|
| |
|
Mở
Hồ Sơ “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”
NGUYỄN TIẾN HƯNG
|
|
Tổng trưởng kế hoạch VNCH Nguyễn Tiến Hưng và Ngoại trưởng
Hoa Kỳ Kissinger, 1975. Và trang báo Mỹ tường thuật cuộc họp
báo sau cùng của sứ giả VNCH tại Washinton D.C.
|
"Rút
cuộc, chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ư chí dân tộc Hoa Kỳ đă sụp đổ"
(In the end, we simply cut and ran. The American national will
had collapsed). Đó là lời tuyên bố của vị Đại sứù Mỹ cuối cùng
tại Miền Nam
(New York Times, 30/4/85).
Mỹ muốn chạy! Nhưng chạy như thế nào?
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là
người sứ giả cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam được gửi
sang Mỹ cầu cứu với đồng minh vào tháng Tư 1975.
20 năm sau ngày Saigon xụp đổ, ông Hưng xuất bản sách "The
Palace File" (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập). Thêm 10 năm sau, báo xuân
Việt Báo Tết Ất Dậu, có đăng bài viết đặc biệt của Tiến sĩ Hưng
viết thêm về những bí ẩn do Cựu Đại Sứ Mỹ tại VN Graham Martin
kể lại “Mỹ tính kế chạy: Bắn nhau với... quân đội VNCH”, trích
từ cuốn sách mới của ông: “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”.
Sách nay đă in xong, sẵn sàng để phát hành. Và sau đây là lời
nói đầu, kể về lư do mở lại hồ sơ cay đắng này, nhân dịp kỷ niệm
30 năm ngày “đồng minh tháo chạy”.
*
Sao lẹ thế? Ngày 10 tháng Ba, 1975 Quân đội Bắc Việt đánh chiếm
Ban Mê Thuột. Đến ngày 30 tháng Tư đă tiến vào Sàigon. Tốc độ
như vũ băo, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày! Không lẽ một cuộc chiến kéo
dài tới hai mươi năm, đến khi kết thúc lại nhanh như vậy?
Rồi cuộc di tản tiếp theo. Trước hết là thời gian di tản, sao nó
quá ngắn ngủi? Tuy hai cuộc chiến năm 1954 và 1975 kết thúc
trong những hoàn cảnh khác hẳn nhau, ta vẫn có thể hỏi tại sao
khi Pháp rút khỏi Miền Bắc, thời gian được quy định là 300 ngày.
Bây giờ đến lúc Mỹ rút hết khỏi Miền Nam th́ không có quy định
ǵ hết, cuộc di tản chỉ kéo dài được vỏn vẹn năm ngày!
Nói tới cung cách ra đi, sao lại quá thê thảm? Năm 1954, dù chỉ
là di tản từ Bắc vào Nam và năm 1975 th́ di tản sang Mỹ nên hai
biến cố khác nhau, nhưng phần nào ta cũng so sánh được việc đoàn
người ra đi có trật tự, rất ít nguy hiểm ở lần đầu, với cuộc di
tản nháo nhào, đầøy rủi ro, hăi hùng vào lần thứ hai. Rốt cuộc,
tại sao số người được cứu vớt lại quá ít ỏi? Hồi 1954, Mỹ chưa
trực tiếp dính líu vào Việt Nam mà đă giúp chuyên chở, rồi định
cư cho một triệu người, tức là 7% dân số Miền Bắc. Sau hai mươi
năm can thiệp với hơn một nửa triệu quân, sống chết với 20 triệu
dân quân Miền Nam, giờ đây lại chỉ định cứu có 50.000 người. Tới
phút cuối cùng mới vớt thêm. Tất cả không tới 130.000 người,
nghĩa là có 0.6% dân số.
Phóng viên: "Thưa ông, cứ cho là Hoa Kỳ đă bội ước, nhưng c̣n lư
do ǵ khác khiến chúng tôi phải đưa người Việt vào Mỹ không?"
Tác giả: "Tượng Nữ Thần Tự Do đang nhắc nhở cho chúng ta rằng
nước Mỹ là đất của những kẻ bị truy nă, của di dân."
Phóng viên: "Tôi xin nhắc nhở cho ông là Nữ Thần Tự Do quay mặt
về phía Đại Tây Dương."
(Ư nói là bà quay lưng về phía Á Châu, phía Việt Nam chúng ta.)
*
Đây là một giai thoại trong phiên họp báo của chúng tôi ngày 30
tháng Tư, 1975 (ngày 1 tháng 5 giờ Sàig̣n) tại khách sạn May
Flower trên đường Connecticut, Washing- ton, D.C. Mục đích của
cuộc họp nhằm kêu gọi Hoa Kỳ cứu vớt những con thuyền đang lênh
đênh như lá tre ngoài bờ biển Vũng Tàu. Vô cùng xúc động, chúng
tôi không cầm được nước mắt. Câu mỉa mai này đă ám ảnh chúng tôi
từ giây phút đó, và chắc sẽ không bao giờ phai nhoà đi được
trong kư ức.
Sau 30 năm rồi mà ta chưa t́m được câu trả lời thoả đáng cho
những thắc mắc trên.
Biến cố lịch sử năm 1975 đă để lại những ấn tượng sâu đậm trong
tâm trí của tất cả chúng ta, những con người Việt Nam, dù ở
trong hay ngoài nước. Mỗi người một hoàn cảnh, một cảm xúc, một
số phận. Một số quư vị đang cầm cuốn sách này trong tay là những
người thuộc thành phần may mắn, không nhiều th́ ít, đă thỐt được
bao nhiêu rủi ro. Thành phần khác đă chịu số phận nghiệt ngă,
giờ đây chỉ c̣n là những oan hồn vất vưởng trong ḷng Thái B́nh
Dương.
Và sau này, những thế hệ mai sau, con cháu chúng ta sẽ tiếp tục
thắc mắc: tại sao cha mẹ, ông bà ḿnh lại bỏ quê cha đất tổ chạy
sang Mỹ? Sang bao giờ? Trong hoàn cảnh chính trị, xă hội, kinh
tế ra sao? Sang bằng cách nào? May mắn? Lúc đầu như thế nào? Làm
sao mà sinh sống? Không bà con, không tiền, không nghề nghiệp
thích hợp, không cùng ngôn ngữ, làm thế nào mà nuôi được con
cháu ăn học thành tài như ngày nay?
Gần 20 năm trước, năm 1986, tôi đă cùng Jerold Schecter, nguyên
chủ bút tuần báo TIME xuất bản cuốn "The Palace File" (Hồ Sơ Mật
Dinh Độc Lập - HSMDĐL). Cuốn sách đề cập nhiều tới Hiệp Định
Paris và ảnh hưởng bất lợi của nó. Đối tượng chủ yếu là độc giả
Mỹ, đặc biệt là các nhà làm chính sách Hoa Kỳ. Tổng Trưởng Ngoại
Giao thời đó là ông George Schultz (trong chính quyền Reagan) có
viết cho chúng tôi là ông đă đưa cuốn này vào thư viện nhỏ của
Văn Pḥng Tổng Trưởng Ngoại Giao ở Foggy Bottom. Các vị kế
nghiệp ông sẽ được đọc. Năm 1988, tờ New York Times đă chọn cuốn
"The Palace File" để vào số những sách mà các ứng cử viên Tổng
Thống cần phải đọc, với tựa đề: "Vừa đọc vừa vận động: Một lớp
cấp tốc cho chức vị Tổng Thống" (Read and Run: A Cram Course for
the Presidency).
*
Cuốn sách quư vị đang cầm trong tay, Khi Đồng Minh Tháo Chạy
(KĐMTC), được viết căn bản là cho độc giả Việt Nam. Sách gồm năm
phần chính:
Phần I: bàn về thời điểm và cách thức Mỹ tháo gỡ khỏi chiến
trường Việt Nam;
Phần II: nói đến thân phận một tiểu quốc muốn cố gắng vượt ra
khỏi sự lệ thuộc;
Phần III: kể lại những ǵ đă xảy ra tại Washington và Sàig̣n sau
khi quân đội Mỹ rút hết cho tới khi Miền Nam sụp đổ;
Phần IV: tŕnh bày diễn tiến vào giờ hấp hối, việc một số chính
trị gia Mỹ đă không muốn cứu vớt người Việt Nam, đặc biệt là về
cơ nguy Mỹ-Việt suưt bắn nhau; phần này cũng thuật lại một cố
gắng cuối cùng của tác giả đặt trách nhiệm tinh thần cho Hoa Kỳ
đ̣i hỏi phải giúp cho ít nhất một triệu người tỵ nạn;
Phần V: nh́n lại lịch sử để ghi nhận cho con cháu những khó
khăn, chống đối lớn lao cha ông chúng đă gặp lúc ban đầu; phần
này thâu tóm một nguyên nhân chính làm sụp đổ Miền Nam, cũng như
những bài học rút ra từ cuộc chiến cho những thế hệ tương lai
của Việt Nam và các đồng minh của Hoa Kỳ hiện đại.
"Thay Lời Kết," chúng tôi đề cập tới thiện tâm của nhân dân Hoa
Kỳ, v́ sau cùng, cánh tay của đại đa số đă rộng mở, tiếp nhận
đoàn người tỵ nạn trong một thời gian trên hai thập niên.
Sách này dựa vào một phần cuốn HSMDĐL và vào những nghiên cứu
thêm của tác giả trong mười năm qua. Trong cả hai cuốn, ngoài
phần tài liệu, chúng tôi đă bổ sung bằng những phỏng vấn với các
viên chức hữu trách cả hai phía Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ; đặc
biệt là Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu (tại Luân Đôn và Boston),
Tổng Thống Gerald Ford, Ngoại Trưởng Henry Kissinger, tướng
Alexander Haig, tướng John Murray, các Tổng Trưởng Quốc Pḥng
liên hệ như James Schlesinger, Melvin Laird, Elliot Richardson
và các viên chức cao cấp Cơ Quan T́nh báo CIA. Tổng Thống
Richard Nixon khi c̣n sống đă từ chối cuộc phỏng vấn v́ lư do
sức khoẻ.
Điều mà cuốn KĐMTC muốn nhấn mạnh, nhất là cho người Việt Nam
chúng ta rơ, là cung cách mà một số chính khách Hoa Kỳ, đặc biệt
là ông Kissinger, và phần nào, hai ông Nixon, Ford, cũng như một
số nghị sĩ, dân biểu với con mắt thiển cận, đă hành xử đối với
nhân dân Miền Nam. Nó phản bội nguyên tắc "minh bạch"
(transparency) của thể chế dân chủ, và đi ngược lại tinh thần
công b́nh của đại đa số nhân dân Hoa Kỳ. Trong bóng tối, trước
hết hai ông Kissinger-Nixon đă dùng thủ đoạn ép buộc Miền Nam đi
theo đường lối của ḿnh, mục đích chính chỉ là để cho quân đội
Mỹ rút đi, và tù binh được thả về. Khi Chính phủ Miền Nam phản
kháng th́ đe doạ với "cái gậy" (đảo chánh và cắt viện trợ), và
hứa hẹn với "củ cà rốt" (bảo đảm hoà b́nh và viện trợ đầy đủ).
Hứa hẹn xong th́ lờ đi, giấu cho thật kỹ. Quốc Hội không biết ǵ
hết nên đă cắt giảm viện trợ một cách quá nhanh và quá thẳng
tay. HỐù ra, củ cà rốt chỉ là một công cụ che giấu một kế hoạch
gọi là "khoảng thời gian coi cho được." Kế hoạch này chỉ nhằm
ban phát cho Miền Nam Việt Nam một thời gian ngắn ngủi, một
khoảng cách từ khi Mỹ rút hết cho tới khi sụp đổ. Trước khi cuốn
sách này lên khuôn, một nhân chứng về những hành động hắc ám của
ông Kissinger, ông John Negroponte vừa được Tổng Thống George
Bush trao phó chức vụ 'Điều Khiển Toàn Bộ T́nh Báo Hoa Kỳ.' Ông
là liên lạc viên giữa Kissinger và phái đoàn Bắc Việt tại mật
đàm Paris. Ngày 19 tháng Hai, 2005, tờ Boston Globe có bài viết
về ông này và b́nh luận: "tuy hồi đó Negroponte chỉ là nhân viên
cấp dưới, ông đă có tinh thần rất độc lập và đă phản đối
Kissinger về việc chấp nhận để quân đội Bắc Việt đóng lại Miền
Nam, cho rằng như vậy là đưa Miền Nam tới chỗ sụp đổ và hành
động này có nghĩa là đă bỏ rơi đồng Minh của Hoa Kỳ. Ông Richard
Holbrooke (Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc thời Clinton, và là bạn
đồng liêu với John Negroponte lúc c̣n ở Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia) có nói rằng chính v́ Negroponte đă cưỡng lại Kissinger mà
bị hạ tầng công tác trong gần suốt thập niên 1970."â
Đối với Miền Nam, ngay trước lúc sụp đổ hoàn toàn, ông Kissinger
c̣n thốt lên: "Sao chúng không chết phứt cho rồi?" Sau đó, kế
hoạch tháo chạy được thiết kế lúc đầu căn bản chỉ là để di tản
6.000 người Mỹ và một số rất ít người Việt.
Cho dù nhiều người có thể biện luận rằng việc giải kết khỏi Miền
Nam là điều có lợi cho nước Mỹ đi nữa, nó cũng chỉ là ích lợi
đoản kỳ, ở vào thời điểm đó thôi. Trong trường kỳ, việc bỏ rơi,
nhất là cung cách tháo chạy đă làm tổn hại rất nhiều tới 'mức độ
tin cậy' (credibility) của chính sách ngoại giao cũng như uy tín
Hoa Kỳ. Bạn th́ bớt tin tưởng, thù th́ hết kính nể. Sau Việt
Nam, vào tháng 10, 1979, Iran đă táo tợn đến độ bắt ngay cả nhân
viên Toà Đại sứ Mỹ ở Teheran làm con tin hơn một năm. Rồi từ đó,
bao nhiêu vụ tấn công vào ngườiơ và tài sản của Mỹ. Liệu những
hành động của Saddam Hussein, Al-Qaeda, biến cố gây nổ tàu Cole
ở Qatar, hay sự cố 9/11 có phải là những hậu quả của việc coi
thường Hoa Kỳ hay không? Bởi vậy, về lâu về dài, cái giá phải
trả chắc chắn đă không phải là thấp.
Tất cả những sự việc ở hậâu trường bang giao Việt-Mỹ trong giai
đoạn từ khi Mỹ tháo gỡ cho tới lúc bỏ chạy được rất ít người
biết tới. Lư do là v́ø: về phía Mỹ, hồ sơ mật về Việt Nam trong
giai đoạn này đă được giấu kín trong văn pḥng Cố Vấn Kissinger
tại Toà Bạch Ốc; và về phía Việt Nam Cộng Ḥa, nó được hoàn toàn
bảo mật trong văn pḥng riêng của Tổng Thống Thiệu tại Dinh Độc
Lập.
Nhiều tác giả nổi tiếng của Mỹ về vấn đề Việt Nam cũng đă phải
b́nh luận về việc này. Trong cuốn Uncertain Greatness, chính ông
Roger Morris, nhân vật quan trọng trong Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia (National Security Council (NSC) do ông Kissinger điều
khiển, đă phàn nàn: "Dù rằng nó là một vấn đề được viết và bàn
luận nhiều nhất trong chính sách ngoại giao, nhưng hồ sơ của
Nixon - Kissinger về Đông Dương trong nhiều phương diện đă ít
được hiểu biết nhất…. Sự việc mà dưới thời Johnson là một mạng
rối rắm giữa các động lực hành chính ở Sàig̣n và Washington… bây
giờ hầu như đă trở nên một sự khống chế của chỉ hai bộ óc trong
Toà Bạch Ốc (Kissinger và Nixon)."
Một tác giả nổi tiếng khác, ông Leslie Gelb trong cuốn The Irony
of Vietnam: The System Worked, đă viết: "Câu chuyện về chính
sách Việt Nam dưới thời Richard Nixon và Gerald Ford là một chủ
đề quan trọng…, nói về việc Hoa Kỳ đă rút ra chứ không phải đă
nhảy vào Việt Nam như thế nào… (thế nhưng) những nguồn tài liệu
cần thiết để phân tích giai đoạn từ sau 1968 chắc sẽ không có
được trong một thời gian nữa."
Hy vọng rằng cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” sẽ lấp được phần nào
cái lỗ hổng này của lịch sử. Âu cũng do định mệnh mà người viết
được chứng kiến một số sự việc xảy ra tại dinh Độc Lập cũng như
tại bộ Quốc Pḥng và Quốc Hội Hoa Kỳ trong những ngày tháng đầøy
tuyệt vọng. Trước hết với tư cách là một Phụ Tá Tổng Thống, rồi
Tổng Trưởng Kế Hoạch trong nội các. Là người điều hợp viện trợ
trên b́nh diện kinh tế toàn quốc, người viết làm việc trực tiếp
với Tổng Thống Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng. Trong
cương vị này, hồi 1974-1975 nhiều lúc chúng tôi đă phải dẹp bỏ
tự ái, lui tới Quốc Hội Hoa Kỳ như một người đi cầu xin.
V́ đă quen với lề lối làm việc ở Mỹ trong nhiều năm trước khi
trở về nước giúp tái thiết nền kinh tế, chúng tôi đă luôn luôn
mang theo cuốn sổ tay nho nhỏ màu vàng mỗi khi đi họp để ghi chú
diễn tiến buổi họp. Kèm theo là những nhận xét hay cảm nghĩ cũa
riêng ḿnh vào ngay lúc đó, viết trong ngoặc. Ở Sàig̣n, những
cuộc họp gồm có các buổi giữa cấp lănh đạo tối cao, các buổi họp
giữa Tổng Thống Thiệu và giới chức Hoa Kỳ. Tại Washington là các
buổi họp với một số viên chức cao cấp tại bộ Ngoại Giao, bộ Quốc
Pḥng, và một số Nghị sĩ, Dân biểu tại Quốc Hội Hoa Kỳ.
Ngoài ra, tôi có ghi lại những cuộc đàm thoại, những chỉ thị
cũng như tâm tư, cảm xúc của Tổng Thống Thiệu trong nhiều bữa ăn
một ḿnh với ông, hay trong những lúc thư giăn nhấm nháp ly rượu
vào buổi chiều tối.
Một phần của những ghi chép đó được dùng trong cuốn sách này.
Nhằm bổ sung phần ghi chép, chúng tôi đă cố nghiên cứu thêm
trong thời gian qua để t́m hiểu sâu rộng hơn về những diễn tiến
đưa tới sự sụp đổ mau lẹ của Miền Nam và cuộc di tản tiếp theo.
Trong phần nghiên cứu và trích dẫn thêm, ngoài những tài liệu
nội bộ, chúng tôi c̣n dựa vào hồi kư đă được xuất bản của các
nhân vật chính yếu tham gia vào lịch sử của thời gian này (như
các Tổng Thống Nixon, Ford, Ngoại Trưởng Kissinger, Phụ Tá
Ehrlichman, Haldeman, Phụ Tá Báo chí Nessen), và sách của một số
tác giả uy tín (như các ông Butler, Hersh và hai anh em ông
Kalb). Chúng tôi ghi nhận và cám ơn các tác giả và các nhà xuất
bản (xem phần "Sách Tham Khảo").
Về những tài liệu nội bộ, quư nhất là tập hồ sơ tối mật về bang
giao Việt-Mỹ dưới thời hai Tổng Thống Richard Nixon và Gerald
Ford. Đầu tháng Ba, 1975, Tổng Thống Thiệu có cho chúng tôi xem
một vài lá thư, rồi một tháng sau, ông đă trao phó toàn bộ văn
kiện. Thật là một may mắn mà hồ sơ đó đă được cứu văn cho lịch
sử. Mang nó theo khi bước chân lên chiếc máy bay Pan Am đi
Washington ngày 15 tháng Tư trong công tác cuối cùng cho Việt
Nam Cộng Ḥa, chúng tôi hết sức lo âu. Lo là v́ về phía Mỹ, Bộ
Ngoại Giao đang chối đi là không có cam kết ǵ bí mật hết. Tài
liệu này đă được giấu kín, kín đến độ Chính Tổng Thống Ford cũng
như ở trong bóng tối. Măi tới sau khi Huế bị bỏ ngỏ và Đà Nẵng
đă di tản, ông mới được đọc vài bức thư trong số những văn kiện
tối mật của Tổng Thống Nixon gửi Tổng Thống Thiệu. Và việc ông
Ford đọc được là do chính chúng tôi khởi xướng.
Cái trớ trêu là vào những ngày giờ cuối cùng, giữa Dinh Độc lập
và Toà Bạch Ốc đă chẳng c̣n có đường dây nào để liên lạc, trao
đổi!
Nguyên thuỷ, tôi chỉ là một giáo sư kinh tế học, rồi làm Tổng
trưởng Kế Hoạch, có ngờ đâu lịch sử lại đưa đẩy vào cái thế phải
chạy loanh quanh để đi t́m "người đưa thư" (là tướng Fred
Weyand) cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa. Cái khó vào lúc đó là
làm sao chuyển được thư của một Tổng Thống Mỹ này tới tay một
Tổng Thống Mỹ khác mà không qua Bộ Ngoại Giao? Sau này, nghị sĩ
Henry "Scoop" Jackson (Dân chủ, tiểu bang Washington) đă phải
phàn nàn rằng: "Thật là lố bịch và nguy hiểm khi Quốc Hội và
nhân dân Hoa Kỳ phải nhờ vào quan chức ngoại quốc (ông Hưng) mới
biết được những văn kiện tối quan trọng này" (xem Chương 17).
Rồi tới những bức thư cầu cứu cuối cùng của Quốc Hội Việt Nam
gửi Quốc Hội Hoa Kỳ: chắc đă bị "thất lạc" rồi? Cho tới nay,
không có một dấu vết ǵ là chúng đă đến tay Quốc Hội. Làm sao có
thể hiểu được là guồng máy ngoại giao của một đại cường quốc như
Hoa Kỳ lại trở nên lạ lùng như vậy?
Khi đọc được ba trong số những bức thư của Tổng Thống Nixon gửi
Tổng Thống Thiệu, Tổng Thống Ford đă xúc động!
Sau đó ông ra phi trường đón tiếp lớp trẻ mồ côi Việt Nam vừa
được chở tới San Francisco. Tay bồng một em bé, ông bước xuống
máy bay, có chiều âu yếm. Và từ giây phút này có lẽ ông đă thay
đổi thái độ về vấn đề tỵ nạn. Ông c̣n xin thêm quân viện cho
Việt Nam Cộng Ḥa, dù biết rằng đă quá muộn. Trước đấy, sau cuộc
rút lui cam go của Quân Đoàn II và cuộc di tản kinh hoàng từ Đà
Nẵng, ông Ford vẫn b́nh chân như vại, đi Palm Springs đánh gôn.
Năm 1985 khi chúng tôi phỏng vấn và đưa ông Ford đọc lại mấy bức
thư của Tổng Thống Nixon, ông vẫn c̣n tỏ vẻ ngậm ngùi: "Không
c̣n một nghi ngờ nào hết, đây là những lời cam kết hết sức quyết
liệt" (Well, there is no doubt these were very categorical
commitments).
Tổng Thống Ford nhận xét như vậy là chính xác.Tuy nhiên, nghe
như đăi bôi v́ kể cả sau khi ông được biết như trên, ông vẫn để
cho Ngoại Trưởng kiêm Cố Vấn của ông che dấu Quốc Hội và nhân
dân Hoa Kỳ. Vào ngày cuối cùng, trong một cuộc họp báo, chúng
tôi quyết tâm phơi bầy cho công luận những 'cam kết vô cùng
quyết liệt' ấy với mục đích yêu cầu cho một triệu người Việt
được tỵ nạn. Cấp lănh đạo Hành Pháp cũng như Lập Pháp Hoa Kỳ đă
rất ngạc nhiên về những tiết lộ này. Sau đó, rơ ràng có sự thay
đổi thái độ về vấn đề chấp nhận đoàn người tỵ nạn. Và chúng tôi
đă có dịp được đóng góp thêm cho việc sắp xếp các trại cũng như
việc xuất trại, t́m công ăn việc làm cho đoàn người tỵ nạn đợt
đầu.
Ngoài những tài liệu mật về bang giao Việt-Mỹ, tác giả đă đàm
đạo với Đại sứ Martin, sau khi ông về hưu. Ông là Đại sứ Mỹ cuối
cùng ở Miền Nam và là người đă bị bắt buộc phải thi hành mệnh
lệnh tháo chạy. Bản thân chúng tôi đă gặp ông nhiều lần để t́m
hiểu những ǵ đă xảy ra bên trong Toà Đại sứ trước khi chiếc
trực thăng Lady Ace 09 mang lệnh Tổng Thống đến bốc ông đi. Ông
cho biết một số những diễn tiến quan trọng lúc con thuyền Miền
Nam nghiêng ngửa sắp ch́m đắm. Ông c̣n cung cấp một số tài liệu
quư giá cho lịch sử. Trong những tài liệu này, phải kể tới bức
thư Tổng Thống Dương Văn Minh yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Ngoài ra, c̣n một số mật điện trao đổi hết sức quan trọng giữa
ông và Kissinger vào lúc những ngày giờ cuối.
Đại sứ Martin cho hay là ông muốn chờ một thời điểm thuận tiện
để sẽ "nói lên lời cuối cùng" về những mánh lới, những thủ đoạn
đâm sau lưng của một vài chính trị gia tại Washington. Ông rất
muốn b́nh luận thêm về một nguy cơ thực sự có mà chính ông đă
giúp tránh né được. Đó là suưt nữa có đụng độ lớn giữa mấy sư
đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ với quân lực Việt Nam Cộng Ḥa vào
giờ chót. Nó có thể đưa tới chỗ đổ vỡ hoàn toàn. Và trong t́nh
huống ấy, sau hai mươi năm kề vai sát cánh, Việt Nam Cộng Ḥa
lại trở thành kẻ thù của Hoa Kỳ? Nếu như vậy th́ số phận của mỗi
người trong chúng ta đă ra sao?
Về phương diện cá nhân, ông Martin c̣n muốn viết về chuyến ra đi
nhục nhă của chính bản thân ông. Ông cho rằng việc này đă làm
tiêu hao biết bao nhiêu uy tín của nước Mỹ. Bộ Ngoại Giao dường
như không để ư nhiều tới những khổ tâm của ông, lại c̣n trừng
phạt, cho ông ngồi chơi xơi nước tại Bộ trước khi về hưu. Và ông
đă về hưu sớm hơn là đến kỳ hạn.
Theo chúng tôi được biết, Tổng Thống Thiệu cũng đă có ư định
viết hồi kư. Thế nhưng cả hai người đều đă không đủ thời giờ để
viết. Cả hai đều đă đi về nơi chín suối, mang theo bao nhiêu
ngậm ngùi, chua xót. Một người th́ ngậm ngùi, hổ thẹn cho tư
cách của một đại quốc, một người th́ ân hận, chua xót cho thân
phận của một tiểu quốc.
Nhân ngày đánh dấu muời năm sụp đổ Miền Nam (30 tháng 4, 1985),
tờ New York Times đăng câu phê phán cuối cùng của Đại Sứ Martin:
"Rút cuộc, chúng ta chỉ lo tháo chạy. Ư chí dân tộc của Hoa Kỳ
đă sụp đổ" (In the end, we simply cut and ran. The American
national will had collapsed). Tôi xin mượn một phần câu ông nói
làm đầu đề cho cuốn sách này.
Tác giả hoàn toàn không ở địa vị đủ cao cấp để nói lên lời cuối,
nhưng nhờ một cơ duyên của lịch sử đă may mắn được gặp lại cố
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhiều lần ở London và Boston để nghe
và ghi lại những lời cuối cùng của ông về cuộc chiến. Ngoài ra,
c̣n được nghe những lời thố lộ từ tâm huyết của vị Đại sứ Mỹ
cuối cùng tại Miền Nam, Graham Martin, trước khi ông qua đời.
Ông c̣n căn dặn là chúng tôi nên viết lại những ǵ được nghe và
được chứng kiến để đóng góp cho lịch sử.
NGUYỄN TIẾN HƯNG
(Trích “Lời Nói Đầu”, sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, sắp phát
hành)
|
|
|
|
| |


|