| ||||||
|
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN Một tuần lễ đă trôi qua, nói cụ thể hơn từ số báo Công an nhân dân ra ngày thứ Ba 6/9/2005 và số báo An ninh thế giới số ra ngày thứ Tư 7/9/2005 bạn đọc không thấy tên ông Đặng Vương Hưng trong danh sách các Phó Tổng biên tập. Những ngựi thạo tin cho biết ông ta vừa bị băi chức nhưng lư do chưa rơ. Một nguồn tin chưa được kiểm chứng cho biết Ông Đặng Vương Hưng bị mất chức v́ lư do chính trị. Trong một buổi họp nội bộ, có sự bất đồng ư kiến giưa Ông Tổng Biên Tập Hữu Ước và Ông Đặng Vương Hưng về 2 vấn đề, (1) Vụ kiện báo An Ninh Thế Giới cuả hai Ông Phạm Quế Dương và Trần Khuê; (2) Điều 1 trong bản đạo đức nghề nghiệp: 1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xă hội chủ nghĩa dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo lời người thuật chuyện, Ông Hưng đă phát biểu , ḿnh là nhà văn nhà báo, những người làm văn nghệ mà “Tuyệt đối trung thành” th́ không ổn. Một nguồn tin khác cho biết xa gần 2 Ông Hữu Ước và Ông Hưng có tranh chấp ngầm về đại hội 10 trong năm tới . Có lẽ trong những ngày tới, việc trắng đen sẽ rơ .
Để thực hiện hội nghị bàn tṛn
Không thể nào kêu gọi, van xin, yêu cầu VC tự giác tham gia bàn tṛn. Mà phải ép VC vào thế phải chọn đó là con đường duy nhất. Bản chất VC là không bao giờ bỏ tật độc tài. Công cuộc dân chủ chỉ như cái cân. Một bên là phong trào Dân chủ, bên là quyền lực VC. Nếu tiếng nói đấu tranh mạnh th́ cán cân sẽ tăng vọt. Đánh động được tư duy của các lăo thành cách mạng có cao kiến đi vào con đường dân chủ, kéo theo là các đầu đệ, anh em họ và chính các vị này sẽ tự lực bước vào cái bàn tṛn. Đó là chính họ phải gây áp lực cho chính chế độ họ phải vào bàn tṛn. Như vậy là cán cân VC sẽ tự giảm xuống. Phía bên này th́ có các nhà dân chủ và các tổ chức đấu tranh tận lực nâng cấp lực lượng dân chủ để bố trí. Chính giai đoạn này hiện thực th́ phe VC cấp tiến chủ động thời cuộc trong khi phe thân TC sẽ phải một là bị đào thăi, hai chấp nhận phải bị tự sử là “chỉ có con đường cùng này là cách thoát”. Vấn đề ông Hoàng Minh Chính nêu ra không c̣n chỉ là một đề nghị nữa, mà liệu các đồng chí ông phải quyết định cái lư trí ra sao? Nếu được thế, th́ chính phe cánh VC cấp tiến phải có Road Map cho chính ḿnh để chủ động mở lối, th́ chắc hẳn phong trào dân chủ sẽ yểm trơ.. Ví dụ: Giai Đoạn Đa Nguyên: Giai đoạn này phải xăy ra trước khi có giai đoạn Đa Đảng. 1. Các cơ cấu báo chí phải mạnh dạn nói lên tiếng nói v́ dân, cho dân, của dân. 2. Chủ động bạch hóa các tệ đoan tham nhũng, và những cái đen tối ghê tởm của đảng CS trước 75. Tức là hăy nói toàn dân. 3. Tích cực quảng bá tiếng nói dân chủ hải ngoại, quốc nội, thế giới ngay trên báo chí và nội bộ vây cánh ḿnh. Giai đoạn Đa Nguyên, là giai đoạn khởi điểm cho sự chấp nhận những lư tưởng khác biệt, bố trí cho xă hội được hội nhập tư tưởng khác biệt và không c̣n sợ hăi, không c̣n im lă. ng. Từ đó, th́ mới ổn định được xă hộị Ví dụ, dẹp bỏ các bản hiệu trên đường phố về “văn hóa đồi trụy”, dẹp bỏ các băng đỏ, h́nh ảnh bác Hồ. Nói cách khác, bỏ xanh, trắng vào, để nhạt đi màu đỏ. Rồi từ từ có đầy màu sắc. Giai Đoạn Hai, Giai Đoạn Da Đảng. 1. Giảm bớt quyền lực công an đang chi phối xă hộị Tức tách rời (độc lập hóa) tất cả các bộ như bộ Tư Pháp, Hải Quan, Hộ Chiếu, khỏi bộ giám sát của Công An. Nghĩa là quyền dân sự cần nới rộng, các hành chánh dân sự sẽ không phải đợi thời gian qua bộ công an duyệt xét. B́nh đẵng hóa bộ “đăng kư” hộ chiếu (không phân biệt dân xin hộ chiếu v́ lư do đi “tu hành”, đi “học”, đi “thăm gia đ́nh”, đi “tham dự hội thảo quốc tế”. v. v. Rất nhiều vấn đề về pháp luật và hành chánh cần phải dân chủ hóa hệ thống. 2. Vô hiệu lực TC2 3. Công khai sự chấp nhận sinh hoạt đa đảng. (Cái này chỉ xăy ra nếu lực lượng dân chủ có đủ sức mạnh để áp lực VC phải chấp nhận). Điều kiện tiên quyết để có Tiểu Diên Hồng - Bàn Tṛn 3 bên là Bộ Chính Trị Đảng CSVN phải ra lệnh cho “những tên tay sai” NGƯNG NGAY: -1) Việc Đàn Áp, ức hiếp nguời Thuợng + Trả đất đai lại cho họ, để cho họ đuợc tự do tín nguỡng. -2) Việc truy sát, diệt tận các tôn giáo chính thống như Công Giáo, Phật Giáo, Ḥa Hảo, Tin Lành… + Thả tất cả tù nhân tôn giáo, để cho họ đuợc tự do hành đạo, ra báo chí của tôn giáo họ -3) Việc theo dơi, tù đày các nhà trí thức đấu tranh cho dân chủ trong nuớc, để cho họ đuợc tự do ra báo chi, xuất bản sách… -4) Việc chiếm đất đai của các tôn giáo và của dân lành, hăy tạo 1 cuộc sống an b́nh, tự do, dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân Nếu Đảng CSVN có thiện chí đầy đủ như thế, th́ những nguời trí thức hải ngoại mới tin tuởng và sẵn sàng bỏ qua sự tráo trở của Đảng CSVN sau hội nghị bàn tṛn 4 bên năm xưa (kư kết tai Paris năm 1972) Phải đủ sự thành tín, th́ mới thiết lập đuợc những hội nghị dù lớn hay nhỏ giữa đa đảng, đa nguyên trong tuơng laị Mong mơi lắm thaỵ Tony Nguyễn TB: Những nguời trí thức hải ngoại hiện có cuộc sống đầy đủ vật chất lẫn tinh thần ở các nuớc tự do! Họ quan tâm tới đồng bào trong nuớc là t́nh thuơng dân tộc, chứ không mưu cầu quyền lực, lợi lộc riêng tư! Họ có thể giúp VN FREE, nếu Đảng CSVN biết đặt NHÂN QUYỀN lên trên Đảng Quyền! Như thế mới là: “Trung với nuớc, hiếu với dân “+ Mọi việc để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” Không có chơi cái màn bưng bít thông tin, bịt miệng bóp cổ nguời kh'ac 1 cách đê tiện, rồi dành phần phải về ḿnh qua 1 cái lỗ miệng của Đảng tuyên truyền đi khắp nơi… .
Cần "khoán 10" cho ĐH đẳng cấp quốc tế tại VN 03:45' 01/08/2005 (GMT+7) (VietNamNet) - Đó là nội dung cuộc toạ đàm giữa các nghiên cứu sinh của Quỹ giáo dục Việt Nam Hoa Kỳ (VEF Fellows) và VietNamNet hôm 29/7. Trong số VEF fellows tham gia tọa đàm, 4 người hiện đang giảng dạy tại các trường ĐH danh tiếng của Mỹ. Giám đốc VEF Phạm Đức Trung Kiên mở đầu với việc nhắc lại đề nghị của Thủ tướng Phan Văn Khải trong "Ngày Giáo dục" nhân chuyến thăm Mỹ vừa qua. Sau một ngày gặp gỡ, lắng nghe thuyết tŕnh của các GS hàng đầu, phân tích cặn kẽ t́nh h́nh giáo dục ở VN theo quan điểm của họ, Thủ tướng đứng lên đáp lời rằng VN rất muốn xây dựng một trường ĐH đẳng cấp quốc tế. Về phía VEF, cách đây khoảng 2 năm, một buổi tối, 19 nghiên cứu sinh VEF khoá đầu tiên có họp mặt tại Washington D.C. Khi đó, mọi người đă bàn đến nhu cầu cần có một ĐH mang đẳng cấp quốc tế. Lư do giản dị xuất phát từ bữa trưa với đại sứ VN Nguyễn Tâm Chiến và Chủ tịch VEF. 90% câu hỏi đặt ra là sau khi đi học ở Mỹ, các em sẽ làm ǵ tại VN? Trong cuộc tṛ chuyện thân mật đó, mọi người đă đưa ra câu trả lời, trong tương lai, VN sẽ đủ nhân lực để mở một trường ĐH mới. Câu nói của Thủ tướng ở ĐH Harvard xuất phát từ nhu cầu thực tế: nếu VN không tổ chức những môi trường làm việc như vậy, th́ tất cả những người giỏi đều có cơ hội đi chỗ khác làm việc. Chẳng hạn, với các nghiên cứu sinh (NCS) VEF, vào Mỹ th́ không vào hẳn được v́ bị giới hạn, nhưng khả năng sang các nước thứ ba là điều chắc chắn. Chất xám được đào tạo rồi, nhưng không tạo cơ hội làm việc th́ sẽ mất. Thế nào là ĐH đẳng cấp quốc tế? Nhà báo Lương Bích Ngọc: Chúng ta thống nhất nhu cầu về một trường ĐH đẳng cấp quốc tế là có thực.Vậy, các bạn ở đây có thể giúp cho độc giả h́nh dung thế nào là một trường ĐH đẳng cấp quốc tế? Và theo các bạn, chúng ta cần những điều kiện ǵ để thành lập và phát triển? Trong đó: yếu tố ǵ là quan trọng nhất? Tài chính, nhân lực hay cơ chế? Lương Viết Nhiệm (khoa Y tế công cộng, ĐH Bắc Carolina - UNC. Trước khi xin học bổng của VEF, từng học cao học tại trường Y tế công cộng tại Manila . Đây là trường hàng đầu ở Philippines và cũng được đánh giá là đứng số 1 ở khu vực Đông Nam Á). Trường đẳng cấp quốc tế là phải đào tạo ra SV mà sau khi tốt nghiệp có thể nộp đơn vào các trường cao hơn tại Mỹ. Sau đó là nguồn nhân lực. Hầu hết các giáo viên tại ĐH Manila đều học ở Mỹ. Hiện chúng ta có rất nhiều NCS ở Mỹ và đa số đều đă tham gia giảng dạy ở Mỹ. Trường ĐH đẳng cấp quốc tế cần thu hút cả SV trong nước và quốc tế. Đó là nguồn duy tŕ sự phát triển của trường. Khi người ta đă làm được, tại sao ḿnh không làm được? Trịnh Văn Thắng (UNC): Ấn tượng lớn nhất của tôi khi học tập tại UNC là hệ thống thư viện ở mức "đỉnh cao". Khả năng cập nhật của thư viện ở đó rất mới, tài liệu cập nhật đến từng tháng. Phong cách dạy của họ cũng "đỉnh", tức là ḿnh được tự do khám phá và tư duy rất mở. Thi cử cũng rất mở, không nhất thiết phải ngồi trên bàn giấy và theo một barem chặt chẽ. Họ tạo điều kiện cho ḿnh tư duy theo một logic nào đó. Sau khi dạy lư thuyết xong, trường có chương tŕnh bắt buộc SV thực tập về y tế cộng đồng, sống với dân và làm thật. Cái nữa là sự liên kết giữa trường ĐH tầm cỡ quốc tế với các trường khác. Điều này tạo cho SV tầm nh́n rộng. Tôi ở trường này, nhưng lại biết về trường kia và biết các thầy ở trường kia để t́m hiểu. Ngô Đức Anh (ĐH Houston, Texas): Một trường ĐH có 2 chức năng chính là giảng dạy và nghiên cứu. Nghiên cứu để hỗ trợ giảng dạy và giảng dạy để phục vụ nghiên cứu. ĐH tầm cỡ quốc tế, về mặt nghiên cứu, cần có những công tŕnh nghiên cứu cũng tầm cỡ này. Tức là công tŕnh phải được xuất bản trên những tạp trí khoa học quốc tế, tạo cơ hội giao tiếp với các nhà khoa học trên thế giới. Một điều thuận lợi lớn của trường ĐH đẳng cấp quốc tế tại VN là sự phong phú trong đề tài nghiên cứu. Khi tôi học ở Thái, Australia hay ở Mỹ, rất khó để t́m được một đề tài nghiên cứu v́ cứ "hở" ra cái ǵ là người ta làm. C̣n ở VN, riêng trong ngành của tôi th́ không thiếu đề tài. V́ ḿnh có thể lấy những đề tài người ta đă nghiên cứu ở nước ngoài, và hoàn thành tại VN. Đó sẽ là những đề tài mang tầm cỡ quốc tế được nhiều người quan tâm. Có khi một đề tài đă được làm đi làm lại ở nước ngoài, đến mức thông tin đă băo hoà, nhưng nếu làm ở VN th́ lại là thông tin mới. Vấn đề quan trọng là làm sao để khi đi báo cáo ở các hội nghị quốc tế được các tờ báo quốc tế chấp nhận. Nguyễn Văn Thắng (khoa Công nghệ sinh học, ĐH Houston, Texas): Tôi muốn nhấn mạnh tiêu chí để đánh giá một trường ĐH đẳng cấp quốc tế. Thứ nhất là con người. Một trường ĐH đẳng cấp quốc tế th́ người thầy phải đạt tŕnh độ quốc tế. Chúng ta đă biết đó là người phải có các công tŕnh được đăng trên các tạp chí quốc tế. Mà đă có thầy giỏi th́ nhất định phải chọn những tṛ giỏi. Thứ hai là cơ chế. Có nhân lực giỏi rồi, sẽ nghiên cứu ra sao, theo cơ chế nào? Tôi lấy một ví dụ: trước đây chúng ta tập trung nghiên cứu lúa rất nhiều. Bao nhiêu năm nghiên cứu đủ mọi loại giống lúa nhưng vẫn "đói". Chỉ có một cơ chế khoán 10 thôi, chúng ta đă xuất khẩu gạo. Điều này khẳng định: cơ chế là điều kiện tiên quyết. Thứ ba, một trường ĐH quốc tế cần phải có thước đo giá trị. Giá trị ở đây là trí tuệ. Trí tuệ được thể hiện ở khía cạnh thứ nhất là chương tŕnh giảng dạy. Bắt buộc chương tŕnh giảng dạy phải là chương tŕnh quốc tế. Khía cạnh thứ hai là SV, cũng phải theo tiêu chuẩn quốc tế, ví dụ, phải có điểm TOEFL tối thiểu 550. Thứ ba là thước đo về thư viện. Hà Hữu Toàn (ĐH Houston, Texas): Ở Mỹ, để đánh giá một trường ĐH, người ta thành lập một uỷ ban độc lập và đánh giá theo một số yêu cầu cơ bản nào đó. Từ đó, công nhận trường này là trường chuẩn hay đạt yêu cầu ở cấp độ nhất định. Như vậy ở VN, muốn có một trường ĐH quốc tế, cần phải có một cơ chế đánh giá độc lập. Cơ quan này không nhất thiết là của VN mà có thể của một tổ chức quốc tế nào đó như UNESCO chẳng hạn. Mặt khác, trường ĐH tầm cỡ quốc tế không chỉ dựa vào sự so sánh giữa nước này với nước khác mà phải ở quy mô toàn cầu. Phạm Đức Trung Kiên: Muốn kiếm được thầy giỏi, trẻ về dạy cần phải có khung cảnh để họ làm việc, sinh sống. Khung cảnh phải phù hợp với gia đ́nh, con cái họ. Rơ ràng, không thể xây dựng trường tại trung tâm Hà Nội hay TP.HCM v́ chỉ 30 năm nữa với đà phát triển này sẽ vô cùng chật chội, bức xúc, đi làm sẽ bị tắc đường. Như vậy, cũng cần phải tính trước khung cảnh phát triển của trường, làm sao để trường ĐH đó có bề rộng phát triển, có sự an toàn cho gia đ́nh, con em của giảng viên. Trường RMIT mở một khuôn viên ở phía nam TP.HCM mà không phải ở trung tâm. Cơ chế "đặc khu"Nhà báo Lương Bích Ngọc: Bạn Thắng có nói để xây dựng một trường ĐH tầm cỡ quốc tế th́ cơ chế là yếu tố quan trọng nhất. Vậy các bạn có thể nói rơ hơn, cần một cơ chế như thế nào th́ mới xây dựng được một trường ĐH đẳng cấp quốc tế? Nguyễn Văn Thắng: Tôi có may mắn được dự buổi làm việc của Thủ tướng tại ĐH Harvard. Nếu t́m ra một cơ chế để phát triển th́ sẽ mất rất nhiều thời gian để bàn bạc. Hăy nh́n ngay mô h́nh của một nước nào đó ở gần, đă làm trước chúng ta. Để xây dựng một trường ĐH đẳng cấp quốc tế ở VN, cần bắt tay với các trường hàng đầu ở Mỹ. Nhiều học giả Mỹ có nói: MIT đă có một phân hiệu hợp tác với Singapore mang tên Singapore MIT. Phân hiệu này rất phát triển. Trong khu vực châu Á, Singapore MIT đứng hàng số 1. Chúng ta hăy học xem họ làm thế nào. Như anh Kiên có nói, các GS Harvard từng tuyên bố: trường Harvard chưa giúp ai trên thế giới này nhưng sẵn sàng giúp VN v́ VN là một đất nước đặc biệt đối với họ. Trịnh Văn Thắng: Tôi đề cập tới khía cạnh thiết thực với đời sống của anh em hơn. Tôi và rất nhiều người ở đây đă chứng kiến t́nh huống: anh em học ở Mỹ về, vào công tác ở một số trường ĐH trong nước dài là 6 tháng và nhanh là 1 tháng rồi rời đi. Hỏi tại sao, họ trả lời: "Lương quá thấp" hay "Không chịu được v́ học mà không được dùng". C̣n một lư do nữa, họ tự tin vào bản thân, nhưng từ "tự tin" lại được hiểu thành "tự kiêu", thế là cũng "hỏng". Như vậy, có thể tóm tắt 3 yếu tố để những người đi học nước ngoài về có thể yên tâm làm việc trong nước: Phải có đồng lương ổn định để yên tâm cống hiến; Phải được dùng cái ḿnh đă học; Nghiên cứu và giảng dạy phải đi đôi với nhau. Ngoài ra, cần phải có một tổ chức nào đó gần giống với chức năng của một Công đoàn, bảo vệ quyền lợi cho người cán bộ giảng dạy ở một trường ĐH quốc tế. Một điều quan trọng nữa là phải bớt đi những rào chắn không cần thiết, bớt đi những thủ tục rườm rà, phức tạp. Đừng để người muốn làm nghiên cứu phải trải qua quá nhiều thủ tục, v́ như vậy nhiều lúc đề tài mất đi tính thời sự, làm sao nghiên cứu? Nhà báo Lương Bích Ngọc: Giả sử được là Hiệu trưởng một trường ĐH đẳng cấp quốc tế, bạn sẽ cần cơ chế ǵ để có thể phát triển? Vũ Chính Thiện (ĐH Houston, Texas): Theo tôi, cần phải mạnh dạn xin một cơ chế đặc biệt, kiểu như "các đặc khu kinh tế" ở Trung Quốc, tức là được phép cấp bằng theo tiêu chuẩn quốc tế mà không phải trực thuộc Bộ GD-ĐT. Cũng không phải trực thuộc một ĐH nước ngoài nào mà chỉ nên bắt tay hợp tác với họ. Chúng ta cần có một chương tŕnh tự soạn và áp dụng, coi đó như một chương tŕnh thử nghiệm và không phải tuân theo các quy định chung. Nên chăng, ta thử xây dựng 1 trường ĐH theo mô h́nh mới. Nếu tốt th́ đó sẽ là trường ĐH tiên phong để những nơi khác học tập theo. Hoàng Vân (ĐH John Hopkins): Tài chính của trường ĐH cũng rất quan trọng. Hiện nay, ngân sách của một trường ĐH công lập là do chính phủ cấp. Một trường ĐH quốc tế mà phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước th́ rất khó khăn. Do vậy, cần phải có một cơ chế mở để trường ĐH đẳng cấp quốc tế có thể huy động nguồn tài chính từ các nơi khác, như từ nước ngoài hoặc các khối tư nhân trong nước. Trường đó nên được toàn quyền quản lư nguồn tài chính của ḿnh. Chính phủ có thể có giám sát ở mức độ nhất định nhưng trường vẫn nên được quyền tự chủ nhiều hơn về chi tiêu tài chính. Nói cách khác, cần một cơ chế độc lập về tài chính. Lương Viết Nhiệm: Bản thân tôi đă có 10 năm kinh nghiệm làm giảng viên. Khi sang Mỹ học, tôi thấy rằng chương tŕnh giảng dạy ở đó rất mở, tạo cho SV nhiều lựa chọn. Chương tŕnh của ĐH đẳng cấp quốc tế cũng nên đa dạng như vậy để SV có quyền lựa chọn và định hướng xem tương lai họ sẽ làm ǵ. Vấn đề thứ hai là lương bổng cho thầy. Nhiều anh chị đi học ở nước ngoài và về giảng dạy tại trường ĐH nhà nước, lương thấp nên phải làm ngoài để đảm bảo chi phí. Do vậy, cần phải có một cơ chế mở về lương. Có trường hợp các thầy do lương thấp, phải đi làm dịch vụ. Đă đi làm dịch vụ th́ tất nhiên thời gian dành cho nghiên cứu sẽ giảm đi. Đó là một thực tế đang xảy ra ở mọi nơi từ rất lâu rồi và cần phải thay đổi. Vấn đề nữa là việc thực hành cho SV. Một khi giảng lư thuyết th́ cần có một mảng thực hành đi kèm. Hà Hữu Toàn (khoa Y tế công cộng, ĐH Houston, Texas): Xin bàn thêm về vấn đề cơ chế. Trong ngành giáo dục, cần có một cơ chế mở hơn nữa, tức là Hiệu trưởng hoặc các nhà quản lư cần phải tạo cho các giảng viên điều kiện tự do trong nghiên cứu hoặc hợp tác. Giáo viên cũng phải tạo cho sinh viên điều kiện như vậy. Nếu nh́n lại t́nh h́nh ở VN hiện nay, th́ những tư duy mở thế này chưa có. Nguyễn Văn Thắng: Cơ chế mở trong giáo dục là ch́a khoá dẫn tới sự thành công của nền giáo dục Mỹ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao nền giáo dục sau ĐH ở Mỹ lại phát triển như vậy? Câu trả lời rất đơn giản: Dân chủ trong giáo dục. Điều này được thể hiện như thế nào? Tôi chỉ lấy một ví dụ nhỏ, vai tṛ của người thầy hướng dẫn đối với người làm tiến sĩ giống như một người bạn. (Chứ không phải là...cụ, là ông nội, là bố...). Trách nhiệm của mỗi người thầy không phải là bắt học tṛ phải giỏi theo ḿnh, mà phải t́m thấy những đốm lửa le lói trong đầu mỗi SV và thổi bùng nó lên thành một "núi lửa". Bắt đầu xây dựng ĐH đẳng cấp quốc tế ngay từ bây giờ! Nhà báo Lương Bích Ngọc: Chúng ta nên đi theo một lộ tŕnh như các nước đă đi, cụ thể ngay sát chúng ta là Trung Quốc hay sẽ làm một bước đột phá để có thể chỉ sau 5 năm nữa, chúng ta có được một trường ĐH như vậy? Nếu đi theo hướng thứ hai, chúng ta cần bước đột phá mạnh mẽ nhất là ǵ? GS Trần Thanh Minh: ĐH Thanh Hoa (Trung Quốc) mặc dù được đầu tư rất mạnh nhưng họ cho rằng có thể đạt tầm cỡ quốc tế trong thế kỷ 21. Đó là họ nói khiêm tốn, c̣n tôi nghĩ rằng, chắc không đến giữa thế kỷ 21 đâu. Xây dựng một trường ĐH không phải chuyện "đùa". V́ thế, tôi thống nhất đó là câu chuyện của 10-20 năm. Nhưng trong 10-20 năm ấy, trách nhiệm của chúng ta là phải cố gắng, phấn đấu để câu nói của Thủ tướng trong buổi làm việc tại Harvard trở thành hiện thực. Vũ Chính Thiện: Xây được một trường ĐH đẳng cấp quốc tế chỉ trong 5 năm là điều khó. Bác Hồ đă nói: "V́ lợi ích 10 năm trồng cây, v́ lợi ích trăm năm trồng người". Nếu chỉ trong 5 năm, chúng ta sẽ không thể có một trường tốt. Nhưng nếu trong 50 năm hay 100 năm th́ chúng ta sẽ có một nền móng rất vững chắc. Nhà báo Lương Bích Ngọc: Nhưng chúng ta đă có nguồn nhân lực, có thể t́m được sự hỗ trợ từ bên ngoài, quyết tâm của Chính phủ đă thể hiện rất cao . Hơn nữa như anh Kiên đă nói, chúng ta cần phải có một ĐH làm hoa tiêu. Nếu như trong 20 năm nữa, đến 1 ĐH đẳng cấp quốc tế chúng ta chưa có th́ làm sao có thể tác động để tạo ra "khoán 10 trong giáo dục"? Phạm Đức Trung Kiên: Theo tôi, trong 5 năm, chúng ta có thể làm được v́ đă có những yếu tố mà các bạn vừa nói và có nhiều ví dụ trên thế giới. RMIT bắt đầu có giấy phép hoạt động chỉ trong ṿng 3 năm. Mới đây, RMIT đă khai trương trụ sở tại TP.HCM. Như vậy, vấn đề cơ sở hạ tầng, con người đă bắt đầu có từ 2 năm trước. Cơ chế th́ cần Thủ tướng quyết định. Bộ GD-ĐT cũng đă đồng ư. Bản thân tôi thấy điều này là khả thi. Xét từ ví dụ của trường Rice University, Houston là một trong những trường có học phí đắt nhất nước Mỹ. Cách đây 5 năm, ông Giám đốc Rice University sang Đức để giúp xây dựng một trường ĐH tầm cỡ quốc tế cho Đức với kinh phí do phía Đức lo. Tháng 9 này, tôi hy vọng sẽ mời được ông sang đây để nói chuyện, chia sẻ kinh nghiệm. Ông ấy là người có rất nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này, biết rơ bao nhiêu năm th́ làm được, cần bao nhiêu tiền, bắt đầu như thế nào... Nhân đây tôi cũng xin chia sẻ về vấn đề tài chính. Hôm họp với Thủ tướng tại Harvard có nhắc tới vấn đề tài chính. Ông chủ toạ có nói: "Nước VN chỉ cần bớt mua một máy bay Boeing là đủ xây một trường như vậy". Càng nghĩ, càng thấy điều này chí lư. GS Trần Thanh Minh: Tôi cho rằng, cần phải có một văn bản cụ thể từ Chính phủ về vấn đề này. Tôi chia sẻ ư kiến của anh Kiên. Đó là, chúng ta không thể chờ đến khi nào có đầy đủ "mâm, bát, đũa", đủ 15 - 20 khoa, ngành đào tạo th́ mới tuyên bố bắt đầu xây trường. Ngay từ bây giờ, ta bắt đầu đề ra tiêu chí về nhân lực, nội dung chương tŕnh giảng dạy, pḥng thí nghiệm, thư viện có đẳng cấp quốc tế, đội ngũ giảng dạy và cách lựa chọn người học ra sao... bắt đầu từ những ngành VN đang cần. Sau 5 năm, ta sẽ có 2-3 khoa, rồi 5 năm nữa có thêm 4-5 khoa. Và như vậy sau 20-30 năm nữa, sẽ có một trường với quy mô tương đối đầy đủ. Nhưng rơ ràng, bắt đầu phải là 5 năm, không thể sớm hơn. "Dựng" và được phép "dựng" ĐH đẳng cấp quốc tế: Ai đủ khả năng? Nhà báo Lương Bích Ngọc: Nếu ngân sách do Nhà nước cung cấp giao cho Bộ GD-ĐT làm th́ liệu có xây dựng được một trường ĐH tầm cỡ quốc tế như mong muốn không? C̣n nếu do tư nhân đứng ra làm, kêu gọi ngân sách để thành lập th́ liệu cơ chế có cho phép không? Nguyễn Văn Thắng: Đây là vấn đề rất nhiều người quan tâm. Muốn đất nước phát triển cần có nhân lực. Muốn có nhân lực cần có trường và muốn có trường th́ Nhà nước cần có một cơ chế đặc biệt để tạo ra trường đó. Chúng ta cần phải đi từ cả hai kênh, thứ nhất là từ Chính phủ và thứ hai là các nguồn huy động cá nhân trong và ngoài nước. Cần một tổ độc lập để thực hiện việc đó. Như vậy, cơ chế phải đặc biệt và độc lập th́ mới phát triển được. Vũ Chính Thiện: Tôi nghĩ rằng, để đạt mục tiêu trong 5 năm có một trường ĐH với 2-3 khoa mà phải đi xin ngân sách từ chính phủ rồi đàm phán với Bộ Tài chính th́ sẽ rất khó khăn. Để xin được cơ chế rất nhỏ là vay không lăi suất th́ quá tŕnh đàm phán có thể kéo dài cả năm. Do đó, nếu làm theo cách của quốc tế như đi vay ở đâu đó hay đầu tư cổ phần, vay không lăi suất ở các tổ chức nào đó...tức là theo kiểu không v́ lợi nhuận th́ khả thi hơn. Bằng cách này, nhiều trung tâm ở Mỹ đă thành công. Phạm Đức Trung Kiên: Tôi cho rằng, đối với VN, tiền không phải là "vấn đề" v́ rất nhiều nước muốn giúp VN. RMIT là một trường tư ở VN. Theo tôi biết, th́ tổng cộng quỹ để RMIT xây trụ sở là 37 triệu USD, trong đó 15 triệu USD do một Foundation cho, 15 triệu USD do World Bank đầu tư và 7 triệu c̣n lại là do RMIT Australia bỏ vào qua một h́nh thức nào đó. Đây là một ví dụ cho thấy VN được nhiều sự ưu ái. Rơ ràng, tiền không phải vấn đề đối với chúng ta, mà chính là cơ chế. Nhà báo Lương Bích Ngọc: Từ khi có Luật doanh nghiệp mới ra đời, tạo ra mặt bằng bằng phẳng cho doanh nghiệp tư nhân và nhà nước cùng phát triển th́ sản xuất, dịch vụ đă có những bước tiến đáng mừng. Nên chăng chúng ta coi giáo dục là một "thị trường" và trường ĐH đẳng cấp quốc tế là một "doanh nghiệp" trong thị trường đó để dần dần không phải chỉ 1 mà sẽ có nhiều trường ĐH đẳng cấp quốc tế ra đời và cùng phát triển? Nói cách khác nên chăng có một luật nào đó để coi giáo dục ĐH là một thị trường? GĐ VEF: Tôi nghĩ điều đó là hợp lư v́ ở đâu cũng cần có công và tư. Khi Thủ tướng sang Mỹ, Ngài đă nghe các GS thuyết tŕnh về giáo dục ở VN với chủ đề: Nguy cơ và Thách thức. Trong tiếng Hán, từ "Nguy cơ" được ghép từ hai chữ: Hiểm nguy và Cơ hội. Giáo dục VN đối phó với nhiều hiểm nguy nhưng chúng ta phải nh́n thấy những cơ hội. Cơ hội ở đây chính là trường ĐH đẳng cấp quốc tế! · Dẫn chương tŕnh: Bích Ngọc · Tường thuật: Huyền Trang · Biên tập: Hạ Anh · Ảnh: Lê Anh Dũng
Trung Quốc cấm đọc bài viết này
John
Simpson Không ai muốn lật đổ chế độ nhưng chính quyền vẫn sợ (John Simpson) Đáng buồn thay, những ḍng này sẽ không được đọc ở Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc nghĩ rằng người dân Trung Quốc b́nh thường không nên là mục tiêu cho trang tin trên mạng của BBC, hay trang của những cơ quan truyền thông nước ngoài khác. Chương tŕnh truyền h́nh BBC World cũng không được xem ở Trung Quốc, ngoại trừ ở các khách sạn theo lối Tây phương sang trọng hay ở trong những hoàn cảnh rất đặc biệt khác. Nhưng không ai có thể lên án chính phủ Trung Quốc về việc cưỡng lại sự thay đổi. Trái lại, Trung Quốc đă lao vào một một hành tŕnh đáng chú ư, đáng khích lệ kể cả khi đó là một bài toán khó giải đáp về kinh tế. Sự lo lắng của nó về những ǵ thế giới bên ngoài nhắc đến có thể tạo ra một điều ǵ khác: một sự thiếu tự tin một cách kỳ cục. Truy cập mạng bị hạn chế Tuần trước, một nhà hoạt động nhân quyền hàng đầu đă kết án Yahoo về việc giúp đỡ chính phủ Trung Quốc xác định và điều tra nhà báo qua những điện thư của ông. Nhà báo đă bị tống giam v́ ông là người đă t́m ra một số thông tin về bệnh quan liêu ở Trung quốc. Như một quan chức cao cấp Anh nói riêng trong một lần: ‘Đó là sự thật. Chúng ta sẽ là bạn kinh doanh gần gũi của họ, chúng ta cần phải chắc chắn rằng chúng ta có thể tin họ ở cả các lĩnh vực khác nữa. Và những vấn đề này càng làm khó tin hơn’. Tuần trước khi Tony Blair ở Bắc kinh, ông đă lên tiếng về những quan niệm này. Đây là một sự kiện quan trọng, nhất là khi người Anh không giống như người Mỹ trong cách nói lớn về nhân quyền. Ông Tony Blair không có ư lên lớp với phía Trung Quốc hay bảo họ cách lănh đạo nước họ ra sao. Ông ta chỉ giải thích rằng rất khó đặt niềm tin vào nước Trung Quốc với tư cách là một đối tác nếu nước này vẫn tiếp tục hành xử như vậy. Nh́n lại Thiên An Môn Đă từng có mặt tại Thiên An Môn tháng Sáu năm 1989 và tận mắt chứng kiến cảnh đám đông cuồng nộ tấn công cảnh sát và đập phá các biểu tượng của Đảng Cộng Sản, tôi từng nghĩ chính quyền Trung Quốc rất sợ người dân của họ. Nhưng nay tôi không cho điều đó là đúng. Ai đến Trung Quốc ngày nay cũng không thấy người dân có ư vùng lên chống lại chính quyền. Họ đồng ư với những thay đổi trên con đường Trung Quốc làm kinh tế và chỉ lo lắng với chuyện sinh hoạt, làm ăn. Họ cũng thấy được lợi ích của thay đổi đang diễn ra. Trung Quốc và Liên Xô chọn hai con đường khác nhau đổ rời bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin. Nh́n lại quá khứ th́ con đường của Trung Quốc hiệu quả hơn. Vào cuối thập niên 80, Michail Gorbachov cho người dân hưởng tự do trước khi việc mở cửa nền kinh tế đem lại lợi ích cho dân chúng. Nay th́ ai cũng than phiền về kinh tế yếu kém ở Nga và chính quyền bị mất uy tín và niềm tin của dân. C̣n Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu B́nh đă cho dân chúng thấy là chính quyền không chấp nhận bất cứ sự phải đối nào. Thiên An Môn là kết quả của cách nghĩ đó. Nhưng cùng lúc, chính quyền để người dân làm ăn, hưởng thụ ở mức chưa từng có. Chủ nghĩa cộng sản đă tự biến không Trung Quốc mà không phải qua giai đoạn rối loạn như ở Nga. Vùng quê phẫn uất Có những vụ bạo lực và phẫn uất nổ ra, nhất là tại nông thôn Trung Quốc nhưng người dân không trực tiếp chống lại chính quyền, họ chỉ phản ứng trước những chuyện họ cho là vô lư, bất công. Gần đây, phóng viên BBC ở Bắc Kinh, anh Rupert Wingfield-Hayes, đă làm một phóng sự rất hay về một Sở điện tại vùng nông thôn Trung Quốc. Tại đó, các quan chức ngành điện muốn chiếm đất của nông dân và đă thuê băng đảng xă hội đen giúp. Các thành viên nhóm làm phim của Rupert đă bị bắt giữ khi đến làng nọ quay phim, sau khi bị đối xử rất tệ, họ đă được thả ra. Tuy thế cuốn phim, với các h́nh video quay những người nông dân, đă được chiếu trên truyền h́nh khắp thế giới, ngoại trừ Trung Quốc. Nhưng thái độ và ư thức của người dân, kể cả ở nông thôn đă thay đổi. Một ủy viên nhân dân trong hội đồng địa phương tại Trung Quốc, người nổi tiếng hay giúp dân trong nhiều vụ dân bị đối xử tệ, đă nói: Nay người dân có ư thức họ là những người đóng thuế, và chính quyền phải hành xử như ư của dân muốn. Các thay đổi tiếp theo sẽ diễn ra, nhưng cần đoán trước rằng chính hệ thống chính trị hiện hành sẽ đưa các thay đổi vào cuộc sống. Chính quyền Trung Quốc "xem ra" hoàn toàn ổn định. Nhưng vậy th́ tại sao họ lại lo ngại đến như vậy về chuyện đề người dân có thể được đọc, được xem các nguồn tin từ bên ngoài?
|
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |