NHUỆ
HỒNG NÓI VỚI NHẤT HẠNH
LỜI DẪN
Thiền Sư Nhất Hạnh đối với chúng tôi là chỗ thân t́nh. Các em trai và em dâu
tôi đều t́nh nguyện xung vào ban phát hành và phổ biến tác phẩm của Thầy.
Các văn hữu và chiến hữu thân thiết nhất của tôi như Tịnh Liên Nghiêm Xuân
Hồng và Vũ Khắc Khoan đều ngưỡng mộ Nhất Hạnh. Trước khi là đệ tử của Lư
Đông A, hai vị đă nghiên cứu và tin theo đạo Phật. Trong hơn ba thập niên
cùng hoạt động về văn hóa và chính trị, tôi thường thấy hai vị ca ngợi chính
khí Lư Đông A, ngâm thơ HồTrường và khen văn Nhất Hạnh (Trong khi Nguyễn Đức
Quỳnh chỉ thích đọc văn Nhuệ Hồng một mạch từ đầu chí cuối). Sau này, cũng
như Nhất Hạnh, Tịnh Liên là thiền sư viết sách và thuyết giảng Kinh Phật.
Cách đây 25 năm, tại Vùng Vịnh Cựu Kim Sơn, tôi có cơ duyên hợp tác với Thầy
trong việc thành lập cơ sở Lá Bối. (Đầu thập niên 70 nhà xuất bản Lá Bối
nhận ấn hành cuốn Xử Án Vương Thúy Kiều của tôi, nhưng sách chưa in xong th́
Saigon thất thủ).
Trong thời gian cư trú tại Vùng Vịnh, Thầy thường thuyết giảng thiền học
bằng quan niệm tỉnh thức. Trong những buồi họp mặt này lần nào cũng có Cha
Kim Định là người chủ xướng thuyết An Vi của Việt Nho. Là nho sĩ theo quan
niệm thiên hạ đồng quy, tôi cũng chủ trương tam giao đồng tôn (Phật, Chúa và
Khổng Mạnh). Tôi thích văn Nhất Hạnh trong sáng, diễn giảng b́nh dị những
vấn đề tâm linh u ẩn.
Nhưng rồi Cha Kim Định đă vĩnh viễn ra đi. Thầy Nhất Hạnh cũng sang Pháp
hưởng thú vui sớm Mai tối Mận cùng các đệ tử và đạo hữu thân thương. Nếu
Nghiêm Xuân Hồng đă viết Luyến Ái Quan th́ Nhất Hạnh cũng viết sách ca ngợi
t́nh yêu.
Trong thời gian tiếp xúc tôi thấy Thầy hay lên tiếng phủ nhận chủ thuyết
Cộng Sản (CS), dầu rằng trong thập niên 60 Thầy theo phe phản chiến,
Sau một phần tư thế kỷ, đầu năm nay, tôi lại thấy Thầy thuyết giảng thiền
học tại quê nhà. Thầy đă hướng dẫn nhiều khóa tu thiền, phổ biến quan niệm
tỉnh thức để phát huy nguồn tuệ giác cho một số phật tử trong và ngoài nước.
Trang nhà Tiếp Hiện cho biết Thầy đang trong quá tŕnh quan sát và lắng nghe
những nguyện vọng của phật tử. Thầy đă đạo đạt lên nhà cầm quyền 6 điểm đề
nghị để khai triển chính sách mệnh danh là đổi mới hay cởi mở của Đảng CS.
Ngoài ra Thầy c̣n đề nghị 7 điểm về chính sách của nhà nước đối với Phật
Giáo.
Tôi đọc bản đề nghị của Thầy hơn 10 lần mới đặt bút viết những gịng này.
Tôi có cảm tưởng đây không phải là bản đề nghị của Thầy mà là bản công bố
lập trường của nhà nước.
BẤT ĐỒNG NHI H̉A
Trong 6 điểm đề nghị về chính sách cởi mở của Đảng CS có 4 điểm (1,2,3 và
6), đề cao chủ nghĩa dân tộc, sự nghiệp giải phóng dân tộc, văn hóa truyền
thống dân tộc, bản sắc dân tộc, cội nguồn dân tộc, nếp sống ân nghĩa của dân
tộc v...v...
6 điểm đề nghị có thể được hiểu và đọc như sau: (Các chữ trong dấu ngoặc [ ]
là của Nhuệ Hồng).
Điểm 1 “Người CS Việt Nam [chúng ta] cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn
hóa truyền thống dân tộc.”
Điểm 2: “người CS Việt Nam [chúng ta] ư thức rằng cây có cội, nước có nguồn,
và tổ tiên là nguồn gốc của ḿnh, từ đó ḿnh tiếp nhận được rất nhiều tuệ
giác và kinh nghiệm.”
Điểm 3: “Người CS Việt Nam [chúng ta] cảm thấy thoải mái khi thắp một cây
hương ở Đền Hùng, trên bàn thờ tổ tiên, và trước các đài kỷ niệm liệt sĩ.
[Hành vi này] biểu tượng cho sự quí mến cội nguồn và nếp sống ân nghĩa. [Đền
Hùng và ] Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh biểu tượng cho cội nguồn và ân nghĩa
ấy.”
Điểm 6: “Người CS Việt Nam [chúng ta] cảm thấy thoải mái sống chung với tất
cả các truyền thống văn hóa có khuynh hướng dân tộc hóa đă du nhập từ lâu
hay mới du nhập, không phân biệt danh hiệu, tôn giáo, chủ thuyết hay ư thức
hệ [kể cả ư thức hệ CS].
Trong các điểm 4 và 5 Thầy tŕnh bày một quan niệm mới về đạo Phật.
Điểm 4: “Người CS Việt Nam [chúng ta] thấy rằng cốt tủy của đạo Phật không
phải ở phần tôn giáo tín ngưỡng mà là nguồn trí tuệ siêu việt có khả năng
bao dung, xóa bỏ hận thù, không phân biệt kỳ thị, đem lại ḥa giải [ḥa
hợp], kiến tạo ḥa b́nh, và làm nên bản sắc văn hóa dân tộc”.
Điểm 5: “Người CS Việt Nam [chúng ta] cảm thấy thoải mái không kỳ thị đối
với những người tự cho là theo Phật Giáo nhưng chỉ biết cúng lễ cầu xin. Và
người CS Việt Nam thấy ḿnh được may mắn hơn và được sử dụng nguồn tuệ giác
[trí tuệ] để có thêm sức mạnh vượt thắng mọi khó khăn và thành tựu các sự
nghiệp của ḿnh “.
Trong Nghị Quyết 36 ban hành tháng 3-2004, Bộ Chính Trị Đảng CS
kêu gọi mọi người phổ biến rộng răi chính sách đổi mới của Đảng với các khẩu
hiệu tuyên truyền chiến lược y chang như bản đề nghị của Thầy. Đặc biệt đề
cao sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước để biện minh cho sự
chính thống hóa vai tṛ lănh đạo của Đảng CS.
Về sự nghiệp giải phóng dân tộc của Đảng CS tôi xin tường tŕnh một vài sự
thật lịch sử có lẽ Thầy chưa biết.
Kể từ sau Thế Chiến Thứ Hai, cũng như Anh Mỹ và Hà Lan, Đế Quốc Pháp bắt đầu
tự giải thể. Năm 1946 Pháp trả độc lập cho Syrie và Liban. Và năm 1949 tại
Điện Élysée Paris, Tổng Thống Pháp Vincent Aureol kư 3 hiệp định với các
Quốc Vương Việt Nam, Ai Lao và Cao Miên để trả độc lập cho Việt Nam (8 tháng
3-1949), cho Ai Lao (20 tháng 7-1949), và cho Cao Miên (8 tháng 11-1949).
Ngay từ 1947, Tổng thống Pháp đă yêu cầu Liên Hiệp Quốc đăng kư 3 nước Việt
Miên Lào là những quốc gia độc lập. (Xin coi Everyone’s United Nations năm
1986, trang 332).
Tại Saigon, ngày 23-4-1949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam
Kỳ Tự Trị để sát nhập lănh thổ Nam Phần vào Quốc Gia Việt Nam độc lập và
thống nhất. (Xin coi Nguyễn Khắc Ngữ: Bảo Đại, Các Đảng Phái Quốc Gia và sự
thành lập chính quyền quốc gia hay tham khảo tại các văn khố Pháp).
Mặc dầu vậy, Đảng CS đă phủ nhận Hiệp Định Élysée v́ Hiệp Định này không cho
họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Và Đảng CS đă vận dụng sự yểm trợ của Liên
Xô và Trung Quốc để tiếp tục chiến đấu vơ trang trong suốt 30 năm. Từ 1949
Chiến Tranh Việt Nam không c̣n là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà là
chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ (như Chiến
Tranh Triều Tiên). Trên b́nh diện dân tộc đây là cuộc chiến tranh vô ích, vô
lư và vô nghĩa. Và 3 triệu thanh niên nam nữ đă phải hy sinh thân sống,
không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng CS cướp chính
quyền. Như vậy theo tôi, Hồ Chí Minh và Đảng CS không có công giành độc lập
và thống nhất đất nước.
Về đường lối tuyên truyền dối trá của Đảng CS, Thầy nên đọc cuốn Nhật Kư của
Trần Độ với những nhận định như sau:
“Đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xă hội này là nói một đàng làm một
nẻo. Nói th́ dân chủ v́ dân, mà làm th́ chuyên chính phát xít, nghĩa là nói
dối, nói láo, lừa bịp, nói vậy mà không phải vậy. Đặc điểm này tạo ra một xă
hội dối lừa, lănh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối,
bằng cấp giả dối, giáo dục giả dối, đến gia đ́nh cũng lừa dối... Các vị lănh
đạo nói nhiều điều tốt đẹp là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng
th́ lănh đạo ḥ hét “kiên quyết chống tham nhũng”. Dân yêu cầu dân chủ th́
lănh đạo thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu [tuyên truyền] chiến lược. Nhưng nói
thêm chữ th́ chưa có ư nghĩa ǵ. V́ ta vốn nói một đàng làm một nẻo. Người
trí thức và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia là vô nghĩa...”
Về chính sách của nhà nước đối với Phật Giáo, Thầy yêu cầu nhà nước tách rời
giáo quyền ra khỏi chính quyền “v́ giáo quyền và chính quyền là hai lănh vực
riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau.” Thầy than phiền rằng trong
thời gian qua Phật Giáo đă làm nhiều điều đáng tiếc gây khó khăn cho nhà
nước. Rồi đề nghị các Ḥa Thượng Huyền Quang và Quảng Độ cộng tác với chính
quyền trong chức vụ cố vấn về lập pháp và hành pháp. Thầy công nhận Pháp
Lệnh Tôn Giáo 2004 có những điểm tích cực cần khai triển. Thầy coi việc hợp
nhất hai giáo hội Phật Giáo Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là
điều nên làm và có thể làm được. Thầy nhận định rằng tham nhũng là một tệ
nạn thông thường, phổ biến trong chính quyền cũng như trong giáo hội. Đối
với Thầy, Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất là một thực tại hay thực
thể. Nhưng lại hy vọng rằng các Ḥa Thượng Huyền Quang và Quảng Độ rồi đây
cũng sẽ được thoải mái [như Thiền Sư Nhất Hạnh], và sẽ được tự do đi lại, tự
do truyền giáo và hành đạo.
Trước hết tôi xin minh định về sự khác biệt giữa Nhà Nước và Giáo Hội. Giáo
Hội chỉ là một hội đoàn (hội tôn giáo) trong xă hội công dân, cũng như các
hội chính trị (chính đảng) và các hội dân sự như các công đoàn, nghiệp đoàn,
các hội văn hóa gíao dục, kinh tế xă hội, ái hữu tương tế, từ thiện nhân đạo
v...v... Đây là những tập hợp của tư nhân không có quyền lực quốc gia. Theo
truyền thống Đông Phương, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam không bao giờ đ̣i
thiết lập hay sử dụng “giáo quyền”.
Trong khi đó nhà nước là một tổ chức công quyền với đầy đủ quyền lực quốc
gia gồm có các cơ quan chính quyền, quân đội, công an, ṭa án, luật pháp,
ngân sách, nhà tù v...v...
Từ thế kỷ thứ 18, theo đề nghị của Thomas Jefferson, tác giả Tuyên Ngôn Độc
Lập Hoa Kỳ, nguyên tắc biệt lập giữa tôn giáo và nhà nước được đưa vào luật
pháp. Chiếu nguyên tắc này, nhà nước không được can thiệp, kiểm soát, hay
giám sát các giáo hội, đặc biệt là không được thành lập các giáo hội quốc
doanh (như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam) để tước đoạt tư cách pháp nhân của
các giáo hội dân lập đă sinh hoạt từ trước (như Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam
Thống Nhất). Trên thực tế, với quyền giám sát của nhà nước, sự hợp nhất với
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chỉ là sự giải thể Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam
Thống Nhất.
Nguyên tắc biệt lập giữa tôn giáo và nhà nước c̣n có nghĩa là giáo hội được
sinh hoạt tự trị. Và Đảng CS không được dùng các tổ chức ngoại vi như Mặt
Trận Tổ Quốc để can thiệp, kiểm soát và giám sát các hoạt động của giáo hội.
Điều đáng lưu ư là trong khi nhà nước không được can thiệp vào giáo hội
(chiếu nguyên tắc sinh hoạt tự trị của giáo hội) th́ trái lại, giáo hội (hội
tôn giáo) cũng như các hội chính trị vàø hội dân sự khác trong xă hội công
dân, vẫn có quyền và có nghĩa vụ can thiệp vào các hoạt động và chính sách
của nhà nước. Mục đích để ngăn ngừa và chống lại độc tài, tham nhũng, bất
công và bất lực. Các tệ nạn này rất dễ xảy ra khi không có kiểm soát và chế
tài. Chính quyền không phải của nhà cầm quyền hay của đảng cầm quyền.
Đó là quan niệm Thiên Hạ Vi Công hay Dân Chủ Pháp Trị. Ngoài tư cách tín đồ,
giáo dân c̣n có tư cách công dân để phê phán, đàn hạch hay truất phế những
kẻ đại diện bất xứng của họ trong bộ máy nhà nước. Theo Lincoln, chính quyền
phải là “của dân, do dân và v́ dân”. Mạnh Tử cũng quảng bá thuyết “quí dân
khinh vua”, lấy dân làm trọng, nhà nước là thứ yếu và coi nhẹ chính quyền,
ai được quốc dân tín nhiệm sẽ được cử làm nguyên thủ quốc gia. (Dân vi quí,
xă tắc thứ chi, quân vi khinh, đắc hồ kỳ dân nhi vi thiên tử).
Do đó chúng ta không thể chấp nhận chủ trương của Đảng CS theo đó nếu nhà
nước không can thiệp vào giáo hội, th́ giáo hội cũng không được can thiệp
vào nhà nước!
Trong đề nghị 7 điểm về chính sách tôn giáo của nhà nước, Thầy kể lại các
thành tích của chuyến về thăm và thuyết giảng của Thầy tại các trường hành
chánh, chính trị quốc gia, và tại trụ sở Ủy Ban Về Người Việt Nam ở Nước
Ngoài là cơ quan phụ trách thực thi Nghị Quyết 36 hay Chính Sách Kiều Vận
của Bộ Chính Trị Đảng CS. Những thành tích của Thầy trong việc hàn gắn, trị
liệu nuôi dưỡng hạnh phúc cho phật tử từ Bắc chí Nam, nếu có, th́ do đâu mà
có? Ai cũng biết mới đây Việt Nam bị liệt vào thành phần các quốc gia “cần
đặc biệt quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo”, nghĩa là một quốc gia thường
xuyên và thô bạo vi phạm tự do tôn giáo. Ngày nay Đảng và Nhà Nước quảng bá
chuyến đi của Thầy để ngụy tạo bằng chứng cho rằng họ vẫn tôn trọng tự do
tôn giáo, và xin quốc tế đừng lên án và chế tài họ. Trong khi Thầy được tự
do đi lại từ Bắc chí Nam th́ các Ḥa Thượng Huyền Quang, Quảng Độ không được
phép đi thăm nhau để vấn an sức khỏe của nhau v́ các vị bị trách cứ tàng trữ
bí mật nhà nước. Phải chi các Ḥa Thượng chịu theo gương Thầy ḥa hợp với
nhà nước, quảng bá chính sách của nhà nước, và xác nhận nhà nước không đàn
áp tôn giáo, không chủ trương tham nhũng (v́ tham nhũng là một hiện tượng
phổ biến ở khắp mọi nơi). Thầy khuyến cáo các Ḥa Thượng đừng gây khó khăn
trở ngại cho nhà nước nữa, đừng làm những điều đáng tiếc nữa, đừng kêu gọi
suông hay phản đối tiêu cực nữa. Các Ḥa Thượng chỉ cần tán thành ư kiến ông
Phan Văn Khải: “Nếu Chùa Một Cột chỉ có một cái cột th́ Phật Giáo cũng chỉ
nên có một giáo hội mà thôi!” Đó là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Giáo hội
này được gọi là quốc doanh v́ thuộc quyền giám sát và quản trị của Mặt Trận
Tổ Quốc, thủ tướng chính phủ, của các cơ quan quản lư nhà nước về tôn giáo,
và các ủy ban nhân dân quy định trong Pháp Lệnh Tôn Giáo. Nếu thuận theo
chiều hướng này các Ḥa Thượng Huyền Quang và Quảng Độ sẽ lập tức được tự do
di chuyển , tự do truyền giáo và hành đạo như Thầy Nhất Hạnh.
Điều tôi muốn nói với Thầy là: Chừng ấy tuổi tác, Thiền Sư Nhất Hạnh không
nên có ảo vọng thành Quốc Sư Vạn Hạnh. V́ Đảng CS Việt Nam không phải là
Triều Đ́nh Nhà Lư. Họ chỉ muốn lợi dụng Thầy, dùng Thầy làm công cụ trong
một giai đoạn. Khi sứ mạng hoàn thành, họ sẽ “cám ơn” Thầy, cũng như họ đă
“cám ơn” Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam sau 1975.
Vả lại Thầy cũng không đủ kiến thức và kinh nghiệm để làm cố vấn cho lập
pháp hay hành pháp. Đó không phải là sở trường của Thầy. Chi bằng với cơ sở
sẵn có, Thầy hăy trở về cương vị tu thiền để rao giảng tỉnh thức. Dầu rằng,
theo tôi, trong giai đoạn hiện nay, kẻ thức giả không thể b́nh tâm tu tập để
t́m đường giải thoát riêng cho cá nhân ḿnh trong khi chúng sinh c̣n lầm
than và con người c̣n không c̣n nhân phẩm.
Sau cùng tôi không đồng ư với quan niệm mới của Thầy về đạo Phật. Theo tôi,
cốt tủy của đạo giáo không phải là Trí Tuệ mà là Từ Bi, Bác Ái, Nhân Nghĩa,
cùng với Đức Tin Tôn Giáo và các Lễ Nghi Tôn Giáo như cúng lễ, cầu nguyện
v...v... Theo Phật, từ bi đứng trên trí dũng. Tâm bồ tát quư hơn trí tuệ
giác. V́ tài năng trí tuệ có thể dẫn con người đến vơng tưởng với tham vọng
và si mê. Tố Như là một thi sĩ có tâm bồ tát: “chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài.”
Những điều trên đây tôi không muốn viết ra, chỉ muốn nói riêng với Thầy. Tuy
nhiên, theo lương tri, biết mà không nói ra là thiếu liêm sỉ, là có lỗi với
đồng bào và có tội với lịch sử.
Kính thư,
Nhuệ Hồng
(Ngày 12 tháng 4, 2005)
T.B. Hôm nay Mục Sư Nguyễn Hồng Quang bị Ṭa Phúc Thẩm Saigon xử y án 3 năm
tù về tội “ngăn cản nhân viên công lực hành sự”, dầu rằng Mục Sư Quang không
ngăn cản mà đ̣i hợp tác với công an thành phố (thay v́ công an phường) khi
tố giác công an ch́m toan bắt cóc Mục Sư Nguyễn Công Chính tại Tây Nguyên.
Như vậy làm ǵ có tự do tôn giáo ở Việt Nam?