Câu Lạc
Bộ Dân Chủ Việt Nam
Điện Thư - Số 42
Tháng 03 năm 2005
Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân
trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận và Độc Giả
trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến t́nh h́nh
dân chủ Việt Nam. Như đă minh định qua bản thông cáo và thư ngỏ của Câu Lạc
Bộ Dân Chủ trước đây, sự đàn áp thô bạo của cơ chế độc tài sẽ không làm chùn
bước và bịt miệng được các tiếng nói tranh đấu dũng cảm cho nền dân chủ Việt
Nam. Mọi liên lạc xin gửi về :
caulacbodanchuvietnam@yahoo.com
Tin Ghi Nhận:
•
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đang bị giam tại trại giam số 5, phân trại 3, xă Yên
Giang, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Trong điều kiện giam cầm khắc nghiệt,
bác sĩ Sơn ngoài bệnh thoát vi bẹn trái, hiện đang bi thêm bệnh u ở mũi. Gia
đ́nh b/s Phạm Hồng Sơn đă yêu cầu xin xét nghiệm và giải phẩu nếu cần, tuy
nhiên bên Cục quản lư trại giam và Bộ Công An vẫn không có dấu hiệu giải
quyết.
•
Uỷ ban bảo vê kư giả (CPJ) vừa công bố bản phân tích về t́nh h́nh tự do báo
chí trên thế giới, trong bản phân tích này, CPJ đă bày tỏ sự quan ngại về
t́nh trạng mất tự do báo chí ở Việt Nam. Taị Việt Nam, mặc dù cộng đồng quốc
tế thường xuyên gây áp lực và nhắc nhở, chính quyền vẫn không cho thấy sự
nới lỏng nào đối với các hoạt động báo chí trong năm 2004. Một mặt th́ nhà
nước kiểm soát chặt chẻ báo in, báo nói, mặt khác th́ tăng cường trấn áp báo
trên mang….Hàng tuần các tổng biên tập viên của các tờ báo trong toàn quốc
phải họp với Vụ Báo Chí-Ban tư tưởng văn hóa Trung ương ; Ban nội chính
Trung ương, để nghe chỉ thị về nội dung nào được đăng và nội dung nào không
được đăng tải. Mới đây nhà nước quyết định truy tố kư giả Lan Anh chỉ v́ cô
đă can đảm tường thuật tệ nạn lợi dụng quyền lực lũng đoạn thị trường trong
lănh vực phân phối và quản lư thuốc Tây ở Việt Nam. Tờ báo điện tử
Tintucvietnam.com cũng đă bị đóng cửa. Ông tổng biên tập tạp chí điện tử
VNexpress. net th́ bị mất chức v́ đă cho đăng bản tin về vụ nhập xe ô tô của
các quan chức cao cấp. Đối với các vụ án nổi tiếng như vụ Nam Cam, vụ Lă Thị
Kim Oanh, chỉ có một số rất ít các nhà báo được tham dự trong phiên ṭa xử
kín. C̣n tại các phiên ṭa xử những người dân chủ, không một nhà báo nào
được tham dự, nhưng điều đáng nói là một số báo đă đăng tin hoàn toàn sai sự
thật theo sự chỉ đạo của Đảng cộng sản.
----- O -----
RFA phỏng vấn ông Nguyễn Thanh Giang
về tài liệu của ts Lê Đăng Doanh
LTS. Điện thư xin đăng
lại bài phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang từ đài RFA về tài liệu của tiến
sĩ Lê Đăng Doanh đă đươc phổ biến trên điện thư số 41 vừa qua.
RFA: Ngày 2 tháng 11
năm ngoái, năm 2004, trong khuôn khổ chương tŕnh K X - 10, một chương tŕnh
chuẩn bị cho Đại Hội 10 Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong một cuộc họp kín, lănh
đạo Trung Ương đă có một bản báo cáo hay nói đúng hơn là một bài thuyết
tŕnh dài 32 trang nhận định về t́nh h́nh kinh tế Việt Nam do chính tác giả
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh tŕnh bày.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Quản Lư Kinh Tế Trung Ương, một chuyên
gia kinh tế hàng đầu của chính phủ Việt Nam, từng giữ vai tṛ cố vấn cho cựu
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Nguyễn Duy Trinh, và các cựu Tổng Bí Thư như
ông Nguyễn Văn Linh và ông Đỗ Mười. Chức vụ cuối cùng trước khi về nghỉ hưu
là cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư.
Để t́m hiểu thêm về
tài liệu mà Bộ Chính Trị coi là "tối mật" này, Việt Hùng đă hỏi chuyện Tiến
sĩ Nguyễn Thanh Giang và được ông cho biết nội dung chính của bản báo cáo
như sau:
Ts. Nguyễn Thanh Giang:
Sở dĩ có buổi nói chuyện đó là do ông Trần Đ́nh Hoan, Ủy viên BCT Ban chấp
hành TW Đảng, Trưởng ban Tổ chức TW có viết thư đề nghị ông Lê Đăng Doanh
tŕnh bày để cho những người chuẩn bị cho các văn kiện ĐH 10 sắp tới nghe.
Bài nói chuyện của ông Lê Đăng Doanh gồm có 3 phần:
- Tóm tắt t́nh h́nh về
thực trạng của Việt Nam
- Một số vấn đề về kinh tế Việt Nam và tiến tŕnh hội nhập của VN
- Những yêu cầu cần thiết phải cải cách hệ thống chính trị ở VN để phù hợp
với t́nh h́nh và nhiệm vụ mới
Việt Hùng:
Thưa Tiến sĩ, bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho đến nay dư luận
cả ở trong và ngoài nước có thể nói là chưa biết đến. Trong phần nhận định
về t́nh h́nh và thực trạng của VN, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đă đề cập đến những
vấn đề ǵ?
Ts.
Nguyễn Thanh Giang:
Khi
nh́n nhận về nền kinh tế VN, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh ghi nhận rằng, đă có rất
nhiều tiến bộ, đặc biệt là trong những năm "đổi mới" kể từ sau ĐH VI. Từ chỗ
nhập khẩu từ chiếc xe máy cho đến bánh xà pḥng, rồi cho đến vươn lên được 5
năm xuất khẩu được 2 tỷ đô-la. Sau chỉ vài năm tăng lên 5 lần, tức là được 2
tỷ đô-la, rồi năm qua 2004 được 25 tỷ đô-la. Tuy nhiên cho đến nay, đất nước
VN vẫn là một đất nước quá nghèo và vẫn c̣n tụt hậu c̣n xa so với thế giới.
Việt Hùng:
Với đà phát triển của VN trong năm ngoái 2004 mà VN tŕnh làng với thế giới
là trên 7%, vậy nguyên do nào mà trong bài nói chuyện Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
lại nói đến vấn đề tụt hậu của nền kinh tế VN?
Ts.
Nguyễn Thanh Giang:
Nói xuất khẩu trong năm qua đạt 25 tỷ đô-la th́ thấy rơ bằng 5 bằng 10 năm
trước thật, nhưng thực tế nếu so với mấy nước trong khu vực như Thái Lan,
như mấy nước Trung Á đă không là cái đinh ǵ rồi. Những quốc gia này đă xuất
khẩu hơn trăm tỷ, vài trăn tỷ đô-la.
Nói mức tăng trưởng
cao th́ mấy nước Trung Á tăng trưởng cao hơn nhiều. Trong 15 năm qua th́
Kazactan mỗi năm tăng 10%. Nền kinh tế Singapo so với VN tăng ở mức chót
vót, mà đă tăng trưởng cao th́ nhích thêm 0,5% cũng chật vật lắm. Vậy mà
trong năm qua Singapor cũng đă tăng 11%. Thế rồi nói GDP đạt trên 40 tỷ
đô-la đă thấy vĩ đại so với ngày xưa, nhưng với con số ấy th́ nền kinh tế VN
cũng mới chỉ bằng 0,36% nền kinh tế toàn cầu thôi.
Nói rằng tuy GDP b́nh
quân chỉ 500 USD nhưng do giá cả hàng hoá rẻ, giá nhân công rẻ nên tính theo
sức mua tương đương PPP ở VN khá cao cũng khụng đúng. Tính theo sức mua
tương đương th́ ta xép thứ 130/175 nước. Nếu xếp theo tỷ giá nữa th́ ta xếp
thứ 149/203 nền kinh tế. Sau ngàn ấy năm "Đổi mới" oanh liệt lắm ta chỉ mới
lẹt đẹt được đến như vậy. Chỉ số phát triển con người có thể cao hơn chỉ số
kinh tế nhưng cũng chỉ đạt trung b́nh. Năm 2003 xếp thứ 109/175, năm 2004
xếp thứ 112/177 nước.
V́ tŕ trệ quá lâu
rồi, tăm tối quá lâu rồi nên khi mở cửa ra cho ánh sáng bừng lên một chút đă
thấy như đổi đời. Thực ra ta tiến c̣n chậm lắm. Chậm so với nhu cầu bản thân
đất nước, chậm so với thiên hạ cho nên thực tế cho thấy là ḿnh vẫn ngày
càng tụt hậu. Chưa dám so với các nước tiên tiến, hay chỉ so với mấy nước
Châu Á: Thái Lan năm 1950, thu nhập b́nh quân đầu người năm 1950 ta bằng
80,5% ; năm 1999 = 20%. Hàn Quốc 1950 = 85,5%; 1999 = 11%; Trung Quốc, năm
1950 ta giàu có hơn họ, ta gấp rưỡi họ nay = 20%.
Việt Hùng:
Mới đây ông Phan Văn Khải có tuyên bố, trong năm 2005 VN sẽ phấn đấu trở
thành thành viên của WTO trong năm nay, năm 2005 và quyết tâm trở thành
thành viên của OECD, trong bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh có đề
cập đến?
Ts.
Nguyễn Thanh Giang:
Việt
Nam là một nước nhỏ nhưng diện tích cũng đến 330.990 cây số vuông, dân số
81,3 triệu người. Về qui mô quốc gia ta xếp vào hàng thứ 13, 14 ǵ đó trên
thế giới. theo ông Lê Đăng Doanh, để trở thành thành viên của OECD mức thu
nhập đầu người phải đạt 10 000 đô-la/năm. Nay ta mới đạt 530 đô-la/đầu
người/năm, cứ đà này 10 năm nữa sẽ được 1060 đô-la/năm. 20 năm nữa được 2120
đô-la/năm. Nếu không có cách mạng, không có phương sách nào khác th́ lộ
tŕnh ra nhập OECD phải tính bằng thế kỷ.
Việt Hùng:
Qua sự tŕnh bày của Tiến sĩ về bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh th́
kinh tế VN tụt hậu, tiến rất chậm ...., nhưng có ư kiến lại nói rằng, kinh
tế VN phát triển chậm nhưng chậm chắc?
Ts.
Nguyễn Thanh Giang:
Nó
tồn tại được là do những nguồn sau đây: bán tài nguyên đất nước, bán khoáng
sản, bán dầu khí, bán thủy hải sản, bán sức lao động của công nhân & nông
dân ra nước ngoài, rồi đi vay, đi xin và trông chờ vào khoản tiền hơn 3 tỷ
của người Việt ở nước ngoài gửi về.
Bán tống bán tháo tài
nguyên khoáng sản dưới dạng thô là coi như đổ của đi, làm cạn kiệt tài sản
quốc gia của con cháu sau này. Con người VN thông minh, cần cù, tài hoa,
khéo tay đến mức cày thầy cô giáo, các chuyên gia nước ngoài nào cũng phải
khen, nhưng xuất khẩu từ các nước th́ lao động VN lại chỉ được giá rẻ mạt v́
trong tất cả lao động xuất khẩu, lao động VN thuộc loại ít được đào tạo
nhất.
Đánh giá về độ ổn định
tài chính và khả năng tin cậy về tín dụng th́ ta được xếp vào loại B+, hơn
Bắc Triều Tiên. Độ sâu tài chính, tức là tổng số tiết kiệm của ngân hàng
trên GDP của ta khoảng 44%, tổng sản lượng tính dụng trên GDP khoảng 48%
trong khi Trung Quốc (TQ) là 162%.
Thị trường chứng khoán
ra đời đă 3 năm nhưng nay chưa đứng lên đi được mà chỉ ḅ lê ḅ lết đến con
số 1,6%.
Do quyền lực bị đảng
thao túng tuyệt đối để cho các đảng viên có chức có quyền nên tham nhũng và
lăng phí diễn ra tràn lan, hết sức thậm tệ dẫn đến phân hóa giầu nghèo rất
cách biệt, dẫn đến bất công một cách tàn bạo nên xă hội chất chứa nhiều bức
bối có nguy cơ bùng nổ một cách "đồng khởi", hàng loạt những vụ như Thái
B́nh, Tây Nguyên hay Kim Nỗ ....
Việt Hùng:
Trong bài nói chuyện của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, khi đề cập đến những cải
cách thay đổi hệ thống chính trị của VN th́ Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đă nói
những vấn đề ǵ, thưa Tiến sĩ?
Ts.
Nguyễn Thanh Giang:
Sau
khi đưa ra con số của Tổ chức Minh Bạch Thế Giới xếp hạng tham nhũng ở VN
đứng thứ 23 trên 145 nước, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đưa ra một dẫn chứng: Trong
ṭa tháp Hà Nội dựng lên trên đất Hỏa Ḷ có một nhà trẻ thượng đẳng, giá gửi
một cháu là 2800 đô-la/ tháng, tính trong giờ qui định, hết giờ qui định mà
c̣n ở lại nhà trẻ th́ bố mẹ phải trả thêm 4 đô-la/giờ. Một người nước ngoài
phàn nàn với Tiến sĩ Lê Đăng Doanh rằng, muốn đăng kư gửi mà hết chỗ rồi,
trong số đó có 20 người VN gửi con ở đó.
Nh́n nhận hệ thống
chính trị VN hiện nay, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói, nguyên văn câu nói của
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: "Hệ thống chính trị của ta hiện nay có nhiều điểm
không c̣n phù hợp, bất cập và kém hiệu quả nặng, ta tự tạo nhiều khuyết tật,
tự tạo ra nhiều vấn đề, kết hợp với mặt trái kinh tế thị trường sẽ dẫn dến
chệch hướng rất lớn". Nhược điểm lớn nhất thể chế chíh trị của chúng ta
là chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề. Đè nén dân quá
làm cho nó tích tụ lại, đến lúc nào đấy nó sẽ diễn ra cái việc ǵ đó giống
như ở Liên Xô hay Cộng Ḥa Dân Chủ Đức hay như ở đâu đấy .... Theo ông Doanh
th́ ở Trung Quốc cũng có nguy cơ giống hệt như ở ta ......
Việt Hùng:
Thưa Ts Nguyễn Thanh Giang, cái bài phát biểu của Ts Lê Đăng Doanh như vậy
là cũng đă hơn 3 tháng nay. Tiến sĩ ghi nhận trong hàng ngũ đảng viên, hàng
ngũ trí thức ở tại Việt Nam th́ mọi người nhận định về bài nói chuyện của Ts
Lê Đăng Doanh như thế nào ?
Ts. Nguyễn Thanh Giang:
Cái bài đó th́ măi gần đây mới lọt ra ngoài, nhưng mà trong ṿng mấy hôm nay
tôi thấy rằng các người quan tâm đến t́nh h́nh đất nước đi xin nhau, đi
photo, cho nhau rồi biết rất nhiều. Nhiều người đến hỏi tôi và họ thích thú,
họ cho rằng cái bài nói ấy là cái bài nói được gan ruột, được ư nghĩ, được
t́nh h́nh thực tế hiện nay và nó chứng tỏ một sự bức bối mà nó cần phải bung
ra từ trong nội bộ. Nó thể hiện bây giờ cái suy nghĩ đa chiều, nó khác nhau,
nó cọ sát nhau, chứ không thể bưng bít nhau được nữa. Và nếu mà cứ duy ư chí
mà cứ bưng bít nó lại, bóp chặt nó lại th́ nó sẽ bùng nổ dữ dội lắm.
Việt Hùng:
Với cái nh́n của Tiến Sĩ th́ do đâu mà Ts Lê Đăng Doanh lại có cái bài phát
biểu như vậy, dài 32 trang trong một hội nghị (khép kín) mà có thể nói là
quan trọng như vậy ?
Ts. Nguyễn Thanh Giang:
Cái tôi nói là sở dĩ ông Lê Đăng Doanh được đứng lên đăng đàn là do Ủy viên
Trung ương Bộ Chính Trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng Trần Đ́nh Hoan
có lời yêu cầu, th́ ông mới được đăng đàn. Nhưng mà khi được đăng đàn như
thế này th́ cái điều lư thú tức là ông Lê Đăng Doanh đă chóp lấy thời cơ đó
để bày tỏ tất cả những suy nghĩ nung nấu của ḿnh trong suốt thời gian dài
vừa qua phục vụ Đảng, phục vụ các cán bộ cao cấp của Đảng và tất nhiên trước
đây th́ ông gần các ông khác th́ ông biết được tất cả những rận ở trong
chăn, ông biết tất cả những cái đó.
Nhưng khi ông c̣n ngồi
phụ tá cho ông Phạm văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn văn Linh th́ ông không
dám nói, nhưng giờ th́ ông đă nghỉ hưu rồi th́ ông quy gốc với con người trí
thức của ông mới sống lại hoàn toàn và ông nói thẳng, nói thật. Tôi cho rằng
chính là v́ như thế mà bây giờ TS Lê Đăng Doanh trở thành người được toàn
Đảng toàn Dân hâm mộ và ông đang thực sự đóng góp cho việc xây dựng Đảng một
cách tích cực nhất trong công cuộc cải tổ này.
Việt Hùng:
Tiến Sĩ vừa mới nói rằng tài liệu đó th́ bây giờ dư luận ở Hà Nội mới bắt
đầu biết được đến. Nguyên do nào mà tài liệu đó lại được giữ kín đến mức độ
như vậy? Phải chăng là v́ những nhận định và những điều mà Ts Lê Đăng Doanh
viết không đúng theo cái ư của Đảng hay sao?
Ts. Nguyễn Thanh Giang:
Th́ tất nhiên là mấy ông lănh đạo th́ cũng thấy rằng cần phải nghe. Muốn
nghe đấy, nhưng mấy ông chỉ muốn một ḿnh mấy ông nghe thôi, độc quyền nghe
thôi. Cho nên tôi thường bị công an răn dạy rằng: "Thưa anh, anh viết ǵ th́
anh viết, không ai cấm anh, nhưng anh viết xong th́ anh chỉ nên gửi cho mấy
ông lănh đạo thôi, và gửi cho chúng tôi, chứ anh không nên gửi ra ngoài".
Thế th́ đối với ông Lê Đăng Doanh nói bên trong th́ được, nhưng mà họ bóp nó
lại, họ chận nó lại, chỉ để trong ḷng họ nghe, họ biết để t́m cách đối phó
thôi.
Cho nên đây là một tài
liệu hết sức mật. Mức độ mật của nó cũng không kém ǵ bức thư của ông Nguyễn
Văn Khánh cả. Nhưng tôi cho rằng v́ t́nh h́nh nội bộ bây giờ nó đă nức vỡ
rồi, không chỉ nức vỡ ở phía dưới, mà nức vỡ ở trên thượng đĩnh rồi cho nên
chả có cái ǵ bí mật được đâu, chả có cái ǵ giữ ǵn được đâu. Tôi chỉ nói
một ví dụ mà gần đây tôi rất ngạc nhiên. là Hội nghị 6 ông ngồi bàn với
nhau, rồi có thêm ông Đỗ Mười, ông Lê Đức Anh dự.
Có ư kiến của ông Lê
Đức Anh là khai trừ ông Vơ Nguyên Giáp, ư kiến ông Đỗ Mười th́ đ̣i khai trừ
ông Nguyễn Nam Khánh, tôi nghĩ đại hội đó th́ rất hẹp lắm chứ nhưng làm sao
mà cũng lọt ra được ngoài. Thế mà nó lọt ra ngoài, th́ chứng tỏ rằng là từ
trên chóp bu là đă có một cái ǵ bằng họăc không bằng ḷng mà người ta không
nói thẳng ra mặt đâu, nhưng mà t́m cách để người ta... thậm chí là sắp tới
người ta sẽ t́m cách để chọc vào lưng nhau, người ta thụi vào mặt nhau.
Việt Hùng:
Nhưng mà trong một tinh thần mà Đảng vẫn kêu gọi là nói thẳng, nói thật,
chẳn hạn như là nhiều ư kiến cá nhân nhiều lần đóng góp cho đảng nhưng mà
thường thường những ư kiến đó th́ nhiều người nói rằng: Vâng th́ chỉ việc
gởi cho cấp lănh đạo thôi nhưng mà gởi cho cấp lănh đạo th́ bị bỏ trong học
tủ, bỏ xó, không được sự hồi âm mà thậm chí là bị dán cho cái mác là có
những ư tưởng chống lại đảng.
Ts. Nguyễn Thanh Giang: Vâng. Th́ cái xă hội này toàn
những vấn đề ngược cả chứ. Nó cứ nói, thực tế một đàng mà nó nói một nẽo, và
có khi họ muốn một đàng th́ họ tung hô lên một nẽo, v. v... Cho nên nó mới
là cái xă hội bệnh hoạn, cái xă hội không sống trên cái công khai và cái
trung thực cho nên tôi đă nói là công an răng dạy tôi là viết th́ đừng có
đưa, nói nhẹ nhàng rằng nếu anh rănh th́ anh chỉ đưa cho cán bộ lănh đạo và
chỉ đưa cho chúng tôi. Chứ anh đưa ra ngoài rồi mấy ông ổng lợi dụng anh rồi
mấy ông tán phát làm lăng nhăng nọ kia.
Tôi
bảo như thế này: Tôi là một cái anh làm khoa học tự nhiên nhá. Cho nên khi
mà tôi bỏ th́ giờ ra tôi viết những cái bài như vậy là công phu lắm, có mồ
hôi, có nước mắt của tôi, có chất xám của tôi bị ḅn rút ra ghê gớm lắm th́
tôi mới viết được những cái bài chính luận để góp ư kiến như vậy. Cho nên
tôi viết không để mà chơi, c̣n chừng nào mà tôi thấy rằng là các anh, cái
thói kêu ngạo, cái thói kêu ngạo cộng sản xem đời không ra ǵ, không thèm
đọc, không thèm xét đến ư kiến của tôi một cách nghiêm túc th́ tôi đành phải
viết cho toàn Đảng, toàn Dân đọc. Và cho nên, tôi phải tán phát rộng răi bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu .Tôi trực tiếp đưa lên internet.
Việt Hùng: Những ư tưởng mà Ts Lê Đăng Doanh
tŕnh bày như vậy, cá nhân Tiến sĩ th́ Tiến sĩ cũng đă nhiều lần tŕnh bày
trong các cuộc nói chuyện với chúng tôi. Th́ phải chăng rằng cá nhân Tiến Sĩ
cũng như Ts Lê Đăng Doanh có một cái nh́n chung trong một ư tưởng nào đó hay
sao ạ?
Ts. Nguyễn Thanh Giang: Vâng, Lâu nay khi mà có được
bài nói chuyện này truyền tay nhau được tán phát th́ nhiều cụ lăo thành cách
mạng, nhiều cụ chiến binh có đến nói với tôi rằng là sao nghe TS Lê Đăng
Doanh nói như thế này th́ người ta cũng thấy là ông TS kinh tế Lê Đăng Doanh
nói cũng giống như TS địa vật lư Nguyễn Thanh Giang, chỉ khác là một ông th́
nói trước, một ông th́ nói sau.
Ngoài lănh vực đối nội, Ts Lê Đăng Doanh đă phê phán chủ trương giải thể
Đảng Dân Chủ và Đảng Xă Hội làm mất mầm mống đa nguyên đa đảng. Ngoài những
yêu cầu mà ông Lê Đăng Doanh nêu lên là phải tăng cường thanh lọc, phải xét
lại giai tṛ chỉ đạo của kinh tế quốc doanh, v.v... Th́ bây giờ phải kiểm
điểm lại một số vấn đề đối ngoại và công tác nước ngoài mà xem. Về Trung
Quốc, Ts Lê Đăng Doanh nhận định rằng, bây giờ tôi nhắc lại nguyên lời của
Ts Lê Đăng Doanh, bây giờ bạn của chúng ta là ai, ai là bạn của chúng ta,
nhân sự th́ ai hợp tác với chúng ta, liệu có nhân sự không. Mà cái ông Trung
Quốc, ông ấy có phải là bạn ta không hay là ông lăm lăm để thịt ḿnh đây.
Thế
rồi ông Lê Đăng Doanh cũng đề xuất một việc như thế này, là nếu ta chớp Vịnh
Cam Ranh lại th́ có thể kiểm soát được kinh tế dầu lửa của Trung Quốc, lúc
bấy giờ TQ sẽ rất ớn, bởi v́ TQ hiện nay đă làm bài toán sai lầm, Trung Quốc
rất đang đói dầu lửa. Ông Lê Đăng Doanh nói như thế này: "Ông Hoa Kỳ th́ ông
nói là ta, từ trước đến nay chưa có chiếm đất của thằng nào bao giờ. Hơn nữa
Hoa Kỳ với ḿnh hai nền văn minh khác nhau, chế độ kinh tế khác nhau, tâm lư
khác nhau. Cho nên để mà hiểu nhau được không phải là đơn giản".
Tất
nhiên là v́ bài nói của ông Lê Đăng Doanh là do Ủy Viên Bộ Chính Trị, trưởng
ban tổ chức Trung ương Đảng đặt hàng, lại nói trước toàn những quan chức
cộng sản nên ông ấy chỉ dám nói đến thế là cùng. Mà người nghe phải hiểu xâu
xa hơn cả cái phần ư tại ngôn ngoại
Việt Hùng: Thay mặt thính giả của đài, xin cảm
ơn Ts Nguyễn Thanh Giang đă giành th́ giờ cho cuộc nói chuyện ngày hôm nay!
----- O -----
Thời Đại
Mới, Tư Tưởng Mới
Hoàng Tùng
LTS. Điện thư trích đăng phần“Chủ nghĩa Mác vào cuộc” của Hoàng Tùng để độc
giả có thêm tư liệu. Đây là phần thứ hai trong cuốn sách tựa đề ”Thời Đại
Mới, Tư Tưởng Mới”, (Thử suy nghĩ về tiền đồ chủ nghĩa Mác), xuất
bản tại Hà Nội năm 2004. Tuy nhiên v́ khuôn khổ có hạn, chúng tôi phải bỏ
bớt một số đoạn, những chổ có dấu ……là phần bị bỏ. Hoàng Tùng là một cán bộ
cao cấp, về cuối đời ông nh́n lại Chủ nghĩa cộng sản bằng cặp mắt khách quan
hơn, tuy chưa triệt để v́ vẫn c̣n những giới hạn bộc lộ qua các bài viết. Dù
vậy, với uy tín và ảnh hưởng của Hoàng Tùng, sự giác ngộ muộn màng về nhận
thức của ông sẽ tạo ra chấn động về mặt tư tưởng trong đảng CSVN, nhất là
đối với giới lănh đạo Hà Nội giáo điều và cổ hủ.
Phần thứ hai
Chủ nghĩa Mác vào cuộc
………….. Bài giải thích gốc [chủ nghĩa Mác] của Stalin được truyền bá là sách
gối đầu giường hoặc kinh thánh của những người cộng sản. Trong 3 người đứng
đầu Liên Xô tự phong là nhân vật kinh điển số 2 đứmg đầu phong trào cộng sản
quốc tế, trước tác của ông cũng nhiều (không nhất thiết tát cả đều do ông
viết), đều được coi là kinh diển v́ cuốn sách mang tên ông đều có in ảnh bốn
người ngang nhau. Ông kư tên nhiều sách. Phần lớn là văn kiện (các báo cáo
chính trị). Những trước tác chủ yếu của ông là những bài nói chuyện nói
trên, những bài chống các loại gọi là chủ nghĩa cơ hội, Giản sử lịch sử Đảng
Cộng sản Liên Xô. Những sách này thuộc loại mọi người phải đọc, và nói trái
là chống Đảng. Người ta cũng gọi chủ nghĩa Stalin không phải là quá đáng v́
có chủ nghĩa Tôn Văn, chủ nghĩa Gandhi và nhiều chủ nghĩa khác. Stalin viết
và nói, nhất là để đứng đầu một Đảng Cộng sản nhiều năm nhất, 1903-1990, và
một Nhà nước có lănh thổ bằng 1/6 diện tích quả đất từ năm 1923 - 1993.
Điều cần nhận định là qua lư luận và hành động, Stalin đă tŕnh bày trước
nhân loại một học thuyết tả cực đoan và hành động th́ tàn bạo, độc ác. Ông
là một nhà độc tài thô bạo. Trong những bài nói, bài viết của ḿnh, Stalin
đă đưa ra nhiều luận điểm quá tả như: giới thiệu Lênin chỉ nói những vấn đề
thuôc về chiến lược, sách lược nhấn mạnh những cái tả. Ba cương lĩnh cách
mạng được khởi thảo dưới sự chỉ đạo của ông đủ tiêu biểu cho chủ nghĩa tả
khuynh về mặt lư thuyết. Băi bỏ chính sách kinh tế mới của Lênin, tập trung
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, ưu tiên xây dựng những cơ sở công nghiệp
nặng, xoá bỏ toàn bộ các h́nh thức sở hưũ, kế hoạh tập trung nền kinh tế chủ
nghĩa c̣n là sản xuất, xoá bỏ triệt để thương nghiệp và dịch vụ. Cuộc đấu
tranh chống hiện tượng mà ông gọi là tả khuynh thật là khốc liệt, xoá bỏ
tầng lớp phú nông, tập thể hoá là xoá bỏ cả tiểu nông và toàn bộ giai cấp
nông dân, nông trường viên và xă viên nông trang là người lao động nông
nghiệp. Chính sách tiền lương và phân phối đến toàn xă hội và viên chức của
Nhà nước Xô viết cực kỳ sai lầm v́ nó triệt tiêu động lực sáng tạo của người
lao động, do đó mà năng suất lao động lúc cao cũng chỉ băng 1/3 của lao động
các nước tư bản. Ăn ít cũng không thể làm nhiều.
Stalin nhận định, quá tŕnh đi lên chủ nghĩa xă hội trên toàn thế giới bắt
đầu là thắng lợi của cách mạng tháng 10, là quá tŕnh chuyển đổi từ sự bao
vây chủ nghĩa tư bản đối với chủ nghĩa xă hội thành quá tŕnh ngược lại. Nền
chuyên chính vô sản càng ngày càng phải quyết liệt hơn v́ sự phản ứng của
các giai cấp bị đánh đổ đến gần sự thắng lợi của chủ nghĩa xă hội cũng giăy
giụa, điên cuồng, thất vọng. Chuyên chính vô sản chẳng những phải tiêu diệt
các giai cấp tư sản mà c̣n phải tiêu diệt những mầm mống của nó trong xă
hội, nền sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản (luận điểm này
của Lênin được nhấn mạnh và quán triệt trong hành động). Những kết luận nêu
trong giản sử lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô cũng là tiêu biểu của chủ nghĩa
tả về công tác lư luận tổ chức đảng, chống khuynh hướng tiểu tư sản. Nêu cao
tác dụng phê b́nh và tự phê b́nh nhưng không bao giờ phê b́nh mà phản kích
ác liệt những người phê b́nh cơ quan lănh đạo. Liên hệ với quần chúng chỉ là
điều nói suông (càng ngày càng xa cách trong thực tế). Sau chiến tranh, nền
kinh tế của Liên Xô dược khôi phục về đại thể, sau một kế hoạch 5 năm.
………… Sau khi củng cố lực lượng vũ trang c̣n lại và xây dựng khu căn cứ ở
Diên An, Mao mở chiến dịch phê phán đường lối chính trị giáo điều làm theo
cương lĩnh cách mạng của Đại hội Quốc tế Cộng sản do Stalin chỉ đạo soạn
thảo, phát động Đại cách mạng vô sản. Cuộc đấu tranh diễn ra cực kỳ ác liệt.
Vương Minh, Lư Lập Tam, bị phê phán đích danh và cách hết mọi chức vụ.
Một
Ban lănh đạo mới được chỉ định gồm Mao là Chủ tịch và các nhân vật trọng yếu
sau đây: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Trần Vân, Nhiệm Bật Thời, Khang Sinh.
Phê
phán và bác bỏ đường lối và những người đề xuất thực hiện đường lới đó là
một cuộc chính biến chống Stalin. Song quan hệ giữa Đảng Cộng sản do Mao
đứng đầu vẫn duy tŕ một cách lỏng lẻo với Liên Xô và Quốc tế Cộng sản……………
Tư
tưởng hoặc chủ nghĩa Mao ra đời từ năm 1942 khi Mao viết tác phẩm ”Luận
tân dân chủ cách mạng”, chủ trương thành lập chế độ dân chủ
mới, thực hành chuyên chính bốn giai cấp: Công nhân, nông dân, tiểu
tư sản, tư sản dân tộc. Ông nói: Người Đức, người Nga và người Trung Quốc
ta, ông Tôn Văn có chủ nghĩa của ḿnh th́ ta cũng phải có chủ nghĩa của ta.
Muốn tỏ ra khiêm tốn, ta gọi là tư tưởng (do Lưu gợi ư). Thực chất cuộc cách
mạng của Mao là cách mạng của nông dân, chiến tranh nông dân. Lịch sử thường
lập lại như di truyền ở Trung Quốc đă có phong trào nông dân Khăn Vàng,
Hoàng Sào, Lương Sơn Bạc, Thái B́nh Thiên Quốc. Sau này, khi đă cầm quyền
Mao cũng là h́nh ảnh Tần Thuỷ Hoàng, Lưu Bang (trước đó, ông cũng là Trần
Thắng, Ngô Quy ?). Về quân sự, Mao là người thừa kế Tôn Vũ, Ngô Khởi).
Cách mạng Trung quốc, chủ nghĩa Mao đều là sản phẩm văn hoá của Trung Quốc.
Những sai lầm sau này của Mao cũng là sự kế thừa của quá khứ. Mao là một
người Mác-xit, các bài văn của ông đều thể hiện quan điểm giai cấp, kể từ
bài khảo sát phong trào nông dân tỉnh Hồ Nam, phân tích các giai cấp Trung
quốc đến những bài chỉnh đốn Tam phong, Mâu thuẫn luận, Thực tiễn luận.. .
Marx và Engels là người Đức, triết học do ông xây dựng cũng mang phong cách
Đức v́ ..người Đức là dân tộc triết học, tư duy khái quát rất phổ thông - có
khi khái quát vội. Truyền bá vào xă hội Trung Quốc và người Trung Quốc tiếp
thu chủ nghĩa Mác cũng mang theo phong cách Hán v́ nó phải xuất phát từ lợi
ích Trung Quốc và kết hợp với văn hoá Trung Quốc. Chủ nghĩa Mác mang những
phong cách khác nhau, do không gian và thời gian quyết định. Nói chủ nghĩa
Mác bất biến là không mac-xít, tức là không thấm nhuần chủ nghĩa duy vật
biện chứng ……………
Phần thứ ba
Bài học
Sự
tan ră của chủ nghĩa xă hội ở Liên xô (15 nước), Bungari, Đông Đức, Ba Lan,
Rumani, Hungari, Tiệp Khắc, Anbani, Nam Tư (mới), Mông Cổ, Trung Quốc (phần
của Mao) và thất bại của những cuộc phiêu lưu ở Inđônêxia (2 lần: 1938 và
1965), Nam Yêmen, Ethiopia, Bolivia, .. Els Sanvador, Nicaragoa cho nhiều
bài học lớn. Sự co lại như miếng da lừa của Balzac, phong trào cộng sản ở
các nước công nghiệp hoá trong đó có những thế lực một thời oanh liệt ở các
nước Pháp, Italia, trong khi đó phong trào xă hội dân chủ vẫn là một thế lực
lớn, một số đảng cầm quyền đă thi hành được nhiều chính sách tiến bộ điều
tiết các thế lực tư bản chủ nghĩa.
Cuộc thí nghiệm đă thực hành trong mấy chục nước ở nhiều châu lục và tồn tại
lâu nhất trên 70 năm, nước đi sau cũng nửa thế kỷ.
Liên Xô cũng giành được những thắng lợi có tính toàn cầu như sau Cách mạng
tháng Mười là thắng lợi chống nước Đức phát xit, nước Nhật quân phiệt, và
những thành tựu biến một nước công nghiệp mới ở giai đoạn đầu, căn bản vẫn
là một số nước tiểu nông với mức độ khác nhau thành một nước nông nghiệp
mạnh, xây dựng được một nền khoa học, một nền kỹ thuật tương đối tiến bộ,
với một đội ngũ các nhà khoa học tiên phong khá đông, đi đầu trong công cuộc
chinh phục vũ trụ.
Những bài học thành và không thành đều cần tổng kết nhằm giúp vào việc nhận
thức lại dưới ánh sáng của hơn một thế kỷ đi vào cuộc sống, của chủ nghĩa
Mác và của nền văn minh mới của nhân loại, đổi mới, bổ sung và phát triển
trong thời cơ lớn, lấy lại sức sống và là động lực phát triển của lịch sử.
V́
đâu mà lại xuất hiện những nhân vật có thể tiêu diệt hàng triệu người, buộc
cả một đảng, một dân tộc phải nghe theo, không dám chống lại sau một cơn nổi
giận, có thể đánh đổ tất cả những ǵ đă xây dựng do bao xương máu và nước
mắt của nhiều thế hệ.
Thật không ngoa: Gengis, Napoléon, Hitler không thể sánh vai với Stalin; Tần
Thuỷ Hoàng, Hán Cao Tổ, Đường Thái Tôn không thể sánh với Mao Trạch Đông.
Thậm chí ở một nước nhỏ như Bắc Triều Tiên, một Kim Nhật Thành có thể nắm
quyền sinh sát. Cuba, Bắc Triều Tiên vẫn c̣n đứng vững sống, nhân dân buộc
phải sống căng thẳng kéo dài.
Phải chăng có thể có mấy bài học lớn sau đây:
Lịch sử xưa nay vẫn đi theo con đường tự nhiên của nó
Sự
can thiệp của con người không thể phá bỏ quy luật, một chế độ kinh tế xă hội
chỉ có thể thay đổi do sự phát triển đến hạn của kỹ thuật sản xuất và một
nền văn hoá phù hợp. Cái con người có thể thay đổi là thế lực và thể chế
quyền lực song cũng có giới hạn, quá khứ sẽ giành lại nếu đi quá xa, tuân
theo qui luật vận động khách quan không phải là sùng bái sự tự phát. Thoát
ly, bất chấp qui luật vận động khách quan th́ cái giá phải trả rất cao, dẫn
đến những thảm hoạ lịch sử. Cũng có những cơ hội tạo ra được những bước
ngoặt đi lên, con người phải sẵn sàng tranh thủ nhưng chỉ đi xa khỏi giới
hạn.
Ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, chưa có cuộc cách mạng vô sản nào bùng
nổ. Ở đây, người ta vẫn đi theo con đường tiến hoá cải lương. Các đảng cộng
sản kị đảng nào tập hợp được lực lượng bằng con dường bạo lực đánh đổ chế độ
tư bản.
Các
cuộc cách mạng nổ ra và thắng lợi trong thế kỷ thứ 20 đều ở các nước nông
nghiệp tàn dư phong kiến c̣n nặng, tiêu biểu là Nga và Trung Quốc, Mông Cổ
th́ c̣n lạc hậu hơn, kinh tế du mục. Một số nước là thuộc địa. Thực chất các
cuộc cách mạng ấy là dưới ngọn cờ giải phóng xă hội. Những người cách mạng
tổ chức ra lực lượng chiến đấu, nắm được thời cơ, đánh đổ bộ máy cầm quyền
bị nhân dân oán ghét vào lúc nó suy yếu do chiến tranh, thiết lập chính
quyền cách mạng.
Bản
chất các cuộc cách mạng ấy là cách mạng nhân dân, cách mạng giải phóng dân
tộc ở nước thuộc địa như Việt Nam.
Tất
cả các nước xă hội chủ nghĩa đều đă theo con đường của Liên Xô và đều phá
sản. Trung Quốc buộc phải chuyển hướng sau Cách mạng Văn hoá, thực chất là
nội chiến, tranh chấp quyền lực trong nội bộ Đảng Cộng sản.
Việt Nam lúc đầu cũng đi theo con đường của Liên Xô và Trung Quốc, sau hai
cuộc chiến tranh, đất nước, kinh tế bị tàn phá, buộc phải quay trở lại con
đường do Nhà nước cách mạng xác định từ khi mới ra đời, phát triển công
thương nghiệp dân tộc, mở rộng kinh tế thị trường, các h́nh thức kinh tế và
giao lưu quốc tế.
Sau
này, tất cả các nước xă hội chủ nghĩa tan ră đều đi vào kinh tế thị trường.
Bài
học rơ ràng đă thông qua thất bại phải trở lại từ đầu trong hoàn cảnh mới,
nhiều điều phải đi vào thời đại mới.
1/
Lúc đầu đúng về phương pháp tiếp cận khoa học, sau đó lại hướng nhảy quá
cao thành nguy hiểm dẫn đến tai hoạ.
Đảng công nhân xă hội lúc đầu đưa ra cương lĩnh cách mạng tư sản dân chủ,
tức là cách mạng tư sản công, nông có thể gọi là nhân dân, không phải của tư
sản trong thế kỷ 19, triệt để hơn cuộc cách mạng dân chủ của đẳng cấp thứ ba
ở Tiệp lúc bấy giờ, hai giai cấp tư sản và vô sản chưa h́nh thành mới chỉ có
mầm mống, sau đó Napoléon đă đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp, kinh tế,
chính trị (thể chế tư sản), văn hoá.
Nước Nga phong kiến chuyên chế, từ Pierre thứ nhât bắt đầu công nghiệp hoá,
đến đầu thế kỷ 18 mới vào giai đoạn đẩu của chủ nghĩa tư bản, song về cơ bản
vẫn là chế độ phong kiến lănh chúa điều hành.
Khi
đi vào một cuộc cách mạng, điều quyết định thành bại là phải xác định nó bắt
đầu và sẽ đi đến đâu trước mắt, từ đó, quyết dịnh chủ thể cách mạng là những
lực lượng xă hội nào. Không có cuộc cách mạng nào lại xuât phát từ chỗ chân
không và tiến tới một khoảng không mênh mông. Cách mạng là cải tạo t́nh
trạng không phù hợp, không có các động lực của phát triển, quần chúng bất
b́nh. Sự phát triển bao giờ cũng là sự tiếp nối, giành lại những cái hiếm có
hợp lư, thay những cái không hợp lư thành cái hợp lư.
Sự
tiếp cận ban đầu của Lênin là tương đối với Nga, không đúng với các nước
công nghiệp Tây Âu, cách tiếp cận của Bertain, Causky là đúng với các nước
đó, các con đường có thể song song. Chủ trương chuyển lên chủ nghĩa vô sản,
đi ngay vào chủ nghĩa cộng sản tháng 4 năm 1919 và giải pháp t́nh thế dẫn
đến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười song lại là nguyên nhân trực tiếp đổi
mới và sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa tư bản quốc tế. Sự trở lại con
đường ban đầu, thay đổi căn bản nhận thức về con đường tiến lên chủ nghĩa xă
hội ở nước Nga, thực hiện chính sách kinh tế mới, vừa là giải pháp t́nh thế,
vừa là con đường đúng.
Băi
bỏ con đường ấy, trở lại chủ nghĩa cộng sản là bước vào con đường nguy hiểm
dẫn đến tŕ trệ và phá sản sau này. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng
Mười của công cuộc công nghiệp hoá, của cuộc chiến tranh chống phat xít là
thắng lợi của tinh thần yêu nước, như đă đánh thắng Napoléon, của tư tưởng
nhiệt t́nh cách mạng. Nguyên nhân dẫn đến thất bại là sự hy sinh cuộc sống,
lợi ích vật chất và tinh thần của con người, của đời sống gia đ́nh và cá
nhân, tất cả đều nhân danh tập thể, bất chấp lợi ích từng người.
Trong khi phải đương đầu với chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế
giới, đề xuât chính sách liên minh dân chủ, chủ nghĩa dân chủ mới cũng là
giải pháp t́nh thế, đồng thời trở lại con đường đúng đắn ban đầu tạo ra động
lực mới.
Sau
thắng lợi chống chủ nghĩa phát xít, lại băi bỏ một cách tàn bạo ở tất cả các
nước châu Âu và châu Á. Sự tiến tới chủ nghĩa xă hội kiểu Liên Xô hoặc Trung
Quốc mà nhiều nước mới thoát khỏi chủ nghiă thực dân nhanh chóng thất bại v́
cũng là những mạo hiểm quá sức (saut périlleux).
Tất
cả các nước xă hội chủ nghĩa cũ, sau năm 1990 đều trở lại kinh tế thị trường
đi vào quá tŕnh toàn cầu hoá trong nền văn minh mới, nghĩa là phải làm lại
từ đầu trong thời đại mới. Một thế kỷ cách mạng oanh liệt, thắng lợi vẻ vang
và thất bại nặng nề. Cái giá phải trả to lớn không thể nói hết. Điều có ích
lớn là nhận thức đúng những bài học và xác định đúng con đường phát triển
trong kỷ nguyên trí thưc, khoa học, trí tuệ là nhân tố thắng lợi cơ bản.
Nếu
nói quyền lực là vấn đề then chốt của cách mạng th́ bản chất quyền lực như
thế nào là vấn đề quan trọng đầu tiên.
Một
xă hội tương lai như bản phác thảo của Marx và Engels tŕnh bầy ít tranh căi
trong phong trào cộng sản, những vấn đề tranh luận gay gắt kéo dài là con
đường chủ thể cách mạng và quyền lực thay thế quyền lực cũ.
Đối
với những người đối lập với chủ nghĩa Marx th́ học thuyêt cơ bản bị coi là
một ảo tưởng, một thảm hoạ nhân loại, chủ nghĩa tư bản là xă hội hợp lư sẽ
tồn tại lâu dài và khắc phục khuyết tật của nó.
Marx, Engels chủ trương chủ thể cách mạng chỉ là giai cấp vô sản song trong
thực tế, giai cấp ấy không tồn tại ở mọi không gian, thời gian. Lênin nhận
định chủ thể cách mạng ở nước Nga là giai cấp công nhân và nông dân, vai tṛ
chủ đạo là công nhân, nông dân cũng xem xét theo tiêu chuẩn công nhân. Mao
nhận định từ đầu là nông dân, có lúc nói là của bốn giai cấp, cuối cùng trở
lại nông dân, coi giai cấp công nhân đă tư sản hoá, quư tộc hoá ở Liên Xô và
các nước châu Âu. Mao nói: Tôi sẽ tranh luận với Karl, vấn đề tôi đúng hay
ông đó đúng. tôi nói :”Nông dân cách mạng nhất”. Mác nói “Công nhân”. Hăy
trông vào thực tế cách mạng.
Hồ
Chí Minh nói: “Cách mạng là của nhiều lực lượng xă hội”, năm 1922 ông thêm
vào khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kêt lại” ! bằng khẩu
hiệu: “Tất cả các lực lượng bị áp bức, bóc lột đoàn kết lại”. Marx
nói giai cấp vô sản đánh đổ giai cấp vô sản các nước tư bản, làm cách mạng
giải phóng ḿnh đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Bác Hồ nói: ”Các dân
tộc phải tự ḿnh làm cách mạng, không trông chờ giai cấp vô sản các nước
chính quốc”. Ở các nước thuộc địa, chủ thể cách mạng là toàn dân. Ở đây,
sự phân hoá xă hội khác với các nước công nghiệp. Chế đô phong kiến cũng
vậy, không có chế độ lănh chúa.
Quyền lực cách mạng, chế độ mới thuộc về ai cũng là vấn đề tranh luận về đấu
tranh, vô cùng phức tạp. Marx và Engels chủ trương chuyên chính vô sản, bá
quyền vô sản, Lênin nhất trí và đi xa hơn khi ông viết tác phẩm Nhà nước và
Cách mạng (sau tháng Mười, dự định viết lại song không được). Mao đưa ra
thuyết Đảng Cộng sản, chính quyền Nhà nước đều ra đời từ họng súng của đội
quân nông dân, ông đă nă pháo vào bộ tư lệnh của Đảng Cộng sản Trung quốc mà
ông cho là đă đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vấn đề này trở thành những
cuộc tranh chấp quyền lực đẫm máu ở Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác,
sau khi Đảng cộng sản nắm chính quyền. Về lư thuyêt thật th́ đề cao chính
quyền của giai cấp, Đảng của giai cấp; trên thực tế biến thành Đảng của giai
cấp, Đảng trở thành siêu quyên lực, trên thực tế trở thành quyền lực của một
nhóm nhỏ, của một nhân vật đứng đầu, một chế độ cực quyền cá nhân, tạo thành
trở lực cực kỳ lớn, triệt tiêu động lực cũng cực kỳ lớn của sự phát triển.
Ở
Liên Xô, cuộc đấu tranh quyền lực diễn ra ngay lập tức sau khi Stalin qua
đời. Stalin chết, cuộc đấu tranh quyền lực lại tiếp tục. Khroutchev loại trừ
thế lực của Stalin muốn thay đổi cả đường lối cũ, song không kịp thực hiện
đă bị đánh đổ. Cuộc tranh chấp quyền ưực tiếp tục sau khi bộ ba: Brejenev,
Souslov, Koxưghin qua đời giữa Gorbachev và Yelsin
Ở
Trung quốc, cuộc tranh chấp quyền lực diễn ra liên miên từ những năm 1920
giữa nhóm 28 người bolchevich được đào tạo theo con đường Stalin với Trần
Độc Tú, giữa Mao và nhóm người ấy, giữa Mao và Lưu, Đặng (lũ bốn tên thuộc
về Mao, giữa Mao và Lâm Bưu và sau này giữa các thế lực diễn ra kín đáo
hơn).
Nói
tóm lại, th́ gần như trong tất cả các Đảng cầm quyền đều thực hiện quyền lực
cá nhân (nói thành thật là Hồ Chí Minh từ đầu đă phản đối và kiên tŕ chống
tranh chấp quyền lực và tự ḿnh nêu gương, bao giờ cũng dựa vào tập thể và
nhường quyền điều hành cho nhân vật lănh đạo thứ hai).
Tệ
chuyên quyền cá nhân, h́nh thành đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, đă bị phê phán
nhưng không đánh đổ được, chỉ có hiện tượng đánh đổ lẫn nhau. Tệ chuyên
quyền cá nhân, cực quyền hơn cả các vua chúa ngày xưa, kiềm chế quần chúng
về mọi mặt. Tần Thuỷ Hoàng đốt sách nho, chôn sống nhà nho. Chế độ cực quyền
cá nhân kiểm soát toàn xă hội cả đời sống kinh tế, văn hoá, cuộc sống gia
đ́nh, cho ǵ ăn nấy, chỉ có quyền vâng lời, không được phép nói trái với
người lănh đạo.
Chế
độ cực quyền c̣n có cái hoạ là nhân cách, phong cách của nhân vật nắm trọn
quyền lực, anh ta có thể phá sạch thành tŕ, tiêu diệt hàng triệu sinh mạng,
ban phúc, gieo tai hoạ, tâm lư thất thường.
Là
quyền lực của nhân dân là tất yếu và nhiều nhân vật lănh đạo nói quá nhiều.
Mọi quyền lực đều của nhân dân, dân chủ mà dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ
tư sản, dân chủ nhất. Nhận định như vây là đúng với quy luật phát triẻn v́
nền dân chủ này là nền dân chủ ban đầu của cách mạng dân chủ tư sản phát
triển thành nền dân chủ chung, chứ không phải về thực chất là của giai cấp
tư sản, trang trí bằng các vỏ dân chủ hào nhoáng đánh lừa được nhiều người,
các thứ tự do đều có những quyền lực và két bạc của giai cấp tư sản không hề
lay chuyển, mất mát.
Quyền lực thực sự là của dân, do dân và dân được thể hiện đầy đủ trong thực
tiễn th́ sức mạnh của nền dân chủ là vô địch, cả lực lượng vật chât lẫn tinh
thần. Nhờ thực tiễn chưa thật đầy đủ nhưng các cuộc kháng chiến của ta chống
các thế lực xâm lược to lón là sức mạnh của toàn dân. Nó là vô địch. H́nh
thức quyền lực mỗi nước một khác, ở đây là Xô Viết, nói khác là cộng hoà dân
chủ, không nên rập khuôn.
2/
Các nước đi vào chủ nghĩa xă hội năm 1917, những năm 1950, đều là những
nước lạc hậu về kinh tế và văn hoá, nền sản xuât chủ yếu vẫn là tiểu nông,
xă hội tiểu nông, số người mù chữ khá đông. Trừ nước Nga, các nước khác
chưa có nền móng của một nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến. V́ vậy, các nước
đó phải tham khảo con đường của Lênin, chính sách kinh tế mới, từng bước tổ
chức lại nền sản xuất, nền cơ sở mới, nền kỹ thuật tiên tiến, tổ chức lại
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả nhằm xây dựng một nền sản xuất lớn hàng
hoá, xoá bỏ trạng thái thủ công, công thương, tự cấp, tự túc giống như chủ
nghĩa tư bản đă làm nửa sau thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chuẩn bị cho cuộc cách
mạng khoa học công nghệ lần thứ hai……………
Trong khi nền kinh tế thiếu hut, tiếp tục cái đà xuống dốc, tinh thần phấn
khởi xă hội tắt ngấm, người ta lại lao vào những công tŕnh xây dựng lớn,
dưới khẩu hiểu, hăy cố gắng lên, sắp đến chủ nghĩa cộng sản rồi đó, chẳng
khác ǵ các giáo sĩ Kitô kêu gọi các con chiên, cố gắng lên các con, sắp đến
thiên đường rồi đó.
3/
Thiên đường ngày càng xa
………..Những nhà sáng lập chủ nghiă Mác có cái lầm là đặt sức mạnh đội ngũ trí
tuệ dưới đội ngũ sức mạnh cơ bắp. Các ông phê phán những người trí thức gắn
liền với giai cấp thống trị, bảo vệ và phục vụ lợi ích của nó, nhiều nhà
thông thái rởm………
Các
nhà nước xă hội chủ nghĩa đều ra đời ở các nước nông nghiệp, văn hoá lạc
hậu, lại chịu sự chi phối của những học thuyết cổ đại bảo thủ, hướng cổ, rất
kị với những cái mới, nhất là về kinh tế, coi thương nghiệp là cái ǵ bẩn
thỉu, hèn hạ cần phải ức chế. Ở châu Âu nó là một động lực lớn, chính nó
chuẩn bị và góp phần phát triển nhanh nền kinh tế, nền văn hoá của các nước
tư bản chủ nghĩa.
Ở
các nước xă hội chủ nghĩa, trong lớp những nhà trí thức thường xuyên xuất
hiện nhiều khuynh hướng đối lập. Lớp người này vừa được sự ưu ái, vừa bị săn
đuổi, kể cả lớp trí thức do xă hội đào tạo không dính dáng ǵ với các giai
cấp bóc lột cũ. Tập hợp được lớp trí thức, tức là tập hợp tinh hoa của xă
hội, là một tiêu chuẩn đánh giá một nền chính trị mạnh hay yếu, sức hấp dẫn
nhiều hay ít. Những người trí thức biết nhiều, thích nói, phản kháng sự áp
đặt lẽ phải. Họ không dễ dàng làm việc với những người không bằng họ về trí
thức. Người cầm quyền thích ra luật, họ thích tranh luận, không bằng ḷng
với vị trí xă hội của ḿnh là bạn đường, đứng sau cùng trong trật tự xă hội
v́ không rơ chiến lược giáo dục, chiến lược khoa học đi liền với chiến lược
phát triển đất nước, đào tạo ra một đội ngũ đông đảo những người trí thức
nhưng không được sử dụng, sử dụng sai hoặc vất bỏ. Nhiều nhà trí thức của
các nước xă hội chủ nghĩa chạy sang các nước tư bản chủ nghĩa. Trái lại,
hiếm có những nhà trí tuệ có tài ở các nước tư bản chủ nghĩa chạy sang các
nước xă hội chủ nghĩa. Những nhà khoa học lớn nhât, những phát kiến lớn nhất
trong thế kỷ tứ 20 là của các nước tư bản chủ nghĩa.
Những người mac-xít một mực bác bỏ những phát hiện xă hội, văn hoá, nghệ
thuật của những người ở các nước tư bản chủ nghĩa như thuyết kỹ trị, làn
sóng thứ ba, cách mạng tin học, thuyết Taylor, thuyết Keynes đều cho là sản
phẩm tư sản.
Khi
tiếp xúc với các nhà trí thức thuộc phía bên kia, những người bên này thường
tỏ thái độ trịch thượng, thầy đời, lời dài, ư hẹp.
Rơ
ràng đội ngũ các nước tư bản chủ nghĩa năng động, hoạt bát, làm nên đ́nh
đám……
4/
Quan hệ quốc tế.
Marx và Engels kêu gọi giai cấp vô sản các nước đoàn kêt lại, tiến hành cuộc
cách mạng thế giới, đánh đổ chủ nghĩa tư bản Quốc té, đi đén thế giới đại
đồng.. Nếu là một viễn cảnh xa xôi th́ cũng là một niềm hy vọng, một ước mơ
của loài người. Đặt thành nhiệm vụ bàn tiếp th́ ta không thực tế mà dẫn đến
sai lầm về chính trị và tổ chức. Sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau là cần thiêt.
Cách mạng nhiều thay đổi h́nh thái kinh tế, xă hội là một quá tŕnh lịch sử
nổ ra và thắng lợi ở từng nước, không thể bùng nổ đồng loạt trên cả hành
tinh dược, sự chỉ đạo của một bộ chỉ huy toàn cầu theo một chiến lược thống
nhất.
Việc lập ra ba tổ chức Quốc tế: Quốc tế I, II, III có giúp đỡ một phần đáng
kể cho sự phát triển phong trào cộng sản, song nó là một cuộc tuyên chiến
với chủ nghĩa tư bản các nước, kích động đàn áp của chúng và dẫn đến sai lầm
là người hô hào thành lập tổ chức này, tự nhận là lănh đạo thành đạt, là
nhân vật trung tâm, dẫn đến tranh chấp sau đó. Rốt cuộc các quốc tế lần lượt
ra đời, lần lượt tự giải thể…….
5/
Cách mạng là một sự nghiệp cao cả giải phóng xă hội và con người, cải tạo
xă hội bât công thành xă hội công bằng. Bản chât nhân văn của cách mạng,
quyêt định phương pháp, h́nh thức cách mạng, thái độ ứng xử giữa con người,
thay đổi ứng xử bất nhân bằng lối ứng xử nhân đạo. Đạo Nho coi trọng chữ
nhân, chữ thiện, các tông giáo cũng khuyên thiện chống ác.Bản chất con người
là thiện. Có người nói: “Nếu coi con người là người th́ phải đối xử với
nó có tính người”. Nhưng cuộc cách mạng đă quá lạm dụng bạo lực, gây ra
những vụ đàn áp rât trầm trọng như ở Liên Xô, Trung quốc, thậm chí trong
Đảng giết lẫn nhau để tranh quyền. Những nhà cách mạng chân chính lên án
những hiện tượng tàn bạo đó, nghiêm khắc phê phán những người chủ trương mục
đích là tất cả, phương tiện không đáng kể. Phải nói lại rằng mục đích là
nhân đạo, th́ phương tiện sử dụng cũng phải nhân đạo.
Lỗi
lầm lạm dụng bạo lực khiến cho nhiều người xa lánh, ghê sợ cách mạng.
6/
Sự lănh đạo của Đảng cộng sản quyết định thành bại của cách mạng thể hiện
rất sinh động ở các nước trong thế kỷ vừa qua, thắng lợi và thât bại đều có
tầm cỡ lịch sử như mọi người chứng kiến, lịch sử ghi măi những sự kiện ấy.
Những thắng lợi lớn là cách mạng tháng 10 Nga, cách mạng Trung Quốc, Việt
Nam và các nước khác, thắng lợi trong cuộc chiến tranh thế giới chống chủ
nghĩa phát xít châu Âu và chủ nghĩa quan phiệt châu Á, cả của Nhật Bản và
Trung Quốc. Thắng lợi của các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc đia, xoá bỏ hoàn
toàn chủ nghiă thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới nhờ có chỗ dựa là các
nước xă hội chủ nghĩa và ảnh hưởng tư tưởng giải phóng của chủ nghĩa Mác,
chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mao và nhiều thắng lợi khác.
Sự
tan ră của chủ nghĩa xă hội ở Liên Xô và một loạt nước khác cũng do sự lănh
đạo của Đảng Cộng sản, nghĩa là cái đúng, cái sai đều có cả.
Nguyên nhân đúng sai từ đâu ra ? Đây là một bài học lớn nhât đối với tất cả
những người cách mạng.
Thắng lợi và thất bại đều bắt nguồn từ học thuyết cách mạng ban đầu, sau đó
là sự lănh đạo của các đảng và những nhân vật lănh đạo của các đảng ấy.
Từ
khi nắm quyền lănh đạo đất nước, các đảng trở thành chuyên quyền, người lănh
đạo tuyệt đối. Về danh nghĩa th́ nói rằng đảng của giai cấp công nhân, của
toàn Đảng, trong thực tế th́ người đứng đầu nắm mọi quyền lực, thông qua hệ
thống tổ chức thực hành mọi quyêt định. Người đứng đầu thường nhân danh
nguyên tắc tập trung, gắn thêm một cách lỏng lẻo để chuyên quyền và giải
thích là nguyên tắc cao nhất trong sinh hoạt cuả Đảng.
Khái niệm naỳ xuất hiện từ đâu, và nó được đưa vào hoạt động như thế nào?
Năm 1847 khi được những người lănh đạo Liên minh những người công chính
(Ligne des juste) yêu cầu cải tổ lại tổ chức này thành một chính đảng có
cương lĩnh điều lệ. Đáp lại lời mời đó Marx và Engels nêu những điều kiện và
thủ tục kết nạp các thành viên có tính tông giáo, hai là, chính đảng mới
phải là đoàn thể dân chủ, khi chuẩn bị ra các qui định th́ phải thảo luận
dân chủ, mọi người đều b́nh đẳng khi bỏ phiếu. Cơ quan cao nhất của toàn
đảng và các cấp là đại hội. Đại hội bầu ra cơ quan chấp hành; từ đại hội này
đến đại hội sau cơ quan cao nhât là Ban chấp hành, Ban này phải chịu trách
nhiệm trước đại hội.
Lúc
này chưa nói đến nguyên tắc tập trung. Nguyên tắc này do Lênin nêu ra. Cuộc
đấu tranh diễn ra gay gắt khi chuẩn bị điều lệ của Đảng Công nhân xă hội dân
chủ Nga. V́ vây, đảng chia thành hai phái, đồng thời tồn tại đến Cách mạng
tháng 10. Những người không tán thành chủ trương của Lênin là những nhân vật
hàng đầu của phong trào mac-xít lúc ấy ở Nga như Phekhanov, Marta, Bogdanov,
Asebra (?). Các đảng xă hội dân chủ Tây Âu cũng phản đối nguyên tắc này.
Cuộc tranh luận kéo dài suốt thế kỷ 20 và tiếp tục đến tận bây giờ
Chúng ta xem, nh́n lại việc đưa nguyên tắc ấy vào cuộc sống bắt đầu từ
Stalin. Ông này đă nhân danh nguyên tắc tập trung dân chủ để thực hiện chế
dộ cực quyền cá nhân và chế dộ này đă để lại những hâụ quả tai hại mà mọi
người đă biết. Và phong trào cộng sản quốc tế đă xuất hiện những nhân vật
khét tiếng tàn bạo: Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật thành, Cheochetxcu.
Thể
thức đưa ra các quyêt định rất tuỳ tiện. Những quyết định trên danh nghĩa
đều được thông qua thảo luận của các cơ quan lănh đạo. Song tiếng nói cuối
cùng vẫn là của nhân vật đứng đầu, người chuẩn bị các quyêt định đó thông
qua một nhóm nhỏ những người biên tập, không phải là những chuyên gia giỏi.
Nhiều quyết định có quan hệ đến vận mệnh, tiền đồ đất nước được đề xuất và
tất nhiên được chấp nhận theo tuỳ hứng, như băi bỏ chính sách kinh tế mới,
chuyển sang thực hiện năm năm với hai nhiệm vụ trung tâm công nghiệp hoá và
tập thế hoá nông nghiêp, sau khi thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch thứ
nhất, tiếp theo kế hoạch thứ hai, rồi năm 1936, tuyên bố xây dựng xong chủ
nghĩa xă hội ở Liên Xô.
Từ
giận dữ, Stalin mở chiến dịch chống hữu khuynh, tả khuynh, thanh trừng nội
bộ. Những nhân vật nói trên không bao giờ chấp nhận ư kiến người khác, chỉ
thích nghe những lời tâng bốc ngọt nào, có quyền phê b́nh người khác, ai dám
can Stalin?
Cũng từ giận dữ, Mao phát động chiến dịch đánh đổ Lưu, Đặng, xoá bỏ đường
lối do Đại hội lần thứ VIII thông qua, đưa ra đường lối Ba ngọn cờ hồng,
phát động Đại cách mạng văn hoá, loại bỏ tất cả, ai dám can Mao?
Không khí sinh hoạt trong đảng lănh đạo mà trong xă hội các nước xă hội chủ
nghĩa thật là buồn tẻ, mặc dù hội họp, lễ hội hầu như diễn ra quanh năm, các
cuộc vận động không ngừng được mở rộng. Buồn tẻ v́ người ta không có quyền
nói về cuộc sống vất vả, thiếu thốn. Mọi việc đều được sắp xếp từ bên trên,
ăn ǵ, mặc ǵ, con người không có quyền chủ động như Nguyễn Tuân nói: Bắt
cởi trần phải cởi trần! Cho may ô mới được phần may ô, mà xă hội chủ nghĩa
(XHCN) là Xếp Hàng Cả Ngày.
Nói
rằng, trong xă hội thường xuyên có sự nhất trí về chính trị và tư tưởng là
không đúng sự thật, sự im lặng kéo dài, cuối cùng bỏ mặc cho chủ nghĩa xă
hội tan ră, người ta bỏ phiếu bằng đôi chân lũ lượt chạy sang các nước tư
bản để làm những việc thấp kém, có khi mât cả phẩm gia con người để kiếm
sống.
Một
tiềm năng cực kỳ to lớn của đất nước bị lăng phí sức lao động và trí tuệ của
con người. Nếu là một đảng dân chủ, người được mở miệng ra th́ nhiều sai lầm
có thể tranh, nhiều thử thách có thể vượt qua.
Tư
duy của những người lănh đạo đă nắm được quyền lực, cố bám giữ bằng mọi
cách, thi hành chính sách ngu dân, giữ nếp cũ, quay mặt đi trước những ư
kiến xây dựng chân thành, đàn áp không thương tiếc những ai dám có ư kiến
phê b́nh.
Nhiều nhà cách mạng biết khi đấu tranh gian khổ chống chế độ bât công th́
anh dũng, anh hùng, gắn bó với nhân dân. Sau khi đă trở thành người lănh đạo
Nhà nước, tâm lư họ thay đổi rất nhanh, chuyển sang chăm lo giữ lấy quyền
lực, tranh chấp với ai có thể thách thức họ. Tinh thần cách mạng sa sút như
quả bóng x́ hơi. Họ trở nên bảo thủ, cự tuyệt thay đổi v́ sợ tạo thành rối
loạn. Người muốn là nhà cách mạng tiên phong phải có lư luận tiên phong,
những người nắm quyền lực, tư duy bảo thủ th́ không muốn khám phá cái mới,
cho nên họ muốn yên ổn, song đời sống lại không ngừng biến đổi, do đó mâu
thuẫn phát sinh, phát triển làm cho mất sức. Họ đă không muốn t́m ṭi, lại
sợ người khác t́m ṭi để đi xa hơn ḿnh, v́ vậy phải ngăn cản, giữ độc quyền
chân lư mà họ đă nói, đă viết. Có người lănh đạo bằng diễn văn, bài báo,
tuyển tập……..
…..
Lần thứ nhất nhân danh Quốc tế cộng sản, Stalin phê phán con đường của
Nguyễn Ai Quốc là dân tộc chủ nghĩa cải lương, hữu khuynh, buộc phải chấp
nhận cương lĩnh cách mạng công, nông, đổng thời đánh đổ đế quốc, phong kiến,
thực hành con đường đó, lực lượng của ta bị thu hẹp giữa lúc tinh thần yêu
nước đang lên cao kể từ năm 1929, đặc biệt trong giới trí thức, thanh niên
và một bộ phận tư sản, địa chủ. Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản dân
tộc chưa thật sự h́nh thành.
Do
tả khuynh, khi bị kẻ thù đàn áp, không tự sức chống đỡ, tổn thất nặng nề.
Từ
năm 1936 trở đi, ta giành lại quyền chủ động. Năm 1941, ta phát triển đường
cách mạng trong t́nh h́nh mới, thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc,
giương cao ngọn cờ yêu nước, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và dân chủ,
chuẩn bị lực lượng, khi thời cơ đến, tổng khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền
thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hoà Dân chủ của nhân dân,
chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Pháp phát động cuộc chién tranh xâm lược lần
thứ hai. Ta thực hiện được một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Năm
1950 Liên Xô và Trung Quốc buộc ta trở lại cương lĩnh cách mạng công nông,
thực hành cách mạng ruộng đất bằng bạo lưc, chọn lọc tổ chức đảng, hệ thống
chỉ huy quân đội và bộ máy Nhà nước. Bao vây kinh tế, chuẩn bị xoá bỏ các
h́nh thức kinh tế tư nhân bằng chính thuế (?).
Chiến dịch thanh trừng nội bộ, cải cách ruộng đất gây nên những tổn thất to
lớn về lực lượng, chính trị và kinh tế. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp, trên một triệu người ở miền Bắc chạy vào Nam. (Sau cuộc kháng
chiến chống Mỹ, hai triệu người bỏ nước chay đi nước ngoài do chủ nghĩa tả
khuynh của ta).
Sau
lần tả khuynh dẫn đến cuộc khùng hoảng kinh tê-xă hội 1975-1985, buộc ta
phải đổi mới con đường phát triền của nước ta. Công cuộc đổi mới của ta bắt
đầu từ năm 1986, về thực chất là do đi trệch đường mà phải trở lại con đường
cũ đă đựơc nêu ra 1929, 1941, 1945, khuyến khích phát triển công thương
nghiệp dân tộc, mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài, mở rộng kinh tế thị
trường, thực hiện quyền tự chủ trong sản xuât kinh doanh của các chủ thể
kinh tế, Nhà nước chỉ quản lư về mặt hành chính, chỉ đạo vĩ mô, đưa ra chiến
lược phát triển đất nước.
Như
vậy là ta đă hai lần mất quyền chủ động về đường lối và hai lần giành lại
được. Công cuộc cách mạng trước đây, cũng như hiện nay, ta nắm vứng quyền
chủ động th́ cách mạng thắng to.
Những bài học quư báu nói trên nhắc nhở chúng ta, rằng phải biết tham khảo
kinh nghiêm nước ngoài, nhưng phải nắm chắc tinh thần độc lập, tự chủ, chớ
làm theo nước khác một cách máy móc. Chân lư bao giờ cũng cụ thể, cách mạng
là sáng tạo.
Ta
đă hội nhập đời sống quốc tế về nhiều lĩnh vực, tư duy đă đổi mới song vẫn
c̣n nhiều hiện tượng ngập ngừng, vẫn c̣n vương vất không ít mầu sắc tư duy
đă lỗi htời. Đi vào thời đại mới, muốn đuổi kịp người ta, phải có tư duy
mới, tư tưởng mới, phong cách mới.
Toàn cầu hoá là một bước ngoặt rất lớn trong đời sống nhân dân. Không có bất
cứ thế lực nào kéo lùi được bánh xe lịch sử, mặc dù mặt tiêu cực của nó ghê
gớm như cuộc chạy đua giữa các cường quốc tranh nhau chỗ đứng dưới mặt trời,
nước giàu muốn nuốt nước nghèo trong quan hệ kinh tế. Hội nhập có lợi lớn
đối với phát triển v́ nó mở rộng thị trường cho cả giàu lẫn nghèo, phân công
lại lao động toàn cầu, chuyển giao công nghê, giao lưu văn hoá, kinh nghiệm
kinh doanh trong thời đại thông tin.
2- Lựa chọn con
đường càng ngắn càng tốt là điều kiện để nhanh chóng vượt lên phía trước,
khắc phục càng nhanh càng tốt khoảng cách khá xa với các nước tiên tiến. Bao
giờ trí tuệ cũng là nhân tố tiến bộ hàng đầu. Đẽo đá là bước tiến đầu tiên
của con người cũng là sản phẩm của trí tuệ. Trong thhời đại điện tử, nền văn
minh trí tuệ, muốn tiến nhanh phải có trí tuệ tương ứng. Đối với dân tộc ta,
vận mệnh, tiền đồ đều do trí tuệ quyết định. V́ vây, tiền đề của phát triển
là tạo ra một xă hội trí tuệ, một đội ngũ trí tuệ đông đảo. Các nước đi
trước nước ta trong ba thế kỷ vừa qua hơn ta về trí tuệ. Trí tuệ đưa đến
cuộc phục hưng, thế kỷ ánh sáng. Hai cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuất
nhiều nước châu Â, châu Phi dẫm chân tại chỗ v́ tŕnh độ văn hoá, giáo dục
thấp kém.
Nền
giáo dục và đào tạo nhân tài của ta phải h́nh thành đồng bộ đội ngũ trí
thức, các nhà khoa học, kỹ thuật, quản lư, kinh doanh, hành chính và dội ngũ
những người lao động giỏi, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng nhiều của chiến
lược phát triển kinh tế.
Nền
kinh tế của ta phải là nền kinh tế đa dạng của nhiều h́nh thức sở hữu, nhiều
h́nh thức kinh tế, không cố định lâu dài xuất phát từ hiệu quả kinh tế. Cạnh
tranh và hợp tác b́nh đẳng.
Nền
kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hoá - thị trường. Nó phải phục tùng những
quy luật vận động chung của nền kinh tế ấy khi đă hội nhập nền kinh tế toàn
cầu và hoạt động kinh tế của nước ngoài trên đât nước, của nước ta trên đất
nước ngoài. Sự khác nhau là tất cả các hoạt động của kinh tế trên đất nước
ta đều phải tuân theo pháp luật và làm nghĩa vụ. Mọi hoạt động kinh tế đều
phải đóng thuế, nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
3- Nền kinh tế của
ta phải là nền kinh tế có hiệu quả cao, bằng cách tập trung sức lực h́nh
thành những ngành kinh tế mà ta có thế mạnh về nguyên liệu, khí hậu, nhân
lực. Tất cả đều dựâ trên những công nghệ mới nhất. Trong điều kiện cuộc cách
mạng công nghệ trên thế giới đang bùng nổ, không nên xây dựng những cơ sở
quá lớn, xây dựng lâu, khi đi vào khai thác th́ kỹ thuật đă lạc hậu.
Nhiều ngành ta tự xây dựng bằng tiền vốn của ḿnh và cũng nhiều ngành vẫn
kêu gọi nguồn vốn nước ngoài khai thác như khoáng sản, năng lượng. Hiện
tượng chạy đua xây dựng nền công nghệ điện tử, tin học làm cho nền kinh tế
mới nhanh chóng bị băo hoà. Song không v́ vậy mà ta không đi vào xây dựng có
chọn lọc nền kỹ thuật này.
Công nghệ sinh học, hoa học, năng lượng là những ngành mà ta có ưu thế như
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, nhiệt đới, dược liệu thảo mộc, hương
liệu của ta khá dồi dào. Nhiều sản phẩm không cần đầu tư lớn và nhiều nhân
công nhưng thu lợi nhanh, nhiều, cần được khắc phục.
Một
nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững là phát triển sản xuất, phải đi
liền với phát triển xă hội. Sản xuất là sự nghiệp của con người v́ con người
đáp ứng tốt nhu cầu trước mắt, đồng thời với lâu dài. Hy sinh cái trước mắt
mà cái lâu dài cũng không đạt được v́ muốn sản xuất có hiệu quả, người lao
động phải tái sản xuât sức lao động cho hôm nay và cả ngày mai…
4- Cùng với việc
xây dựng nền kinh tế với ba khu vực trên nền tảng một nền công nghệ hiện
đại, càng phải xác định chiến lược v́ con người, đáp ứng từng bước tốt hơn
các nhu cầu ăn uống, nhà ở, mặc, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, tức là mâm cơm,
cái nhà hay căn hộ, quần áo, trường học và thầy giáo, bệnh viện và thày
thuốc. Sự tan ră của các nước xă hội có một nguyên nhân quan trọng này. Giấy
khai, danh hiệu, động lực tinh thần cũng cần song không thể biến thành
robot.
5- Văn hoá là động
lực của sự phát triển, là sức sản xuất tiềm tàng to lớn của một xă hội. Một
nước tŕnh độ văn hoá thấp, không thể có một nền sản xuất cao v́ con người
là chủ thể của nó. Sự phát triển đồng bộ kinh tế và văn hoá là bảo đảm của
phát triển bền vững.
Hưởng thụ văn hoá là nhu cầu của con người. Nhu cầu ấy không chỉ là hạnh
phúc, niềm vui, mà c̣n là phương tiện nâng cao tố chất con người, có ư thức
trách nhiệm đối với xă hội, phấn đấu trong hoạt động sáng tạo.
Xuất phát từ con người, tât cả v́ lợi ích con người là phương châm chỉ đạo
hoạt động của kinh tế.
Hội
nhập nền kinh tế toàn cầu, nghĩa là ta cũng phải xây dựng nền kinh tế mới,
kinh tế trí thức. Muốn trí thức hoá nền kinh tế, phải có một xă hội trí thức
mà ṇng cốt là đội ngũ tài năng, tinh hoa, phải tập hợp trong Đảng cộng sản,
Đảng của tinh hoa dân tộc, xă hội.
Đầu
tư cho con người là quan trọng nhât, bảo đảm vững chắc nhất sự phát triển
của đất nước. Dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ và văn minh là
mục tiêu động lực của cách mạng nước ta trong thời kỳ trước mắt. Mọi hoạt
động xă hội đều nhằm mục tiêu cơ bản ấy. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
nền tảng vật chât- kỹ thuật của một xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kiên tŕ thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta phải,
về mặt tư tưởng, phải đi tiên phong trong thời kỳ mới, khắc phục những tàn
dư tư duy cũ đă bị cuộc sống không chấp nhận. Hệ thống chính trị do Đảng
lănh đạo phải nhẹ nhàng, không tốn kém, hiệu quả cao, trong sáng, minh bạch.
Đời sống xă hội phải hoạt bát, năng động, hoạt bát trên cơ sở một nền dân
chủ nhân dân, tự do tư tưởng, ngôn luận. Dân chủ về chính trị đi liền với
dân chủ về kinh tế, văn hoá.
Đảng Cộng sản phải là người tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc và xă hội, về
đạo đức và phong cách, tiêu biểu của đạo đức cách mạng mà ta đang xây dựng.
Tư
tưởng Hồ chí Minh măi măi chỉ đường cho các thế hệ chúng ta./.
Hoàng Tùng
----- O -----
Cảm Nghĩ
Về Lời Đề Nghị của HT Thích Quảng Độ
Những dư âm ngọt ngào của Tết Ất Dậu đă đi qua, mỗi người trong chúng ta đă
phải trở về với công việc thường nhật của ḿnh. Năm Ất Dậu đă mở ra cho
chúng ta nhiều hy vọng về một tương lai tốt đẹp. Một trong những sự kiện
được cộng đồng người Việt nam khắp nơi chăm chú theo dơi và là một món quà
Xuân đầy í nghĩa đó là lời kêu gọi DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN cho Việt nam trong năm
2005, qua lá thư chúc Xuân của một Vị Đại Ḥa Thượng, tức Ḥa Thượng Thích
Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
(GHPGVNTN).
Ḥa
Thượng Thích Quảng Độ là một khuôn mặt quen thuộc và gần gũi không những với
những người Phật tử mà c̣n nổi tiếng trong cộng đồng Việt nam trong nước và
Hải ngoại, với cả dư luận tiến bộ khắp Thế giới. Ḥa Thượng được biết đến và
ghi nhận như là một biểu tượng bất khuất trong việc đấu tranh cho Tự do Tôn
giáo tại Việt nam. Ngoài ra Ḥa thượng c̣n là người vận động không mệt mỏi
cho nền Tự do và Dân chủ tại Quê nhà.
Mặc
dù đă biết và nghe tên tuổi của Ḥa Thượng đă lâu nhưng qua lá thư Chúc Xuân
của Ḥa Thượng cũng như hai phần trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do do phóng
viên Ỷ Lan thực hiện, tôi thật t́nh khâm phục và kinh ngạc về kiến thức uyên
bác của Ḥa Thượng. Gần 30 năm nay, Ḥa thượng sống trong cảnh bị quản thúc,
theo dơi, nhưng hiểu biết của Ngài về cuộc sống hiện tại của người Dân Việt
nam, về chính quyền cộng sản cũng như t́nh h́nh Thế giới thật là đầy đủ,
khách quan và chính xác.
Lời
kêu gọi của Ḥa Thượng đă được tất cả những người Việt Nam có lương tâm và
yêu nước nồng nhiệt đón mừng. Từ trong nước, hai nhà Dân chủ hàng đầu của
Việt nam là Nhà Văn Hoàng Tiến và giáo sư Hoàng Minh Chính đă lên tiếng hoan
nghênh và ủng hộ lá thư của Ḥa Thượng. Ở Hải ngoại cũng vậy, nhiều nhà trí
thức cũng bày tỏ sự ủng hộ nhiệt t́nh.
Hai
mươi năm xây dựng CNXH ở Miền Bắc và 30 năm sau ngày thống nhất Đất nước,
đảng cộng sản Việt nam vẫn c̣n loay hoay với một thứ chủ nghĩa và học thuyết
đă bị loài người từ bỏ đă lâu, đó là học thuyết và chủ nghĩa Mác-Lênin, sau
này c̣n ‘chế’ thêm hai món nữa là ‘tư tưởng Hồ chí Minh’ và ‘nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN’. Rơ ràng, chủ nghĩa cộng sản và học
thuyết Mác-Lênin với nền tảng của nó là đấu tranh giai cấp và chuyên
chính vô sản đă không mang lại hạnh phúc và no ấm cho nhân dân , ngược
lại nó chính là nguyên nhân gây ra nhiều khổ đau và nhục nhă cho dân tộc ta,
một Dân tộc có lịch sử ngh́n năm văn hiến. Con đường duy nhất để phục hưng
Đất nước đó là ‘Dân chủ và Đa nguyên’. Ba mươi năm qua, biết bao nhiêu người
Việt nam, bao nhiêu là tổ chức Chính trị… ưu tư với vận mệnh của Tổ quốc đă
đi t́m cho ḿnh một con đường, con đường đó đă có, đúng như lời của Ngài ‘Chúng
tôi suy nghĩ từ bản thân qua hàng chục năm lưu đày, tù ngục và quản chế, th́
thấy không c̣n con đường nào khác ngoài con đường dân chủ đa nguyên để tái
thiết đất nước’. Cho dù giữa các lực lượng dân chủ vẫn c̣n nhiều khác
biệt, nhưng cơ bản đă thống nhất trên một lập trường chung : Dân Chủ Đa
Nguyên và đấu tranh bằng con đường Chính nghĩa, Bất bạo động. Ngài khẳng
định rằng ‘ Xu thế địa cầu ngày nay, khắp năm châu nổi lên ư lực hợp tác,
chia sẻ, đối thoại, qua phong trào Toàn cầu hóa Kinh tế và Toàn cầu hóa Dân
chủ’. Đó là Chân lí, là Thời đại, là khát vọng ngàn đời của mọi Dân tộc,
mọi Con người.
Vẫn
đang c̣n một Tâm lí đang ảnh hưởng và ngự trị mạnh mẽ trong suy nghĩ của
nhiều người Việt nam, kể cả những người có tŕnh độ và hiểu biết đó là ‘tôi
không làm chính trị’, ‘tôi không thích, không quan tâm đến chính trị’,
‘ chính trị là một cái ǵ đó bẩn thỉu, xấu xa’…Tâm lí này hoàn toàn
bị xua tan nếu chúng ta nghe những lời của Ngài Thích Quảng Độ ‘Đúng
nghĩa th́ chính trị không phải là một cái xấu. Theo quan niệm của Đức Khổng
Tử th́ ngài nói chính giả chính giă. Người làm chính trị là những người sửa
sang việc nước, cái ǵ bất công th́ sửa lại cho công bằng, cái ǵ cong queo
th́ uốn cho nó thẳng thắn, th́ chính trị ấy là chính trị đạo đức’. Đúng
là như vậy, bản thân chính trị không có ǵ xấu, ngược lại đó là những việc
làm quan trọng và cần thiết trong bất cứ một xă hội nào, đó là những việc
làm cao cả và vinh quang. Tiếc rằng những người cộng sản đă làm hoen ố h́nh
ảnh tốt đẹp này. Giờ đây, cứ mỗi khi nghe nói đến chính trị, người ta nghĩ
ngay đến cái gọi là chính trị chế độ cộng sản đang thi hành . Và tất thảy
đều rùng ḿnh, kinh sợ v́ đă chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh tranh dành
quyền bính, vu khống, hăm hại, tiêu diệt lẫn nhau giữa những người mà người
ta gọi nhau bằng những cái tên rất mỹ miều như ‘đồng chí’, ‘anh em’
v.v…. Một vụ việc đang trở thành thời sự ‘vỉa hè’ của tất cả những người Dân
quan tâm đến chính trị đó là vụ án T4, tức vụ án do Tổng Cục 2 dựng lên, v́
quyền lợi của phe nhóm ḿnh mà những người cộng sản chóp bu như Cựu chủ tịch
nước Lê Đức Anh sẵn sàng vu khống hăm hại người khác, bất kể người đó là ai,
kể cả Đệ nhất Công thần của chế độ như Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Trong lời kêu gọi cho một thể chế Dân chủ, Đa nguyên của ḿnh, Ḥa Thượng đă
đề cao vai tṛ của giới Sĩ phu, Trí thức mà không phân biệt thành phần giai
cấp, xuất thân, miễn là người đó có tŕnh độ và hiểu biết ‘Thế giới ngày
nay tiến bộ, tiến rất nhanh, đ̣i hỏi con người lănh đạo đất nước phải có đầu
óc tỉnh táo, nhạy bén để đương đầu, thích ứng với những biến sự xẩy ra từng
giờ, từng phút, chứ không phải từng ngày. Nếu ḿnh không thích ứng được th́
ḿnh tụt hậu. Bởi thế cho nên người lănh đạo ngày nay cần phải có tŕnh độ
trí tuệ đáng kể. Như thế là b́nh đẳng chứ không phải phân chia giai cấp, như
kiểu giai cấp đấu tranh của Cộng sản đâu… đă vào giới lănh đạo là phải tối
thiểu có một tŕnh độ trí tuệ’. Quả thật là như thế, làm chính trị hay
lănh đạo đ̣i hỏi phải có một tŕnh độ, hiểu biết nhất định. Tiến sĩ Hà Sĩ
Phu cũng đă khẳng định rằng ‘lực lượng lănh đạo luôn là lực lượng ưu tú
nhất”. Lănh đạo đất nước là một công việc nặng nề, khó khăn mà không
phải ai cũng có thể làm được. Họ sẽ bị vất vả, mệt mỏi, chịu bao nhiêu điều
ngang trái, và có thể sẽ rất cô đơn , nhưng chính họ sẽ là người thay đổi
vận mệnh của Đất nước và nhân dân sẽ ghi nhớ công ơn của họ. Lực lượng duy
nhất để canh tân Đất nước đó là tầng lớp sĩ phu, trí thức. Chính họ chứ
không c̣n ai khác phải làm việc đó, tức là Cứu Nước.
Chúng ta có thế dễ dàng thấy được hiện thực xă hội mà chúng ta đang sống
ngày hôm nay. Một xă hội bần cùng, nghèo khó, nhân cách và đạo đức suy đồi.
Sự dối trá và lừa lọc ngự trị trong mọi tầng lớp xă hội. Thu nhập của người
Việtnam thuộc hàng thấp nhất thế giới, tệ nạn xă hội ngày càng gia tăng, tự
do của con người bị đẩy xuống mức thấp nhất: người dân không dám nghĩ, không
dám nói, không dám bàn luận, không dám nói thật những điều đang nghĩ. Chính
Ḥa Thượng đă phải thốt lên rằng ‘Tôi thấy về mặt tinh thần, nhân quyền
bị chà đạp, phẩm giá con người bị coi thường. Về mặt vật chất, th́ nhân dân
phần nhiều đói khổ, tụt hậu, kinh tế không phát triển được’. Thử hỏi
tương lai nào đang chờ đón chúng ta? Tương lai nào cho người Dân Việt? Theo
quan sát của tôi th́ dường như hiện nay chỉ có một con đường hữu hiệu duy
nhất cho thanh niên Việt nam lập nghiệp, đó là đi làm thuê cho Nước ngoài!
Nếu có học hành đàng hoàng th́ cũng đi làm thuê cho các công ty nước ngoài
v́ biên chế nhà nước th́ con cha cháu ông chiếm hết cả rồi. C̣n nếu không
học hành đến nơi đến chốn th́ cũng chỉ có một con đường duy nhất là vào làm
thuê trong các Khu chế xuất, Khu công nghiệp với đồng lương rẻ mạt so với
công sức bỏ ra. Dân tộc Việt nam đang có nguy cơ biến thành một Dân tộc nô
lệ, nô lệ chính ngay trên quê hương ḿnh.
Trước bao cảnh đời ngang trái đó, người Dân Việt đă phản ứng ra sao? giới
trí thức phản ứng ra sao? tinh thần Dân tộc của một Đất nước ngàn năm văn
hiến như thế nào? để một người như ông Nguyễn Hải Sơn phải đau đớn thốt lên
‘vụ TQ bắn người, cướp xác ngư dân VN; chẳng có thằng sinh viên nào dám
hó hé. Anh hùng chỉ là anh hùng… rơm. Ra đường quẹt nhau, xe chưa trầy nước
sơn đă đánh nhau vỡ đầu chảy máu. Một dân tộc có nhân cách như vậy, không
làm nô lệ cho thằng này cũng làm tôi tớ cho thằng khác mà thôi’ (Nguyễn
Hải Sơn- Ḥa Lộc một vụ khiêu chiến đầy chủ đích- Điện thư số 40). Chẳng lẽ
người Việt nam cứ hành xử như vậy măi sao? Tinh thần Dân tộc đâu cả rồi? Ai
sẽ là người mang lại niềm tin cho chúng ta? Không ai khác đó là những người
trí thức, sĩ phu, những người có lương tâm và hiểu biết. Những người biết
đau cái nỗi đau của đồng bào ḿnh, biết nhục cái nhục của Đất nước ḿnh,
biết xót xa cho thân phận bọt bèo của người ḿnh. Có như vậy Đất nước mới
hồi sinh và con cái chúng ta mới có cơ hội ngẩng đầu lên với bè bạn bốn
phương.
Có
những việc làm rất đáng hoan nghênh trong thời gian qua đó là nhân vụ án ‘chính
trị siêu nghiêm trọng’ (T4, Tổng Cục 2) đă có rất nhiều tiếng nói đă cất
lên từ những Cựu chiến binh, các Vị Lăo thành cách mạng, các Cựu quan chức
cao cấp của chế độ, mà mới đây nhất là thư của các Ông Hai Xô, Ông Bảy Cống,
Ông Năm Thi (ở Miền Nam) và kể cả Cựu Thủ tướng Vơ Văn Kiệt. Họ đều là những
người có công và uy tín lớn với chế độ, sau khi nghỉ hưu quay trở lại với
đời thường, có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp Nhân dân khác nhau Họ
đă thấy nhiều điều bất công và ngang trái mà trước đây họ không (hoặc chưa)
thấy được. Do nhiều liên hệ ràng buộc chặt chẽ với chính quyền mà những lời
đề nghị của Họ không hẳn dứt khoát và mạnh mẽ được như lời đề nghị của Đại
Lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ, thế nhưng những tiếng nói yêu cầu lănh đạo
đảng cộng sản phải tôn trọng và thực thi Luật pháp (của chính chế độ cộng
sản) một cách công minh và rơ ràng cũng là những tác động rất tốt đến công
cuộc đấu tranh cho Dân chủ và Tự do của nhân dân Việt nam. Rất mong rằng sẽ
có nhiều tiếng nói khác được cất lên bởi những người có uy tín và lương tâm
trong chính hàng ngũ của Đảng cộng sản. Sự cam đảm nói lên những suy nghĩ
đúng với lương tâm này sẽ làm cho Họ được thanh thản và không phải hổ thẹn
khi về thế giới bên kia, danh dự của Họ, của con cháu Họ sau này sẽ c̣n măi,
c̣n nếu cứ cố t́nh ‘ngậm miệng ăn tiền’ th́ chắc chắn rằng trong sâu
thẳm tâm hồn họ sẽ có những lúc ăn năn, xấu hổ. Chẳng lẽ lại mang theo những
mặc cảm này đi về cơi Vĩnh hằng sao?
Tất
cả những người Việt nam đấu tranh chân chính cho nền Dân chủ và Tự do đều
khước từ bạo lực, đều muốn mang lại sự thay đổi trong Ḥa b́nh và êm thắm,
không ai muốn đổ máu và nội chiến cả. V́ vậy sự thay đổi chỉ đến với Việt
nam khi đại đa số nhân dân Việt nam ư thức được sự cấp thiết của dân chủ, và
tất cả sẽ cất lên tiếng nói của ḿnh, từ những người thường Dân cho đến các
bậc sĩ phu, trí thức, công chức, công nhân, nông dân, tư sản, sinh viên, học
sinh…kể cả các chức sắc Tôn giáo. Khi tất cả người Dân đều nói lên chính
kiến và suy nghĩ của ḿnh một cách mạnh mẽ th́ sẽ tạo ra được áp lực buộc
chính quyền phải thay đổi. Đó là sự thay đổi trong ḥa b́nh, không có ǵ xấu
xa hay ghê gớm cả. ‘Diến Biến Ḥa B́nh’ là quá tŕnh đấu tranh bền
bỉ, cao cả, vất vả và nhân văn của mọi tầng lớp Nhân dân Việt nam, chứ không
phải là ‘âm mưu thâm độc’ của bất cứ kẻ thù nào.
‘Không
c̣n con đường nào khác ngoài con đường dân chủ đa nguyên để tái thiết đất
nước’, đúng như vậy, đó là con đường duy nhất để mang lại hạnh phúc cho
nhân dân ta. Không có Dân chủ sẽ không có Tự do, không những với Dân thường
mà kể cả với Tôn giáo. Sự Tự do của tôn giáo chỉ có được khi có Dân chủ thật
sự. Bằng chính cuộc đời ḿnh Ḥa Thượng Thích Quảng Độ đă khẳng định rằng ‘Pháp
nạn của Giáo hội chúng tôi, trừ ra có chế độ đa đảng dân chủ, nếu không th́
Giáo hội thường xuyên bị đàn áp, chẳng biết bao giờ được chấm dứt. C̣n chế
độ độc đảng Cộng sản như thế này, Giáo hội c̣n bị đàn áp, bởi v́ từ bản chất
Cộng sản đă không dung chấp tôn giáo, thường xuyên là một chính sách đấu
tranh giai cấp, luôn luôn tranh đấu đến khi nào tiêu diệt được tôn giáo mới
thôi’. Đấu tranh cho một nền Dân chủ đích thực sẽ là công việc của cả
Dân tộc, không phân biệt thành phần xuất thân hay Tôn giáo, cho dù chúng ta
có không muốn ‘dây dưa’ với chính trị th́ chính trị cũng sẽ ảnh hưởng đến
chúng ta từng ngày, từng giờ. Từ chuyện cảnh sát ăn tiền, làm luật đến
chuyện chầu trực xin chứng nhận một loại giấy tờ ǵ đó, từ Phường, Xă cho
đến Trung ương.(Có một câu chuyện mới đây trên báo Tuổi trẻ là con một ông
Bộ trưởng hay Thứ trưởng ǵ đó muốn xin đăng kí kết hôn cũng phải chạy toát
mồ hôi, qua 8 ‘cửa ải’ mới làm xong thủ tục rất đơn giản này, như vậy không
chỉ Dân đen là nạn nhân của chế độ mà kể cả con cái của các Đại quan cũng
chịu chung số phận đau buồn này).
Có
những câu hỏi mà nhiều người trong giới sĩ phu vẫn đang t́m câu trả lời, đó
là: Thời cơ bao giờ đến? Vận mệnh của Đất nước bao giờ mới Đổi thay? Hoà
Thượng Thích Quảng Độ cũng ưu tư về cái thời, cái vận của dân tộc, ngài viết
:‘đất có tuần, dân có vận. Vận nước tuần hoàn đi rồi lại lại. Sự tuần
hoàn như thế xác định mọi sự trên thế giới đều chuyển biến, thay đổi không
ngừng, chẳng có ǵ tồn tại vĩnh viễn. Đạo Phật chúng tôi gọi lẽ ấy là vô
thường. Nhờ vô thường, mà con người có thể tham dự, như tác nhân, để chuyển
hóa nghịch cảnh : hạnh phúc có thể tái tạo, tự do có thể thiết lập, nô lệ có
thể chấm dứt. Cho nên kẻ sĩ phu theo thời mà thông biến. Lịch sử nước ta
trải dài nhiều ngh́n năm cho thấy sĩ phu là giới hiểu thời vụ, nhờ hiểu thời
vụ mà ra tay chuyển hóa thời đại làm cho quê hương thoát cơn luân hiểm, sinh
dân được an lạc.’
Tôi
tin rằng không phải tự nhiên mà Đại Lăo Ḥa Thượng khẳng định như vậy, Ngài
là người uyên bác và thông hiểu kinh sử. Tuy Ngài không nói rơ là ‘thời thế’
ra sao nhưng cứ nh́n vào những ǵ đang xảy ra trên Thế giới th́ chúng ta có
thể tin rằng Ngài rất có lí khi nói rằng ‘thời cơ đă đến, vận nước đă đến’,
‘kẻ sĩ phu cứ theo thời mà thông biến’. Năm 2004 đă khép lại với làn
sóng Dân chủ diễn ra mạnh mẽ trên Toàn cầu, bắt đầu từ Grugia, đến Cộng ḥa
Ucraina. Tại khu vực Trung Đông, vị Tân Tổng thống Palestin Asbas yêu chuộng
ḥa b́nh đă và đang làm mọi cách dẹp bỏ các tổ chức khủng bố Hồi giáo cực
đoan, tiến tới ḥa đàm và chung sống với Irxael. Tại Libăng chính phủ độc
tài thân Sirya đă phải từ chức trước sức ép của các cuộc biểu t́nh rầm rộ
của Dân chúng sau vụ ám sát cựu Thủ tướng đối lập Hariri. Iran và Bắc Triều
Tiên đang chịu sức ép ngày càng lớn của Thế giới, không riêng ǵ Mỹ mà cả
Châu Âu cũng có cùng quan điểm này, cho dù rằng quan hệ Hoa Kỳ - Châu Âu
đang lạnh nhạt và bất đồng trên nhiều điểm. Một sự kiện mà chúng ta cũng cần
chú ư đến đó là những lời tuyên bố mạnh mẽ và dứt khoát của Tổng Thống Mỹ
Bush trong diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2 của ḿnh: Ủng hộ mạnh mẽ cho Dân
chủ và Tự do trên khắp thế giới. Tổng thống khẳng định rằng ‘Tự do của
Hoa Kỳ ngày càng tùy thuộc vào Tự do của các vùng đất khác’. Đài RFA
cũng b́nh luận: ‘Bài diễn văn đọc trong lễ tuyên thệ của Tổng thống
George W. Bush có thể nói là một bản tuyên ngôn của tự do và của cuộc chiến
đấu cho tự do gửi đến toàn thế giới.’
Đó
là những lí do khách quan, c̣n về chủ quan th́ trong nước người Dân ngày
càng oán thán chế độ, niềm tin của nhân dân với chế độ hầu như không c̣n nữa
‘Dân chẳng c̣n tin vào nhà nước nữa v́ tham nhũng, nhà nước cũng chẳng
tin dân nữa. Nếu đưa ra trưng cầu dân ư mọi vấn đề và để dân quyết, th́ nhà
nước này khó ḷng đứng vững. Mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân ngày
càng xa rời th́ c̣n đâu là một nhà nước mạnh’ (Hoàng Tùng Bách-Việt
nam). Đảng cộng sản đang chuẩn bị cho Đại hội 10, trong khi đó nếu không thể
giải quyết được vụ T4, Tổng cục 2 th́ Đại hội khó ḷng diễn ra suôn sẻ,
nhiều tiếng nói phản đối đă được cất lên từ những người là cán bộ cao cấp,
công thần của chế độ. Việc thăng cấp Trung tướng cho một nhân vật đầy tai
tiếng như Nguyễn Chí Vịnh cũng gây ra nhiều ngạc nhiên và bất b́nh cho giới
Cựu Chiến Binh, Tướng Lĩnh và Sĩ quan cao cấp của QĐND Việt nam. Rồi việc bổ
sung và hoàn chỉnh các bộ luật cũng như sự thực thi các điều khoản cam kết
với các nước để nhanh chóng gia nhập WTO, cũng đă bộc lộ nhiều yếu kém khiến
chính phủ phải thừa nhận rằng không thể vào WTO trong năm 2005 được.
Ngoài ra c̣n một mối nguy nữa, tuy chưa rơ nét nhưng chúng ta cũng phải đề
pḥng đó là lời nhận định của Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa là có thể trong
năm nay Trung Quốc sẽ bị khủng hoảng về Kinh tế, sau đó sẽ là khủng hoảng
Chính trị và khi đó th́ ‘các chính quyền độc tài bị yếu thế th́ lănh đạo
thường thổi lên chủ nghĩa quốc gia dân tộc, thực chất là chủ nghĩa phát xít
và có khi gây hấn với bên ngoài để trấn áp chống đối bên trong. Trường hợp
ấy mà xảy ra ở Trung Quốc th́ Đài Loan và Việt nam có khi lănh họa’ (Mối
lo từ Trung Quốc-RFA) Vụ tấn công và giết hại 9 ngư phủ của Việt nam trên
Vịnh Bắc Bộ, vụ đụng độ trên Biển Đông giữa tàu tuần tiễu Trung Quốc và Đài
Loan khiến 2 người Trung Quốc thiệt mạng (BBC), việc Quốc hội Trung quốc
chuẩn bị thông qua một đạo luật chống Đài Loan ly khai… đang củng cố thêm
cho nhận định này của Ông Nguyễn Xuân Nghĩa.
Con
đường nào để Việt nam thoát ra khỏi những khó khăn và thách thức đó? Chỉ có
một con đường duy nhất đó là DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN, như đúng lời Ḥa Thượng
Thích Quảng Độ “Con đường tương lai duy nhất phải đi, toàn dân tộc phải
đi, không có con đường nào khác. Không tŕ hoăn được. Trước sau ǵ rồi cũng
phải cởi mở. Trước sau ǵ rồi cũng phải đi đến: Con đường Dân chủ đa nguyên”.
Một
năm mới với nhiều hy vọng đang đến với nhân dân Việt nam. Chúng ta có quyền
tin rằng rồi Hạnh phúc, Tự do và Dân chủ sẽ đến với Dân tộc Việt nam.
Năm
mới xin được phép gửi đến Ḥa Thượng Thích Quảng Độ lời kính chúc sức khỏe,
chúc Ḥa Thượng măi anh minh và sáng suốt để dẫn dắt GHPGVNTN đấu tranh cho
đến ngày có Tự do Tôn giáo trên Quê hương Việt Nam dấu yêu của tất cả chúng
ta.
Việt Hoàng
----- O -----
Đảng cộng sản Việt
Nam
Hà Nội, ngày 3 tháng 1 năm 2005
Kính gửi:
- BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 9
- Các đ/c trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa 9
- Đ/c Tổng Bí thư BCH TW Đảng khóa 9
- Các đ/c Ban kiểm tra TW Đảng khóa 9
Chúng tôi, một số đ/c Đảng viên thuộc chi bộ 31 cụm 8 phường Láng Hạ, quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội, với trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, căn cứ
vào điều lệ Đảng, chúng tôi xin bày tỏ sự lo ngại và đề đạt nguyện vọng của
ḿnh trước một số việc xảy ra từ Đại hội V đến nay nhưng chưa được giải
quyết, mặc dầu khóa trước bàn giao cho khóa sau nhưng vẫn chưa được kết luận
và không thông báo cho toàn Đảng rơ, cụ thể là: