hạ
năm tiến và nước Sở được h́nh thành. Đến Trưng Trắc th́ sức người có hạn,
văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đă tận mà thủy th́ mênh mông, đa số
họ bắt buộc phải dùng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ
nghiệt ngă.
Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người VN đă hơn một lần
bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà trần tiếm
đoạt vương quyền, một nhánh họ Lư đă chạy qua Cao Lỵ Lê Mặc đấu đá rồi tŕnh
Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu
Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào năm, hoặc
ra biển tỏa khắp năm châụ Ai đó đă có lần so sánh người VN với dân Do thái ở
góc độ lưu vong, cũng chống khập khiễng chút nào .
Tự đặt ḿnh vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy h́nh ảnh sáo
ṃn Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa có vẻ không hợp lư. Nên chăng hăy h́nh
dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền ḥa, thôn nối
thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong
âm vang tự do dưới sự lănh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét
sạch bắc quân xâm lược.
Hai Bà Trưng ra đi khép lại thưở bán khai trên đất mảnh đất tiền VN. thời
điểm này chính là hoàng hôn trước đêm đài nô lê.. Người Việt biết chấp nhận
nỗi nhục thiếu tự do để hoặc hỏi, tự hoàn thiện ḿnh. thỉnh thoảng một vài
ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như triệu thị trinh, Mai
thức Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lư Năm Đế
cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước
tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử,
làm bệ phóng cho kỷ nguyên tử chủ bắt đầu với Khúc thừa Dụ năm 905. tám trăm
năm tṛn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩạ Dân tộc VN,
văn minh VN h́nh thành trong gian khó và thử thách đă lớn mạnh vượt bậc. từ
đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ
nữạ Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa,
với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học
kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xă hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sẽ đô hộ
không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này trờm trèm 80 năm mà thôi .
Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyền hiến
sử đầu tiên c̣n lưu lại đến nngày này là Đại Việt Sự lược (1377 1388), sử
gia VN vừa xem sách tàu, vừa chấm bút lông vào nước lă để viết về ông thị
thậm chí họ c̣n sơ ư nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là thi Sách! Năm tháng qua
đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc
dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy
suy điện chủ quan, nô lệ sách tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo
dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô
h́nh chung đă tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được thủy Kinh Chú mô tả
là vi nhân hữu đăm dũng. Kết quả là người mẹ vĩ đăi của họ chống đẹp hơn tí
nàọ Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và
đồng bóng của bà .
Mạnh đất h́nh chữ S có tên VN ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà
Trưng. Đó là tuyên bố rơ ràng nhất về vai tṛ lớn lao của Hai Bà trên non
sông nàỵ Mọi lư thuyết hoặc thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh
hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối
cùng của mảnh đất VN, người mẹ dáng kính của lịch sử VN, của dân tộc VN.
Chú thích
[1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ư của Phạm Chánh trung trang web viethuô.c.org
[2] Văn ngọc: từ những ngôi nhà h́nh thuyền,
www.zdfree.free.fr/dienđan/ar?ticles/u125vngoc.html
[3] Dẫn theo Dien Ạ Rice: Minangkabau Life and Culture, www.haqq.com.au
Vê tac gia: Ông trương thái Du, 37 tuôi, hiện ngụ cũ tại Đà Lạt. Chuyên môn
là Kỹ sư hàng hải nhưng gần đây tác giả đă bỏ nghề đi biển và công việc kinh
doanh cũ để viết văn.
Tac gia noi: "Vài bản thảo đă bị nhiều nhà xuất bản ở VN từ chối in nên chỉ
có thể phổ biến miễn phí trên ma.ng. Do những nghiên cứu này đă, đang và sự
nằm trong các trường thiên tiểu thuyết nên nó mang nặng tính văn chương và
lịch sử nghiệp dự tuy nhiên tác giả cam đoan chúng hoàn toàn không dính líu
đến yếu tố giả tưởng, mặc dù sai sớt và hạn chế là không thể tránh khỏị"
An Nam
Đây là nghiên cứu rất công phư của Ông trương thái Dụ tôi cũng đă cố gắng
tham khảo thêm các bài viết khác của ông và các tác giả khác trên talawas để
có thể t́m hiểu kỹ hơn về cái nh́n về lịch sử của Ông về người Việt cổ.
Ông đă đưa được nhiều yếu tố để phân tích và có những nét mớị tuy c̣n nhiều
chi tiết chưa có thể chứng minh bằng khoa học và lịch sử, có lẽ do cha ông
chúng ta bị đô hộ quá lâu bởi triều đ́nh phuơng Bắc nên một sự lẫn các tư
liệu đă bị mất đi vào thời kỳ bắc thuộc này và lịch sử của chúng ta ngày nay
đă bị nhào nặn, tô vẽ để phù hợp với tư tưởng của tầng lớp thống trị phong
kiến đă bị lối ṃn về quan điểm ư thức hệ và sách vở chi phốị
Theo tôi người Việt cổ đă từng phát triển rực rỡ với nền văn minh lúa nước
và cuộc sống gắn liền với biển cả. Chỉ tiếc rằng, người Việt Cộ không có chữ
Việt để lưu truyền và người Việt của chúng ta đă phải tản mắc khắp nơi với
bao cuộc di dân lớn để cuối cùng chúng ta định cư tại một dẻo đất nhỏ bé
h́nh chữa S mà luôn bị phương Bắc nḥm ngó .
V́ thế, đă đến lúc nh́n lại kỹ hơn về lịch sử VN để con cháu chúng ta biết
tổ tiên chúng ta là aị từ đâu đến và nền văn minh cổ đại của chúng ta như
thế nàỏ Nếu chúng ta không làm bây giờ th́ càng lúc những chứng cứ của lịch
sử sẽ mất đi và con cháu của chúng ta sẽ không biết về quá khứ. Quá khứ th́
mù mờ, đương đăi th́ lệch lạc, tương lai làm sao rơ nét đượcả
Tôi mạn phép đưa ra thiển ư của ḿnh, nếu có thể, mong ông giới thiệu cho
thính giả BBC về những nghiên cứu của Ông đă được phổ biến để chúng tôi rộng
đường tham khảọ Những suy nghĩ có tính chất táo bạo của Ông trương thái Du
rất cần được trân trọng và nghiên cứu tỉ mỉ hơn nữạ Mong lắm thay .
Nguyên tri Đô, TP. HCM
Rất cảm ơn ông trương thái Du có những gợi ư rất độc đáở Có lẽ tôi cần khảo
cứu thêm nữa theo gợi ư từ công tŕnh của ông. Và mong rằng có nhiều người
cùng khảo cứụ Bởi v́ tôi thấy những văn bản cổ đại làm căn cứ khoa học của
chúng ta đă bị lịch sử đánh cướp. Ví dụ ngay câu Bà Trưng quê ở Châu Phong
... chỉ có thể viết bằng chữ Nôm thế kỷ 19 trong sách Đại Nam Quốc Sự Diễn
Cả Đến những tác phẩm đời Hồ, trần, Lư trở về trước th́ không c̣n.
Mấy chữ Bố Cái Đại Vương tôn xưng Phùng Hưng (năm 791) th́ măi 600 năm sau
mới được Đại Việt Sự Kư toàn thư (1427) ghi lạị Dựa vào khối từ vựng như
hoặc , tập , sách ... toàn là chữ Hán , có người cho rằng trước khi Nhâm
Diên , Sĩ Nhiếp đến , chúng ta c̣n hoàn toan mông muội . Cứ căn cứ vào văn
bản kiểu đó, cho nên Sĩ Nhiếp được tôn làm Năm Giao Học tô ..
Đầu thế kỷ 20, người ta thống kê th́ bụng , cổ , ngực, tai .v.v.. chúng ta
lấy của thái, đầu, mi .v.v... chúng ta lấy của Hán, với căn cứ khoa học đó
th́ người Việt thậm chí không có đầụ Trưng Trắc, trưng Nhị thư tịch cổ Trung
quốc chép bằng chữ Hán trước thư tịch VN hơn một ngàn năm. Đến như tuyết
bích (Sprice), khạ khẩu khạ lạc (Coca cola) cũng là chữ Hán y như rằng không
hề có công ty Coca cola của Mỹ trên đời . Cho nên chống trách bạn đọc có
người cho rằng ông trương thái Du cảm tính chủ quan. Cũng như tôi từng chủ
quan cho rằng rất nhiều vị Phật như Địa tặng Vương v.v...là người Hán v́ tên
Phật nào cũng là tên Hán, măi đến một ngày có vị hoặc tṛ là tu sĩ dạy lại
cho tôi biết tất cả các vị Phật có tượng trong chùa Ung Hoà Cung (Bắc Kinh )
đều là người Ấn Đô ..
Làm sao dị dạng gọi Hai Bà là Trưng Trắc trưng Nhị mà phải gọi là t'run
ch'chik và t'run nhi, th́ hiện tại nằm quá xa sức của tôị Làm sao để chứng
minh trống đồng là đặc trưng tiêu biểu của người Việt khi mà khắp vùng Hồ
Bác Hồ Nam cho đến Quảng tây có trống đồng c̣n to hơn cái trống ta đang có.
Năm ngoái, Quảng tây c̣n mở cả hội nghị quốc tế về trống đồng, rất lâu rồi
họ đầu tuyên bố trống đồng là của ho.. Vậy ông trương thái Du ở chừng mức
nào đó có lư khi bảo từ Đồng Đ́nh Hồ về năm đều là đất ngày xưa của Việt ta,
rằng có những thủ lĩnh Việt chôn trống đồng để khỏi bị Mă Viện thu gom.
Tôi nghĩ khi giảng cây tre cương như phối triển là cây biểu trưng của môn vơ
Vo Vi Nam VNNam VN