đối với
NGHỊ QUYẾT số 36/NQ-TW
ngày 26 tháng 3 năm 2004
của đảng Cộng Sản Việt Nam về công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài
Biên soạn
Nguyễn Mậu Hoàng
Phạm Hữu Trác
Từ Uyên
Nhóm V́ Tổ Quốc ấn hành
------------------------------
MucLục
- Tiến tŕnh h́nh thành cộng
đồng người Việt tị nạn ..............................trang 3.
- Phân I của Nghị Quyết - T́nh
h́nh và công tác đối với người Việt ở nước ngoài trong thời gian qua
..................................................................................trang
6
- Nhận định phần I của Nghị Quyết
........................................................trang 7
-
Phần II của Nghị Quyết :
Chủ trương và phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
trong thời gian tới .................................... trang 8
- Nhận định phần II của Nghị
Quyết ....................................................trang 9
-
Phần III của Nghị Quyết:
Nhiệm vụ chủ yếu ................................... trang 11
-
Nhận định phần III của Nghị Quyết
................................................. trang 15
- Phần IVcủa Nghị quyết: Tổ chức thực
hiện...................................... trang 19
- Nhận định phần IV của
Nghị Quyết .................................................. trang 20
Kết luận
...........................................................................................
trang 21
Tiến tŕnh h́nh thành cộng đồng
người Việt tỵ nạn
Khởi điểm từ những ngày tháng 04-1975, hai
triệu người Việt Nam bắt buộc phải chọn con đường lưu vong, khi đất nước bị
bọn Cộng Sản, độc tài, bán nước, dày xéo và áp chế.
Người Việt tị nạn tưởng như đă thoát được ác
mộng của những danh từ rỗng tuếch đảng, nhà nước và h́nh ảnh của những tên
ngu xuẩn độc ác nay ngự trị trên quê hương yêu mến.
Thế nhưng người tị nạn dầu đă xa đất nước để
sống b́nh an, nay lại đang bị đe doạ bởi một biện pháp mới: NGHỊ QUYẾT 36 do
Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) ban hành .
Nghị quyết này có dụng tâm rơ rệt nhằm lũng
đoạn tinh thần và cuộc sống vật chất của chúng ta, những người tị nạn.
Đây không phải là lần đầu CSVN tỏ thái độ
với người tị nạn đang sống tại các nước ngoài. Chúng tôi cần nhấn mạnh vào
tính cách tị nạn của đại khối người Việt hải ngoại v́ không ai có thể chối
căi nổi : “Cộng đồng hải ngoại chính thức thành h́nh v́ bị Cộng Sản dồn vào
thế phải ra đi, để tránh bị bạc đăi, khinh bỉ và hành hạ”. Người đi thoát
năm 1975 phần lớn tự t́m cách ra đi, bị bạo quyền chụp cho danh từ đĩ điếm,
tàn dư của Mỹ Ngụy v.v. Những danh từ hạ cấp nhất đă được bạo quyền và nhóm
tay sai thuộc các hội Việt kiều thân Cộng sử dụng không ngừng để miệt thị
những người Việt tỵ nạn mà họ gọi là đĩ điếm chạy theo liếm gót chân tư
bản đểtiếp tục sống một đời nô lệ tại xứ người.
Thành phần tỵ nạn ban đầu dù bị khinh bỉ
vẫn thản nhiên coi thường những lời thoá mạ, một mặt hy sinh làm đủ mọi công
việc thấp kém nhất, đồng thời học hỏi thêm để tiến mau hơn trong việc tạo
lập một đời sống khả quan hơn. Con cái họ được họ coi như tài sản quí báu
nhất, và được cha anh hy sinh giúp đỡ theo đuổi một nền giáo dục khoa học và
nhân bản tại các nước tạm dung. Sự hy sinh này đă đem lại kết quả mong muốn.
số sinh
viên, chuyên viên gốc tị nạn làm rạng danh cộng đồng khiến thế giới ngạc
nhiên, thán phục.
Người Việt tị nạn không quên nhiệm vụ thương
yêu những đồng bào cùng cảnh ngộ c̣n ở lại, đă mạnh bạo tố cáo trước quốc tế
chính sách hành hạ tàn bạo dă man đối với tù nhân cải tạo, hành động này ít
nhất cũng ngăn cản được cuộc “tắm máu” cộng sản định dành cho số phận của
quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Ḥa. Người tị nạn dù ban đầu c̣n rất
nghèo cũng cố gắng gởi thuốc men hay các thùng quà về giúp gia đ́nh kẹt lại
.
Ngay khi có thảm cảnh Vượt Biển, người tị
nạn đợt đầu đă tranh đấu trên nhiều lănh vực để những đồng bào tị nạn đang
trải qua giai đoạn đầy gian khổ sớm tới định cư tại bến tự do.
Khi có chương tŕnh đoàn tụ gia đ́nh, cũng
chính những người tị nạn hăng hái bảo lănh thân nhân ra khỏi nhà tù lớn của
xă hội chủ nghĩa.
Tóm lại ngoại trừ các cán bộ và tay sai cộng
sản, khối người Việt hải ngoại đều do tị nạn
mà h́nh thành. Họ không phải là Việt
kiều, họ dần dần nhập quốc tịch các nước đă nhận họ. Sống trong một xă hội
dân sự, họ tiếp tục tranh đấu bất bạo động cho Tự Do, Dân chủ.
Cộng Sản Việt Nam ban đầu coi khinh người tị
nạn, khi thấy họ thành công, bắt đầu nhập nhằng đặt tên mới cho họ là Việt
kiều. Tren thực tế, người tị nạn ngày nay không c̣n là công dân cuả nước
Việt Nam xă hội chủ nghiă, họ không bao giờ nh́n nhận chế độ Cộng Sản, không
bao giờ thừa nhận đảng kỳ cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ của nước Việt Nam. Hiến
pháp áp chế của chế độ này, dựa theo lư thuyết “huyết thống” vẫn coi họ và
con cháu họ dù sinh ra tại ngoại quốc và có quốc tịch mới, cũng vẫn là người
Việt Nam, dù không có qui chế công dân cuả nước độc tài này.
Trước những thành quả đó, và nhận thấy người
tị nạn trở thành một lực lượng đối trọng với đảng Cộng Sản, chúng bắt đầu
đổi chiến lược.
- Nguyễn ngọc Hà, một y khoa bác sĩ ở Pháp
về, cuối thập niên 70 đă đưa ra một chính sách mua chuộc. Nhưng không thu
hút được ǵ. Thời gian này các đợt vượt biên c̣n đang là những mối bận tâm
chính của người Việt tị nạn.
- Cộng Sản Việt Nam bắt đầu đổi tên nhóm tị
nạn đáng khinh ban đầu thành khúc ruột ngàn dặm nhằm mục đích moi rút
tiền bạc của họ, nhưng chưa cổ vơ về thăm quê hương v́ c̣n nghèo khó lắm Hoa
kỳ mới hủy bỏ cấm vận nhưng chưa trao đổi ngoại giao, mọi cuộc đầu tư chưa
có. Kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa chưa có..
- Nguyễn ngọc Trân một trí thức ở Pháp về
được cử phụ trách việc thu hút người Việt tị nạn được mang danh mới là
Việt kiều. Một đại hội Việt kiều năm 1993 được tổ chức tại Saigon, nhưng
chẳng mang lại kết quả ǵ. Các tham dự viên như Ph Bá L, Bùi KiệnT, Nguyễn
Văn N, đa số là những tay sai hoặc thành viên của các hội Việt kiều yêu nước
do CSVN dựng nên, khi phát biểu ư kiến ca tụng chính sách mới của đảng,
nhưng cũng
không quên than thở về sự đăi ngộ không công bằng ngay với chính họ, dù được
CSVN coi là thành phần trung thành.
- Sau đó Ủy ban về người Việt Nam ở nước
ngoài ra đời và do hai Thứ trưởng trực thuộc bộ ngoại giao là Nguyễn đ́nh
Bin và Nguyễn phú B́nh phụ trách, tờ Quê Hương do Hoàng B́nh rồi Đặng trần
Phong làm Tổng biên tập ra đời để thông tin cho người Việt nước ngoài , tờ
này tỏ ra ôn hoà, chỉ nhằm đưa ra những h́nh ảnh đẹp cuả phong cảnh, dấu
tích lịch sử cổ truyền nhằm thu hút người Việt muốn nh́n lại phong cảnh quê
hương. Tờ Quê hương cũng ca tụng những người về kinh doanh buôn bán, tuyệt
nhiên không đả phá người tị nạn. .
Năm 2001, Mặt trận Tổ quốc và Ủy ban về
người Việt Nam ở nước ngoài đă ban hành qui chế phối hợp hoạt động trong
công tác vận động người Việt nước ngoài. Đối tượng vận động là:
. công dân Việt Nam (những người có thông
hành và hộ chiếu của CSVN),
. người gốc Việt Nam đang cư trú tại nước
ngoài (gồm cả người tị nạn),
. thân nhân cuả người VN ở nước ngoài bao
gồm: bố, mẹ đẻ, bố mẹ vợ hoặc chồng; vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi, anh,
chị em ruột là người Việt Nam hoặc là người nước ngoài, không phân
biệt thành phần giai cấp, tầng lớp xă hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
quá khứ, chính kiến.
- Nhiều người nhẹ dạ tin rằng đă có đổi mới
và về thăm lại quê hương, thăm gia đ́nh, cũng có người áo gấm về làng mong
kiếm chút địa vị, hay t́m dịp ăn chơi, Đáng tiếc là khi trở lại nước ngoài,
kẻ bị công an chiếu cố mời ra “làm việc”, kẻ bị thất bại không được tin
dùng, không dám nói lên sự thực, mà chỉ ca ngợi những phồn vinh giả tạo, để
che dấu những đau khổ trải qua từ khi nhét tiền vào sổ thông hành tới khi bị
cơ quan khu vực khống chế .
Tuy nhiên qua những lời thổ lộ kín đáo, qua
hệ thống internet, qua các báo ngoại quốc và ngay qua các tờ báo lọt ra
ngoài như Tuổi Trẻ, Công An, Pháp luật, cũng như những tờ báo chui, người
Việt hải ngoại ai cũng thừa biết bộ mặt thật của xă hội càng ngày càng băng
hoại, bạo quyền càng ngày càng tham nhũng và những người c̣n chút lương tri
mới tỏ ư mong mỏi đôi chút dân chủ hay đa nguyên, đă bị đàn áp, tù đầy. cán
bộ và quân đội ngày càng lộng hành, trong khi đó 80% nhân dân sống xa đô thị
càng ngày càng nghèo khổ.
- Sự thực đó không qua mắt được người Việt
bên ngoài, v́ vậy tới nay chính sách của Ủy ban về người Việt Nam ở nước
ngoài phối hợp với Mặt trận Tổ quốc chỉ mới dụ dỗ được vài phần tử háo danh
ham lợi, như trường hợp Nguyễn cao Kỳ, một thanh củi mục, chịu cúi đầu xin
về hợp tác.
Tuy nhiên khi trở ra hải ngoại và chắc chắn
được hứa hẹn đôi điều, cây gỗ mục nát này không những chẳng lôi kéo được
ai, trái lại, c̣n bị tất cả mọi giới phủ nhận và khinh bỉ .
Trước các thất bại chồng chất, lần này Bộ
Chính trị nhập cuộc và giao cho Phan Diễn(*) soạn thảo Nghị quyết số 36.
Trận chiến chính thức khai mở trên b́nh diện lớn.
(*) Phan Diễn là ai: Nhân vật thứ 15
trong Bộ Chính trị sau thời gian khá lâu hoạt động trong ban Bí thư, Phan
Diễn con của Phan Thanh, và là cháu của Phan Khôi và Phan Bôi tức là Đại tá
Hoàng hữu Nam. Hai vị này một vị chết đuối bí mật năm 1946 có lẽ khi giữ
chức Trưởng phái bộ Việt Pháp năm 1945-46 đă biết quá nhiều nên bị thủ tiêu
chăng. C̣n Phan Khôi, nhà văn hoá lỗi lạc bị thanh trừng trong vụ Nhân Văn,
Giai phẩm, không bị thủ tiêu nhưng bị cô lập tới lúc chết già.
Phan Diễn trước đây chưa bị mang tiếng
nhiều v́ tham nhũng, nhưng từ ngày lên Bộ Chính trị cũng bị tham nhũng làm
mờ mắt. Được cử làm Bí Thư Thành Ủy Đà Nẵng ông đă mắc lưới tham nhũng trước
tiền kiếm dễ dàng nơi hải cảng lớn nhất miền Trung này. Mới đây qua thơ tố
cáo của Tướng Nguyễn Nam Khanh, ông bị cáo buộc có nhiều liên hệ với người
Hoa để lập hệ thống tham nhũng. Phan Diễn có vợ kỹ sư học tại Liên Sô và
hiện nay có hai con đang du học tại Vancouver ( Canada ).
Nghị quyết số 36 do Phan Diễn soạn thảo
nếu thành công, hắn có thể thăng chức tới Tổng Bí Thư, nhưng nếu không thành
công, hắn sẽ không tránh khỏi số phận đă dành cho chú bác hắn là Phan Khôi
và Phan Bôi.
Nghị quyết số 36 phải chăng là Chúc Thư
Chính Trị của đời Phan Diễn?
*********
NGHỊ QUYẾT 36
PHẦN I.
T́nh h́nh và công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài thời gian qua.
1/ Hiện nay có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam
đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lănh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước
công nghiệp phát triển, phần đông bà con ngày càng ổn định cuộc sống và hoà
nhập vào xă hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế,
chính trị- xă hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan
hệ giữa các nước đó với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm
ngh́n người Việt Nam đă ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ
gia đ́nh, h́nh thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm
lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng t́m kiếm đối tác và làm cầu nối
với các doanh nghiệp trong nước.
Nhiều trí thức có tŕnh độ học vấn và chuyên
môn cao; một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan , cơ sở nghiên
cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ
với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở tại.
Mặc dầu sống xa Tổ quốc, đồng bào luôn luôn nuôi
dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc , giữ ǵn truyền thống
văn hoá và hướng về nguồn cội , ḍng tộc, gắn bó với gia đ́nh quê hương .
Nhiều người đă có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thành tựu to lớn của nhân
dân ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá xă hội giữ vững
sự ổn định chính trị-xă hội và không
ngừng nâng cao vị thế quốc tế của đất nước càng củng cố thêm niền tự hào dân
tộc và tinh thần yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài, đông đảo bà con
hoan nghêng công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của
đảng và Nhà nước, mong muốn đất nước cường thịnh, sánh vai với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đă về thăm gia đ́nh, quê hương,
tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo
dục, văn hoá, nghệ thuật , thể thao, nhân đạo, từ thiện…T́nh h́nh trên là xu
thế chủ yếu trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số nước c̣n khó
khăn trong việc ổn địng cuộc sốnf, chưa được hưởng qui chế rơ ràng, thậm chí
ở một số nơi c̣n bị kỳ thị. Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm
đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do
thành kiến, mặc cảm nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước. Một số ít
người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá
hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam. Tính lien kết
cộng đồng, sự gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng chưa cao. C̣n thiếu
các biện pháp duy tŕ phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc:
việc giữ ǵn tiếng Việt và bản sắc dân tộc trong thế hệ trẻ c̣n khó khăn.Nhu
cầu giao lưu văn hoá giữa cộng đồng và đất nước, giữ ǵn và phát triển tiếng
Việt trong cộng đồng là rất lớn và trở nên bức thiết, nhưng chưa được
đáp ứng.Sự đóng góp cuả bà con vào công cuộc xây dựng đất nước nhất là về
TRI THỨC chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người VN ở nước ngoài.
2/ Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, đă đề ra nhiều chủ trương , chính sách rộng mở và biện
pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về thăm
đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học- công nghệ, hoạt
động văn hóa - nghệ thuật. Công tác đối với người VN ở nước ngoài đă được
đổi mới và đạt được những kết quả đáng kể cả trong và ngoài nước. Công tác
thong tin văn hoá phục vụ cộng đồng từng bước được tăng cường, nhất là trong
lĩnh vực phát thanh, truyền h́nh, qua mạng Internet .Sự phối hợp giữa các cơ
quan chức năng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chính quyền địa phương và các cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đă có chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên các chủ trương, chính sách
của đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa được quán
triệt thực hiện đầy đủ. Công tác nghiên cứu, tham mưu về chính sách chưa
theo kịp những chuyển biến mới. Công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của
người Việt nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Các chính sách ban hành
chưa đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC : chưa
khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng
góp cho công cuộc phát triển đất nước. Chưa có h́nh thức thoả đáng để cung
cấp kịp thời và đầy đủ thong tin cho đồng bào về t́nh h́nh đất nước và chính
sách của đảng và Nhà nước. H́nh thức vận động cộng đồng c̣n chưa thực sự đổi
mới , đa dạng và linh hoạt để có thể quy tụ, động viên đông đảo bà con tham
gia các hoạt động có ích cho cộng đồng và quê hương. Việc phát hiện, bồi
dưỡng những nhân tố tích cực, việc khen thưởng, động viên những người có
thành tích ít được chú trọng.
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém
trên là các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân chưa nhận thức thật sự đầy
đủ và sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của đảng về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài , nhiều cấp ủy đảng và lănh đạo chính quyền các cấp chưa
quan tâm đúng mức và chưa thường xuyên kiểm tra , đôn đốc việc thực hiện
công tác này. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành lien quan giữa Trung ương và
địa phương, giữa trong và ngoài nước c̣n thiếu chặt chẽ, các cơ quan trực
tiếp làm công tác về người nước ngoài chưa được kiện toàn đủ mạnh, kinh phí
c̣n hạn chế.
Nhận định phần I của Nghị quyết 36
Qua phần I, điểm 1 cuả bản quyết nghị vừa
dẫn chiếu chúng ta nhận thấy Cộng Sản Việt Nam đă đồng hoá người Việt tị nạn
vào danh xưng mới: “người Việt Nam ở nước ngoài”.
Người tị nạn không phải là Việt kiều và là
một thành phần miễn cưỡng lưu vong. Nếu họ tạo được tiềm lực kinh tế là do
công khó cuảhọ, vượt qua bao thử thách, không nhờ cậy và cũng không liên hệ
ǵ tới Cộng Sản Việt Nam..
Đúng là người Việt tị nạn yêu nước, các cán
bộ cao cấp cộng sản nhận xét không sai, nhưng họ yêu một nước Việt Nam lành
mạnh, dân chủ, yêu một xă hội dân sự, chúng tôi “không yêu nhà nước xă
hội chủ nghĩa”
Người Việt tị nạn không bao giờ quên thân
nhân c̣n ở lại trong nước, họ đă gởi nào tiền, nào thuốc, nào quà, thân nhân
họ đâu có bị bỏ rơi.
Cộng Sản nói một bộ phận đồng bào chưa có
dịp về thăm đất nước để thấy tận mắt những thành tựu của công cuộc đổi mới
hoặc do thành kiến, mặc cảm nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước.
Với kỹ thuật thông tin hiện đại, với những
thân hữu qua thăm nước ngoài, với những người đă có dịp thăm quê hương về
kể lại, qua các lời công kích, than phiền cuả chính các đảng viên có 50 hay
60 tuổi đảng, qua các bài viết cuả các văn nghệ sĩ, qua các vụ án một chiều,
liên tiếp diễn ra, qua nhận xét cuả các vị trong ngoại giao đoàn Liên Hiệp
Quốc hay qua chính các vị Đại sứ các nước sở tại mà chúng tôi đă được nhận
làm công
dân, sự thực về Việt Nam quá rơ, người Việt nước ngoài đă quá hiểu biết t́nh
trạng đàn áp công an trị đối với nhân dân, cán bộ tham nhũng, dung túng ăn
chịu với xă hội đen, đĩ điếm, ma túy, thậm chí xuất cảng phụ nữ vào các ổ
điếm. Tội ác không kể xiết, vụ Năm Cam cả thế giới biết tiếng, vụ Bộ trưởng
Lê huy Ngọ bị cách chức, vụ đầu độc tại đủ mọi cấp, vụ lá thơ của Vơ nguyên
Giáp, lá thơ của Nguyễn Nam Khánh, các bài viết cuả Nguyễn vũ B́nh, Phạm
Hồng Sơn, Hoàng minh Chính, Phạm quế Dương, Nguyễn đan Quế đă cho toàn thể
khối người tị nạn thấy rơ t́nh h́nh.
Nghị Quyết viết : “Một số ít người đi
ngược lại lợi ích chung của dân tộc đă chống phá đất nước, phá hoại mối quan
hệ hợp tác giữa các nước sở tại với Việt Nam”.
Người Việt hải ngoại là công dân một nước sở
tại, họ đóng thuế, bầu cử, đ̣i hỏi chính phủ của họ phải có thái độ, họ có
quyền đi biểu t́nh chống lại bất cứ chế độ nào tỏ ra độc tài, phản dân chủ.
Nếu họ biểu t́nh chống đối chế độ độc tài tại Việt Nam ngày nay v́ họ muốn
“đem lại lợi ích chung” cho đất nước và từ phương xa họ vẫn đóng góp vào
việc giải phóng quê hương khỏi ách độc tài qua những cuộc chơi đầy dân chủ.
Nếu cộng sản cho rằng chế độ của chúng đem
lại phúc lợi cho nhân dân, tại sao các cán bộ khi công cán ở nước ngoài
không dám đi cửa chính mà chỉ chui cổng hậu. Nếu đảng thực sự do dân, v́
dân và bởi dân, việc ǵ phải sợ bị biểu t́nh chống đối.
Nếu Cộng sản than phiền Tri thức đóng
góp cho đất nước c̣n ít th́ hăy Tiên trách kỷ hậu trách nhân.
Khi Cộng sản thực tâm yêu nước thương dân,
đem dân chủ nhân quyền, tự do, công bằng và bác ái cho nhân dân cả nước,
thiếu ǵ chất xám sẽ trở về để đóng góp TRI THỨC cho đất nước
Qua điểm 2 cuả phần I bản nghị quyết cho
biết:
“Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng
đồng tị nạn chúng tôi là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân
tộc”.
Người Việt tị nạn cộng sản nếu không bị
cộng sản đàn áp sẽ không bao giờ muốn ra khỏi nước, và khi ra khỏi nước bắt
buộc không thể chung sống với Đảng và Nhà nước xă hội chủ nghĩa, những người
mà Cộng sản đánh giá cao sau khi hạ nhục hết lời nhất định không đầu hàng
đảng và Nhà nước xă hội chủ nghĩa.
NGHỊ QUYẾT 36
PHẦN II Chủ trương và phương hướng công tác
đối với người Việt Nam
ở nước ngoài trong thời gian
tới.
1-
Công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân
tộc. Cơ sở của sự đoàn kết là ư thức dân tộc và mục tiêu chung của mọi người
Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho
dân giàu , nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng
tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai. Mọi người Việt Nam không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc
xuất phát , địa vị xă hội, lư do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện
mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết dân tộc.
2-
Người Việt Nam ở nước
ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân
tộc, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị
giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước
hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền
lợi chính đáng của cộng đồng ngưới Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp,
công ước và thong lệ quốc tế.
Đảng và Nhà nước mong muốn, khuyến
khích người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật
pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống, làm ăn thành đạt, nêu cao tinh
thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ ǵn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và
truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau, giữ mối
quan hệ gắn bó với gia đ́nh và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp
tác hữu nghị giữa bà con sinh sống với nước nhà, tùy theo khả năng và điều
kiện của mỗi người góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ động đấu tranh
với các biểu hiệu cố t́nh đi ngược lại lợi ích chung cuả dân tộc.
3-
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần
mang chính sách đồng bộ. kết hợp việc xây dựng cơ chế , chính sách với công
tác vận động , kết hợp các hoạt động trong nước với các hoạt động ở nước
ngoài và phải được tiến hành qua nhiều loại h́nh hoạt động và biện pháp phù
hợp với các đối tượng và địa bàn khác nhau, trên cơ sở tự nguyện và không
trái với pháp luật, phong tục, tập quán của nước sở tại.
4-
Công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của
toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân, các ngành các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước
và ng̣ai nước và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc v́ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Nhận định phần II của Nghị Quyết 36
Trong phần này chúng tôi chú trọng
vào điểm 1 và 2. Hai điểm 3 và 4 chỉ là
những mệnh lệnh chỉ dẫn cho cán bộ và tay sai cuả Cộng Sản trong và ngoài
nuớc đang học tập để thi hành nghị quyết.
Điểm 1. Đai đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc có hay không?
A. Đối với người tị nạn.
Cho tới nay chưa bao giờ đảng cộng sản Việt Nam
và nhà cầm quyền thực sự muốn có chủ trương thực hiện đại đoàn kết với người
gốc tị nạn.
Người Việt ở nước ngoài h́nh thành do nhiều
đợt:
Đợt 1- Tháng tư năm 1975 đă mở đầu cho việc
h́nh thành cộng đồng người Việt Quốc gia tị nạn. Những người bỏ nước ra đi
là những người tị nạn cộng sản , không những là quân cán chánh phục vụ dưới
chính thể cộng ḥa, mà c̣n có các tư chức, thương gia,
người hành nghề tự do, chuyên viên mọi
ngành. Nhóm này đă mau chóng gây dựng lại cuộc đời qua nhiều cố gắng, con em
họ đă thành công mỹ măn trong đủ phương diện .
Đợt 2- Nhóm thứ hai ào ạt ra đi trong thời
gian sau đó được thế giới mệnh danh là thuyền nhân tị nạn đă tạo nên một
thiên lịch sử đầy nước mắt, đă là nhân chứng của tai họa cộng sản trên đất
nước Việt Nam.
Hai nhóm trên không nhận thông hành cũng như
chiếu khán xuất ngoại của chính thể cộng sản và luôn luôn bị coi như phạm
tội xuất ngoại bất hợp pháp, dành cho họ một án tù ba năm có thể thi hành
bất cứ lúc nào, dù mang quốc tịch và thống hành nước khác.
Đợt 3- Đoàn tụ gia đ́nh phần nhiều do người tị
nạn bảo lănh, nhóm này mang thông hành của VNXHCN và được họ coi như xúât
cảnh hợp pháp nên ít bị khó dễ khi trở lại V.N. Những người này không hề
phủ nhận tính cách tị nạn do liên hệ với người tị nạn đă bảo lănh họ.
Đợt 4- Nhóm di dân vào Canada để đầu tư (rất
hiếm và hầu như là người của đảng gởi ra) và những cán bộ cộng sản trà trộn
trong số người vượt biển hay đoàn tụ gia đ́nh. Nhưng nhóm này không thành
công bao nhiêu trên phương diện kinh tế và học vấn. Con số du học 25 ngàn ra
nước ngoài chỉ có vài ngàn người trở về đă chứng minh sự thất bại của cộng
sản.
Chính thể C.S. và tay sai của chúng luôn luôn
chú trọng tới những người hoạt động trong các hội đoàn quốc gia tại nước
ngoài v́ những người này không bao giờ chấp nhận chính thể Cộng Sản cũng như
lá cờ đỏ sao vàng. Biểu tượng của họ bao giờ cũng là lá cờ vàng ba sọc đỏ
tượng trưng cho Quốc gia Việt Nam.
Kinh nghiệm qua những lần kêu gọi đoàn kết
trong quá khứ, đoàn kết với Việt Cộng là chấp nhận tự sát, tự tiêu diệt .
Người Việt ở nước ngoài dù trong thành phần nào chỉ nhận đoàn kết khi Đảng
Cộng Sản giải thể.
Cho tới nay CSVN bao giờ cũng chỉ nhằm lừa
phỉnh đối phương chấp thuận các đề nghị và ư kiến của CSVN. Khi ve văn
người tị nạn, mục đích chính của CS cũng chỉ muốn người tị nạn đầu hàng,
ngoan ngoăn mang tiền, mang sức về giúp nước vô điều kiện , cúi đầu trước
một chính thể độc tài.
B. Đối với người dân trong nước
CSVN không thực hiện chính sách đoàn kết với
chính nhân dân đang phải sống dưới quyền thế của đảng.
Họ chia rẽ kinh thượng, đàn áp dân tộc thiểu
số, đàn áp người thực hành tôn giáo, giam giữ, đàn áp những người khác chính
kiến, và bao nhiêu chính sách kỳ thị, đảng viên được ưu quyền, dân chúng bị
áp bức bóc lột tự do.
Vậy đâu là ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Khi Đại đoàn kết dân tộc không có, các danh
từ hoa mỹ theo sau như: ư thức dân tộc, ḷng yêu nước, niềm tự hào dân tộc.
v.v. đều chỉ là những chiêu bài suông nhằm đi tới một chữ đại đoàn kết giả
tạo và có tính cách giai đoạn.
Việt Nam ngày nay chỉ có hai thành phần,
thành phần thống trị là đảng Cộng sản
và nhân dân bị trị
Như vậy, làm sao có thể thực hiện được đại
đoàn kết trong nước, c̣n nói ǵ tới đại đoàn kết ở hải ngoại.
Điểm 2
Người Việt Nam nước ngoài là nguồn lực :
Người Việt Nam nước ngoài quả là một nguồn lực.
Nói ra điều này Bộ Chính trị nhận xét dân sống trong nước không phải là một
nguồn lực khác hay sao; điều đó chứng tỏ CSVN coi thường khối 80 triệu dân
trong nước.
Dân tộc ta vốn can đảm và cần cù. Nếu có Tự do,
Dân chủ và có quyền tư hữu cũng như có một xă hội dân sự tôn trọng mọi tự do
căn bản , nhân dân ta chắc chắn sẽ vươn mạnh trên phương diện phát triển
không thua kém ǵ các nước khác trong vùng Á Châu. Nhưng tiềc thay Nhà nước
xă hội chủ nghĩa không cho nhân dân các quyền tự do căn bản, đẻ tự phát
triển khả năng làm dân giầu nước mạnh như khối người Việt Nam hải ngoại đă
thành công.
Cộng sản Việt Nam không thể coi nguồn nhân lực
và tài lực này là một sức mạnh phục vụ họ.
Tóm lại nguồn lực tị nạn, tinh thần và vật
chất, chỉ dùng để mang lại cho nhân dân Việt Nam một chính thể tự do dân chủ
phú cường, không bao giờ có thể được dùng để giúp đỡ một thể chế độc tài đă
xô đẩy họ ra nước ngoài và nhuc mạ họ lúc ban đầu, nay bắt đầu bợ đỡ để nhằm
lợi dụng.
Hai điểm 3 và 4 của phần II Nghị Quyết, chủ
trương và phương hướng công tác đối với người Việt nước ngoài vô hy vọng
thực hiện, tai không cần bàn đến mà chỉ mong mỏi người Việt gốc tị nạn đừng
dại dột mắc lưà một lần nữa..
Các điểm này chỉ hoàn toàn lien quan tới các tổ
chức của bạo quyền và tay sai, và mặc nhiên thú nhận từ bao năm nay cán bộ
và tay sai chúng tại nuớc ngoài cũng như trong nước bất lực, c̣n chứa chấp
nhiều mâu thuẫn và tranh dành quyền lực khi vận động người nước ngoài.
Nhận định Phần III của Nghị Quyết 36
1- Chính đảng Cộng Sản, thủ phạm gây nên
quốc nạn bằng chính sách trả thù, hạ nhục kẻ thua trận, nhốt tù cải tạo,
cưỡng bách đi kinh tế mới, đốt sách, xét theo lư lịch... là nguyên nhân của
phong trào vượt biên, h́nh thành cộng đồng Việt nam hải ngoại với một tiềm
lực quan trọng như ngày nay
Ngay từ những ngày đầu tiên, khi mới chân
ướt chân ráo đến định cư tại các nước trên thế giới, người Việt hải ngoại dù
cuộc sống c̣n khó khăn, đă chi viện cứu nguy cho thân nhân trong nước, bù
đắp lại t́nh trạng phá sản đang làm kiệt quệ đất nước. Ngày nay nhờ sự cần
cù, người Việt hải ngoại có mức sống cao hơn gấp bội, tiền gửi về trong
nước lên tới gần 3 tỷ hàng năm, phần đóng góp cho lợi tức toàn dân không
phải nhỏ.
Chỉ có những kẻ vô liêm sỉ như cộng sản
mới ngang ngược tuyên bố hỗ trợ ổn định cuộc sống của gần ba triệu người hải
ngoại, mà lợi tức cao hơn 80 triệu người trong nước.
Ngoại giao cộng sản có thể đảm bảo tư
pháp và quyền lợi người Việt hải ngoại ư? Hầu hết chúng ta đều có quốc tịch
các nước nơi cư ngụ, quyền làm người và quyền công dân được bảo vệ như bất
cứ một công dân nào khác trong nước định cư. Thảng hoặc có một vài trường
hợp kỳ thị, chúng ta có thừa đủ khả năng để bảo vệ nhân phẩm của ḿnh. Cộng
Sản hăy thực thi công bằng xă hội, xóa bỏ kỳ thị ở trong nước, bằng cách trả
lại cho dân các quyền lợi chính đáng về tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí,
lập hội ...
Mặc dù hiến pháp xác định tự do cư trú đi
lại là quyền căn bản của con người, nhưng CS bắt buộc người về thăm nhà phải
có chiếu khán visa nhập cảnh, khai báo lư do khi xuất ngoại. Tại sao phải cụ
thể hóa, hoàn thiện nhập cảnh, tạo sao bây giờ mới chocư trú, đi lại trong
nước theo hướng thông thoáng, thuận tiện và đơn giản. Điều ǵ đă xảy ra khi
trước? Cư ngụ trong nước phải khai hộ khẩu, cán bộ hải quan làm tiền hối lộ
như một thủ tục đương nhiên, giá cả dịch vụ hàng hóa không đồng đều cho
người trong và ngoài nước, sửa bỏ những tệ đoan ấy đâu có phải là một đặc ân
cho Việt kiều?
Làm ra vẻ dân chủ, CS dự trù h́nh thức thu
thập ư kiến đồng bào nước ngoài, Với gần ba triệu người Việt hải ngoại, nếu
CS dám hỏi ư kiến, họ sẽ thấy ngay đâu là ư dân, nếu CS dám trưng cầu dân ư
trong nước, họ sẽ thấy đâu là ư Trời.
2- Nghị quyết của Bộ Chính Trị dự trù hoàn
chỉnh chính sách thu hút chất xám về phục vụ cho chúng, vẫn là chính sách ve
văn những kẻ hoặc dễ tin, hoặc ham danh hám lợi.
Với chuyên viên, nào là đăi ngộ thỏa đáng,
nào là trọng dụng nhân tài. Từ đầu thập niên 90, CS kêu gọi nhiều lần, đă có
bao nhiêu chuyên viên về nước. Nhiều người nhận thấy tận mắt nạn bè phái
độc tài tồi tệ nên bỏ ra đi, ngay cả những kẻ qùy gối cũng đâm chán nản. Nay
CS rêu rao đăi ngộ các ngành quản lư, công nghệ, kỹ thuật, văn hóa, nghệ
thuật, chứng tỏ không c̣n bao nhiêu chuyên viên có tŕnh độ cao đem tài năng
của ḿnh ra phục vụ đảng, những kẻ tự cho ḿnh đứng trên nhà nước. Riêng các
ngành khác thuộc về khoa học nhân văn, xă hội, chính trị ... CS tuyệt đối
đóng kín cửa.
Các phương thức nhằm mở rộng hợp tác, sử
dụng các chuyên gia Việt hải ngoại tham gia làm việc cho chương tŕnh đa
phương hoặc song phương giữa VN và ngoại quốc cũng vậy, lợi dụng chuyên viên
rồi vắt chanh bỏ vỏ, đó là nghệ thuật của cộng sản VN, và đó cũng là lư do
hai chục năm nay, chuyên gia không đáp lời kêu gọi dụ dỗ của cộng sản
Theo dơi t́nh h́nh trong nước, ai cũng biết
là t́nh trạng đầu tư chất xám là yếu tố quan trọng, chỉ có tự do thật sự
sáng tạo, kiến thức mới phát triển, chỉ khi nào quyền lợi quốc
gia đặt trên quyền lợi của tổ quốc, trí
thức mới phát huy được. Hăy đăi ngộ trí thức trong nước trước, nhân tài hải
ngoại không cần ân huệ đặc biệt nào của đảng, chỉ muốn làm việc trong một
môi trường tự do.
3- Thu hút đầu tư kinh doanh vào Việt Nam.
Khi chiếm miền Nam xong, CS đă đưa cả nước
đến bên bờ vực thẳm của phá sản, măi tới 1986 họ mới nh́n ra sự thua kém của
chủ nghĩa xă hội và đưa ra chính sách đổi mới nhắm vào tư bản ngoại quốc.
Sau này nhận thấy tiềm lực kinh tế của cộng đồng VN hải ngoại, họ xoay chiều
dụ dỗ người Việt hải ngoại. Họ chú trọng các h́nh thức đầu tư, kinh doanh
quy mô vừa và nhỏ do người VN nước ngoài trực tiếp thực hiện, phải chăng v́
đầu tư nước ngoài sút giảm?
Những người nào quên đi chính sách vơ vét dụ
dỗ từng bước rồi khống chế khi đă cất cánh, có thể sẽ sa vào cái bẫy tuyên
truyền, v́ CS không có thông tin mà chỉ có tuyên truyền.
Thấy người Việt gửi tiền về nước giúp bà
con, họ lập ra chính sách kiều hối, có nghĩa là mở thêm cơ sở đổi tiền,
chuyển tiền với lệ phí nhẹ, để chuyển tiền của tham nhũng vào các ngân hàng
ngoại quốc, sử dụng thân nhân và tay sai vào các dịch vụ chuyển tiền này.
Mải đến ngày nay, Cộng Sản mới hứa hẹn với
người về đầu tư sẽ xử lư đúng theo pháp luật, nghĩa là từ trước không có
luật lệ đàng hoàng nên chúng phải tạo môi trường pháp lư ổn định để người
nước ngoài yên tâm.
Thực ra môi trường pháp lư của CS phải sửa
đến tận căn tận rễ, đó là băi bỏ hiến pháp và trả quyền lại cho dân.
4- Cộng Sản phải đổi mới và đa dạng hóa các
phương thức vận động người hải ngoại, v́ CS đă nhận ra rằng những h́nh thức
tuyên truyền cũ thiếu hiệu quả, cần phải có những tṛ khác để lôi kéo người
Viêt hải ngoại, nhất là người trẻ tuổi. Chúng cả tin vào sự nhẹ dạ vô tâm
của người dân, đánh giá thấp người biết suy nghĩ, bằng cách mở rộng tiếp xúc
cả với những người mà chúng gọi là c̣n định kiến, mặc cảm.
Chúng sẽ đưa ra những h́nh thức vận động
mới, tập hợp mới, hỗ trợ các hội ái hữu, văn nghệ, chúng giấu mặt cài người
vào thao túng, tài trợ cho những tay sai chưa lộ nguyên h́nh, chúng sẽ mua
chuộc những người mệt mỏi.
C̣n đợi ǵ nữa, những ai tự nhận thấy ḿnh
bị CS gọi là định kiến, mặc cảm, những ai bị cộng sản bạo hành ngược đăi, mà
không tổ chức những buổi đối chất công khai với cán bộ đảng. Phái đoàn liên
ngành cộng sản khỏi phải thậm thụt, chui lánh cửa sau vào pḥng họp.
5- Giáo dục.
Biết rằng phần đông người Việt hải ngoại đều
cho con em học thêm tiếng Việt, CSVN muốn xâm nhập kiểm soát các lớp học
tiếng Việt để khéo léo tuyên truyền cho chế độ khi trí óc các em c̣n non nớt
Chúng c̣n sử dụng truyền h́nh, phát thanh, internet là những phương tiện
thời đại để thu hút thế hệ trẻ, tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh
thiếu niên.
Làm thế nào chống lại các phương thức thâm
độc này.
Hăy cẩn thận xem xét nguồn gốc các sách giáo
khoa dùng trong các lớp Việt ngữ .
Người Việt hải ngoại phải lập hệ thống giữa
các trường dạy tiếng Việt, kết hợp , bàn thảo về những sách giáo khoa sử
dụng. Đoàn thể giáo viên sẽ hợp thành sức mạnh để ngăn chặn âm mưu xâm nhập
của CS vào lănh vực dạy tiếng Việt.
Phụ huynh cũng phải để ư đến nội dung bài vở
các em được dạy tại trường, phát giác những ǵ đáng nghi hoặc.
Các cơ quan tổ chức lớp học, các cộng đồng
địa phương cũng cần kiểm soát nội dung các chương tŕnh dạy dỗ.
Nghệ thuật và thể thao
Cần phải cảnh giác đối với việc CS đưa các
đoàn nghệ thuật, thể thao ra nước ngoài biểu diễn, để gài bẫy người VN ham
vui nhẹ dạ. Thứ nhất những buổi ra ngoại quốc tŕnh diễn của các đoàn này
nằm trong chính sách của CS, chứ không phải thuần túy văn nghệ, thương mại,
vô hại như những người tổ chức thường than văn minh oan. Thứ hai những đoàn
ra nước ngoài phải được bộ Văn Hóa, Thông Tin hay bộ Ngoại Giao giới thiệu,
những đoàn này c̣n được chi viện cho xuất ngoại, lại được giảm giá vận
chuyển, máy bay tới 50%.
Vụ Cộng Đồng Ḥa Lan chống bọn văn công CS
thành công là một thí dụ rơ ràng nhất. Gần đây cuộc thi hoa hậu áo dài và
tŕnh diễn ca nhạc ngày 14-8-2004 tại thành phố Cloppenburg miền bắc nước
Đức do sứ quán CSVN và một số tay sai tổ chức đă bị đồng bào nhất loạt tẩy
chay khiến buổi tổ chức bị thất bại thê thảm, tổng cộng cả số khách mời chỉ
có 50 người tham dự kể cả trẻ em, trong một hội trường 600 chỗ ngồi!
Về sách báo, giao lưu văn hóa
Trên thực tế, sản phẩm văn hóa không tự do
nhập nội, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam kém văn hóa không hiểu thế nào
là giao lưu, chỉ muốn áp đặt lên hải ngoại những sản phẩm văn hóa được chế
độ cho phép, nhưng không dám để cho người dân trong nước thưởng thức những
sản phẩm tinh thần của người Việt tự do.
Miệng nói văn hóa, nhưng Cộng Sản cấm đọc
sách, đốt sách, dựng tường lửa ngăn chặn thông tin văn hóa trên internet,
hành động ấy chỉ là hành động của bạo tặc.
6- Có lẽ CS muốn dồn sức lực mạnh mẽ và
toàn diện vào tuyên truyền. Chúng sử dụng các phương tiện truyền thông phát
thanh, truyền h́nh, internat, báo chí, thư viện. Công tác này được xúc tiến
đồng đều trong tất cả các cơ sở truyền thông trong nước và ngoài nước.
Bên ng̣ai, Cộng Sản sẽ dốc tiền bạc trong
quỹ hỗ trợ người Việt hải ngoại của chúng để thuê mướn tay sai bồi bút viết
những đề tài vô bổ. Những phát biểu của đám đàn em nịnh bợ này nếu phù hợp
với CS thi được yểm trợ. Chúng cho tay sai ngụy trí thức, cựu quân cán
chính miền Nam đă đầu hàng chúng đánh phá những vụ lên tiếng chống giao lưu
văn hóa một chiều, chúng không trực tiếp ra mặt, cho người xâm nhập khuynh
đảo, lung lạc tinh thần đấu tranh của người hải ngoại hầu giảm mối nguy cơ
cho ngụy quyền Hà Nội
Chúng sẽ áp đảo các tổ chức đấu tranh nhân
quyền tự do dân chủ, v́ kém phương tiện. Bạo quyền sẽ dùng truyền thông chửi
bới, vu khống bất cứ ai có quan điểm trái ngược với chúng, đánh phá bất cứ
hành động nào chúng thấy nguy hại cho chúng.
Nhưng cuối năm 2003 vừa qua, đài truyền
h́nh sắc tộc SBS Úc Châu chiếu chương tŕnh thời sự của CSVN đă bị cộng đồng
Úc bẻ gẫy kế hoạch xâm nhập tuyên truyền.
Thực ra, chính người dân trong nước cần
được thông tin, trau dồi kiến thức và cung cấp văn hóa phẩm lành mạnh tự do,
chứ không phải hải ngoại
7- Chính sách thưởng phạt
Ai là người muốn nhận khen thưởng của kẻ
cướp đất, cướp của miền Nam. Nếu cần khen, phải khen những tổ chức đóng góp
xây dựng đất nước, như các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ tại
Việt Nam, những người có thành tích là những người hoạt động cho cộng đồng
giữ được bản chất tỵ nạn, tŕnh bày với thế giới tội ác của CS.
Thật là quá quắt, CS hù dọa sẽ có biện pháp
với những người chúng gọi là cố t́nh đi ngược lại lợi ích của dân tộc, phá
hoại quan hệ giữa các nước khác và Việt Nam hoặc gây chia rẽ trong cộng
đồng.
Thế nào là đi ngược lại lợi ích của dân
tộc? Bảo rằng anh độc tài đảng trị 50 năm rồi, hăy trả lại quyền sống cho
dân, bảo rằng anh bắt người giam giữ trái phép, bảo rằng anh tham nhũng, bảo
rằng các anh có tội với Tổ quốc ... là đi ngược với lợi ích dân tộc sao. Một
nửa thế kỷ nay, chính bè đảng Cộng Sản VN đi ngược lại lợi ích dân tộc, hôm
nay c̣n mạnh miệng trâng tráo đe dọa người đối lập.
Thế nào là phá hoại quan hệ nước ngoài
với CSVN? Biểu t́nh phản đối CS sát nhân trước quốc hội là phá hoại chăng,
nếu vi luật sao cảnh sát các nước liên hệ không giải tán, mà phải chờ CS ra
tay. Mười ngàn người biểu t́nh bên Úc chống phát h́nh chương tŕnh thời sự
do CS cung cấp, chính trị bộ của Phan Diễn có dám cho công an bắt giam vào
các trại tù không.
Ai chia rẽ cộng đồng, chính cộng sản và
tay sai là thủ phạm, dùng tiền bạc khuấy động phân tán người Việt hải ngoại.
Chúng sẽ có biện pháp nào. Bôi nhọ, vu khống, thuê bồi bút đánh phá, thuê
người hành hung, dàn cảnh đụng xe, ám sát ...
Đe dọa người Việt hải ngoại, hiển nhiên CS
can thiệp vào chủ quyền nước khác, xâm phạm quyền công dân của người Việt
hải ngoại. Chúng ta phải tố cáo cơ quan an ninh sở tại để xin bảo vệ.
Thí dụ mới nhất là một đồng bào sinh sống
tại Đức quốc đă gửi thư cho cảnh sát tŕnh bày lo ngại trước sự đe dọa của
CS, ông lấy ví dụ ngày trước, mật vụ Đông Đúc đă theo dơi ám hại, dàn cảnh
đụng xe để trừng phạt những người Đông Đức trốn khỏi bức tường Bá Linh sang
sống bên Tây Đức. Hiện Cảnh sát Đức đă ghi nhận sự việc và mời ông đến để bổ
túc thêm dữ kiện
8- Chỉ thị của Bộ Chính trị,
Các tổ chức đảng trung ương và điạ phương
trong nước và ngoài nước phải tham gia vào công tác. Ủy ban về người Việt
Nam ở nước ngoài có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan.
Đáng chú ư hơn cả, CS chỉ thị đảng viên củng
cố và phát triển các tổ chức xă hội, như hội liên lạc với người Việt nam ở
nước ngoài, các hội thân nhân kiều bào và các h́nh thức tập hợp khác mà
chúng chưa tiết lộ. Đồng bào hải ngoại cần tỉnh táo nhận xét từng tổ chức
này, khi họ đến với chúng ta, ư đồ và cách thức hoạt động. Có người đề nghị
tín hiệu để nhận dạng là coi xem các tổ chức này có chấp nhận biểu hiệu tỵ
nạn là lá cờ vàng ba sọc đỏ hay không.
Cuối cùng Bộ Chính Trị chỉ thị các cơ quan
ngoại giao thi hành nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền phổ biến chính sách của
đảng và nhà nước. Nhiệm vụ chính trị là ǵ, có phải các ṭa đại sứ sẽ sách
động người Việt ngả theo quan đ́ểm của CS trong các cuộc bầu cử, trưng cầu
dân ư hay các sinh hoạt quan trọng khác tại các nước người Việt cư trú
chăng, biến cộng đồng tị nạn thành cộng cụ ngoại vận của chúng ở hải ngoại.
9- Quyết Nghị chỉ thị trao trách nhiệm chính
cho Ủy Ban về người Việt nam ở nước ngoài
kiện toàn tổ chức, biên chế và phương tiện
hoạt động, bằng cách tăng cường kinh phí và cán bộ tại các cơ quan ngoại
giao, và tại một số bộ, tỉnh thành phố trong nước.
Hiện nay Ông Nguyễn Phú B́nh mới được cử làm
Chủ Nh́ệm Ủy Ban nay thay thế Nguyễn Đ́nh Bin.
Người Việt tị nạn không những phải theo dơi
từng bước của ủy ban này, mà c̣n chú trọng đến các tổ chức ngoại vi của tổ
chức cộng sản, liệt kê ở phần dưới.
NGHỊ QUYẾT 36
Phần IV - Tổ chức thực hiện
1- Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao phối hợp với
Ban cán sự đảng ngoài nước và các ban, ngành liên quan, UBT.Ư MTTQ Việt Nam,
các tổ chức và đoàn thể nhân dân tổ chức phổ biến rộng răi nghị quyết này
đến cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong nước và đến cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài.
2- Ban cán sự đảng Chính phủ cụ thể hóa nội dung
nghị quyết thành chương tŕnh hành động, các cơ chế, chính sách, chỉ đạo các
bộ, ngành, địa phương thực hiện.
3- Dảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính
phủ căn cứ vào nội dung nghị quyết, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp
quy có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
4- Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các ban Trung ương Đảng có kế
hoạch thực hiện Nghị quyết. Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao chủ tŕ cùng Ban
cán sự đảng ngoài nước giúp Ban Bí thư và Bộ Chính trị theo dơi việc thực
hiện Nghị quyết. Ban Bí thư tổ chức kiểm tra, định kỳ nghe báo cáo về t́nh
h́nh và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Nhận xét phần IV của Nghị quyết 36
Trong phần IV về tổ chức và thực hiện, Nghị
Quyết củ Bộ Chính Trị chỉ đề cập đến các bộ phận của đảng các cấp, bộ với
các nhiệm vụ:
- phổ biến rộng răi nghị quyết đến mọi tầng
lớp,
- soạn thảo chương tŕnh hành động,
- hoàn thảo các văn bản pháp quy áp dụng
nghị quyết
- thực hiện nghị quyết, kiểm tra và báo cáo
định kỳ.
Được trao phó thi hành nghị quyết là
thành phần ṇng cốt chủ động của đảng đứng bên trong các cơ quan chính
quyền, các tổ chức trá h́nh, nhưng người Việt tị nạn sẽ không gặp ai tự xưng
là cán bộ của đảng. Chúng ta sẽ gặp một người có vẻ tử tế, một nhà hảo tâm,
một nhà văn nhà báo, một nhà khoa học v.v... họ có thể thực tâm, nhưng CS có
đầy dủ mưu chước vận dụng và lợi dụng cho mục tiêu của đảng..
Chúng ta c̣n biết rằng, ngoài Ủy ban về
người Việt nam ở nước ngoài, do Thứ trưởng Ngoại Giao làm Chủ Nhiệm, Cộng
Sản Việt Nam đă thành lập các cơ cấu mang tính cách tư nhân để tránh bị tố
cáo là gián điệp. Xin kể vài tổ chức:
- Ủy ban Vận Động Thành Lập Hội Liên lạc
Người Việt Nam ở nước ngoài do ông Nguyễn Văn Đạo làm chủ nhiệm. Ủy ban này
có nhiệm vụ thành lập ít nhất là một hội tại mỗi thành phố lớn cũng như tại
mỗi tỉnh để làm công tác vận động Việt kiều.
- Qũy Hỗ Trợ Vận Động Người Việt Nam ở nước
ngoài, với ngân khoản đầu tiên là 7000 tỷ đồng ( khoảng nửa triệu Mỹ Kim).
Đây là một tổ chức có nhiệm vụ đánh phá người Việt nước ngoài. Chiêu bài
mang tên hỗ trợ, nhưng thâm ư là đánh phá người Việt hải ngoại. (Thật là trớ
trêu, trong lúc phần đông người dân Việt trong nước c̣n nghèo khổ, CS mang
tiền ra hỗ trợ người Việt hải ngoại!)
- Các hội thân nhân kiều bào, các h́nh thức
tập hợp khác phù hợp với ư nguyện và đặc điểm của cộng đồng ở địa bàn cư
trú.
Đứng trước các âm mưu có tổ chức hệ thống
hóa của CSVN, chúng ta cần phải thận trọng nhận định giữa bạn và thù.
Kết luận
Chúng ta phải làm ǵ
Ngoài việc tiếp tục đấu tranh cho
tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương, chúng ta c̣n có trách nhiệm :
Về văn hóa, giáo dục thể thao
Hăy phát giác và tố cáo khi có các
lớp học hay cơ sở văn hóa phổ biến sách báo tuyên truyền của Cộng sản, giảng
giải lịch sử Việt nam cho con em, phản bác lại các tài liệu lịch sử đă bị
cộng sản bóp méo.
Mỗi khi có một hoạt động nào xuất
hiện hăy t́m xem ai là người chủ trương, do nguồn tài chính nào, mọi điểm
nghi ngờ đều được nêu lên, nhưng tuyệt đối tránh các kết luận vội vă và
thiếu chứng cớ để tránh gây chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia do t́nh trạng
chụp mũ xuyên tạc.
Chấp nhận các văn nghệ sĩ độc lập
hoạt động với tính cách cá nhân và không phổ biến các bài hát hay văn hóa
phẩm tuyên truyền. Tẩy chay các sinh hoạt văn nghệ, văn hóa, thể thao của
các phái đoàn chính thức hay bán chính thức do Cộng sản chủ tŕ để tuyên
truyền.
Về xă hội
Đồng bào nếu v́ lư do gia đ́nh hay
cá nhân dù dưới h́nh thức nào, đi về thăm nhà tại Việt Nam vẫn nên dành một
phần ư thức trách nhiệm cho chính nghĩa của tập thể tị nạn, mỗi khi trở về
môi trường hải ngoại khi nói đến phần tích cực trong các dịch vụ vui chơi
giải trí, sự phát triển đô thị v.v.. tại Việt nam, nên cho đồng bào ngoài
nước biết đến khía cạnh tiêu cực của xă hội trong nước: đa số sống trong
nghèo đói bên sự ăn chơi sa đọa của tầng lớp cán bộ và các con ông cháu cha,
t́nh trạng nghéo đói của đời sống dân quê v.v...
Tóm lại Cộng Đồng Việt Nam hải
ngoại hơn lúc nào hết phải tích cực đề cao cảnh giác, phát triển tối đa khả
năng đoàn kết, nh́n chung vào mục tiêu dành tự do dân chủ cho xứ sở và sẵn
sàng đối phó với mọi âm mưu chia rẽ và phá hoại đời sống tinh thần của chúng
ta.
Các biện pháp nêu ra ở trên chỉ là
phần nhỏ để đối phó với các tác hại của Nghị Quyết 36, chúng tôi tin rằng
đồng bào hải ngoại sẽ không thiếu sáng kiến để cùng nhau đóng góp mỗi khi
Cộng sản hành động. Được vậy chúng ta tin chắc sẽ vô hiệu hóa mọi nỗ lực
thực thi NQ 36 này của Cộng sản.
Kính chào tin tưởng