H̉A THƯỢNG
THÍCH QUẢNG ĐỘ
PHẢN ĐỐI VIỆC CSVN QUẢN THÚC PHI PHÁP
(LÊN MẠNG Thứ tư 27, Tháng Mười 2004)
Ḥa thượng Thích Quảng Độ viết thư cho lănh đạo Hà Nội phản đối t́nh trạng
quản chế phi pháp Ḥa thượng và Đức Tăng thống Thích Huyền Quang: "Chúng tôi
chỉ mong công lư được thi hành trên đất nước này, pháp luật được áp dụng, pháp
quyền được tôn trọng cho mọi công dân"
Nhân danh Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
Ḥa thượng Thích Quảng Độ vừa viết một bức thư gửi giới lănh đạo ở Hà Nội phản
đối t́nh trạng quản chế phi pháp đối với Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và
Ḥa thượng từ một năm hơn. Thư gửi đến các ông Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam, Ông Trần Đức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN, Ông Phan Văn Khải,
Thủ tướng CHXHCNVN, và Ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN. Trước
đây, ngày 17.10.2003, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo
đă viết thư gửi giới lănh đạo Hà Nội yêu cầu trả tự do cho hai vị lănh đạo cao
cấp Giáo hội, qua ngày 19.4.2004, Thượng tọa Thích Viên Định lại cùng với Ḥa
thượng Thích Đức Chơn kư chung thư nêu lại vấn đề của hai ngài và hàng giáo
phẩm. Nhưng không được hồi âm.
Bức thư của Ḥa thượng Thích Quảng Độ đă được gửi đi từ Saigon hôm sáng thứ
hai, 25.10.2004, bằng đường bưu điện bảo đảm có hồi báo. Ḥa thượng viết: "Kể
từ cuộc đàn áp bắt bớ không lư do hàng giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất ở Lương Sơn gần thành phố Nhatrang sáng ngày 9.10.2003, trong
ấy có Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi, Thích Quảng Độ, tính đến nay đă
378 ngày tôi bị quản chế hành chính tại Thanh Minh Thiền viện theo khẩu lệnh
của Công an thành phố Hồ Chí Minh. Trong thế giới, chưa hề có quốc gia văn
minh nào quản chế công dân bằng "khẩu lệnh" như ở nước ta! C̣n Đức Tăng thống
Thích Huyền Quang th́ bị dẫn độ về quản chế, cũng bằng "khẩu lệnh", tại Tu
viện Nguyên Thiều, tỉnh B́nh Định. Tuyệt nhiên chúng tôi không biết quản chế
về tội ǵ, v́ chưa một lần xét xử nên chẳng có án lệnh. Hơn bốn năm nay, đường
dây điện thoại của tôi bị cắt, công an canh gác cẩn mật trước chùa, không ai
được tự do thăm viếng tôi".
Ḥa thượng cho biết việc quản chế như thế là phi pháp v́ hai lẽ: "một là bắt
bớ, quản chế không lư do; hai là chiếu theo điều 10 trong Bộ luật Tố tụng h́nh
sự, th́ "không ai có thể coi là có tội và phải chịu h́nh phạt, khi chưa có bản
án kết tội của Ṭa án đă có hiệu lực pháp luật", điều 71 trong cùng bộ luật,
th́ "thời hạn tạm giam không được quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng ;
không được quá 4 tháng đối với tội nghiêm trọng". Tổng cộng tối đa không được
quá 12 tháng, và "khi đă hết thời tạm giam th́ người ra lệnh tạm giam phải trả
tự do cho người bị tạm giam".
Tuy Ḥa thượng có nghe rằng "ông Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, tuyên
bố với báo chí quốc tế hôm thứ sáu 10.10.2003, rằng lư do bắt bớ Đức Tăng
thống và tôi là do hai chúng tôi tàng trữ "bí mật Nhà nước". Nhưng Ḥa thượng
Thích Quảng Độ bác bỏ lư do ấy khi viết: "Nếu đă t́m thấy "bí mật Nhà nước",
th́ tại sao cơ quan công an hay Nhà nước không công bố các "tài liệu" ấy ra
cho nhân dân trong nước và công luận thế giới được am tường ? Sự im lặng này
kéo dài trên một năm hơn rồi, chứ đâu c̣n là chuyện mới xẩy ra hôm qua?" (...)
"Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong Bộ luật H́nh sự của CHXHCNVN không thấy
một điều nào quy cho tội tàng trữ "bí mật Nhà nước". Như vậy th́ sự vu cáo Đức
Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi có cơ sở pháp lư để bắt và quản chế suốt
hơn một năm qua không ?"
Rồi Ḥa thượng nêu ra câu hỏi với giới lănh đạo ở Hà Nội, phải chăng lư do
trên "vốn vô tội chiếu theo bộ Luật H́nh sự, chỉ tạo tiền đề cho một vu cáo
khác" nhằm "khép vào "tội gián điệp" là tội có thể lĩnh án 20 năm tù, tù chung
thân hoặc tử h́nh" hoặc "tội cố ư làm lộ bí mật Nhà nước", chiếu điều 263 có
thể bị phạt tù đến 15 năm?". Theo Ḥa thượng, th́ đây chính là "thực trạng phi
pháp phổ biến đang tồn tại trong xă hội nước ta ngày nay nhằm khủng bố người
hiền lương". Ḥa thượng xác định rằng Đức Tăng thống Thích Huyền Quang cũng
như Ḥa thượng "không mắc vào bất cứ một tội nào cả, ngoài sự kiện chúng tôi
bị các cơ quan công quyền vu hăm và lăng nhục suốt một năm hơn". Ḥa thượng
yêu cầu giới lănh đạo Hà Nội "là người lo việc nước việc dân tất không thể nại
bất cứ cớ ǵ để làm ngơ không xử lư" và hăy "xuống lệnh cho các cơ quan công
quyền chấm dứt t́nh trạng phi pháp nói trên".
Kết thúc bức thư, Ḥa thượng Thích Quảng Độ cho biết rằng Đảng và Nhà nước bắt
đầu công cuộc cải thiện luật pháp gọi là "Chiến lược phát triển hệ thống Pháp
luật Việt Nam" thực hiện trong ṿng bảy năm, bắt đầu từ ngày 4.9.2003. Đảng và
Nhà nước đă nhận được của thế giới một khoản tài trợ năm (5) triệu Mỹ kim cho
bốn năm đầu. Do đó, Ḥa thượng viết : "Với ư chí phát triển và cải thiện nền
pháp luật Việt Nam, với số tiền to lớn mà thế giới cung cấp, tôi hy vọng rằng
làm sáng tỏ việc bắt bớ, quản chế Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi suốt
một năm qua, và việc vu cáo chúng tôi tàng trữ "bí mật Nhà nước" cần được giải
quyết nhanh chóng và công minh theo hướng phát triển nền pháp luật mới trên
đất nước này".
Sau đây Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn bức thư nói
trên :
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Viện Hoá Đạo
Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Phật lịch 2548
Số 05/VHĐ/VT
Đồng kính gửi :
- Ông Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ông Trần Đức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN
- Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng CHXHCNVN
- Ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN
V/v : Vu cáo tàng trữ "bí mật Nhà nước".
Saigon, ngày 21.10.2004
Thưa quư Ngài,
Kể từ cuộc đàn áp bắt bớ không lư do hàng giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất ở Lương Sơn gần thành phố Nhatrang sáng ngày 9.10.2003,
trong ấy có Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi, Thích Quảng Độ, tính đến
nay đă 378 ngày tôi bị quản chế hành chính tại Thanh Minh Thiền viện theo khẩu
lệnh của Công an thành phố Hồ Chí Minh. Trong thế giới, chưa hề có quốc gia
văn minh nào quản chế công dân bằng "khẩu lệnh" như ở nước ta ! C̣n Đức Tăng
thống Thích Huyền Quang th́ bị dẫn độ về quản chế, cũng bằng "khẩu lệnh", tại
Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh B́nh Định. Tuyệt nhiên chúng tôi không biết quản
chế về tội ǵ, v́ chưa một lần xét xử nên chẳng có án lệnh. Hơn bốn năm nay,
đường dây điện thoại của tôi bị cắt, công an canh gác cẩn mật trước chùa,
không ai được tự do thăm viếng tôi.
V́ vậy tôi viết bức thư hôm nay gửi đến quí ngài, mong quí ngài xuống lệnh cho
các cơ quan công quyền chấm dứt t́nh trạng phi pháp nói trên. Tôi nói phi pháp
v́ hai lẽ, một là bắt bớ, quản chế không lư do; hai là chiếu theo điều 10
trong Bộ luật Tố tụng h́nh sự, th́ "không ai có thể coi là có tội và phải chịu
h́nh phạt, khi chưa có bản án kết tội của Ṭa án đă có hiệu lực pháp luật",
điều 71 trong cùng bộ luật, th́ "thời hạn tạm giam không được quá 2 tháng đối
với tội ít nghiêm trọng; không được quá 4 tháng đối với tội nghiêm trọng".
Tổng cộng tối đa không được quá 12 tháng, và "khi đă hết thời tạm giam th́
người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam".
Sau khi Đức Tăng thống và tôi cùng các Thượng tọa, Đại đức đi cùng chuyến xe
từ B́nh Định về Saigon bị chận bắt không lư do như đă nói ở trên, tôi có nghe
ông Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, tuyên bố với báo chí quốc tế hôm
thứ sáu 10.10.2003, rằng lư do bắt bớ Đức Tăng thống và tôi là do hai chúng
tôi tàng trữ "bí mật Nhà nước". Đức Tăng thống Thích Huyền Quang có cho chúng
tôi biết rằng, khi công an ở Lương sơn khám xét thân thể ngài, chỉ t́m thấy
"không quá mười đồng bạc". Vậy xin hỏi bạc tiền do Nhà nước in ra cho dân
chúng tiêu pha có là "bí mật Nhà nước" không ?
C̣n phần tôi, không cần thiết phải biện luận. Tôi chỉ muốn cơ quan công quyền
trả lời cho tôi biết "bí mật Nhà nước" t́m thấy trong túi xách tay của tôi ở
Lương sơn hôm 9.10.2004 là ǵ ? Nếu đă t́m thấy "bí mật Nhà nước", th́ tại sao
cơ quan công an hay Nhà nước không công bố các "tài liệu" ấy ra cho nhân dân
trong nước và công luận thế giới được am tường ? Sự im lặng này kéo dài trên
một năm hơn rồi, chứ đâu c̣n là chuyện mới xẩy ra hôm qua ?
Câu hỏi tôi đặt ra trên đây cốt thông giải cho bản thân tôi cũng như sự thắc
mắc quá lâu của Phật giáo đồ ở trong và ngoài nước, cũng như giới bằng hữu
quốc tế thường quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Lời đáp cho câu hỏi này sẽ minh
chứng về một Nhà nước Pháp quyền, điều mà mọi người đang trông đợi, và muốn
chứng kiến trong thực tiễn.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong Bộ luật H́nh sự của CHXHCNVN không thấy
một điều nào quy cho tội tàng trữ "bí mật Nhà nước". Như vậy th́ sự vu cáo Đức
Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi có cơ sở pháp lư để bắt và quản chế suốt
hơn một năm qua không ? Hay là sự vu cáo tàng trữ "bí mật Nhà nước", vốn vô
tội chiếu theo bộ Luật H́nh sự, chỉ tạo tiền đề cho một vu cáo khác sẽ đến
sau, là "thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài", mà chiếu theo
điều 80 sẽ bị khép vào "tội gián điệp" là tội có thể lĩnh án 20 năm tù, tù
chung thân hoặc tử h́nh ? Hoặc sẽ tạo tiền đề để vu cáo "tội cố ư làm lộ bí
mật Nhà nước", chiếu điều 263 có thể bị phạt tù đến 15 năm ?
Tôi nói như thế cốt cho quí ngài dễ nhận ra thực trạng phi pháp phổ biến đang
tồn tại trong xă hội nước ta ngày nay nhằm khủng bố người hiền lương. Chứ
trong thực tế, chúng tôi không mắc vào bất cứ một tội nào cả, ngoài sự kiện
chúng tôi bị các cơ quan công quyền vu hăm và lăng nhục suốt một năm hơn.
Việc tôi nêu trên đây vô cùng trầm trọng. Các ngài là người lo việc nước việc
dân tất không thể nại bất cứ cớ ǵ để làm ngơ không xử lư.
Nhân thấy việc bắt bớ phi lư nói trên, ngày 17.10.2003, Thượng tọa Thích Viên
Định, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo đă viết thư gửi quí Ngài yêu cầu trả tự do
cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi. Sang ngày 19.4.2004, nhân danh
Hội đồng Lưỡng viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ḥa thượng Thích
Đức Chơn và Thượng tọa Thích Viên Định lại một lần nữa viết thư yêu cầu quí
ngài trả tự do cho chúng tôi và hàng giáo phẩm bị quản chế hoặc bằng Quyết
định hoặc bằng khẩu lệnh. Nhưng cả hai lá thư ấy không hề được quí ngài hồi
âm.
Tôi hy vọng bức thư tôi viết hôm nay sẽ được các ngài quan tâm xử lư.
Ở đây chúng tôi không kêu gọi sự khoan hồng hay ân huệ nào cả. Chúng tôi chỉ
mong công lư được thi hành trên đất nước này, pháp luật được áp dụng, pháp
quyền được tôn trọng cho mọi công dân bất phân chính kiến, tôn giáo. Chúng tôi
chỉ mong Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị mà Nhà nước
CHXHCNVN kư kết tại Liên Hiệp Quốc ngày 24.9.1982 được thực hiện và bảo đảm
cho mọi công dân. Nếu chúng tôi tàng trữ "bí mật Nhà nước" th́ xin hăy công bố
tài liệu bí mật đó là tài liệu ǵ ? do ai viết ra ? do ai sản xuất ? sản xuất
với mục tiêu ǵ ? Nếu chúng tôi có tội, th́ xin áp dụng luật pháp để tiến hành
tố tụng, đưa chúng tôi ra ṭa án xét xử công khai và công bằng như tại các
quốc gia văn minh và dân chủ với mọi quyền luật sư bào chữa, như qui định trên
Hiến pháp, trong bộ Luật Tố tụng H́nh sự hay trong Công ước quốc tế về Các
quyền Dân sự và Chính trị của LHQ.
Năm ngoái, báo chí Đảng và Nhà nước loan tải việc "Chiến lược phát triển hệ
thống Pháp luật Việt Nam" sẽ được thực hiện trong ṿng bảy năm, bắt đầu từ
ngày 4.9.2003 và kết thúc năm 2010. Chiến lược này được quốc tế hoan nghênh và
tài trợ. Đảng và Nhà nước đă nhận được của Cơ quan phát triển LHQ, Ngân hàng
Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, và các nước Thụy Điển, Đan Mạch, Nhật
Bản, Canada, Pháp, Úc khoản tài trợ năm (5) triệu Mỹ kim cho bốn năm đầu.
Với ư chí phát triển và cải thiện nền pháp luật Việt Nam, với số tiền to lớn
mà thế giới cung cấp, tôi hy vọng rằng làm sáng tỏ việc bắt bớ, quản chế Đức
Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi suốt một năm qua, và việc vu cáo chúng tôi
tàng trữ "bí mật Nhà nước" cần được giải quyết nhanh chóng và công minh theo
hướng phát triển nền pháp luật mới trên đất nước này.
Trân trọng kính chào quư Ngài.
Viện trưởng Viện Hóa Đạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(ấn kư)
Sa môn Thích Quảng Độ