Nhà
kinh doanh đă xuất đầu lộ diện mau nhất trong đại chiến vừa rồi là Henry J.
Kaiser. Không phải là quân nhân mà giúp cho quân đội Hoa Kỳ chiến thắng, th́
công đó, ít ai hơn ông. Trước chiến tranh, tên tuổi ông có mấy ai biết tới,
nhưng chỉ trong vài năm, những xí nghiệp mênh mông của ông phát triển lạ
lùng. Ông có tới bảy xưởng lớn đóng tàu, làm việc đ
êm
ngày không nghỉ để cung cấp cho quân đội những tàu chở hàng, tàu dầu, khu
trục hạm và hàng không mẫu hạm. Ông cũng có một xưởng chế tạo máy bay khu
trục và nhiều bộ phận rời.
Ông xây cất và
điều
khiển một xưởng lớn sản xuất rất nhiều ma-nhê-di, thứ kim thuộc cực nhẹ,
trọng yếu bực nhất trong thời chiến tranh đó.
Khi ông không kiếm ra được số thép cần dùng nữa, ông dựng ngay một
xưởng nấu thép, xưởng đầu tiên ở phía tây dăy núi Đá, có đủ ḷ luyện sắt và
máy dát kim loại. Rồi ông mua một mỏ sắt để có đủ quặng dùng, lại mua nhiều
mỏ than để có đủ than đốt ḷ.
Ông và các hội viên của ông dự vào công việc vớt các tàu Nhật đánh đắm
ở Trân Châu Cảng, xây nhiều căn cứ hải quân cho phi cơ ở Wake Island, Midway
và Guam, lại xây một phần đại lộ quân sự tiến về Alaska lập ở xứ này nhiều
phi trường cho nhà binh, nhiều đ
ài
phát thanh, đ
ào
nhiều giếng dầu, dựng một nhà máy lọc dầu. Đặt sáu trăm cây số ống dẫn dầu ở
miền cực Bắc, và xây nhiều cống ngăn trên kinh Panama.
Ông có xưởng chế tạo xi măng lớn nhất thế giới. Ông đă lưu lại một
công tŕnh lớn là xây ba cái dập quan trọng nhất thế giới: đập Boulder trên
sông Calorado, đập Bonneville trên sông Columbia ở Oregon (nhiều kỹ sư cho
rằng không thể nào xây đập này được), và cũng trên sông đó, đập vĩ đại
Grand-Coulee.
Henry Kaiser thành một trong những chủ nhân ông có danh nhất Châu Mỹ.
Nhưng v́ ông thân mật với mọi người nên người thường đều coi cái con người
lớn, mập và hói đó như bạn bè vậy. Người ta yêu ông v́ ông giản dị, vui vẻ
và hăng hái.
Trước chiến tranh ông chưa hề đóng một chiếc tam bản nào gọi là có.
Vậy mà chỉ trong bốn năm ông thành một nhà
đóng
tàu nhiều nhất và lớn nhất từ xưa tới nay.
Ông đă cách mạng hẳn một trong những kỹ nghệ cổ nhất của loài người:
kỹ nghệ đóng tàu. Hồi đó người ta phải mất sáu tháng mới đóng xong một chiếc
tàu, mà xưởng Oregon của ông chỉ mười ngày là giao được một chiếc Liberty
Ship. Khi các thợ của ông ở Californie hay tin đó, họ thề với nhau phải phá
kỷ lục ấy cho được. Họ can đảm bắt tay vào việc, và chiếc Robert E. Peary mà
lườn được lắp đúng nữa đ
êm
chủ nhật, hoàn toàn đóng xong và thả xuống nước chiều thứ năm. Vậy, một công
việc hồi trước làm trong sáu tháng, có khi trọn một năm, th́ bây giờ chỉ làm
trong bốn ngày rưỡi.
Tất nhiên, lần đó chỉ là một thí nghiệm, một sự ganh đua, chứ không
thể bắt thợ tuần nào cũng gắng sức như vậy được, nhưng hăng của ông cũng
tiếp tục đóng được những chiếc Liberty Ship trong một tháng là xong, từ khi
lắp lườn đến khi thả xuống nước.
Ông thích làm tận lực như vậy, sống mănh liệt trong cơn lốc bất tận.
Ông rất ham bắt tay vào những việc mà các nhà chuyên môn cho là thực hành
không được.
Khi ông đề nghị đóng tàu theo cách dây chuyền, ông có biết chút ǵ về
cách đó đâu. Từ trước ông chỉ được thăm mỗi xưởng đóng tàu, nhưng ông nghĩ
rằng. Không biết chút ǵ về những khó khăn trong nghề đó có lẽ lại là cái
lợi nhất cho ông. Ông nhất định không chịu theo lối cổ truyền là lắp lườn
trước rồi mới lắp những bộ phận khác của tàu lên cái lườn đó. Trong thời
chiến tranh cần phải làm mau hơn. Ông ra lệnh cho các kỹ sư sửa soạn một
xưởng lớn gấp ba những xưởng thường, đủ chỗ cho hàng ngàn thợ cùng làm tại
đó một lúc, và cả ba phần của tàu, tức mũi, đuôi và thân tàu phải đóng cùng
một lúc ba chỗ khác nhau.
Khi đóng mọi bộ phận rồi, một cái máy cổ hạc vĩ đại lớn hơn những máy
dùng từ trước tới nay rất nhiều, kẹp mỗi bộ phận, đem lại đặt vào chỗ của nó
ở trong tàu. Rồi người ta hàn kỹ những bộ phận đó với nhau. Ông dùng rất ít
đinh tán v́ cách đó chậm. Một sáng kiến nữa của ông là lắp các bộ phận của
tàu theo cách dây chuyền như lắp xe hơi vậy. Ông và
đội
kỹ sư của ông lại có ư phóng ngược nhiều bộ phận, như cái mui tàu chẳng hạn,
để thợ có thể làm ở dưới, đỡ mệt hơn là cứ phải đưa tay lên trời mà làm
việc. Đóng xong th́ một máy cổ hạc sẽ lật úp nó lại rồi đưa đi, đặt vào chỗ
của nó trong tàu.
Ngay từ hồi nhỏ, Henry J. Kaiser đă có tài tưởng tượng, đức nhiệt
thành và một tham vọng bền bĩ nó làm cho ông giàu có và nổi danh. Tổ tiên
ông là người Đức, cha ông làm thợ giày, khó nhọc mà không đủ nuôi một gia
đ́nh bốn con. V́ ông là con trai độc nhất trong nhà, ông phải thôi học từ
hồi mười một tuổi để kiếm tiền giúp cha. Ông xin được một chân giao hàng
trong một cửa hàng lớn ở Nữu Ước. Ban ngày làm cho người, nhưng ban đ
êm
th́ làm theo sở thích: hồi đó ông mê chụp h́nh. Thấy sách nào ở thư viện
công cộng ông cũng đọc nghiến ngấu. Rồi ông xin được một chân giúp việc cho
một tiệm chụp h́nh tại ngoại ô Lake Placid. Ông không coi công việc ông làm
là một công việc mà cho nó là một tṛ vui, một tṛ chơi, một nỗi thích thú.
Ông đem cả tấm ḷng hăng hái của tuổi xanh vào việc bán máy ảnh, việc rửa
h́nh cho các nhà chơi ảnh. Ông lại in cả bưu thiếp có dán h́nh Lake Plaud để
bán. Sau ba năm ông hoàn toàn làm chủ cửa tiệm. Sau năm năm ông mở thêm
nhhững tiệm chụp h́nh khác ở Palm Beach và Daytona Beach tại Floride. Bây
giờ th́ ông không có tới một cái máy chụp h́nh nữa.
Muốn kinh doanh những xí nghiệp lớn hơn, ông bỏ nghề luôn và bổ nhào
tới miền duyên hải tây bắc Thái B́nh Dương hồi đó mới bắt đầu khai thác. Ông
đi chào hàng cho công ty Hawkeye Sand and Gravel ở Spokane, rồi thành hội
viên của công ty v́ hùn một phần tiền lương vào công việc làm ăn.
Một hôm ông đi thăm một xí nghiệp ở Chicago khởi sự nhiều công việc
quan trọng cho thành phố Spokane. Ông muốn bán một món hàng cho xí nghiệp,
món hàng đó là sự hợp tác của ông: xí nghiệp dùng ông liền.
Khi ông hai mươi chín tuổi, ông bỏ địa vị làm công ra kinh doanh. Vốn
ông chỉ vỏn vẹn vài cái xe bù ệt cũ, ít cái máy trộn xi măng và bốn con
ngựa, hết thảy đều là mua chịu. Nhưng ông c̣n những số vốn khác không hiển
hiện bằng, song quan trọng nhiều hơn, là tinh lực kinh nghiệm, trí phán
đoán, ḷng hăng hái và một nghị lực bất biến, luôn luôn muốn tiến tới. Sau
hai tháng, ông lănh việc lát đường, khoảng hai trăm năm chục ngàn Mỹ kim.
Lúc này ông bắt đầu giàu có. Chỉ trong vài năm xí nghiệp của ông lát cả ngàn
cây số đại lộ trên bờ biển Thái B́nh Dương.
Nhưng ông vẫn thường nói rằng ông không thích tiền. Thực vậy. Ông c̣n
th́ giờ đâu để tiêu tiền? Ông rất ít khi rảnh để đọc sách, coi hát bóng hoặc
đi nghỉ mát, th́ giờ làm việc của ông c̣n thiếu kia mà! Và ông làm việc rất
hăng, càng làm được nhiều càng thích. Ông có một căn trong một khách sạn ở
Hoa Thịnh Đốn, một căn trong một khách sạn khác ở Nữu Ước, ngày nào ông cũng
mất hằng giờ hội họp, tiếp điện thoại ở xa. Từ Đại Tây Dương tới Thái B́nh
Dương, tất cả những pḥng giấy quan trọng của xí nghiệp ông đều mắc điện
thoại vào chung một mạch điện để cho những người cộng tác với ông có thể
theo dơi và dự vào những cuộc thảo luận bàn tính của ông trong công việc làm
ăn. Phí tổn tất nhiên lớn lắm, mỗi năm tới hai trăm ngàn Mỹ kim tiền điện
thoại. Điện tín của ông gởi tới các công sở tới tấp như mưa, hoặc để biện hộ
cho ông, hoặc để hăm dọa chính phủ, hoặc để xin việc này việc khác. Ít khi
ông ngủ suốt đ
êm
quá năm giờ. Người ta tự hỏi sống đời hoạt động cuồng nhiệt như vậy mà sao
ông không chết v́ đau tim hoặc vi trùng phong.
Ông đă cất một ngôi nhà nghỉ mát ở bờ hồ Tahoe, trong dăy núi Sierra
Nevada, tại trên cao hai ngàn thước. Cách thức xây cất đặc biệt là của ông.
Ông hấp tấp chở những xe ủi đất, những máy đào đất, những máy cổ hạc tới hồ
Tahoe, ông bắt những kíp thợ làm việc ngày đ
êm
dưới ánh đ
èn
giọi, để phá rừng, vỡ đất, lắp vũng. Ông cất một ngôi nhà lớn bằng đá, bốn
biệt thự cho khách khứa và một cái ụ để tàu, chỉ trong có hai mươi tám ngày,
cất nóng nảy, hấp tấp như là sợ nền văn minh sắp lâm nguy vậy. Đó con người
của ông như vậy.
Trong suốt kỳ đại chiến vừa rồi, ông chỉ sản xuất cho chính phủ, nhiều
người nghĩ rằng ông tiến lên được như vậy nhờ chiến tranh th́ sau chiến
tranh, do sự cạnh tranh của các xí nghiệp và sự đảo lộn của các điều kiện
kinh tế, ông khó giữ được địa vị, nhưng ông vẫn hy vọng giữ được. Ông đă lập
một pḥng t́m ṭi nghiên cứu gồm nhiều kỹ sư, bác học, sáng chế gia, kỹ
thuật gia, chuyên môn gia, nhà nào cũng có óc làm lớn, trông rộng, và cũng
có đủ tài tưởng tượng để chế tạo những hóa phẩm mới, xây dựng những kỹ nghệ
mới, cho công nhân sau chiến tranh c̣n được dùng tới một mức cao.
Ông nghĩ rằng nếu dùng những vật liệu nhẹ hơn th́ có thể đóng được
những tàu chạy nhanh hơn, phí tổn chở chuyên nhẹ hơn và cả ngàn người chưa
đi du lịch bao giờ sẽ có thể vượt biển được.
C̣n về ngành xe hơi th́ ông nói:"Thấy một chiếc xe nặng một ngàn năm
trăm kí lô mà chỉ chở một người nặng bảy mươi lăm kí lô, tôi ngao ngán lắm".
Ông tính dùng một kim thuộc cực nhẹ và những chất dễ nặn để đóng những chiếc
xe hơi chỉ nặng bằng một phần ba những xe hơi hiện thời, c̣n máy th́ ông cho
chạy bằng dầu xăng chạy máy bay.
Ông cũng hy vọng chế tạo được nhiều phi cơ chắc chắn cho những bà già
cũng dám leo lên và cực rẻ cho các ông già cũng dám bỏ tiền ra mua.
Quả thật ông là người lạc quan. Ông nói: Kỹ thuật tiến mănh liệt, như
một cái nồi sôi sùng sục. Không thể ngồi đ
è
lên nắp của nó được, nó sẽ văng ta ra bốn phương trời, tan tành như pháo.