ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON

NHẬN ĐỊNH và  CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ  

đối với 

NGHỊ QUYẾT số 36/NQ-TW

ngày 26 tháng 3 năm 2004

 của đảng Cộng Sản Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài

 

                                                              Biên soạn

Nguyễn Mậu Hoàng

Phạm Hữu Trác

Từ Uyên

Nhóm V́ Tổ Quốc ấn hành

                                                ------------------------------                                   

                                                         MucLục 

      - Tiến tŕnh h́nh thành cộng đồng người Việt tị nạn ..............................trang   3. 

- Phân I của Nghị Quyết - T́nh h́nh và công tác đối với người Việt ở nước ngoài trong thời gian qua ..................................................................................trang   6

- Nhận định phần I của Nghị Quyết ........................................................trang   7 

-         Phần II của Nghị Quyết : Chủ trương và phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài   trong thời gian tới .................................... trang    8

-    Nhận định phần II của Nghị Quyết ....................................................trang    9 

-         Phần III của Nghị Quyết: Nhiệm vụ chủ yếu ................................... trang   11 

-         Nhận định phần III của Nghị Quyết ................................................. trang   15 

       -  Phần IVcủa Nghị  quyết: Tổ chức thực hiện......................................  trang   19  

        - Nhận định phần IV của Nghị Quyết ..................................................  trang   20 

Kết luận ...........................................................................................   trang   21  

 

Tiến tŕnh h́nh thành cộng đồng người Việt tỵ nạn                         

Khởi điểm từ những ngày tháng 04-1975,  hai triệu người Việt Nam bắt buộc phải chọn con đường lưu vong,  khi đất nước bị bọn Cộng Sản, độc tài, bán nước, dày xéo và áp chế.

Người Việt tị nạn tưởng như đă thoát được ác mộng của những danh từ rỗng tuếch đảng, nhà nước và h́nh ảnh của những tên ngu xuẩn  độc ác nay ngự trị trên quê hương yêu mến.

Thế nhưng người tị nạn dầu đă xa đất nước để sống b́nh an, nay lại đang bị đe doạ bởi một biện pháp mới: NGHỊ QUYẾT 36 do Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) ban hành .

Nghị quyết này có dụng tâm rơ rệt nhằm lũng đoạn tinh thần và cuộc sống vật chất của chúng ta, những người tị nạn.

Đây không phải là lần đầu CSVN tỏ thái độ với người tị nạn đang sống tại các nước ngoài. Chúng tôi cần nhấn mạnh vào tính cách tị nạn của đại khối người Việt hải ngoại v́ không ai có thể  chối căi nổi : “Cộng đồng hải ngoại chính thức thành h́nh v́ bị Cộng Sản dồn vào thế phải ra đi, để tránh bị bạc đăi, khinh bỉ và hành hạ”. Người đi thoát năm 1975 phần lớn tự t́m cách ra đi, bị bạo quyền chụp cho danh từ đĩ điếm, tàn dư của Mỹ Ngụy v.v. Những danh từ hạ cấp nhất đă được bạo quyền và nhóm tay sai thuộc các hội Việt kiều thân Cộng sử dụng không ngừng để miệt thị những người Việt tỵ nạn  mà họ gọi là đĩ điếm chạy theo  liếm gót  chân tư bản đểtiếp tục sống một đời nô lệ tại xứ người.

Thành phần tỵ nạn ban  đầu dù bị khinh bỉ vẫn thản nhiên coi thường những lời thoá mạ, một mặt hy sinh làm đủ mọi công việc thấp kém nhất, đồng thời học hỏi thêm để tiến mau hơn trong việc tạo lập một đời sống khả quan hơn. Con cái họ được họ coi như tài sản quí báu nhất, và được cha anh hy sinh giúp đỡ theo đuổi một nền giáo dục khoa học và nhân bản tại các nước tạm dung. Sự hy sinh này đă đem lại kết quả mong muốn. số sinh viên, chuyên viên gốc tị nạn làm rạng danh cộng đồng khiến thế giới ngạc nhiên, thán phục.

Người Việt tị nạn không quên nhiệm vụ thương yêu những đồng bào cùng cảnh ngộ c̣n ở lại, đă mạnh bạo tố cáo trước quốc tế chính sách hành hạ tàn bạo dă man đối với tù nhân cải tạo, hành động này ít nhất cũng ngăn cản được cuộc “tắm máu” cộng sản định dành cho số phận của quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Ḥa. Người tị nạn dù ban đầu c̣n rất nghèo cũng cố gắng gởi thuốc men hay các thùng quà về giúp gia đ́nh kẹt lại .

Ngay khi có thảm cảnh Vượt Biển, người tị nạn đợt đầu đă tranh đấu trên nhiều lănh vực để những đồng bào tị nạn đang trải qua giai đoạn đầy gian khổ sớm tới định cư tại bến tự do.

Khi có chương tŕnh đoàn tụ gia đ́nh, cũng chính những người tị nạn hăng hái bảo lănh thân nhân ra khỏi nhà tù lớn của xă hội chủ nghĩa.

Tóm lại ngoại trừ các cán bộ và tay sai cộng sản, khối người Việt hải ngoại đều do tị nạn mà h́nh thành. Họ không phải là Việt kiều, họ dần dần nhập quốc tịch các nước đă nhận họ. Sống trong một xă hội dân sự, họ tiếp tục tranh đấu bất bạo động cho Tự Do, Dân chủ.

Cộng Sản Việt Nam ban đầu coi khinh người tị nạn, khi thấy họ thành công, bắt đầu nhập nhằng đặt tên mới cho họ là Việt kiều.  Tren thực tế, người tị nạn ngày nay  không c̣n là công dân cuả nước Việt Nam xă hội chủ nghiă, họ không bao giờ nh́n nhận chế độ Cộng Sản, không bao giờ thừa nhận đảng kỳ cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ của nước Việt Nam.  Hiến pháp áp chế của chế độ này, dựa theo lư thuyết “huyết thống”  vẫn coi họ và con cháu họ dù sinh ra tại ngoại quốc và có quốc tịch mới, cũng vẫn là người Việt Nam, dù không có qui chế công dân cuả nước độc tài này.

Trước những thành quả đó, và nhận thấy người tị nạn trở thành một lực lượng đối trọng với đảng Cộng Sản, chúng bắt đầu đổi chiến lược.

- Nguyễn ngọc Hà, một y khoa bác sĩ ở Pháp về, cuối thập niên 70 đă đưa ra một chính sách mua chuộc. Nhưng không thu hút được ǵ. Thời gian này các  đợt vượt biên c̣n đang là những mối bận tâm chính của người Việt tị nạn.

- Cộng Sản Việt Nam bắt đầu đổi tên nhóm tị nạn đáng khinh ban đầu thành khúc ruột ngàn dặm nhằm mục đích moi rút tiền bạc của họ, nhưng chưa cổ vơ về thăm quê hương v́ c̣n nghèo khó lắm Hoa kỳ mới hủy bỏ cấm vận nhưng chưa trao đổi ngoại giao, mọi cuộc đầu tư chưa có. Kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa chưa có..

- Nguyễn ngọc Trân một trí thức ở Pháp về được cử phụ trách việc thu hút người Việt tị nạn được mang danh mới là Việt kiều. Một đại hội Việt kiều năm 1993 được tổ chức tại Saigon, nhưng chẳng mang lại kết quả ǵ. Các tham dự viên như Ph Bá L, Bùi KiệnT, Nguyễn Văn N, đa số là những tay sai hoặc thành viên của các hội Việt kiều yêu nước do CSVN dựng nên, khi phát biểu ư kiến ca tụng chính sách mới của đảng, nhưng cũng không quên than thở về sự đăi ngộ không công bằng ngay với chính họ, dù được CSVN coi là thành phần trung thành.

- Sau đó Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài ra đời và do hai Thứ trưởng trực thuộc bộ ngoại giao là Nguyễn đ́nh Bin và Nguyễn phú B́nh phụ trách, tờ Quê Hương do Hoàng B́nh rồi Đặng trần Phong làm Tổng biên tập ra đời để thông tin cho người Việt nước ngoài , tờ này tỏ ra ôn hoà, chỉ nhằm đưa ra những h́nh ảnh đẹp cuả phong cảnh, dấu tích lịch sử cổ truyền nhằm thu hút người Việt muốn nh́n lại phong cảnh quê hương. Tờ Quê hương cũng ca tụng những người về kinh doanh buôn bán, tuyệt nhiên không đả phá người tị nạn.  .

Năm 2001, Mặt trận Tổ quốc và Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài đă ban hành qui chế phối hợp hoạt động trong công tác vận động người Việt nước ngoài. Đối tượng vận động là:

.   công dân Việt Nam (những người có thông hành và hộ chiếu của CSVN),

.   người gốc Việt Nam đang cư trú tại nước ngoài (gồm cả người tị nạn),

.   thân nhân cuả người VN ở nước ngoài bao gồm: bố, mẹ đẻ, bố mẹ vợ hoặc chồng; vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi, anh, chị em ruột là người Việt Nam hoặc là người nước ngoài, không phân biệt thành phần giai cấp, tầng lớp xă hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, quá khứ, chính kiến.

- Nhiều người  nhẹ dạ tin rằng đă có đổi mới và về thăm lại quê hương, thăm gia đ́nh, cũng có người áo gấm về làng mong kiếm chút địa vị, hay t́m dịp ăn chơi, Đáng tiếc là khi trở lại nước ngoài, kẻ bị công an chiếu cố mời ra “làm việc”, kẻ bị thất bại  không được tin dùng, không dám nói lên sự thực, mà chỉ ca ngợi những phồn vinh giả tạo, để che dấu những đau khổ trải qua từ khi nhét tiền vào sổ thông hành tới khi bị cơ quan khu vực khống chế .

Tuy nhiên qua những lời thổ lộ kín đáo, qua hệ thống internet, qua các báo ngoại quốc và ngay qua các tờ báo lọt ra ngoài như Tuổi Trẻ, Công An, Pháp luật, cũng như những tờ báo chui, người Việt hải ngoại ai cũng thừa biết bộ mặt thật của xă hội càng ngày càng băng hoại, bạo quyền càng ngày càng tham nhũng và những người c̣n chút lương tri mới tỏ ư mong mỏi đôi chút dân chủ hay đa nguyên, đă bị đàn áp, tù đầy. cán bộ và quân đội ngày càng lộng hành, trong khi đó 80% nhân dân sống xa đô thị càng ngày càng nghèo khổ.

- Sự thực đó không qua mắt được người Việt bên ngoài, v́ vậy tới nay chính sách của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với Mặt trận Tổ quốc chỉ mới dụ dỗ được vài phần tử háo danh ham lợi, như trường hợp Nguyễn cao Kỳ, một thanh củi mục, chịu cúi đầu xin về hợp tác. 

Tuy nhiên khi trở ra hải ngoại và chắc chắn được hứa hẹn đôi điều, cây gỗ mục nát  này không những chẳng lôi kéo được ai, trái lại, c̣n bị tất cả mọi giới phủ nhận và khinh bỉ .

 Trước các thất bại chồng chất, lần này Bộ Chính trị nhập cuộc và giao cho Phan Diễn(*)  soạn thảo Nghị quyết số 36. Trận chiến chính thức khai mở trên b́nh diện lớn.

(*)  Phan Diễn là ai: Nhân vật thứ 15 trong Bộ Chính trị sau thời gian khá lâu hoạt động trong ban Bí thư, Phan Diễn con của Phan Thanh, và là cháu của Phan Khôi và Phan Bôi tức là Đại tá Hoàng hữu Nam. Hai vị này một vị chết đuối bí mật năm 1946 có lẽ khi giữ chức Trưởng phái bộ Việt Pháp năm 1945-46 đă biết quá nhiều nên bị thủ tiêu chăng. C̣n Phan Khôi, nhà văn hoá lỗi lạc bị thanh trừng trong vụ Nhân Văn, Giai phẩm, không bị thủ tiêu nhưng bị cô lập tới lúc chết già.

Phan Diễn trước đây chưa bị mang tiếng nhiều v́ tham nhũng, nhưng từ ngày lên Bộ Chính trị cũng bị tham nhũng làm mờ mắt. Được cử làm Bí Thư Thành Ủy Đà Nẵng ông đă mắc lưới tham nhũng trước tiền kiếm dễ dàng nơi hải cảng lớn nhất miền Trung này. Mới đây qua thơ tố cáo của Tướng Nguyễn Nam Khanh, ông bị cáo buộc có nhiều liên hệ với người Hoa để lập hệ thống tham nhũng. Phan Diễn có vợ kỹ sư học tại Liên Sô và hiện nay có hai con  đang du học tại Vancouver ( Canada ).

Nghị quyết số 36 do Phan Diễn soạn thảo nếu thành công, hắn có thể thăng chức tới Tổng Bí Thư, nhưng nếu không thành công, hắn sẽ không tránh khỏi số phận đă dành cho chú bác hắn là Phan Khôi và Phan Bôi.

Nghị quyết số 36 phải chăng là Chúc Thư Chính Trị của đời Phan Diễn?

 

                                                     *********

 

NGHỊ QUYẾT 36

 PHẦN I.

T́nh h́nh và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua.

1/ Hiện nay có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lănh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước công nghiệp phát triển, phần đông bà con ngày càng ổn định cuộc sống và hoà nhập vào xă hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, chính trị- xă hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm ngh́n người Việt Nam đă ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đ́nh, h́nh thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới.

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng t́m kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh nghiệp trong nước.

Nhiều trí thức có tŕnh độ học vấn và chuyên môn cao; một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan , cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở tại.

Mặc dầu sống xa Tổ quốc, đồng bào luôn luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc , giữ ǵn truyền thống văn hoá và hướng về nguồn cội , ḍng tộc, gắn bó với gia đ́nh quê hương . Nhiều người đă có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thành tựu to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá xă hội giữ vững sự ổn định chính trị-xă hội và không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của đất nước càng củng cố thêm niền tự hào dân tộc và tinh thần yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài, đông đảo bà con hoan nghêng công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của đảng và Nhà nước, mong muốn đất nước cường thịnh, sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đă về thăm gia đ́nh, quê hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật , thể thao, nhân đạo, từ thiện…T́nh h́nh trên là xu thế chủ yếu trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

 Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số nước c̣n khó khăn trong việc ổn địng cuộc sốnf, chưa được hưởng qui chế rơ ràng, thậm chí ở một số nơi c̣n bị kỳ thị. Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước. Một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam. Tính lien kết cộng đồng, sự gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng chưa cao. C̣n thiếu các biện pháp duy tŕ phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc: việc giữ ǵn tiếng Việt và bản sắc dân tộc trong thế hệ trẻ c̣n khó khăn.Nhu cầu giao lưu văn hoá giữa cộng đồng và đất nước, giữ ǵn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng là rất lớn và trở nên bức thiết, nhưng chưa được đáp ứng.Sự đóng góp cuả bà con vào công cuộc xây dựng đất nước nhất là về TRI THỨC chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người VN ở nước ngoài.

2/ Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đă đề ra nhiều chủ trương , chính sách rộng mở và biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về thăm đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học- công nghệ, hoạt động văn hóa - nghệ thuật. Công tác đối với người VN ở nước ngoài đă được đổi mới và đạt được những kết quả đáng kể cả trong và ngoài nước. Công tác thong tin văn hoá phục vụ cộng đồng từng bước được tăng cường, nhất là trong lĩnh vực phát thanh, truyền h́nh, qua mạng Internet .Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chính quyền địa phương và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đă có chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên các chủ trương, chính sách của đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa được quán triệt thực hiện đầy đủ. Công tác nghiên cứu, tham mưu về chính sách chưa theo kịp những chuyển biến mới. Công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Các chính sách ban hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC : chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước. Chưa có h́nh thức thoả đáng để cung cấp kịp thời và đầy đủ thong tin cho đồng bào về t́nh h́nh đất nước và chính sách của đảng và Nhà nước. H́nh thức vận động cộng đồng c̣n chưa thực sự đổi mới , đa dạng và linh hoạt để có thể quy tụ, động viên đông đảo bà con tham gia các hoạt động có ích cho cộng đồng và quê hương. Việc phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố tích cực, việc khen thưởng, động viên những người có thành tích ít được chú trọng.

Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trên là các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân chưa nhận thức thật sự đầy đủ và sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài , nhiều cấp ủy đảng và lănh đạo chính quyền các cấp chưa quan tâm đúng mức và chưa thường xuyên kiểm tra , đôn đốc việc thực hiện công tác này. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành lien quan giữa Trung ương và địa phương, giữa trong và ngoài nước c̣n thiếu chặt chẽ, các cơ quan trực tiếp làm công tác về người nước ngoài chưa được kiện toàn đủ mạnh, kinh phí c̣n hạn chế.

Nhận định phần I của Nghị quyết 36 

Qua phần I, điểm 1  cuả bản quyết nghị vừa dẫn chiếu chúng ta nhận thấy Cộng Sản Việt Nam đă đồng hoá người Việt tị nạn vào danh xưng mới: “người Việt Nam ở nước ngoài”.

 Người tị nạn không phải là Việt kiều và là một thành phần miễn cưỡng lưu vong. Nếu họ tạo được tiềm lực kinh tế là do công khó cuảhọ, vượt qua bao thử thách, không nhờ cậy và cũng không liên hệ ǵ tới Cộng Sản Việt Nam..

 Đúng là người Việt tị nạn yêu nước, các cán bộ cao cấp cộng sản nhận xét không sai, nhưng họ yêu một nước Việt Nam lành mạnh, dân chủ, yêu một xă hội dân sự, chúng tôi “không yêu nhà nước xă hội chủ nghĩa”

Người Việt tị nạn không bao giờ quên thân nhân c̣n ở lại trong nước, họ đă gởi nào tiền, nào thuốc, nào quà, thân nhân họ đâu có bị bỏ rơi.

Cộng Sản nói một bộ phận đồng bào chưa có dịp về thăm đất nước để thấy tận mắt những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước. 

 Với kỹ thuật thông tin hiện đại, với những thân hữu qua thăm nước ngoài, với những người đă có dịp thăm quê hương  về kể lại, qua các lời công kích, than phiền cuả chính các đảng viên có 50 hay 60 tuổi đảng, qua các bài viết cuả các văn nghệ sĩ, qua các vụ án một chiều, liên tiếp diễn ra, qua nhận xét cuả các vị trong ngoại giao đoàn Liên Hiệp Quốc hay qua chính các vị Đại sứ các nước sở tại mà chúng tôi đă được nhận làm công dân, sự thực về Việt Nam quá rơ, người Việt nước ngoài đă quá hiểu biết t́nh trạng đàn áp công an trị đối với nhân dân, cán bộ tham nhũng, dung túng ăn chịu với xă hội đen, đĩ điếm, ma túy, thậm chí xuất cảng phụ nữ vào các ổ điếm. Tội ác không kể xiết, vụ Năm Cam cả thế giới biết tiếng, vụ Bộ trưởng Lê huy Ngọ bị cách chức, vụ đầu độc tại đủ mọi cấp, vụ lá thơ của Vơ nguyên Giáp, lá thơ  của Nguyễn Nam Khánh, các bài viết cuả Nguyễn vũ B́nh, Phạm Hồng Sơn, Hoàng minh Chính, Phạm quế Dương, Nguyễn đan Quế đă cho toàn thể khối người tị nạn  thấy rơ t́nh h́nh.

  Nghị Quyết viết :  “Một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc đă chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa các nước sở tại với Việt Nam”.

Người Việt hải ngoại là công dân một nước sở tại, họ đóng thuế, bầu cử, đ̣i hỏi chính phủ của họ phải có thái độ, họ có quyền đi biểu t́nh chống lại bất cứ chế độ nào tỏ ra độc tài, phản dân chủ. Nếu họ biểu t́nh chống đối chế độ độc tài tại Việt Nam ngày nay v́ họ muốn “đem lại lợi ích chung” cho đất nước và từ phương xa họ vẫn đóng góp vào việc giải phóng quê hương khỏi ách độc tài qua những cuộc chơi đầy dân chủ.

Nếu cộng sản  cho rằng chế độ của chúng đem lại phúc lợi cho nhân dân, tại sao các cán bộ khi công cán ở nước ngoài  không dám đi cửa chính mà chỉ chui cổng hậu. Nếu đảng   thực sự do dân, v́ dân và bởi dân, việc ǵ phải sợ bị biểu t́nh chống đối.

Nếu Cộng sản than phiền Tri thức đóng góp cho đất nước c̣n ít th́ hăy Tiên trách kỷ hậu trách nhân.

Khi Cộng sản thực tâm yêu nước thương dân,  đem dân chủ nhân quyền, tự do, công bằng và bác ái cho nhân dân cả nước, thiếu ǵ chất xám sẽ trở về để đóng góp TRI THỨC cho đất nước 

Qua điểm 2 cuả phần I bản nghị quyết cho biết:

 “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng tị nạn chúng tôi là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc”.

  Người Việt tị nạn cộng sản nếu không bị cộng sản đàn áp sẽ không bao giờ muốn ra khỏi nước, và khi ra khỏi nước bắt buộc không thể chung sống với Đảng và Nhà nước xă hội chủ nghĩa, những người mà Cộng sản đánh giá cao sau khi hạ nhục hết lời nhất định không đầu hàng đảng và Nhà nước xă hội chủ nghĩa.

 

NGHỊ QUYẾT 36

PHẦN II  Chủ trương và phương hướng công tác đối với người Việt Nam

                 ở nước ngoài trong thời gian tới.

1-     Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở của sự đoàn kết là ư thức dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, làm cho dân giàu , nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất phát , địa vị xă hội, lư do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết dân tộc.

2-     Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng ngưới Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thong lệ quốc tế.

Đảng và Nhà nước mong muốn, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống, làm ăn thành đạt, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ ǵn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đ́nh và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa bà con sinh sống với nước nhà, tùy theo khả năng và điều kiện của mỗi người góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ động đấu tranh với các biểu hiệu cố t́nh đi ngược lại lợi ích chung cuả dân tộc.

3-     Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần mang chính sách đồng bộ. kết hợp việc xây dựng cơ chế , chính sách với công tác vận động , kết hợp các hoạt động trong nước với các hoạt động ở nước ngoài và phải được tiến hành qua nhiều loại h́nh hoạt động và biện pháp phù hợp với các đối tượng và địa bàn khác nhau, trên cơ sở tự nguyện và không trái với pháp luật, phong tục, tập quán của nước sở tại.

4-     Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ng̣ai nước và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc v́ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

 

 

Nhận định phần II của Nghị Quyết 36

 

Trong phần này chúng tôi chú trọng vào điểm 1 và 2. Hai điểm 3 và 4 chỉ là những mệnh lệnh chỉ dẫn cho cán bộ và tay sai cuả Cộng Sản trong và ngoài nuớc đang học tập để thi hành nghị quyết. 

 

Điểm 1. Đai đoàn kết dân tộc.

Đại đoàn kết dân tộc có hay không?

 

A.  Đối với người tị nạn.

Cho tới nay chưa bao giờ đảng cộng sản Việt Nam và nhà cầm quyền thực sự muốn có chủ trương thực hiện đại đoàn kết với người gốc tị nạn.

Người Việt ở nước ngoài h́nh thành do nhiều đợt:

Đợt 1- Tháng tư năm 1975 đă mở đầu cho việc h́nh thành cộng đồng người Việt Quốc gia tị nạn.  Những người bỏ nước ra đi là những người tị nạn cộng sản , không những là quân cán chánh phục vụ dưới chính thể cộng ḥa, mà c̣n có các tư chức, thương gia, người hành nghề tự do, chuyên viên mọi ngành. Nhóm này đă mau chóng gây dựng lại cuộc đời qua nhiều cố gắng, con em họ đă thành công mỹ măn trong đủ phương diện .

Đợt 2-  Nhóm thứ hai ào ạt ra đi trong thời gian sau đó được thế giới mệnh danh là thuyền nhân tị nạn đă tạo nên một thiên lịch sử đầy nước mắt, đă là nhân chứng của tai họa cộng sản trên đất nước Việt Nam. 

Hai nhóm trên không nhận thông hành cũng như chiếu khán xuất ngoại của chính thể cộng sản và luôn luôn bị coi như phạm tội xuất ngoại bất hợp pháp, dành cho họ một án tù ba năm có thể thi hành bất cứ lúc nào, dù mang quốc tịch và thống hành nước khác.

Đợt 3-  Đoàn tụ gia đ́nh phần nhiều do người tị nạn bảo lănh, nhóm này mang thông hành của VNXHCN và được họ coi như xúât cảnh  hợp pháp nên ít bị khó dễ khi trở lại V.N.  Những người này không hề phủ nhận tính cách tị nạn do liên hệ với người tị nạn đă bảo lănh họ.

Đợt 4- Nhóm di dân vào Canada để đầu tư (rất hiếm và hầu như là người của đảng gởi ra)  và những cán bộ cộng sản trà trộn trong số người vượt biển hay đoàn tụ gia đ́nh. Nhưng nhóm này không thành công bao nhiêu trên phương diện kinh tế và học vấn. Con số du học 25 ngàn ra nước ngoài chỉ có vài ngàn người trở về đă chứng minh sự thất bại của cộng sản.                                                           

Chính thể C.S. và tay sai của chúng luôn luôn chú trọng tới những người hoạt động trong các hội đoàn quốc gia tại nước ngoài v́ những người này không bao giờ chấp nhận chính thể Cộng Sản cũng như lá cờ đỏ sao vàng. Biểu tượng của họ bao giờ cũng là lá cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho Quốc gia Việt Nam.

Kinh nghiệm qua những lần  kêu gọi đoàn kết trong quá khứ, đoàn kết với Việt Cộng là chấp nhận tự sát, tự tiêu diệt . Người Việt ở nước ngoài dù trong thành phần nào chỉ nhận đoàn kết khi Đảng Cộng Sản giải thể. 

 Cho tới nay CSVN bao giờ cũng chỉ nhằm lừa phỉnh đối phương chấp thuận các đề nghị và ư kiến của CSVN. Khi ve văn  người tị nạn, mục đích chính của CS cũng chỉ muốn người tị nạn đầu hàng, ngoan ngoăn mang tiền, mang sức về giúp nước vô điều kiện , cúi đầu trước một chính thể độc tài.   

 B. Đối với người dân trong nước

 CSVN  không thực hiện chính sách đoàn kết với chính nhân dân đang phải sống dưới quyền thế của đảng.

Họ chia rẽ kinh thượng, đàn áp dân tộc thiểu số, đàn áp người thực hành tôn giáo, giam giữ, đàn áp những người khác chính kiến, và bao nhiêu chính sách kỳ thị, đảng viên được ưu quyền, dân chúng bị áp bức bóc lột tự do.

 

Vậy đâu là ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Khi Đại đoàn kết dân tộc không có, các danh từ hoa mỹ theo sau như: ư thức dân tộc, ḷng yêu nước, niềm tự hào dân tộc. v.v. đều chỉ là những chiêu bài suông nhằm đi tới một chữ đại đoàn kết giả tạo và có tính cách giai đoạn.

Việt Nam ngày nay chỉ có hai thành phần, thành phần thống trị là đảng Cộng  sản

và nhân dân bị trị

Như vậy, làm sao có thể thực hiện được đại đoàn kết trong nước, c̣n nói ǵ tới đại đoàn kết ở hải ngoại. 

 

Điểm 2

Người Việt Nam nước ngoài là nguồn lực :

Người Việt Nam nước ngoài quả là một nguồn lực. Nói ra điều này Bộ Chính trị nhận xét dân sống trong nước không phải là một nguồn lực khác hay sao; điều đó chứng tỏ CSVN coi thường khối 80 triệu dân trong nước.

Dân tộc ta vốn can đảm và cần cù. Nếu có Tự do, Dân chủ và có quyền tư hữu cũng như có một xă hội dân sự tôn trọng mọi tự do căn bản , nhân dân ta chắc chắn sẽ vươn mạnh trên phương diện phát triển không thua kém ǵ các nước khác trong vùng Á Châu. Nhưng tiềc thay Nhà nước xă hội chủ nghĩa không cho nhân dân  các quyền tự do căn bản,  đẻ tự phát triển khả năng làm dân giầu nước mạnh như khối người Việt Nam hải ngoại đă thành công.

Cộng sản Việt Nam không thể coi nguồn nhân lực và tài lực này là một sức mạnh  phục vụ họ.

 Tóm lại nguồn lực tị nạn, tinh thần và vật chất, chỉ dùng để mang lại cho nhân dân Việt Nam một chính thể tự do dân chủ phú cường,  không bao giờ có thể được dùng để giúp đỡ một thể chế độc tài đă xô đẩy họ ra nước ngoài và nhuc mạ họ lúc ban đầu, nay bắt đầu bợ đỡ để nhằm lợi dụng. 

 Hai điểm 3 và 4 của phần II Nghị Quyết, chủ trương  và phương hướng  công tác đối với người Việt nước ngoài vô hy vọng thực hiện, tai không cần bàn đến mà chỉ mong mỏi người Việt gốc tị nạn đừng dại dột mắc lưà một lần nữa..

Các điểm này chỉ hoàn toàn lien quan tới các tổ chức của bạo quyền và tay sai, và mặc nhiên thú nhận từ bao năm nay cán bộ và tay sai chúng tại nuớc ngoài cũng như trong nước bất lực, c̣n chứa chấp nhiều mâu thuẫn và tranh dành quyền lực khi vận động người nước ngoài.

 

NGHỊ QUYẾT 36

Phần III - Nhiệm vụ chủ yếu   

1- Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xă hội nước sở tại, đồng thời duy tŕ quan hệ gắn bó với quê hương, đất nước.  

Thông qua các hoạt động ngoại giao tích cực vận động chính quyền nước sở tại tạo thuận lợi cho kiều bào có điều kiện làm ăn sinh sống b́nh thường; chủ động tiến hành đàm phán và kư kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lănh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích chính đáng của bà con, chống các biểu hiện kỳ thị, các hành động chống lại người Việt Nam ở nước ngoài. Giải quyết nhanh chóng, thỏa đáng yêu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài liên quan đến vấn đề quốc tịch. 

Tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, thân nhân, thờ cúng tổ tiên. Cụ thể hóa và hoàn thiện hơn nữa các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong nước của người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng thông thoáng, thuận tiện và đơn giản thủ tục. Giải quyết thuận lợi, nhanh chóng thủ tục cho người Việt Nam ở nước ngoài hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đ́nh, nhận con nuôi... liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài. Dành cho người Việt Nam ở nước ngoài giá dịch vụ như công dân trong nước.  

Có h́nh thức thích hợp tổ chức thu thập ư kiến của đồng bào ở nước ngoài trước khi ban hành các văn bản pháp quy, chính sách có liên quan nhiều tới người Việt Nam ở nước ngoài.

2- Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đăi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có tŕnh độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lư, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của nước nhà.

Xây dựng và hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi và khuyến khích các ngành, các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục - thể thao, các cơ sở sản xuất, dịch vụ... ở trong nước mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia công việc ở trong nước, làm việc cho các chương tŕnh, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài.  

Tranh thủ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiến hành hoạt động vận động, tư vấn về pháp lư trong quan hệ với nước bà con làm ăn sinh sống.  

3- Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Coi trọng các h́nh thức đầu tư, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ do người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện hoặc thông qua người thân trong nước thực hiện. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng kênh tiêu thụ hàng hóa Việt Nam, các quan hệ hợp tác và đầu tư với các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân nước ngoài.

Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến doanh nghiệp do người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào trong nước, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các doanh nghiệp, xử lư các vi phạm theo đúng pháp luật, góp phần tạo môi trường pháp lư ổn định, làm cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư, hợp tác với trong nước yên tâm, tin tưởng.

4- Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập hợp với mục đích đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về Tổ quốc của bà con, nhất là của thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với pháp luật và phong tục tập quán nước sở tại. Hỗ trợ các dự án của người Việt Nam ở nước ngoài nhằm mục tiêu trên. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người c̣n có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ ta.

5- Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương tŕnh dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền h́nh, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người Việt Nam ở nước ngoài.  

Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, vận động viên là người Việt Nam ở nước ngoài về nước biểu diễn, thi đấu, tham gia các đoàn Việt Nam đi biểu diễn và thi đấu quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương tŕnh giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lăm, hội thảo, du lịch về cội nguồn. 

 6-Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng t́nh h́nh đất nước và chính sách của Ịảng và Nhà nước. Ịầu tư cho các chương tŕnh dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài phát thanh, truyền h́nh và Internet; chú trọng đổi mới nội dung, h́nh thức và kỹ thuật của các chương tŕnh này. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền h́nh ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng.

7- Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng các tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động xây dựng cộng đồng, đóng góp xây dựng đất nước, tổ chức và cá nhân trong nước có thành tích trong công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Giải quyết có t́nh, có lư và trên cơ sở đạo lư Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời có biện pháp phù hợp đấu tranh với những biểu hiện cố t́nh đi ngược lại lợi ích dân tộc, phá hoại quan hệ giữa các nước có đông người Việt Nam sinh sống với Việt Nam hoặc gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước sở tại.

 8- Các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức và đoàn thể nhân dân theo chức năng, nhiệm vụ của ḿnh tham gia tích cực vào công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài với các cơ quan hữu quan, với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, giữa trong nước với ngoài nước. Củng  cố và phát triển các tổ chức xă hội làm công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, như Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, các hội thân nhân kiều bào và các h́nh thức tập hợp chính đáng khác, phù hợp với ư nguyện và đặc điểm của cộng đồng ở địa bàn cư trú.

Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài có trách nhiệm coi công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là một nhiệm vụ chính trị quan trọng đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân và bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài; tích cực, chủ động tăng  cường tiếp xúc vận động, tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách của Ịảng và Nhà nước tới bà con.

 9- Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài cần được kiện toàn với cơ cấu tổ chức, biên chế và phương tiện hoạt động đáp ứng đ̣i hỏi của t́nh h́nh mới. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài tại cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở những nơi có đông người Việt Nam sinh sống. Một số bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố có quan hệ nhiều với người Việt Nam ở nước ngoài cần có bộ phận giúp cơ quan lănh đạo trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bổ sung kinh phí cho công tác này.

 

  Nhận định Phần III của Nghị Quyết 36

 

1-   Chính đảng Cộng Sản, thủ phạm gây nên quốc nạn bằng chính sách trả thù, hạ nhục kẻ thua trận, nhốt tù cải tạo, cưỡng bách đi kinh tế mới, đốt sách, xét theo lư lịch... là nguyên nhân của phong trào vượt biên, h́nh thành cộng đồng Việt nam hải ngoại với một tiềm lực quan trọng như ngày nay 

   Ngay từ những ngày đầu tiên, khi mới chân ướt chân ráo đến định cư tại các nước trên thế giới, người Việt hải ngoại dù cuộc sống c̣n khó khăn, đă chi viện cứu nguy cho thân nhân trong nước, bù đắp lại t́nh trạng phá sản đang làm kiệt quệ đất nước. Ngày nay nhờ sự cần cù, người Việt hải ngoại có mức sống cao hơn gấp bội, tiền gửi về  trong nước lên tới gần 3 tỷ hàng năm, phần đóng góp cho lợi tức toàn dân không phải nhỏ.

  Chỉ có những kẻ vô liêm sỉ như cộng sản mới ngang ngược tuyên bố hỗ trợ ổn định cuộc sống của gần ba triệu người hải ngoại, mà lợi tức cao hơn 80 triệu người trong nước.

 

   Ngoại giao cộng sản có thể đảm bảo tư pháp và quyền lợi người Việt hải ngoại ư? Hầu hết chúng ta  đều có quốc tịch các nước nơi cư ngụ, quyền làm người và quyền công dân được bảo vệ như bất cứ một công dân nào khác trong nước định cư. Thảng hoặc có một vài trường hợp kỳ thị, chúng ta có thừa đủ khả năng để bảo vệ nhân phẩm của ḿnh. Cộng Sản hăy thực thi công bằng xă hội, xóa bỏ kỳ thị ở trong nước, bằng cách trả lại cho dân các quyền lợi chính đáng về tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội ...

 

Mặc dù hiến pháp xác định tự do cư trú đi lại là quyền căn bản của con người, nhưng CS bắt buộc người về thăm nhà phải có chiếu khán visa nhập cảnh, khai báo lư do khi xuất ngoại. Tại sao phải cụ thể hóa, hoàn thiện nhập cảnh, tạo sao bây giờ mới chocư trú, đi lại trong nước theo hướng thông thoáng, thuận tiện và đơn giản. Điều ǵ đă xảy ra khi trước? Cư ngụ trong nước phải khai hộ khẩu, cán bộ hải quan làm tiền hối lộ như một thủ tục đương nhiên, giá cả dịch vụ hàng hóa không đồng đều cho người trong và ngoài nước, sửa bỏ những tệ đoan ấy đâu có phải là một đặc ân cho Việt kiều?

 

Làm ra vẻ dân chủ, CS dự trù h́nh thức thu thập ư kiến đồng bào nước ngoài, Với gần ba triệu người Việt hải ngoại, nếu CS dám hỏi ư kiến, họ sẽ thấy ngay đâu là ư dân, nếu CS dám trưng cầu dân ư trong nước, họ sẽ thấy đâu là ư Trời.

 

2-  Nghị quyết của Bộ Chính Trị dự trù hoàn chỉnh chính sách thu hút chất xám về phục vụ cho chúng, vẫn là chính sách ve văn những kẻ hoặc dễ tin, hoặc ham danh hám  lợi. 

Với chuyên viên, nào là đăi ngộ thỏa đáng, nào là trọng dụng nhân tài. Từ đầu thập niên 90, CS kêu gọi nhiều lần, đă có bao nhiêu chuyên viên về nước. Nhiều người  nhận thấy tận mắt nạn bè phái độc tài tồi tệ nên bỏ ra đi, ngay cả những kẻ qùy gối cũng đâm chán nản. Nay CS rêu rao đăi ngộ các ngành quản lư, công nghệ, kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, chứng tỏ không c̣n bao nhiêu chuyên viên có tŕnh độ cao đem tài năng của ḿnh ra phục vụ đảng, những kẻ tự cho ḿnh đứng trên nhà nước. Riêng các ngành khác thuộc về khoa học nhân văn, xă hội, chính trị ... CS tuyệt đối đóng kín cửa.

 

Các phương thức nhằm mở rộng hợp tác, sử dụng các chuyên gia Việt hải ngoại tham gia làm việc cho chương tŕnh đa phương hoặc song phương giữa VN và ngoại quốc cũng vậy, lợi dụng chuyên viên rồi vắt chanh bỏ vỏ, đó là nghệ thuật  của cộng sản VN, và đó cũng là lư do hai chục năm nay, chuyên gia không đáp lời kêu gọi dụ dỗ của cộng sản

 

Theo dơi t́nh h́nh trong nước, ai cũng biết là t́nh trạng đầu tư chất xám là yếu tố quan trọng, chỉ có tự do thật sự sáng tạo, kiến thức mới phát triển, chỉ khi nào quyền lợi quốc gia đặt trên quyền lợi của tổ quốc, trí thức mới phát huy được. Hăy đăi ngộ trí thức trong nước trước, nhân tài hải ngoại không cần ân huệ đặc biệt nào của đảng, chỉ muốn làm việc trong một môi trường tự do.

 

3-  Thu hút đầu tư kinh doanh vào Việt Nam.

Khi chiếm miền Nam xong, CS đă đưa cả nước đến bên bờ vực thẳm của phá sản, măi tới 1986 họ mới nh́n ra sự thua kém của chủ nghĩa xă hội và đưa ra chính sách đổi mới nhắm vào tư bản ngoại quốc. Sau này nhận thấy tiềm lực kinh tế của cộng đồng VN hải ngoại, họ xoay chiều dụ dỗ người Việt hải ngoại. Họ chú trọng các h́nh thức đầu tư, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ do người VN nước ngoài trực tiếp thực hiện, phải chăng v́ đầu tư nước ngoài sút giảm?

Những người nào quên đi chính sách vơ vét dụ dỗ từng bước rồi khống chế khi đă cất cánh, có thể sẽ sa vào cái bẫy tuyên truyền, v́ CS không có thông tin mà chỉ có tuyên truyền.

 

Thấy người Việt gửi tiền về nước giúp bà con, họ lập ra chính sách kiều hối, có nghĩa là mở thêm cơ sở đổi tiền, chuyển tiền với lệ phí nhẹ, để chuyển tiền của tham nhũng vào các ngân hàng ngoại quốc, sử dụng thân nhân và tay sai vào các dịch vụ chuyển tiền này.

 

Mải đến ngày nay, Cộng Sản mới hứa hẹn với người về đầu tư sẽ xử lư đúng theo pháp luật, nghĩa là từ trước không có luật lệ đàng hoàng nên chúng phải tạo môi trường pháp lư ổn định để người nước ngoài yên tâm.

Thực ra môi trường pháp lư của CS phải sửa đến tận căn tận rễ, đó là băi bỏ hiến pháp và trả quyền lại cho dân.  

 

4- Cộng Sản phải đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động người hải ngoại, v́ CS đă  nhận ra rằng những h́nh thức tuyên truyền cũ thiếu hiệu quả, cần phải có những tṛ khác để lôi kéo người Viêt hải ngoại, nhất là người trẻ tuổi. Chúng cả tin vào sự nhẹ dạ vô tâm của người dân, đánh giá thấp người biết suy nghĩ, bằng cách mở rộng tiếp xúc cả với những người mà chúng gọi là c̣n định kiến, mặc cảm.

Chúng sẽ đưa ra những h́nh thức vận động mới, tập hợp mới, hỗ trợ các hội ái hữu, văn nghệ, chúng giấu mặt cài người vào thao túng, tài trợ cho những tay sai chưa lộ nguyên h́nh, chúng sẽ mua chuộc những người mệt mỏi.

C̣n đợi ǵ nữa, những ai tự nhận thấy ḿnh bị CS gọi là định kiến, mặc cảm, những ai bị cộng sản bạo hành ngược đăi, mà không tổ chức những buổi đối chất công khai với cán bộ đảng. Phái đoàn liên ngành cộng sản khỏi phải thậm thụt, chui lánh cửa sau vào pḥng họp.

 

5- Giáo dục.

Biết rằng phần đông người Việt hải ngoại đều cho con em học thêm tiếng Việt, CSVN muốn xâm nhập kiểm soát  các lớp học tiếng Việt để khéo léo tuyên truyền cho chế độ khi trí óc các em c̣n non nớt Chúng c̣n sử dụng truyền h́nh, phát thanh, internet  là những phương tiện thời đại để thu hút thế hệ trẻ, tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh thiếu niên.

Làm thế nào chống lại các phương thức thâm độc này.

Hăy cẩn thận xem xét nguồn gốc các sách giáo khoa dùng trong các lớp Việt ngữ .

Người Việt hải ngoại phải lập hệ thống giữa các trường dạy tiếng Việt, kết hợp , bàn thảo về những sách giáo khoa sử dụng. Đoàn thể giáo viên sẽ hợp thành sức mạnh để ngăn chặn âm mưu xâm nhập của CS vào lănh vực dạy tiếng Việt.

Phụ huynh cũng phải để ư đến nội dung bài vở các em được dạy tại trường, phát giác những ǵ đáng nghi hoặc.

Các cơ quan tổ chức lớp học, các cộng đồng địa phương cũng cần kiểm soát nội dung các chương tŕnh dạy dỗ.

 

Nghệ thuật và  thể thao

Cần phải cảnh giác đối với việc CS đưa các đoàn nghệ thuật, thể thao ra nước ngoài biểu diễn, để gài bẫy người VN ham vui nhẹ dạ. Thứ nhất những buổi ra ngoại quốc tŕnh diễn của các đoàn này nằm trong chính sách của CS, chứ không phải thuần túy văn nghệ, thương mại, vô hại như những người tổ chức thường than văn minh oan. Thứ hai những đoàn ra nước ngoài phải được bộ Văn Hóa, Thông Tin hay bộ Ngoại Giao giới thiệu, những đoàn này c̣n được chi viện cho xuất ngoại, lại được giảm giá vận chuyển, máy bay  tới 50%. 

  Vụ Cộng Đồng Ḥa Lan chống bọn văn công CS thành công là một thí dụ rơ ràng nhất. Gần đây cuộc thi hoa hậu áo dài  và tŕnh diễn ca nhạc ngày 14-8-2004 tại thành phố Cloppenburg miền bắc nước Đức do sứ quán CSVN và một số tay sai tổ chức đă bị đồng bào nhất loạt tẩy chay khiến buổi tổ chức  bị thất bại thê thảm, tổng cộng cả số khách mời chỉ có 50 người tham dự kể cả trẻ em, trong một hội trường 600 chỗ ngồi!

 

Về sách báo, giao lưu văn hóa 

Trên thực tế, sản phẩm văn hóa không tự do nhập nội, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam kém văn hóa không hiểu thế nào là giao lưu, chỉ muốn áp đặt lên hải ngoại những sản phẩm văn hóa được chế độ cho phép, nhưng không dám để cho người dân trong nước thưởng thức những sản phẩm tinh thần của người Việt tự do.

Miệng nói văn hóa, nhưng Cộng Sản cấm đọc sách, đốt sách, dựng tường lửa ngăn chặn thông tin văn hóa trên internet, hành động ấy chỉ là hành động của bạo tặc.

 

6-   Có lẽ CS muốn dồn sức lực mạnh mẽ và toàn diện vào tuyên truyền. Chúng sử dụng các phương tiện truyền thông phát thanh, truyền h́nh, internat, báo chí, thư viện. Công tác này được xúc tiến đồng đều trong tất cả các cơ sở truyền thông trong nước và ngoài nước.

  Bên ng̣ai, Cộng Sản sẽ dốc tiền bạc trong quỹ hỗ trợ người Việt hải ngoại của chúng để thuê mướn tay sai bồi bút viết những đề tài vô bổ. Những phát biểu của đám đàn em nịnh bợ này nếu phù hợp với CS thi được yểm trợ.  Chúng cho tay sai ngụy trí thức, cựu quân cán chính miền Nam đă đầu hàng chúng đánh phá những vụ lên tiếng chống giao lưu văn hóa một chiều, chúng không trực tiếp ra mặt, cho người xâm nhập khuynh đảo, lung lạc tinh thần đấu tranh của người hải ngoại hầu giảm mối nguy cơ cho ngụy quyền Hà Nội

 Chúng sẽ áp đảo các tổ chức đấu tranh nhân quyền tự do dân chủ, v́ kém phương tiện. Bạo quyền sẽ dùng truyền thông chửi bới, vu khống bất cứ ai có quan điểm trái ngược với chúng, đánh phá bất cứ hành động nào chúng thấy nguy hại cho chúng.

 Nhưng cuối năm 2003 vừa qua, đài truyền h́nh sắc tộc SBS Úc Châu chiếu chương tŕnh thời sự của CSVN đă bị cộng đồng Úc bẻ gẫy kế hoạch xâm nhập tuyên truyền. 

   Thực ra, chính người dân trong nước cần được thông tin, trau dồi kiến thức và cung cấp văn hóa phẩm lành mạnh tự do, chứ không phải hải ngoại   

7- Chính sách thưởng phạt

Ai là người muốn nhận khen thưởng của kẻ cướp đất, cướp của miền Nam. Nếu cần khen, phải khen những tổ chức đóng góp xây dựng đất nước, như các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ tại Việt Nam, những người có thành tích là những người hoạt động cho cộng đồng giữ được bản chất tỵ nạn, tŕnh bày với thế giới tội ác của CS.

Thật là quá quắt, CS hù dọa sẽ có biện pháp với những người chúng gọi là cố t́nh đi ngược lại lợi ích của dân tộc, phá hoại quan hệ giữa các nước khác và Việt Nam hoặc gây chia rẽ trong cộng đồng.

   Thế nào là đi ngược lại lợi ích của dân tộc? Bảo rằng anh độc tài đảng trị 50 năm rồi, hăy trả lại quyền sống cho dân, bảo rằng anh bắt người giam giữ trái phép, bảo rằng anh tham nhũng, bảo rằng các anh có tội với Tổ quốc ... là đi ngược với lợi ích dân tộc sao. Một nửa thế kỷ nay, chính bè đảng Cộng Sản VN đi ngược lại lợi ích dân tộc, hôm nay c̣n mạnh miệng trâng tráo đe dọa người đối lập.

   Thế nào là phá hoại quan hệ nước ngoài với CSVN? Biểu t́nh phản đối CS sát nhân trước quốc hội là phá hoại chăng, nếu vi luật sao cảnh sát các nước liên hệ không giải tán, mà phải chờ CS ra tay. Mười ngàn người biểu t́nh bên Úc chống phát h́nh chương tŕnh thời sự do CS cung cấp, chính trị bộ của Phan Diễn có dám cho công an bắt giam vào các trại tù không.

  Ai chia rẽ cộng đồng, chính cộng sản và tay sai là thủ phạm, dùng tiền bạc khuấy động phân tán người Việt hải ngoại. Chúng sẽ có biện pháp nào. Bôi nhọ, vu khống, thuê bồi bút đánh phá, thuê người hành hung, dàn cảnh đụng xe, ám sát ...

Đe dọa người Việt hải ngoại, hiển nhiên CS can thiệp vào chủ quyền nước khác, xâm phạm quyền công dân của người Việt hải ngoại. Chúng ta phải tố cáo cơ quan an ninh sở tại để xin bảo vệ.

Thí dụ mới nhất là một đồng bào sinh sống tại Đức quốc đă gửi thư cho cảnh sát tŕnh bày lo ngại trước sự đe dọa của CS, ông lấy ví dụ ngày trước, mật vụ Đông Đúc đă theo dơi ám hại, dàn cảnh đụng xe để trừng phạt những người Đông Đức trốn khỏi bức tường Bá Linh sang sống bên Tây Đức. Hiện Cảnh sát Đức đă ghi nhận sự việc và mời ông đến để bổ túc thêm dữ kiện

 

8-  Chỉ thị của Bộ Chính trị,

Các tổ chức đảng trung ương và điạ phương trong nước và ngoài nước phải tham gia vào công tác. Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan.

Đáng chú ư hơn cả, CS chỉ thị đảng viên củng cố và phát triển các tổ chức xă hội, như hội liên lạc với người Việt nam ở nước ngoài, các hội thân nhân kiều bào và các h́nh thức tập hợp khác mà chúng chưa tiết lộ. Đồng bào hải ngoại cần tỉnh táo nhận xét từng tổ chức này, khi họ đến với chúng ta, ư đồ và cách thức hoạt động. Có người đề nghị tín hiệu để nhận dạng là coi xem các tổ chức này có chấp nhận biểu hiệu tỵ nạn là lá cờ vàng ba sọc đỏ hay không.

Cuối cùng Bộ Chính Trị chỉ thị các cơ quan ngoại giao thi hành nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền phổ biến chính sách của đảng và nhà nước. Nhiệm vụ chính trị là ǵ, có phải các ṭa đại sứ sẽ sách động người Việt ngả theo quan đ́ểm của CS trong các cuộc bầu cử, trưng cầu dân ư hay các sinh hoạt quan trọng khác tại các nước người Việt cư trú chăng, biến cộng đồng tị nạn  thành cộng cụ ngoại vận của chúng ở hải ngoại.

 

9- Quyết Nghị chỉ thị trao trách nhiệm chính cho Ủy Ban về người Việt nam ở nước ngoài

kiện toàn tổ chức, biên chế và phương tiện hoạt động, bằng cách tăng cường kinh phí và cán bộ tại các cơ quan ngoại giao, và tại một số bộ, tỉnh thành phố trong nước.

Hiện nay Ông Nguyễn Phú B́nh mới được cử làm Chủ Nh́ệm Ủy Ban nay thay thế Nguyễn Đ́nh Bin.

Người Việt tị nạn không những phải theo dơi từng bước của ủy ban này, mà c̣n chú trọng đến các tổ chức ngoại vi của tổ chức cộng sản, liệt kê ở phần dưới.

 

 

 

NGHỊ QUYẾT 36  

Phần IV - Tổ chức thực hiện

  

1- Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao phối hợp với Ban cán sự đảng ngoài nước và các ban, ngành liên quan, UBT.Ư MTTQ Việt Nam, các tổ chức và đoàn thể nhân dân tổ chức phổ biến rộng răi nghị quyết này đến cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong nước và đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

  

2- Ban cán sự đảng Chính phủ cụ thể hóa nội dung nghị quyết thành chương tŕnh hành động, các cơ chế, chính sách, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện.

 

 3- Dảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ căn cứ vào nội dung nghị quyết, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.

  

4- Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các ban Trung ương Đảng có kế hoạch thực hiện Nghị quyết. Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao chủ tŕ cùng Ban cán sự đảng ngoài nước giúp Ban Bí thư và Bộ Chính trị theo dơi việc thực hiện Nghị quyết. Ban Bí thư tổ chức kiểm tra, định kỳ nghe báo cáo về t́nh h́nh và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. 

           

Nhận xét phần IV của Nghị quyết 36

 

Trong phần IV về tổ chức và thực hiện, Nghị Quyết củ Bộ Chính Trị chỉ đề cập đến các bộ phận của đảng các cấp, bộ với các nhiệm vụ:

-  phổ biến rộng răi nghị quyết đến mọi tầng lớp,

-  soạn thảo chương tŕnh hành động,

-  hoàn thảo các văn bản pháp quy áp dụng nghị quyết

-  thực hiện nghị quyết, kiểm tra và báo cáo định kỳ.

     Được trao phó thi hành nghị quyết  là thành phần ṇng cốt chủ động của đảng đứng bên trong các cơ quan chính quyền, các tổ chức trá h́nh, nhưng người Việt tị nạn sẽ không gặp ai tự xưng là cán bộ của đảng. Chúng ta  sẽ gặp một người có vẻ tử tế, một nhà hảo tâm, một nhà văn nhà báo, một nhà khoa học v.v... họ có thể thực tâm, nhưng CS có đầy dủ mưu chước vận dụng và lợi dụng cho mục tiêu của đảng..

     Chúng ta c̣n biết rằng, ngoài Ủy ban về người Việt nam ở nước ngoài, do Thứ trưởng Ngoại Giao làm Chủ Nhiệm, Cộng Sản Việt Nam đă thành lập các cơ cấu mang tính cách tư nhân để tránh bị tố cáo là gián điệp. Xin kể vài tổ chức:

- Ủy ban Vận Động Thành Lập Hội Liên lạc Người Việt Nam ở nước ngoài do ông Nguyễn Văn Đạo làm chủ nhiệm. Ủy ban này có nhiệm vụ  thành lập ít nhất là một hội tại mỗi thành phố lớn cũng như tại mỗi tỉnh để làm công tác vận động Việt kiều.

-  Qũy Hỗ Trợ Vận Động Người Việt Nam ở nước ngoài, với ngân khoản đầu tiên là 7000 tỷ đồng ( khoảng nửa triệu Mỹ Kim). Đây là một tổ chức có nhiệm vụ đánh phá người Việt nước ngoài.  Chiêu bài mang tên hỗ trợ, nhưng thâm ư là đánh phá người Việt hải ngoại. (Thật là trớ trêu, trong lúc phần đông người dân Việt trong nước c̣n nghèo khổ, CS mang tiền ra hỗ trợ người Việt hải ngoại!)

-  Các hội thân nhân kiều bào, các h́nh thức tập hợp khác phù hợp với ư nguyện và đặc điểm của cộng đồng ở địa bàn cư trú.

 

Đứng trước các âm mưu có tổ chức hệ thống hóa của CSVN, chúng ta cần phải thận trọng nhận định giữa bạn và thù.

 
 
Kết luận

Chúng ta phải làm ǵ

Ngoài việc tiếp tục đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương, chúng ta c̣n có trách nhiệm :

 

Về văn hóa, giáo dục thể thao

Hăy phát giác và tố cáo khi có các lớp học hay cơ sở văn hóa phổ biến sách báo tuyên truyền của Cộng sản, giảng giải lịch sử Việt nam cho con em, phản bác lại các tài liệu lịch sử đă bị cộng sản bóp méo.

Mỗi khi có một hoạt động nào xuất hiện hăy t́m xem ai là người chủ trương, do nguồn tài chính nào, mọi điểm nghi ngờ đều được nêu lên, nhưng tuyệt đối tránh các kết luận vội vă và thiếu chứng cớ để tránh gây chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia do t́nh trạng chụp mũ xuyên tạc.

Chấp nhận các văn nghệ sĩ độc lập hoạt động với tính cách cá nhân và không phổ biến các bài hát hay văn hóa phẩm tuyên truyền. Tẩy chay các sinh hoạt văn nghệ, văn hóa, thể thao của các phái đoàn chính thức hay bán chính thức do Cộng sản chủ tŕ để tuyên truyền.

 

Về xă hội

Đồng bào nếu v́ lư do gia đ́nh hay cá nhân dù dưới h́nh thức nào, đi về thăm nhà tại Việt Nam vẫn nên dành một phần ư thức trách nhiệm cho chính nghĩa của tập thể tị nạn, mỗi khi trở về môi trường hải ngoại khi nói đến phần tích cực trong các dịch vụ vui chơi giải trí, sự phát triển đô thị v.v.. tại Việt nam, nên cho đồng bào ngoài nước biết đến khía cạnh tiêu cực của xă hội trong nước: đa số sống trong nghèo đói bên sự ăn chơi sa đọa của tầng lớp cán bộ và các con ông cháu cha, t́nh trạng nghéo đói của đời sống dân quê v.v...

 

Tóm lại Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại hơn lúc nào hết phải tích cực đề cao cảnh giác, phát triển tối đa khả năng đoàn kết, nh́n chung vào mục tiêu dành tự do dân chủ cho xứ sở và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu chia rẽ và phá hoại đời sống tinh thần của chúng ta.

Các biện pháp nêu ra ở trên chỉ là phần nhỏ để đối phó với các tác hại của Nghị Quyết 36, chúng tôi tin rằng đồng bào hải ngoại sẽ không thiếu sáng kiến để cùng nhau đóng góp mỗi khi Cộng sản hành động. Được vậy chúng ta tin chắc sẽ vô hiệu hóa mọi nỗ lực thực thi NQ 36 này của Cộng sản.

 

Kính chào tin tưởng

 

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06