Sự Chuyển
Dịch Cần Thiết Cho Phát Triển Việt Nam
Bài phát biểu trước Đại hội Bảo Toàn Đất Tổ
tại Orange ngày1/1/2005
Bàn cờ thế giới đang chuyển dịch dần theo xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lănh
vực từ chính trị, quân sự, kinh tế đến khoa học, phát triển và môi sinh....
Lằn ranh biên giới giữa các quốc gia đang lần lần được tháo gở để nhường bước
cho những qui định chung đă được bàn thảo và đồng ư trước. Các quốc gia trong
Liên hiệp Âu châu đă đi tiên phong trong việc áp dụng một hệ thống tiền tệ
(đồng Euro dollar), và thuế khóa chung khi giao dịch. Do đó chiều hướng mới
của lịch sử toàn cầu là sẽ khó có thể chấp nhận một nước nào trên thế giới
đứng độc lập hay tự cô lập. Không một hiện tượng hay vấn nạn nào xảy ra cho
một quốc gia mà không liên đới ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Biên giới địa
dư đang bị xóa dần dưới nhiều h́nh thức khác nhau và tùy thuộc vào các liên hệ
tương quan về chính trị – kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Bầu khí quyển bao bọc thế giới cần được mọi người lưu tâm đúng mức và có biện
pháp xử lư cấp thời. Nguồn nước sinh hoạt, các mạch nước ngầm...cần phải được
san sẻ giữa các quốc gia để tránh cảnh thiếu-thừa. Các gịng sông lớn sẽ không
c̣n là tài sản của bất cứ quốc gia nào. Các nước không thể viện dẫn một lư do
nào để quản lư và sử dụng tắc trách nguồn nước chảy xuyên suốt qua địa phận
ḿnh mà không có sự tham dự và thảo luận của các quốc gia liên hệ. Một thí dụ
điển h́nh là sông Mekong: Mọi quyết định trên ḍng sông nầy sẽ PHẢI được sự
đồng thuận của 7 quốc gia liên hệ, chứ không tùy thuộc vào quyết định đơn
phương của “chủ nghĩa nước lớn” Trung Quốc như hiện nay. Đó là: Tây Tạng, Miến
Điện, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Cao Miên, và Việt Nam.
Việt Nam, một thành tố của cộng đồng thế giới, nếu muốn t́m một hướng đi thích
ứng cho đất nước cũng phải hội nhập vào xu hướng chung của toàn cầu. Quả thật
không c̣n con đường nào khác hơn cho các quốc gia trên thế giới; ngay cảø một
nước hùng mạnh về quân sự và kinh tế như Hoa Kỳ hay một nước đang trên đà phát
triển như Việt Nam. Đây mới đích thực là bánh xe lịch sử mà Việt Nam phải quay
theo. Mọi chiều hướng khác biệt chắc chắn sẽ dẫn dắt Việt Nam vào ngơ cụt của
sự bế tắc kinh tế – chính trị của cả nước.
Do đó, với chiều hướng suy nghĩ trên, các gợi ư sau đây là những đề nghị cho
Việt Nam trong khi bước vào thiên niên kỷ mới.
· Việt Nam cần phải hội nhập và nói cùng một ngôn ngữ với thế giới. Sự tiến bộ
và phát triển hài ḥa trong mọi lănh vực để phục vụ phúc lợi cho người dân ở
các quốc gia tiên tiến là một đúc kết qua bao thế kỷ của mọi tập hợp trí tuệ
trên thế giới. V́ vậy, không có tự ái dân tộc nào cho phép chúng ta dùng những
kết quả thực tiển ấy để ứng dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Phủ nhận
điều trên tức là tự đưa tương lai dân tộc vào bóng đêm của sự tụt hậu.
· Phát triển quốc gia và ô nhiễm môi trường là hai yếu tố liên quan chặt chẻ
với nhau, và không c̣n là vấn đề của từng quốc gia riêng rẽ nữa. Không khí ô
nhiễm của các nhà máy sản xuất ở Vân Nam – Trung Quốc – đă di chuyễn đến tận
Hoa Kỳ. Các đám mây đen do hiện tượng đốt rừng để phát triển nông nghiệp ở Nam
Dương đă từng che phủ bầu trời Mă Lai Á và Tân Gia Ba hằng năm. Do đó sẽ không
có một qui luật riêng biệt nào áp dụng cho mỗi quốc gia cả, mà mọi nước phải
theo một qui luật liên đới toàn cầu mà Nghị tŕnh-21 của Liên Hiệp Quốc là một
kết ước tương đối ḥan chỉnh nhất hiện nay. Và Việt Nam sẽ không thể là một
ngoại lệ!
Chấp hành qui tắc chung của thế giới để phát triển hài ḥa cho đất nước là con
đường tối ưu phải đi. Không thể nào v́ muốn có thêm ngoại tệ nặng để trang
trải ngân sách thiếu hụt mà phải khai thác tận cùng nguồn tài nguyên đất đai,
sử dụng thuốc sát trùng và phân bón hóa học một cách vô trách nhiệm ... để
mang đến kết quả sau cùng là người dân phải chịu, cộng thêm t́nh trạng khan
hiếm nguồn nước và môi trường bị ô nhiễm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai.
Chúng ta đă nghe nhiều tin tức về chất màu da cam (chứa độc tố dioxin) trong
thuốc khai quang mà Hoa Kỳ gieo rắt trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Hiện
tại, chúng ta lại tự nguyện tiếp tục vung răi DDT, PCBs..., các chất hóa học
độc hại dưới mọi h́nh thức của thuốc sát trùng, diệt cỏ dại, diệt sâu bọ ...
lên mănh đất thân yêu Việt Nam. Các loại hóa chất trên có cùng một ảnh hưởng
tác hại trên con người tương tự như dioxin. Đây có phải là một h́nh thức đúng
đắn mang lại phúc lợi cho người dân hay đưa dân tộc vào con đường tự diệt?
· Đối với các qui luật về quản lư môi trường, đất, nước, không khí...đang được
áp dụng rộng răi trên thế giới cũng như các định mức về ô nhiễm đang được các
nước chấp hành nghiêm chỉnh, Việt Nam cần tuân thủ các luật lệ trên để tránh
khỏi bị tụt hậu ngay cả về phát triển kinh tế quốc gia cùng phúc lợi cho người
dân. Từng bước học hỏi và chấp hành các qui luật trên hầu t́m biện pháp giải
quyết thích ứng cho từng vấn nạn đặc biệt của đất nước nhất là vấn nạn ô nhiễm
môi trường. Thay v́ tiếp tục kêu gào trên báo chí, kêu gọi sự giúp đở của thế
giới, cần nên tập trung trí tuệ hiện có và các phương tiện khả thi của chính
ḿnh để lần lần tháo gở các vấn nạn trên. Có làm được như thế dân trí sẽ tăng
trưởng dần và người dân sẽ là những trợ lư đắc lực để giúp chính quyền lần lần
hoàn chỉnh quy tŕnh phát triển quốc gia phù hợp với điều kiện Việt Nam.
· Việt Nam đang có nhiều lợi điểm: 1- lực lượng lao động c̣n non trẻ và có khả
năng thích ứng với thị trường sản xuất, 2- kinh tế-kỹ nghệ đang phát triển và
đang cần được phát triển mạnh, 3- nhu cầu của người dân c̣n quá lớn so với mức
sản xuất của quốc gia. Từ ba lợi điểm căn bản trên, bất cứ quốc gia có kỹ
thuật cao nào cũng đều muốn đầu tư vào để trục lợi. Do đó cần cân nhắc đắn đo
mọi đề xuất để có một phương án chung hài ḥa cho điều kiện Việt Nam, tránh
trùng lấp và giảm thiểu mọi tác hại đến mức tối đa.
Mặc cảm bị ngoại quốc khai thác cũng như rụt rè trong quyết định sẽ làm cho
đất nước mất cơ hội thu ngắn sự cách biệt giữa phúc lợi quốc gia so với các
nước trên thế giới. Hay chấp nhận đầu tư bừa băi không cân xứng với nhu cầu
quốc gia và không theo qui luật chẳng hạn như phát triển không đồng bộ về du
lịch, khách sạn, giải trí ...sẽ không mang lại phúc lợi cho đại đa số mà ngược
lại, chỉ làm tăng thêm hố cách biệt giàu nghèo giữa các tầng lớp dân chúng
trong nước.
Việc sản xuất dư thừa các nguồn tiêu thụ không cần thiết cho người dân như
rượu, bia, và thuốc lá chỉ làm tăng ngân sách quốc gia và địa phương một cách
“biểu kiến” và quên đi gánh nặng y tế trong việc chửa trị các chứng bịnh nan
y, hệ lụy của việc tiêu dùng các sản phẩm trên cho các thế hệ tiếp nối.
· Từ những hợp tác quốc tế và đầu tư, Việt Nam dần dần tạo được một đội ngũ
thợ chuyên môn có tay nghề cao, một tầng lớp chuyên viên kỹ thuật và quản lư
đầy kinh nghiệm sẳn sàng thay thế sự hiện diện của các chuyên gia ngoại quốc.
Tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến, hấp thụ các công tŕnh công nghệ
cao.... là con đường ngắn nhất để đem đất nước đi vào thịnh vượng đáp ứng với
các định luật phát triển toàn cầu.
Việt Nam cần rút kinh nghiệm từ những thất bại do việc thiếu quy hoạch cho
phát triển trong quá khứ, mà hai thí dụ điển h́nh là nhà máy giấy do Thụy Điển
viện trợ ở Thái Nguyên và hệ thống nhà máy đường răi rác từ Quảng B́nh đến các
tỉnh miền Đông Nam Việt với chi phí trên 1 tỷ Mỹ kim. Ở từng địa phương,
nguyên liệu tre, nứa, mía không đủ để cho các nhà máy trên hoạt động có hiệu
quả về năng suất v́ nhu cầu nguyên liệu chỉ có khả năng cung ứng vài tháng
trong năm. Riêng đối với hệ thống 44 nhà máy đường, chỉ tiêu đạt được “1 triệu
tấn đường cho năm 1995”, với việc xử dụng 1 triệu lao động... chẳng những
không thực hiện được mà cho đến nay, số cung (do đường bản xứ, đường nhập cảng
chính thức và đường nhập lậu từ Thái Lan và Trung Quốc) nhiều hơn số cầu, cũng
như đôi khi giá đường nội địa cao hơn giá đường nhập lậu. Do đó, có thể nói
hiện nay trên 2/3 số lượng nhà máy đường phải đóng cửa. Quảng B́nh đă được xây
một nhà máy nhưng mới vừa đóng cửa v́ không đủ nguồn nguyên liệu mía. Phải
chăng có sự hiện diện của nhà máy đường ở đây v́ Quảng B́nh là một thành phố
điểm của Việt Nam đối với quốc tế trong việc cải tổ hành chánh.
Suy nghĩ “có đâu làm đó” chỉ là một suy nghĩ hết sức ấu trỉ, không thể áp dụng
cho một kế họach có tầm vóc quốc gia. Cho nên cần phải chấm dứt t́nh trạng nầy
ngay tức khắc.
· Rốt ráo hơn nữa, Việt Nam hiện tại đang ở ngă ba đường giữa các cực kinh tế
– quân sự có ảnh hưởng gián tiếp hay trực tiếp lên vận mạng đất nước như: Hoa
Kỳ, Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn, Úc châu, Âu châu, và thế giới Hồi giáo. Mỗi cực
đều có ít nhiều lư do liên hệ và ảnh hưởng đến Việt Nam.
Không một quốc gia nào trên thế giới có thể tự nhận hoàn toàn độc lập và không
liên hệ đến thế giới bên ngoài. Ngay cả hai cường quốc Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Hiện tại, Hoa Kỳ có c̣n hoàn toàn miễn nhiễm về bịnh sốt rét và lao phổi như
đă từng công bố cách đây mấy chục năm không? Trung Quốc cuối cùng rồi cũng
phải dọn con đường mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài để hội nhập vào
cộng đồng quốc tế, chấm dứt giai đoạn bế quan tỏa cảng làm cho đất nước bị tŕ
trệ trong suốt thời gian dài.
Người Việt với truyền thống hiền ḥa và dễ tha thứ sẽ sẵn sàng kết hợp lại để
cùng đưa đất nước đi tới nếu chính quyền thực sự tỏ quyết tâm mang niềm tin
đến cho người dân. Muốn được như thế việc điều hành quốc gia phải có tính
xuyên suốt (transparency) và mọi người dân đều phải được cư xử b́nh đẳng với
nhau căn cứ theo luật lệ hiện hành. Bất cứ ngoại lệ nào rồi cũng đưa đất nước
đến xáo trộn và bất ổn.
Sự trong sáng trong báo cáo chính thức, thành thật trong thống kê sẽ là chất
kết dính để tạo ra sự đoàn kết dân tộc trong bất cứ t́nh huống nào. Làm được
như thế, Việt Nam có thể biến cải các yếu điểm của ḿnh về kỹ thuật, nguồn
vốn, đội ngũ công nhân chuyên môn non tay nghề...thành nguồn trợ lực chính
thúc đẩy phúc lợi cho người dân trong nước với vận tốc nhanh hơn.
· Hiện tại, ngân sách Việt Nam chỉ chiếm 0,1% tổng sản lượng quốc gia để dùng
cho việc quản lư môi trường ṭan quốc, so với các quốc gia ASIAN là 1,0%; cũng
như Việt Nam chỉ cung ứng 3 cán bộ quản lư môi trường cho một triệu người dân
so với 70 cán bộ ở các nước ASIAN. Điều nầy cho thấy Việt Nam cần phải nổ lực
nhiều trong việc bảo vệ môi trường. Các số liệu trên đă chứng minh một cách
hùng hồn rằng Việt Nam không đặt trọng tâm vào việc quản lư và bảo vệ môi
trường trong phát triển xă hội. Sự cân bằng giữa quản lư môi trường và phát
triển kỹ nghệ là một đ̣i hỏi cấp bách trong tiến tŕnh phát triển bền vững và
Việt Nam cần phải chấp nhận để hạn chế những thảm nạn môi trường trong tương
lai.
· Sau cùng, chế độ bao cấp, bù lỗ cho các công ty quốc doanh đă là một trong
nhiều nguyên nhân chính làm tŕ trệ đất nước. Chính chính sách nầy tạo nên sự
ỷ lại và thiếu trách nhiệm của cấp lănh đạo và kéo theo khuynh hướng ù ĺ, phó
mặc của các cấp thừa hành v́ tâm lư “cha chung không cần khóc”. Từ đó, sáng
kiến cải tiến kỹ thuật khó có thể nẩy mầm từ các chuyên viên có trách nhiệm
hoặc công nhân có tay nghề cao v́ họ luôn mang nặng một năo trạng thụ động
trong đầu. Hàng năm Việt Nam tạo thêm ra cho xă hội hàng triệu nhân lực mới.
Muốn tạo điều kiện lao động cho số nhân sự nầy cần phải có thêm hàng ngàn cơ
sở sản xuất nhỏ và vừa trong một thị trường kinh tế tự do. Có như thế, giai
cấp trung lưu mới có điều kiện phát triển nhanh và sẽ là một tiềm lực kinh tế
quan trọng cho quốc gia. Tại các quốc gia kỹ nghệ cao, giai cấp nầy chiếm
tuyệt đại đa số (khỏang 80%) và là chỉ dấu đo lường sức mạnh kinh tế của một
quốc gia. V́ vậy sẽ không c̣n chọn lựa nào khác cho Việt Nam trong việc giải
thể các công ty quốc doanh v́ chính các công ty nầy đă làm thui chột đất nước
trong một thớ gian quá dài.
Các bài học cho Việt Nam trong quá tŕnh phát triển
· Bài học thứ nhất cho Việt Nam là trường hợp Liên Sô. Lịch sử đă chứng minh
rằng ở hầu hết các quốc gia chịu sự thống trị của chế độ xă hội chủ nghĩa đều
theo chính sách kinh tế “ảo”. Sau khi Liện Sô sụp đổ, bài học kinh tế ảo của
quốc gia nầy đă làm cho người dân của họ phải chịu lầm than nhiều hơn so với
các quốc gia phát triền cùng thời. Hơn 10 năm sau khi chế độ marxít tan ra,ơ
người dân Nga Sô vẫn c̣n phải chấp nhận hậu quả bi thảm của một chính sách
kinh tế ảo trên. Đối với nền kinh tế nầy, một khi đă đưa vào ứng dụng th́ một
lượng khổng lồ tài lực và nhân lực sẽ được đổ dồn vào một công tŕnh nào đó
trong một thời gian thật ngắn mà không thu lượm được sản phẩm nào đáng kễ ngơ
hầu có thể tăng phúc lợi cho người dân. Công tŕnh sẽ được hủy bỏ sau đó và
được thay bằng những công tŕnh khác, mà kết quả vẫn không khác những kết quả
trước kia. Do đó, tài nguyên và nhân lực ngày càng cạn kiệt. Lenine và Staline
đă khơi dậy một nền kinh tế ảo cố tạo ấn tượng tốt để che đậy những tráo trở
cũng như hành hạ chính dân Nga bằng những chương tŕnh kinh tế vĩ mô. Nhưng
kết quả sau cùng vẫn là làm kiệt quệ tài nguyên và nội lực của dân tộc. Cho
đến ngày nay, mặc dù có sự trợ giúp của Tây phương, kinh tế Nga sô vẫn c̣n
thoi thóp trong một xă hội hoàn toàn băng hoại về đạo đức. Nội lực dân tộc
ḥan ṭan biến mất trên đất nước nầy.
Một vài số liệu trong báo cáo tháng 10,2002 của International Energy Agency
cho thấy mức phát triển “thụt lùi” của Liên bang Sô viết (1990) và Liên bang
Nga (2000). Năm 1990, Liên bang Sô viết phóng thích ra 3,5 tỷ tấn thán khí
(CO2) trong lúc đó cũng trong năm nầy, ṭan thể Liên hiệp Aâu châu phóng thích
4,0 tỷ tấn. Mức thán khi thải hồi vào không khí là một nhân tố thẩm định mức
phát triển của một quốc gia. Sau 10 năm, Liên hiệp Aâu châu vẫn giữ nguyên
nhịp độ thán khí được thải hồi, trong lúc đó ở nước Nga hậu cộng sản, lượng
thán khí thải hồi đă bị sụt giảm c̣n 2,1 tỷ tấn mà thôi. Với mức phát triển
thụt lùi nầy, người dân Nga ngày nay phải “thắt lưng buộc bụng” thêm nữa so
với 10 năm trước đây. Đây là một bài học quư cho Việt Nam.
· Bài học thứ hai là trường hợp Chí Lợi. Vào cuối thập niên 80, đất nước Chí
Lợi dưới một chế độ độc tài, cũng đang lâm vào một t́nh trạng bế tắc về kinh
tế và môi trường do phát triển không đồng bộ giống như trường hợp Việt Nam
hiện tại. Sau khi chế độ dân chủ lên nắm chính quyền, Chí Lợi đă chuyển ḿnh.
Chính phủ dân sự đề ra chính sách cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi
trường. Và đây là một chính sách đúng đắn của các nhà lănh đạo có tầm nh́n xa.
Kết quả là, chỉ trong ṿng 10 năm, Chí Lợi đă giải quyết căn bản những vấn nạn
môi trường do phát triển ồ ạt trước đây gây ra. Do đó, người dân được hưởng
thêm nhiều phúc lợi như việc cải thiện giáo dục và y tế công cộng và đồng thời
môi sinh cũng được bảo vệ đúng mức. Làm được như thế v́ Chí Lợi đă thấy được
thế mạnh của người dân và đủ can đảm mở rộng cửa để cho người dân có điều kiện
tiếp tay với lănh đạo trong công cuộc phát triển quốc gia.
· Bài học thứ ba là trường hợp Trung Quốc . Trung Quốc và Việt Nam đă lần lượt
mở cửa từ năm 1979 và 1986. Diện tích đất đai Trung Quốc chiếm 28 lần hơn Việt
Nam: 9.326.410 Km2 và 329.560 Km2. Dân số Trung Quốc cao gấp 16 lần hơn Việt
Nam: 1.298.847.624 (4/2004) và 82.698.518 (7/2004). Lao động Trung quốc gấp 17
lần lao động Việt Nam: 778 triệu (2003) và 45,7 triệu (2003). Măi lực toàn
quốc (purchasing power parity) trong năm 2003 của TQ là 6.449 tỷ Mỹ kim và của
Việt Nam là 203,7 tỷ Mỹ kim, chỉ bằng 1/32 của TQ. Và trị giá của một lao động
TQ là 8.282 Mỹ kim (2003) so với 4.457 Mỹ kim của Việt Nam, tức 1,86 lần cao
hơn lao động Việt Nam.
Từ những con số trên, chúng ta kết luận được ǵ? Không cần phải là một kinh tế
gia, chúng ta cũng có thể kết luận chắc nịt là: Việt Nam phát triển chậm hơn
Trung Quốc trong khoảng thời gian vừa qua mặc dù người Việt Nam cần thêm nhiều
nhu cầu trong giai đoạn nầy hơn người Trung Quốc.
Trên lư thuyết, định mức sự phát triển quốc gia cho đến nay vẫn c̣n căn cứ vào
thuyết “tam khu” của Colin Clark, trong đó gồm khu nông nghiệp, khu công
nghiệp, và khu dịch vụ. Từ đó qua sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số
phát triển của một quốc gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vực.
Tiến tŕnh phát triển quốc gia nói chung được ghi nhận vào các giai đoạn sau
đây: 1- Trước hết 3 quốc gia vừa kể trên chọn nông nghiệp làm chính cho giai
đoạn ban đầu; 2- Khi mức sản xuất nông nghiệp đáp ứng được cán cân cung cầu
trong nước, từ đấy sẽ đẩy mạnh công nghiệp sản xuất; 3- Và sau giai đoạn công
nghiệp, dịch vụ sẽ là trọng tâm trong phát triển. Do đó, đối với một quốc gia
một khi tỷ lệ dịch vụ và công nghiệp sản xuất càng cao, sự phát triển của quốc
gia đó càng tăng thêm mức bền vững và giảm thiểu được nguy cơ khủng hoăng.
Trong lúc đó, cùng một điểm xuất phát trong phát triển nông nghiệp từ những
năm đầu 80, lực lượng nông dân của Việt Nam và Trung Quồc chiếm khoảng 80% dân
số. Đến năm 2001, tỷ lệ nông dân TQ giảm xuống c̣n 50% nhường chỗ cho khu vực
kỹ nghệ và dịch vụ 50%. C̣n Việt Nam chỉ giảm xuống c̣n 63% dân số cho nông
nghiệp; do đó chưa đủ để đẩy mạng hai khu vực sau nầy.
Giải pháp tháo gở cho Việt Nam
Qua các phân tích trên đây, một giải pháp giản dị trước mắt để tháo gở các khó
khăn kinh tế và chuyển dịch lao động trong nông nghiệp được đề nghị là công
nghệ hóa dầu trong điều kiện hiện có của Việt Nam. Đây sẽ là một giải pháp tối
ưu hiện tại để từ đó Việt Nam có thể bước những bước vững chắc hướng về tương
lai. Đó là việc xây dựng nhà máy lọc dầu và chế biến các sản phẩm hóa chất qua
những phụ chất từ công cuộc hóa dầu nầy. Để rồi từ đó, Việt Nam có thể tự túc
qua kỹ nghệ phân bón, thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc và một số hóa chất căn
bản trong kỹ nghệ. Dự án khai thác và xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quốc ở
Quảng Ngăi thực hiện nửa chừng, tiêu tốn trên 200 triệu Mỹ kim, đành phải đem
vào quên lăng v́ những lư do ...không ai hiểu được là một trong những việc làm
cần nên tránh trong tương lai.
Nh́n lại kinh nghiệm và các kinh nghiệm về phát triển kinh tế của Nga sô, Chí
Lợi vàTrung Quốc, chúng ta nhận thấy, phát triển Việt Nam đúng hướng không
phải là một việc không thể thực hiện được.
Việt Nam cần có tầm nh́n toàn cầu, ứng hợp với chiều hướng phát triển chung
của thế giới, chấp nhận luật chơi chung, và quan trọng hơn cả là cần phải xóa
bỏ năo trạng “độc tôn và duy ngă” trong tư thế lănh đạo đất nước.
Và phát triển cần phải có một kế hoạch dài hạn có tầm vóc quốc gia, chứ không
phải cung cách “làm ăn” theo địa phương hoặc từng khu vực giống như h́nh thức
trăm hoa đua nở như hiện nay.
Với thành tích đi giây giữa các đối cực quân sự trong quá khứ, chúng ta cố
nuôi hy vọng thêm một lần nữa để nh́n thấy Việt Nam có những quyết định khôn
ngoan trước khuynh hướng phát triển toàn cầu hiện tại. Phát triển quốc gia
đúng đắn, mang lại phúc lợi thực sự cho người dân đ̣i hỏi một quyết tâm sáng
suốt và nghiêm chỉnh của lănh đạo.
Mọi vấn nạn hiện tại của Việt Nam đang đi dần đến mức bế tắc gần như vô phương
cứu chữa, và người dân sẽ khó chấp nhận trong tương lai nếu c̣n thấy những sữa
sai về chính sách phát triển quốc gia sai lầm nữa.
Nh́n lại 29 năm qua, Việt Nam tuy đă đạt một số tiến bộ trong việc xây dựng và
phát triển quốc gia, nhưng chưa đủ mau và mạnh so với nguồn nhân lực, tài
nguyên hiện co,ù cũng như nhu cầu cho dân tộc mà Việt Nam cần phải chu ṭan.
Có phải v́ những đắn đo, dằn co nội bộ trong chính sách tiếp cận tiến tŕnh
toàn cầu hóa không?
Hay v́ quan niệm quốc gia cực đoan và mặc cảm trước đàn anh nước lớn Trung
Quốc?
Hơn nửa thế kỷ qua, Việt Nam điều hành quốc gia qua việc cấy “sinh tử phù sợ
hăi” vào ḷng người dân Việt, th́ ngày nay có phải v́ tâm thức luôn bị ám ảnh
về nỗi lo sợ bị đào thải cho nên không dám mạnh dạn thay đổi?
Hoặc Việt Nam vẫn c̣n “dằn vật” trong định nghĩa về “chính sách phát triển
quốc gia theo định hướng xă hội chủ nghĩa”?
Cho dù dưới bất cứ lư do ǵ đi nữa, yếu tố thời gian vẫn không cho phép Việt
Nam mong t́m một hướng đi nào khác hơn được.
Mai Thanh Truyết
West Covina 12/2004