ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

CON ĐƯỜNG QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống



Ngày nay vấn đề sinh tử của đồng bào trong nước là làm sao quang phục quê hương, giải thể chế độ Cộng Sản và xây dựng chế độ Dân Chủ.
Mọi người đồng ư rằng muốn đưa Cách Mạng Dân Chủ đến thành công phải có sự đấu tranh kiên cường của đồng bào trong nước và sự yểm trợ tích cực của đồng bào hải ngoại.
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc chống đế quốc và chuyên chế, chưa thấy một quốc gia nào lại có cơ may như Việt Nam ngày nay. Đó là sự hậu thuẫn của khối đông đảo người Việt hải ngoại, ba triệu người như một, đồng ḷng hướng về quê hương, mong cho dân tộc và đất nước tiến lên.
Chưa nói về sức mạnh tài chánh, đủ khả năng tiếp viện mỗi năm dăm bẩy tỷ mỹ kim cho quốc nội khi đất nước có tự do.
Chưa nói về sức mạnh phát triển, với hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật gia thượng thặng, đủ mọi ngành, mọi nghề, sẵn sàng trở về kiến thiết quốc gia khi đất nước có dân chủ.
Chỉ nói về mặt nhân tâm, với hàng triệu tấm ḷng, ngày đêm hướng về quê hương yêu dấu, mong cho đồng bào được hạnh phúc, cho dân tộc được tự do th́ đó cũng là một sức mạnh tinh thần vô giá.
Một khi được vận dụng, sức mạnh này sẽ tạo thành động lực để thúc đẩy cuộc vận động lịch sử của người Việt trong nước đứng lên đ̣i quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Đầu năm 2002, thay mặt đồng bào trong nước không c̣n quyền được nói, chúng ta phát động phong trào tố cáo phe lănh đạo Cộng Sản đă phản bội Tổ Quốc bằng cách nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc. Sau đó chúng ta lại phát động phong trào tố cáo Đảng Cộng Sản đă phản bội đồng bào trong các mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc và công bằng xă hội; đồng thời kêu gọi đồng bào đứng lên đấu tranh quang phục quê hương, đ̣i dân tộc tự quyết, giải thể chế độ CS để giành lại quyền làm chủ quốc gia, làm chủ đất nước.
Hai phong trào này đă được sự hưởng ứng của đồng bào các giới. Từ trong nước các anh em dân chủ nhắn ra rằng: “Chúng tôi rất cảm kích khi thấy các anh c̣n nhớ quê hương sau 27 năm bỏ nước ra đi.”
Một số anh chị em ở hải ngoại cũng nói: “Các anh đă cho chúng tôi một hy vọng.”
Ngày nay, bằng sự vận động và tổ chức quần chúng, bằng sức mạnh của ng̣i bút, sức mạnh của lời nói, sức mạnh của tư tưởng, chúng ta sẽ biến hy vọng thành Niềm Tin. V́ có Niềm Tin mới có quyết tâm dấn thân hành động. Trên b́nh diện dân tộc Niềm Tin là vơ khí lớn nhất. Nó đem lại những hy vọng mới, những chân trời mới, hướng dẫn con người đi tới tự do.
Dầu sao chúng ta ư thức rằng giải thể CS là một cuộc đấu tranh trường kỳ và cam go. Đây là một việc thiên nan vạn nan, một cuộc lấp biển vá trời.
Kinh nghiệm cho biết CS không bị giải thể v́ những tấn công từ bên ngoài. Nó chỉ giải thể khi người dân trong nước không ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa. Do đó, muốn đưa Cách Mạng Dân Chủ đến thành công, chúng ta phải trông vào nội lực của chính ḿnh.
Mà ngày nay ở trong nước, dân trí bị bưng bít bởi bộ máy tuyên truyền vĩ đại của Đảng CS. Theo Hà Sĩ Phu, “từ 50 năm nay, người dân nông thôn không biết có ǵ tồn tại ngoài đảng CS.”
Dân khí suy vi, v́ người dân thấy ḿnh bị lường gạt và phản bội trong 3 cuộc chiến tranh kéo dài hơn 40 năm.
Dân quyền bị chà đạp trong một chế độ công an trị hà khắc. 26 nhân quyền căn bản bị vi phạm thường xuyên và thô bạo. Nhân phẩm bị hạ thấp: người dân chỉ được coi là “con”, mà không được đối xử như “người.”
Hơn nữa, dân t́nh đói khổ với những bất công và bất b́nh đẳng trầm trọng. Bằng tham nhũng và lạm quyền với một chính sách kinh tế lạc hậu, phe lănh đạo CS đă đưa đất nước và dân tộc đến lầm than đói khổ. Lợi tức b́nh quân mỗi đầu người tại Việt Nam ngày nay chỉ được 1 mỹ kim một ngày.
Trong khi đó, v́ không có sự kiểm soát và chế tài, phe lănh đạo CS đă sang đoạt tất cả tài sản quốc gia, kể cả các ngân khoản viện trợ tái thiết và viện trợ nhân đạo. Bằng dĩ công vi tư, biển thủ công quỹ, hối mại quyền thế, sưu cao thuế nặng, họ đă làm giàu bất chính để trở thành những triệu phú và tỉ phú trong khi người vô sản vẫn hoàn là vô sản và không có một đồng xu dính túi. Do sự chênh lệch giàu nghèo quá đáng, lợi tức thực sự của người dân trung b́nh tại nông thôn chỉ được 1/2 mỹ kim một ngày.
Chính quyền này coi dân như cỏ rác. Họ đánh giá quá thấp mạng sống con người. Trong vụ lính tuần dương Trung Quốc hạ sát 9 ngư dân Thanh Hóa, nhà nước chỉ bồi thường thiệt hại cho mỗi gia đ́nh nạn nhân từ 30 đến 60 mỹ kim. Nếu ai đứng ra phản đối Trung Quốc sẽ lập tức bị bắt giữ và có thể bị truy tố về tội “phá hoại chính sách đoàn kết quốc tế.” Trước t́nh trạng oan khiên tủi nhục này chúng ta phải tự nhủ rằng, chúng ta sẽ góp phần vào việc giải phóng đồng bào khỏi sự bất công, khỏi sự nghèo đói, khỏi sự sợ hăi, khỏi nạn chuyên chế, khỏi nạn CS.
Cách đây hơn 70 năm, sau vụ Sô Viết Nghệ Tĩnh, Phạm Quỳnh đă cảnh giác chúng ta về nạn “dịch hạch CS”. Ngày nay, với kinh nghiệm bản thân, chúng ta ư thức rằng CS c̣n nguy hại hơn dịch hạch. Nó là bệnh ung thư. Mà ung thư th́ không thể trị liệu được. Ung thư chỉ có thể cắt bỏ đi. CS cũng vậy. Chế độ CS không thể sửa chữa được. Nó phải bị giải thể!

PHẦN THỨ NHẤT: ĐƯỜNG HƯỚNG ĐẤU TRANH

V́ thiếu ư thức và kinh nghiệm Cộng Sản, một số người khẳng định rằng, tại Việt Nam ngày nay, chế độ CS đă giải thể rồi. Trong khi đó một số người khác lại quả quyết rằng CS không thể nào giải thể được!
Đó là hai quan niệm cực đoan và sai lầm.

I. KHÔNG CẦN GIẢI THỂ CỘNG SẢN NỮA.
Ngày nay một số người nhận định rằng trên thực tế chế độ CS đă
giải thể rồi, và đảng CS đă biến thành một đảng Mafia, hay băng đảng. Do đó chúng ta chỉ cần chống tham nhũng chứ không cần đấu tranh giải thể CS nữa.
Nhận định như vậy là chủ quan và không hiểu rơ bản chất CS.
Trên thực tế, bằng tham nhũng và lạm quyền, phe lănh đạo CS đă tập trung và sang đoạt tất cả các tài sản quốc gia, để thủ lợi riêng và làm giàu bất chánh. Theo các tài liệu đáng tin cậy, th́ hiện nay có trên 30 cán bộ CS cao cấp đă tích lũy những tài sản khổng lồ hàng chục triệu và hàng trăm triệu mỹ kim. Những tài sản này bao gồm những trương mục ngân hàng tại ngoại quốc, những bất động sản và những cơ sở kinh doanh thương mại ở trong nước.
V́ không có sự kiểm soát và chế tài của quốc dân, của đối lập, của báo chí, của ṭa án, của quốc hội, những kẻ tham nhũng bất lương này đă không bị truy tố, không bị kết án và không bị tịch thu tài sản. Đồng bào vô cùng phẫn uất về sự bao che này. Họ công khai miệt thị phe lănh đạo CS, và đă tố cáo đích danh “con thằng Kiệt, con thằng Khải, cháu thằng Đỗ Mười” v...v... Mới đây cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, với đồng lương chết đói, đă dám tặng dữ một lần một triệu mỹ kim. Hành vi này cho biết rất có thể ông ta đă tích lũy được hàng chục triệu mỹ kim.
Điều đáng lưu ư là trong khi Mafia chỉ là một đảng cướp thường th́ Đảng CS ngày này là một đảng cướp đă cướp được chính quyền.
Cũng v́ vậy, họ có chính phủ tay sai để thi hành đường lối chính sách của Đảng và đă dĩ công vi tư sử dụng ngân sách quốc gia vào việc nuôi dưỡng các cán bộ đảng viên.
Họ c̣n có quốc hội bù nh́n để hợp thức hóa những nghị quyết của Đảng, và đă ghi Điều 4 Hiến Pháp giành độc quyền lănh đạo cho Đảng CS.
Họ c̣n có ṭa án công cụ để một mặt bao che những hành vi tham nhũng của những kẻ bất lương, mặt khác lại bắt giam độc đoán những công dân lương thiện đă dám đứng lên tố cáo bạo quyền, đ̣i tự do, công lư, dân chủ và nhân quyền.
Hơn nữa, sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đă thiết lập một chế độ độc tài toàn trị.
Do đó ngày nào Đảng CS c̣n giữ độc quyền lănh đạo, vi phạm quyền dân tộc tự quyết, quyền tham gia chính quyền và quyền tự do tuyển cử, th́ chúng ta c̣n phải đấu tranh để giải thể CS.
Ngày nào họ c̣n giữ độc quyền tư tưởng để phổ biến tại các trường công lập chủ thuyết Mác-Lê phản dân tộc và phản nhân loại, th́ chúng ta c̣n phải đấu tranh để giải thể CS.
Ngày nào họ c̣n chủ trương tiêu diệt tôn giáo trong chủ thuyết và đàn áp tôn giáo trong chính sách, th́ chúng ta c̣n phải đấu tranh để giải thể CS.
Ngày nào họ c̣n giữ độc quyền thông tin, độc quyền báo chí và không cho tư nhân ra báo, th́ chúng ta c̣n phải đấu tranh để giải thể CS.
Và ngày nào họ c̣n tước đoạt của người dân quyền tựïï do hội họp, tự do lập hội và tự do lập đảng, th́ chúng ta c̣n phải đấu tranh để giải thể CS.
Ngày nay Đảng CS là một con rắn hai đầu, đầu kinh tế Mafia với tham nhũng bóc lột, và đầu chính trị độc tài với đàn áp khủng bố. Nạn nhân trực tiếp của chế độ lại là những người đă tích cực góp phần xây dựng chế độ, như các cựu chiến binh, thương phế binh, gia đ́nh liệt sĩ v...v...
Do đó muốn cho đất nước và dân tộc tiến lên, chúng ta phải kết hợp đấu tranh quang phục quê hương, giải thể CS bằng cách chém đứt 2 đầu con rắn.

II. CỘNG SẢN KHÔNG THỂ GIẢI THỂ ĐƯỢC.
Bên cạnh quan niệm cho rằng chế độ CS đă tự giải thể và Đảng
CS đă biến thành một đảng Mafia hay băng đảng, một số dư luận lại cho rằng CS không thể nào giải thể được.
Đây là một quan niệm bi quan và phản biện chứng.
V́ chỉ trên b́nh diện tôn giáo đạo lư, những nguyên lư chủ thuyết mới có giá trị như những chân lư tuyệt đối, như đức từ bi của Nhà Phật, đức bác ái của Chúa Kitô, hay đức nhân nghĩa của Khổng Phu Tử. Trên b́nh diện dân sinh xă hội, các nguyên lư chủ thuyết chỉ có giá trị tương đối theo thời gian và không gian. Về mặt chính trị xă hội, các chế độ chỉ quy định những tương quan giữa người dân và quốc gia. Do đó nó phải thay đổi theo tŕnh độ ư thức của người dân, điều kiện kinh tế xă hội của quốc gia và trào lưu tiến hóa của lịch sử.
Trong lịch sử cổ kim, những chế độ tàn bạo nhất như của Kiệt Trụ, Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hăn, Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông v...v... đă lần lượt tiêu vong với thời gian.
A. 1989-1991: ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT TAN RĂ VÀ 22 QUỐC GIA ĐĂ LẦN LƯỢT GIẢI THỂ CS.
Cũng v́ vậy tại Âu Châu, chỉ trong ṿng hai năm (từ 1989 đến 1991), 22 quốc gia đă lần lượt giải thể CS: 7 nước thuộc Bức Màn Sắt Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, Roumanie, và 15 nước thuộc Liên Bang Sô Viết.
Yếu tố giải thể CS thay đổi tùy theo những điều kiện đặc thù của từng quốc gia.
Tựu chung có 3 yếu tố giải thể CS là:
1) Sức mạnh của quốc dân biểu dương bằng những cuộc mít tinh,
biểu t́nh, tuần hành, đ́nh công v...v...
2) Một tổ chức đối kháng mạnh mẽ như Công Đoàn Đoàn Kết Ba
Lan.
3) Ưù thức phản tỉnh và tinh thần thể thao phục thiện của nhà cầm quyền. Sau những cuộc tổng tuyển cử tự do, khi thấy người dân không c̣n ủng hộ chế độ nữa, phe lănh đạo CS đă lặng lẽ rút lui.
Trên thực tế không phải cuộc giải thể CS nào cũng hội đủ 3 yếu tố
nói trên.
Tại Hung Gia Lợi, chúng ta không thấy có sự nổi dậy của quần
chúng. “Diễn Đàn Dân Chủ” chỉ là một câu lạc bộ để thảo luận về những vấn đề dân chủ và nhân quyền. Yếu tố giải thể CS là ư thức phản tỉnh và tinh thần thể thao phục thiện của nhà cầm quyền. Khi thấy người dân không c̣n tha thiết bảo vệ chế độ nữa, phe lănh đạo CS đă lặng lẽ rút lui.
Tại Tiệp Khắc cũng vậy. Tới tháng 10, 1989 không thấy những cuộc
biểu dương lực lượng quy mô của quần chúng. “Hiến Chương 77” chỉ là một tổ chức lỏng lẻo, không có nội qui, điều lệ, không có ban chấp hành và không có danh sách hội viên chính thức. Mục tiêu của Hội là đối thoại với nhà cầm quyền về những vấn đề nhân quyền và vi phạm nhân quyền.
Tại Đông Đức, vấn đề chủ yếu là tự do di chuyển và tự do lựa chọn
nơi cư trú. Tháng 10, 1989, trong ngày kỷ niệm 40 năm thành lập Đông Đức, Tổng Bí Thư Honecker c̣n mạnh bạo khẳng định rằng chế độ CS sẽ tồn tại 100 năm! Vậy mà chỉ 2 tuần sau, ngày 9-11-1989, bức tường ô nhục Bá Linh đă bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ CS.
Sự giải thể CS tại 7 nước Đông Âu năm 1989 đă đưa đến sự tan ră của Liên Bang Sô Viết năm 1991, và 15 quốc gia trong Liên Bang đă lần lượt giải thể CS.
Như vậy yếu tố giải thể CS thay đổi tùy theo điều kiện đặc thù của từng quốc gia.
Dầu sao chúng ta thấy có 2 yếu tố chung: CHÍNH NGHĨA VÀ THỜI CƠ.
Chính Nghĩa ở đây là Chính Nghĩa Tự Do Dân Chủ. Và Thời Cơ là sự kiệt quệ của Liên Xô. Kiệt quệ về Niềm Tin và kiệt quệ về kinh tế.
Từ sau cái chết của Stalin nhân dân Liên Xô đă ư thức sự sai lầm của chủ thuyết cách mạng vô sản, và muốn sống chung ḥa b́nh với các nước tư bản Tây Phương.
Hơn nữa từ thập niên 1980, kinh tế Liên Xô lâm vào t́nh trạng suy kiệt sau cuộc thi đua vơ trang với Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Tinh Cầu (Star Wars). Ngoài ra Liên Xô c̣n bị sa lầy nặng nề trong Chiến Tranh A Phú Hăn.
Để diễn tả sự kiệt quệ kinh tế tại Liên Xô, người ta thường nói: “nhà nước giả đ̣ trả lương cho công nhân viên, và công nhân viên cũng giả đ̣ làm việc cho nhà nước”.
Để cứu nguy đất nước, năm 1985, Gorbachev phải thay đổi chính sách bằng tái cấu trúc về kinh tế và cởi mở về chính trị. Với sự triệt thoái quân đội khỏi A Phú Hăn, từ nay Liên Xô chủ trương không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia trong Minh Ước Warsaw (nghĩa là Liên Xô sẽ không đem chiến xa để dập tắt những cuộc khởi nghĩa như tại Ba Lan và Hung Gia Lợi năm 1956, hay tại Tiệp Khắc năm 1968).
Vận dụng cơ hội lịch sử này, 7 nước Đông Âu đă đứng lên đấu tranh giải thể CS năm 1989. Và hai năm sau, năm 1991, Liên Bang Sô Viết đă tan ră, và 15 quốc gia trong Liên Bang đă giải thể CS.
Hậu quả dây chuyền của sự giải thể CS Âu Châu là sự tiêu vong của một số chế độ CS Á Phi như tại Angola, Mozambique, Ethiopie, A Phú Hăn, Mông Cổ, Cao Miên v...v...
B. 1946-1949: CÁC ĐẾ QUỐC TÂY PHƯƠNG TỰ GIẢI THỂ.
Nếu 1989 là năm đánh dấu sự suy tàn của Đế Quốc Sô Viết th́
40 năm trước, năm 1949, tất cả các Đế Quốc Tây Phương như Mỹ, Anh, Pháp, Ḥa Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:
- 5 nước thuộc Anh là Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và
Palestine (trong những năm 1947-1948).
- 5 nước thuộc Pháp là Syrie, Liban, Việt Nam, Ai Lao và Cao
Miên (trong những năm 1946 và 1949).
- Cùng với Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ (năm 1946), và Nam
Dương thuộc Ḥa Lan (năm 1949).
Đây là kết quả cuộc đấu tranh bất bạo động bằng đường lối chính trị và ngoại giao của các nhà cách mạng quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc, đấu tranh không đổ máu và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Hai yếu tố giải thể thuộc địa vẫn là CHÍNH NGHĨA VÀ THỜI CƠ:
Chính Nghĩa ở đây là Chính Nghĩa Giải Phóng Dân Tộc.
Thời Cơ ở đây là trào lưu tiến hóa của lịch sử và sự kiệt quệ kinh tế của các đế quốc Âu Châu.
Sau Thế Chiến I, Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson đề xướng quyền dân tộc tự quyết tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc). Và năm 1919 Anh Quốc đă trả độc lập cho Canada và A Phú Hăn.
Năm 1942 khi chiến tranh c̣n đáng tiếp diễn, theo lời đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các quốc gia Đồng Minh Tây Phương đă kư Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó khi Chiến Tranh kết thúc, các đế quốc Tây Phương sẽ lần lượt trao trả độc lập cho các thuộc địa Á Phi.
Về mặt kinh tế xă hội, sau Thế Chiến II, hai nước Anh Pháp đă bị tàn phá nặng nề, kinh tế suy kiệt, dân chúng túng thiếu, nạn thất nghiệp trầm trọng, và hàng triệu cựu chiến binh giải ngũ không có công ăn việc làm.
Tháng 5, 1945 Đức đầu hàng Đồng Minh. Hai tháng sau, tháng 7, 1945, chính phủ Anh tổ chức tổng tuyển cử. Người anh hùng dân tộc Winston Churchill, lănh tụ Đảng Bảo Thủ vẫn chủ trương duy tŕ thuộc địa để lấy lại vinh quang cho đất nước. Trong khi đó Đảng Lao Động của Clement Attlee đưa ra đường lối đối lập, chủ trương tái thiết quốc gia, xây dựng kinh tế, cải tiến dân sinh, giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa. Khai phóng thuộc địa vốn là chính sách cố hữu của Đảng Lao Động Anh và Đảng Xă Hội Pháp từ thập niên 1930.
Tháng 4, 1945, 50 quốc gia Đồng Minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc.
Phỏng theo mô h́nh của Liên Hiệp Quốc, các Đảng Lao Động Anh và Xă Hội Pháp chủ trương thành lập Liên Hiệp Anh và Liên Hiệp Pháp trong tinh thần b́nh đẳng, hợp tác và hữu nghị theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Các cựu thuộc địa sẽ trở thành các quốc gia liên kết, với chính sách ngoại giao chung và pḥng thủ chung. Những tương quan kinh tế và văn hóa sẽ được phát triển. Tuy nhiên về mặt chính trị, các thuộc địa sẽ được giải phóng và hoàn toàn độc lập.
Đường lối này đă được đa số cử tri Anh chấp thuận. Và tháng 7, 1945, Đảng Lao Động của Clement Attlee đă thắng Đảng Bảo Thủ của Winston Churchill. Hai tháng sau khi ḥa b́nh văn hồi, người anh hùng dân tộc Churchill đă ngă ngựa.
Trung thành với ư nguyện của quốc dân, trong hai năm 1947 và 1948, Chính Phủ Lao Động Clement Attlee đă trả độc lập cho 5 thuộc địa và giám hộ Á Châu là Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và Palestine.
Tại Pháp cũng vậy. Tháng 10, 1945 Tướng De Gaulle, người anh hùng giải phóng dân tộc tổ chức trưng cầu dân ư, và đề nghị một chính thể tập trung quyền lực (với ngụ ư duy tŕ thuộc địa). Tuy nhiên, 2/3 cử tri Pháp đă bác bỏ đề nghị này để ủng hộ lập trường của Đảng Xă Hội Pháp tương tự như Đảng Lao Động Anh nghĩa là: tái thiết quốc gia, xây dựng kinh tế, cải tiến dân sinh, giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.
Như vậy là từ sau Thế Chiến II, tại Á Châu, kỷ nguyên đế quốc đă cáo chung để nhường chỗ cho kỷ nguyên liên hiệp theo tinh thần Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Năm 1946, sau khi De Gaulle từ nhiệm, Chính Phủ Xă Hội Léon
Blum đă kư hiệp ước với Syrie và Liban để trả độc lập cho 2 quốc gia này.
V́ thời gian này tại Trung Đông không có hiểm họa CS nên quân đội Liên Hiệp Pháp đă triệt thoái.
Cũng trong năm 1946, Pháp thương nghị với Hồ Chí Minh, sau khi
ông này tuyên bố giải tán Đảng CS Đông Dương và thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Hai bên đă kư hai hiệp ước: Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny (tháng 3/1946) và Hiệp Ước Tạm Thời Moutet (tháng 9/1946). Tuy nhiên ba tháng sau, tháng 12/1946, Hồ Chí Minh trở mặt phát động chiến tranh vơ trang, và đă trắng trợn vi phạm các hiệp ước quốc tế.
Lúc này chính phủ liên hiệp quốc gia đă giải tán. Sau khi quân đội Trung Hoa triệt thoái, Cộng Sản thẳng tay tàn sát các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Như vậy đoàn kết quốc gia chỉ là một chiêu bài và chính phủ liên hiệp chỉ là bức b́nh phong để thương nghị với Pháp.
Và sự giải tán Đảng CS Đông Dương cũng chỉ là một chiến thuật
ngụy trang và dối trá.
Coi thường danh dự quốc gia, Đảng CS kư hiệp ước quốc tế không phải để thi hành hiệp ước. Họ chỉ coi hiệp ước là một phương tiện đấu tranh chính trị. Do đó theo đề nghị của bộ trưởng Moutet (thuộc Đảng Xă Hội) chính phủ Pháp quyết định sẽ không thương nghị với Hồ Chí Minh nữa. Và năm 1947, Tổng Thống Xă Hội Vincent Auriol chủ trương thương thuyết với phe Quốc Gia Việt Nam để trả độc lập cho Việt Nam. Hai bên đă kư 3 hiệp ước: Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long (tháng 12/1947), Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long (tháng 6/1948) và Hiệp Ước Élysée kư kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại ngày 8-3-1949.
Qua tháng sau, ngày 23-4-1949, với 45 phiếu thuận (của 40 dân biểu
Việt và 5 dân biểu Pháp) và 6 phiếu chống, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sáp nhập Nam Phần vào lănh thổ quốc gia Việt Nam, độc lập và thống nhất (xin coi Nguyễn Khắc Ngữ: Bảo Đại và các Đảng Phái Quốc Gia).
Một tháng rưỡi sau, ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội
Pháp phê chuẩn Hiệp Định Élysée về khoản trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam. Và ngày 2-2-1950, Quốc Hội Pháp phê chuẩn ṭan bộ Hiệp Định Elysée với 12 phụ ước và 30 đính ước bổ túc.
Thông thường các hiệp ước quốc tế đều do các ngoại trưởng kư kết. Riêng Hiệp Định Élysée đă được chính Tổng Thống Vincent Auriol kư, với sự chứng kiến của Thủ Tướng Queille, của Ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Ramadier và của Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Coste-Floret. Do đo không thể chấp nhận luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của Đảng CS cho rằng Pháp kư Hiệp Định Élysée chỉ là “giả đ̣”.
Với Hiệp Định Élysée, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hoàn toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ kư kết với Pháp hồi cuối thế kỷ 19 như Hiệp Ước Bonard (1862), Hiệp Ước Dupre (1874) và Hiệp Ước Patenotre (1884) đều đă bị Hiệp Định Élysée băi bỏ.
Mặc dầu vậy, Đảng CS đă phủ nhận nền độc lập này và đă phá hoại
nền thống nhất này. V́ Hiệp Định Elysée không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Và họ đă tiếp tục chiến đấu vơ trang, với sự yểm trợ của Quốc Tế CS, để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm 1954, và cướp chính quyền tại Miền Nam năm 1975.
Ngày nay lịch sử đă chứng minh rằng Đảng CS không có công giành
độc lập, và không có công thống nhất đất nước. Hơn nữa sau 60 năm cướp chính quyền, Đảng CS đă không đem lại tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc cho người dân. Như vậy Đảng CS đă phản bội đồng bào trong các mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc. Mới đây, họ c̣n phản bội Tổ Quốc bằng cách nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.
Ngày nay Đảng CS đă mất chính nghĩa, mất hậu thuẫn quần chúng và hậu thuẫn quốc tế. Và phe Dân Chủ chúng ta đă giành lại được chính nghĩa: Chính Nghĩa Tự Do Dân Chủ. Với Chính Nghĩa, chúng ta sẽ tạo Thời Cơ để đấu tranh quang phục quê hương và giải thể CS.

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

GHI CHÚ VỀ ĐƯỜNG HƯỚNG ĐẤU TRANH
Nếu chúng ta không phá vỡ được huyền thoại Hồ Chí Minh và không giải tỏa được hào quang của Đảng CS về cái gọi là “Sự Nghiệp Giải Phóng Dân Tộc vaØ Thống Nhất Đất Nước”, th́ chúng ta sẽ không khai thông dân trí, chấn hưng dân khí, và khôi phục niềm tin cho đồng bào trong và ngoài nước.
Trong điều kiện đó chúng ta cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối phó và ngăn chặn sự lấn lướt của chiến dịch “Sự Nghiệp Đổi Mới” mà Đảng CS đang phát động cùng với Chính Sách Kiều Vận.
Do đó nhiệm vụ của mỗi người chúng ta là phải thường xuyên Truyền Bá Sự Thật Lịch Sử về Chiến Tranh Việt Nam bằng hội thảo và hội họp thu hẹp để tŕnh bày, tranh luận và phổ biến những dữ kiện và ư kiến trong các tác phẩm và tài liệu theo đường hướng giải thể chế độ CS và xây dựng chế độ dân chủ.
“Con đường quang phục quê hương” ghi lại những suy tư và nhận định trong 4 năm vừa qua sau khi có sự gia tăng đàn áp nhân Vụ 11
Tháng 9 và nhất là khi có bằng chứng cho biết Đảng CS đă phản bội tổ quốc trong việc nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.
(Tháng 4-2005)

Kỳ tới: NHỮNG KHÓ KHĂN PHẢI KHẮC PHỤC





















Tuyên truyền dối trá và đàn áp khủng bố là hai vơ khí chiến lược của
Đảng CS để cướp chính quyền và củng cố chính quyền. Đây là một cặp song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả. Nếu chỉ có tuyên truyền đối trá, mà không có đàn áp khủng bố, th́ CS sẽ tiêu vong. Trái lại nếu chỉ có đàn áp khủng bố, mà không thể tuyên truyền dối trá được nữa, th́ CS cũng sẽ bị giải thể.

A. TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ.
1. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Đảng CS đă lồng cách mạng CS trong chiêu bài giải phóng dân tộc chống chế độ thuộc địa. Họ đă dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc để khai thác ḷng yêu nước của hàng triệu thanh niên nam nữ Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương.
Về mặt chủ thuyết, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng CS đă phủ nhận chủ nghĩa dân tộc. Họ không quan niệm độc lập quốc gia là một mục tiêu chiến lược, một cứu cánh tối hậu phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Đảng CS chỉ quan niệm độc lập quốc gia như một chiêu bài, một phương tiện, hay một chiến thuật để đạt được mục tiêu chiến lược của họ là cướp chính quyền. Họ đă phủ nhận bất cứ nền độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do đó, họ đă phủ nhận nền độc lập quốc gia do Hiệp Định Élysée trao trả cho Việt Nam năm 1949. Và họ tiếp tục phát động chiến tranh vơ trang trong suốt 40 năm – từ 1949 đến 1989 – để cướp chính quyền và bành trướng chủ nghĩa bá quyền.
Từ 1949 Chiến tranh Đông Dương không c̣n là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà là chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ như Chiến Tranh Triều Tiên.
Sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa năm 1949, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế CS là xích hóa 2 bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Qua năm sau, 1950 với sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc, Bắc Hàn đem quân xâm lăng Nam Hàn. Từ đó chiến tranh ư thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế CS và Thế Giới Dân Chủ.
Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết:
3 triệu người đă hy sinh tại Triều Tiên, 3 triệu thanh niên nam nữ đă hy sinh tại Việt Nam, và 2 triệu người Cao Miên đă bị tàn sát, không phải để giành độc lập cho quốc gia mà để cho Đảng CS có cơ hội cướp chính quyền.
V́ Đảng CS Đông Dương phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 quốc gia Đông Dương năm 1949, nên 3 cuộc chiến tranh Đông Dương đă xẩy ra, và Đảng CS Đông Dương phải chịu trách nhiệm về cái chết của 5 triệu người tại Đông Dương.
Bằng giả nhân giả nghĩa, ngụy trang và dối trá, Đảng CS đă dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc để giành chính nghĩa và cướp chính quyền.
Ngụy trang đi liền với dối trá.
Đảng CS đă tuyên truyền rằng Pháp đem quân sang Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Đây chỉ là một luận điệu tuyên truyền dối trá. V́ từ 1946, Pháp đă không chủ trương tái lập các thuộc địa tại Á Châu, và đă kư hiệp ước với Syrie và Liban để trả độc lập cho 2 quốc gia này.
Tuy nhiên phe Dân Chủ Tây Phương không chịu trao Đông Dương cho Đảng CS Đông Dương, v́ họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Do đó từ 1947, Pháp đă thương nghị với phe Quốc Gia Việt Nam để trả độc lập cho Việt Nam. Năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă chính thức đăng kư 3 nước Đông Dương là những quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Và tháng 3, 1949 tại Paris, Tổng Thống Vincent Auriol đă kư Hiệp Định Élysée với Quốc Trưởng Bảo Đại để trả độc lập cho Việt Nam. 4 tháng sau, tháng 7, 1949, Tổng Thống Auriol lại kư Hiệp Ước với Quốc Vương Sisavangvong để trả độc lập cho Ai Lao. Và 4 tháng sau nữa, tháng 11,1949 Tổng Thống Auriol lại kư hiệp ước với Quốc Vương Sihanouk để trả độc lập cho Cao Miên “theo tinh thần Hiệp Định Élysée”.
Như vậy, sự thật lịch sử đă chứng minh rằng, từ sau Thế Chiến II, tại Á Châu, chế độ thuộc địa đă cáo chung để nhường chỗ cho chế độ liên hiệp.
Chiếu Hiệp Định Élysée 1949, Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Từ đó, quân đội Pháp chiến đấu tại Việt Nam với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp, để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp. Trong bài diễn văn nhậm chức tại Quốc Hội Hoa Kỳ tháng giêng 1953, Tổng Thống Eisenhower có nói: “Người Pháp chiến đấu tại Việt Nam và người Mỹ chiến đấu tại Triều Tiên cùng theo một mục đích như nhau.” (bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ).
Từ 1955, trong kế hoạch thôn tính miền Nam, Đảng CS lại tuyên truyền rằng Hoa Kỳ đem quân sang để thống trị Miền Nam.
Đó cũng là một luận điệu tuyên truyền dối trá. V́ từ hai thập niên 1950 và 1960, Hoa Kỳ đem quân tham chiến tại Nam Hàn và Việt Nam, không phải để thống trị hai nước này, mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Về việc giải thể đế quốc, Hoa Kỳ đă đi tiền phong trong việc giải phóng thuộc địa và đă trả độc lập cho Phi Luật Tân từ 1946. (Phi Luật Tân đă được tự trị từ 1935).
Nói tóm lại, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, với ngụy chủ nghĩa dân tộc, Đảng CS đă dùng giả nhân giả nghĩa, ngụy trang và dối trá để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Họ đă phủ nhận nền độc lập và phá hoại nền thống nhất do những người Quốc Gia yêu nước đă tranh thủ được từ 1949. Và hai cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài từ 1949 đến 1975 là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa.
2. Về mục tiêu tự do dân chủ.
Đảng CS hứa hẹn rằng, sau khi ḥa b́nh văn hồi, họ sẽ thiết lập một chế độ dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ Tây Phương. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền dối trá.
Về chủ thuyết, Đảng CS không chủ trương thực thi tự do dân chủ cho người dân. Mục tiêu chiến lược của họ là thiết lập một chế độ độc tài vô sản, hay đúng hơn, một chế độ độc tài của Đảng để thống trị vô sản và nhân dân. Họ không tôn trọng bất cứ một quyền nào trong số 26 dân quyền căn bản như tự do thân thể, tự do cư trú và đi lại, tự do văn hóa, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tựï do báo chí, tự do lập hội và lập đảng, tự do tuyển cử v...v...
Kết quả là sau 50 năm cướp chính quyền, Đảng CS đă biến Việt Nam thành một trong những nước phản dân chủ nhất thế giới, kém cả Cao Miên. V́ tại quốc gia này cũng có 3 chính đảng: Đảng Nhân Dân của Hunsen, Đảng Bảo Hoàng của Ranarridh và Đảng Quốc Gia của Rainsy. Và trong cuộc tuyển cử mới đây, Đảng Nhân Dân của Hunsen chỉ được 43% số phiếu, trong khi hai Đảng Bảo Hoàng và Đảng Quốc Gia đă chia nhau hơn 50% số phiếu.
Bằng ngụy chủ nghĩa dân chủ xă hội, Đảng CS đă phản bội đồng bào trong mục tiêu tự do dân chủ.
3. Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc. Đảng CS hứa hẹn sẽ thực thi cải
cách ruộng đất để chia ruộng cho người cày, và đem lại công bằng xă hội cho người dân. Thật ra đây chỉ là một cuộc đấu tranh giai cấp để tiêu diệt tư sản và tiểu tư sản.
Từ 1952, trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, Đảng CS đă sát hại hai trăm ngàn trí thức và nông dân tiểu tư sản được đôn lên hàng địa chủ. Chỉ cần có 2 hecta ruộng mà không tự tay canh tác, cũng bị đấu tố, tịch thâu ruộng đất và nhà cửa. Năm 1956, họ chia cho bần cố nông mỗi người chừng 2 sào ruộng (mỗi sào là 360m2). Để rồi 2 năm sau, năm 1958, họ lại trở mặt thâu hồi lại tất cả ruộng đất đă phát cho bần cố nông trong chính sách tập sản hóa ruộng đất hay hợp tác hóa nông nghiệp. Theo chủ thuyết, Đảng CS không công nhận quyền tư hữu và không chủ trương chia ruộng cho tư nhân. Do đó “người cày có ruộng” là một khẩu hiệu tuyên truyền dối trá trắng trợn nhất của Đảng CS.
Tới Thế Chiến Thứ Hai, Việt Nam là một quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á và được mệnh danh là “bao lơn của Thái B́nh Dương”, Saigon là “Ḥn Ngọc của Viễn Đông”. Vậy mà ngày nay sau hơn 50 năm CS cướp chính quyền, Việt Nam trở thành một trong 10 nước nghèo đói nhất thế giới. Lợi tức b́nh quân mỗi đầu người tại Việt Nam không được một mỹ kim một ngày. Trong khi đó tại Phi Luật Tân là 3 mỹ kim, tại Thái Lan là 6 mỹ kim, tại Mă Lai là 10 mỹ kim, tại Đại Hàn là 25 mỹ kim, tại Đài Loan là 40 mỹ kim, và tại Tân Gia Ba là 85 mỹ kim. Đặc biệt là tại Congo, một cựu thuộc địa của Pháp tại Phi Châu, lợi tức b́nh quân mỗi đầu người cũng gấp đôi Việt Nam. (Britannica Book of the Year 2001)
Bằng tham nhũng và lạm quyền, phe lănh đạo CS đă sang đoạt tất cả các tài sản quốc gia để làm giàu bất chính và đă trở thành những triệu phú và tỉ phú. Trong khi đó, người vô sản vẫn hoàn là vô sản, không có một đồng xu dính túi. V́ có sự chênh lệch giàu nghèo quá đáng, nên lợi tức thực sự của người nông dân trung b́nh Miền Bắc ngày nay chỉ được chừng 1/2 mỹ kim hay 1/4 mỹ kim một ngày.
Với chính sách ngụy công bằng xă hội, ngụy cải cách ruộng đất và chính sách kinh tế xă hội chủ nghĩa lạc hậu, Đảng CS đă phản bội đồng bào trong mục tiêu mưu cầu hạnh phúc.

Nói tóm lại, từ trên 50 năm nay, Đảng CS đă dùng giả nhân giả nghĩa, ngụy trang và dối trá để giành lấy chính nghĩa và cướp lấy chính quyền. Vơ khí chiến lược số 1 của họ là tuyên truyền dối trá:
Về mục tiêu giành độc lập, họ đă dùng ngụy chủ nghĩa dân tộc.
Về mục tiêu tự do dân chủ, họ đă dùng ngụy chủ nghĩa dân chủ xă hội. Và ngày nay Việt Nam c̣n kém xa Căm Bốt về mặt dân chủ.
Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc, họ đă dùng chính sách ngụy cải cách ruộng đất và ngụy công bằng xă hội. Và ngày nay người dân Việt Nam c̣n nghèo đói hơn cả người dân Congo.
Để chống lại sự tuyên truyền dối trá của Đảng CS, chúng ta phát động phong trào truyền bá sự thật để chứng minh rằng Đảng CS đă không có công giành độc lập, và không có công thống nhất đất nước. Ngoài ra họ c̣n phản bội đồng bào trong các mục tiêu tự do hạnh phúc và công bằng xă hội.

B. ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ.
Vơ khí chiến lược số 2 của CS là đàn áp khủng bố. Đây là một trong
hai song cổ kiếm phải sử dụng đồng thời, mất một là mất tất cả.
Nếu không có tuyên truyền dối trá, nếu mọi người biết rơ mặt thật của CS th́ không c̣n ai tha thiết bảo vệ chế độ nữa và CS sẽ tiêu vong. Trong trường hợp này, đàn áp khủng bố sẽ mất hiệu lực.
Lịch sử đă chứng minh điều đó: Tại Đông Đức và Lỗ Ma Ni năm 1989, bộ máy công an ḱm kẹp cũng rất hung dữ. Nó có sự dă man của mật vụ Gestapo thời Hitler, và sự tàn ác của mật vụ KGB thời Stalin. Vậy mà khi người dân đă biết rơ mặt thật của CS và đă đứng lên đ̣i Dân Tộc Tự Quyết, th́ vơ khí đàn áp không c̣n hiệu nghiệm nữa.
Tại Liên Xô cũng vậy. Để chống lại mưu toan đảo chánh ngày 19-8-1991 của phe CS cực đoan, nhân dân đă đứng lên đ̣i giải thể CS. Quân đội xuất phát từ nhân dân nên đă đứng về phía dân. Và công an mật vụ phải bó tay và không dám bắn vào đoàn người biểu t́nh.

5 bậc thang đàn áp khủng bố là:
1) Thủ tiêu cá nhân:
Mặc dầu không ngừng kêu gọi đoàn kết quốc gia, Đảng CS đă thủ tiêu những người quốc gia yêu nước có uy tín và hậu thuẫn v́ họ là những đối thủ nguy hiểm của CS trên đường cướp chính quyền. Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, họ đă thủ tiêu: Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần văn Thạch, v...v... (trong nhóm Tân Tả Phái); Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà v...v... (trong nhóm Lập Hiến); Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ (Ḥa Hảo); Trương Tử Anh(Đại Việt), Lư Đông Á (Duy Dân); Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...
2) Tàn sát tập thể:
Đồng thời với thủ tiêu cá nhân, Đảng CS c̣n tàn sát tập thể.
Tàn sát tập thể v́ lư do tôn giáo, như việc sát hại các giáo hữu Cao Đài và Ḥa Hảo trong Chiến Tranh Đông Dương; tàn sát tập thể v́ lư do đảng phái như việc sát hại các cán binh Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội, Đại Việt, Duy Dân v...v... từ thập niên 1940; tàn sát tập thể v́ lư do giai cấp hay thành phần xă hội, như việc sát hại 200.000 nông dân và trí thức tiểu tư sản trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất trong thập niên 1950; tàn sát tập thể v́ lư do chính kiến, như việc sát hại 5 ngàn người quốc gia tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân. Vụ tàn sát tập thể Tết Mậu Thân của Đảng CS Việt Nam năm 1968 đă mở đường cho vụ tàn sát tập thể 2 triệu người Cam Bốt của Đảng CS Khmer từ 1975.
3) Học tập cải tạo:
Cường độ đàn áp thứ ba là chính sách học tập cải tạo mà họ dịch là re-education (cải huấn). Danh từ này tự nó đă là một ngụy trang và dối trá. V́ các tù nhân chính trị không phạm tội h́nh sự nào nên không cần phải cải huấn. Họ bị làm lao động khổ sai để đọa đầy thân xác và hủy diệt ư chí. Mặc dầu không ngừng hô hào ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, từ 1975 Đảng CS đă bắt giam hằng trăm ngàn quân cán chánh và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Ḥa tại các trại tập trung, người th́ 5, 7 năm, người th́ 15, 17 năm. Đây là những trại lao động khổ sai hay lao động cưỡng bách (forced labor camp).
4) Ṭa án và luật pháp.
Thay v́ để ban phát công lư và bảo vệ người dân về sinh mạng, tự do, danh dự và tài sản, ṭa án và luật pháp đă được sử dụng như những công cụ để đàn áp khủng bố và bắt giam độc đoán những người đấu tranh ôn ḥa cho tự do dân chủ và nhân quyền. Trong hơn 25 năm, từ 1976 họ đă truy tố:
a) Về tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, và đă kết án Nguyễn
Khắc Chính tù chung thân năm 1976, Nguyễn Đan Quế 20 năm tù năm 1991, Đoàn Viết Hoạt 15 năm tù năm 1993, Nguyễn Đ́nh Huy 15 năm tù năm 1995.
b) Về tội tuyên truyền chống chế độ hay tuyên truyền chống nhà
nước, và đă kết án Trần Vọng Quốc 12 năm tù năm 1988, Đoàn Thanh Liêm 12 năm tù năm 1992, Lê Chí Quang 4 năm tù năm 2002; năm 1996 Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu và Nguyễn Kiến Giang đă bị kết án 2 năm tù, 1 năm tù và 15 tháng tù treo về tội tiết lộ bí mật Nhà nước, thay v́ tội tuyên truyền chống chế độ, dầu rằng họ đă công khai phủ định chế độ Cộng Sản.
c) Về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia, và đă kết án Linh
Mục Nguyễn Văn Lư 13 năm tù năm 2001 (cộng thêm 2 năm tù về tội vi phạm quyết định quản chế hành chánh); năm 1995 Hoàng Minh Chính cũng đă bị kết án 1 năm tù về tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia.
5) Quản chế hành chánh.
Từ sau vụ án Lê Hồng Hà (1996), trong 5 năm không thấy có vụ án
chính trị nào. V́ từ năm1997 Đảng Cộng Sản đă ban hành quy chế quản chế hành chánh để bắt giữ pḥng ngừa, quản thúc tại gia những người đối kháng, cấm họ không được hành nghề, không được di chuyển, không được tiếp xúc với quần chúng, không được trả lời phỏng vấn và không được tham gia chính quyền. Bằng phương pháp này Đảng Cộng Sản đă biến đất nước thành một nhà tù lớn, trong đó nhà nước không phải nuôi ăn các tù nhân.

Sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11-9-2001, khi Hoa Kỳ và đồng minh c̣n đang bối rối, Đảng Cộng Sản Việt Nam đă lợi dụng thời cơ, leo thang khủng bố từ bậc 5 (quản chế hành chánh) lên bậc 4 (ṭa án luật pháp). Ngày 19 tháng 10 năm 2001 họ truy tố và kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lư 15 năm tù v́ đă tố cáo Đảng Cộng Sản vi phạm tự do tôn giáo.
Qua năm sau Hoa Kỳ và đồng minh vẫn c̣n bối rối về chiến tranh chống khủng bố, chiến tranh chống Iraq, một lần nữa, Đảng Cộng Sản đă lợi dụng thời cơ để bắt giam những nhà trí thức trẻ trong nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ B́nh, Phạm Hồng Sơn v...v... Thời gian này phong trào đối kháng bộc phát mạnh mẽ do những hành vi phản quốc của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc kư kết các hiệp ước nhượng đất biên giới và bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.
Tháng 11-2002, bất chấp dư luận quốc tế và quốc nội, họ đă kết án Lê Chí Quang 4 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước. Và một tháng sau, tháng 12-2002, họ lại tuyên phạt Nguyễn khắc Toàn 12 năm tù về tội gián điệp.
Song song với việc đàn áp phong trào đ̣i tự do dân chủ tại miền Bắc, Đảng Cộng Sản tiếp tục đàn áp phong trào đ̣i tự do tôn giáo tại miền Nam. Sau khi tuyên phạt cha Nguyễn văn Lư 15 năm tù, họ c̣n kiếm cớ đểå truy tố 3 người cháu của Cha là Nguyễn Vũ Việt, Nguyễn Trực Cường và Nguyễn Thị Hoa về tội gián điệp. Mới đây họ c̣n bắt giữ Trần Khuê, Phạm Quế Dương và Nguyễn Đan Quế cũng về tội gián điệp.
Nếu tuyên truyền chống nhà nước gán cho Lê Chí Quang là một tội giả tạo, th́ hoạt động gián điệp gán cho Nguyễn Khắc Toàn là một tội lố bịch.
Kinh nghiệm cho biết trong giai đoạn cao trào, Đảng Cộng Sản đă sử dụng vơ khí chiến lược số 1 của họ là tuyên truyền dối trá và giả nhân giả nghĩa, với các mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc, công bằng xă hội, người cày có ruộng, ḥa giải ḥa hợp v...v...Tuy nhiên khi họ phải sử dụng vơ khí chiến lược số 2 là đàn áp khủng bố với thủ tiêu tàn sát, tù đầy giam giữ, kết án oan uổng những công dân lương thiện có ḷng với đất nước, th́ đó là lúc họ bước vào giai đoạn thoái trào. Gia tăng khủng bố là dấu hiệu rơ rệt nhất của sự suy thoái, thất nhân tâm, mất chính nghĩa, mất hậu thuẫn quần chúng và hậu thuẫn quốc tế.
Cũng v́ vậy mà ngày nay người dân đă coi thường Đảng Cộng Sản. Có thể nói bước qua thế kỷ 21 người dân Việt Nam đă hết sợ. Trong khi đó phe lănh đạo Cộng Sản lại lâm vào tâm trạng lo sợ thường xuyên. Họ sợ dư luận quốc tế, sợ dân chủ pháp trị, sợ phong trào đ̣i tự do dân chủ, đ̣i tự do tôn giáo, sợ phong trào chống nhượng đất bán nước, chống bất công tham nhũng, sợ báo chí, sợ truyền thông, sợ đồng bào, sợ đồng chí và nhất là sợ sự thật và sợ nhân quyền.
Trong kỷ nguyên thông tin, sự tuyên truyền dối trá là vơ khí chiến lược số 1 của Đảng Cộng Sản, đă hết hiệu nghiệm. Để chống lại sự tuyên truyền dối trá, chúng ta phát động phong trào truyền bá sự thật, phục hồi sự thật lịch sử để giải tỏa huyền thoại Hồ Chí Minh, giải tỏa hào quang của Đảng CS và vinh danh cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao của những người quốc gia yêu nước theo Chủ Nghĩa Dân Tộc.
Để hóa giải sự đàn áp khủng bố là vơ khí chiến lược số 2 của Đảng Cộng Sản, chúng ta phát động phong trào truyền bá dân quyền, đấu tranh đ̣i thực thi nhân quyền và phản kháng những vi phạm nhân quyền. Có ư thức dân quyền người dân sẽ hiểu rơ về quyền của công dân và nghĩa vụ của quốc gia. Chiếu khế ước xă hội, giữa người dân và quốc gia có những nghĩa vụ hỗ tương. Người dân có nghĩa vụ phải đóng thuế để nuôi dưỡng quốc gia, phải thi hành nghĩa vụ quân sự để bảo vệ bờ cơi của quốc gia. Ngược lại, quốc gia cũng có nghĩa vụ phải bảo đảm cho người dân những quyền căn bản như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Có ư thức dân quyền, người dân sẽ khai thông Dân Trí, chấn hưng Dân Khí và khôi phục Niềm Tin. Từ đó họ không c̣n sợ đàn áp, và sẽ có quyết tâm dấn thân v́ Đại Nghĩa, đấu tranh giành Chính Nghĩa và tạo Thời Cơ.

Theo Nguyễn Chí Thiện:
Nếu nhân loại, mọi người đều biết
Cộng Sản là ǵ, tự nó sẽ tiêu đi,
Thứ sinh thành từ ấu trĩ, ngu si,
Sự Hiểu Biết sẽ là Mồ Hủy Diệt.

Hiểu biết về Sự Thật Lịch Sử, hiểu biết về bản chất CS, hiểu biết về dân quyền, và đấu tranh đ̣i thực thi dân quyền là những đường hướng chiến lược để giải thể CS.
Sau hơn 70 năm chứng nghiệm, chế độ CS đă tỏ ra phản nhân tính, phản dân tộc và phản nhân loại.
Trong kỷ nguyên thông tin, khuynh hướng tất yếu là toàn cầu hóa, dân chủ hóa và thị trường hóa.
Do đó giải thể CS là đi đúng trào lưu tiến hóa của nhân loại, hợp ḷng dân và phù hợp với quyền lợi quốc gia dân tộc.
Với sự yểm trợ tích cực của đồng bào hải ngoại và sự đấu tranh kiên cường của đồng bào trong nước CUỘC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH SẼ THÀNH CÔNG.

L.S. Nguyễn Hữu Thống
Trong Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam
(30-4-2003)


 

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06