RFA – Tạp
chí Khoa học & Môi trường
DIOXIN: Báo cáo Hatfield
Phỏng vấn Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết
Vấn đề dioxin-chất da
cam đă được dư luận thế giới và Hoa kỳ lưu ư ngay từ sau khi có những yêu cầu
đ̣i hỏi chính phủ Mỹ phải bồi thường và cung cấp bảo hiểm y tế cho các cựu
quân nhân Hoa kỳ đă từng tham chiến tại Việt Nam. Về phía Việt Nam, sự việc
cũng đă âm ỉ từ sau chiến tranh cho đến cuối thập niên 80.
Từ khi Hội Nạn Nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam kiện 37 công ty hóa chất Hoa
Kỳ vào ngày 10/1/04, hiện tượng “trăm hoa đua nở” về vấn đề dioxin-chất da cam
lại nở rộ khắp nơi. Báo chí trên thế giới, các hảng thông tấn...lấn lượt
chuyển những tin nóng sốt từ Việt Nam nhất là những khám phá mới nhất ở các
địa phương về nguy cơ bị nhiễm độc dioxin. Đâu đâu cũng nghe nói đến dioxin
trong khoảng thời gian gần đây. Riêng tại Việt Nam, hầu hết các báo chí đều
đăng tải những suy diễn cùng b́nh luận dựa theo dữ kiện được cung cấp qua
những “chuyện kễ đường đời” để khơi động đồng loạt “nỗi đau dioxin ở Việt
Nam”.
Hỏi 1: Xin TS MTT cho biết khái lược về nguyên nhân và lịch sử của báo cáo
Hatfield nầy.
Đáp 1: Thưa anh, thật ra đây là một phối hợp hành động của công ty Hatfield
Consultants Ltd (West Vancouver, Canada) và Ủy ban 10-80 của Việt Nam (thành
lập vào tháng 10/1980 tại Hà Nội). Công ty Hatfield được cơ quan Canadian
International Development Agency tài trợ. Báo cáo thứ nhất đúc kết các cuộc
điều tra sơ khởi và thu thập dữ kiện từ năm 1994 – 1998. Báo cáo thứ hai công
bố vào tháng 4/2000 dưới tiêu đề ” Development of Impact Mitigation Strategies
Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the A Luoi Valley, Viet Nam”.
Chúng tôi xin tạm dịch “Chiến lược giải tỏa những vấn nạn trong phát triển
liên quan đến việc xử dụng chất Da cam ở thung lũng A Lưới”.
Mục tiêu của buổi nói chuyện hôm nay là cố gắng làm sáng tỏ hay phơi biện
những nghi vấn cùng các luận cứ không đủ sức thuyết phục, hoặc thiếu cơ sở
khoa học, hoặc vô t́nh hay cố ư đánh lạc hướng dư luận...của các kết luận và
đề nghị của Cty Hatfield và Ủy ban 10-80.
Hỏi 2: TS có thể cho biết tại sao công ty Hatfield chọn A Lưới là địa điểm
nghiên cứu?
Đáp 2: Cty Hatfield đă chọn thung lũng A Lưới, cách Huế 65 Km về hướng đông để
làm địa điểm nghiên cứu. A Lưới đă từng nổi tiếng một thời dưới danh hiệu Ngọn
đồi 937 (Hill 937) hay Hamburger Hill. Căn cứ nầy đă bị quân đội Hoa kỳ bỏ
hoang từ tháng 5/1969. A So hay A Shau hay Đồng Sơn (tên đặt sau 1975) là một
căn cứ không quân nhỏ của quân đội Hoa kỳ nằm phía nam của thung lũng,; căn cứ
đă bị bỏ hoang từ 8/12/1965. Tại hai nơi nầy, chất khai quang màu da cam đă
được phung xịt nhiều nhất trong suốt thời gian từ 1965 đến 1970. Có tất cả 224
phi vụ trên tổng số 606 phi vụ của vùng Thừa Thiên được răi xuống A Lưới trong
khoảng thời gian nầy.
Hỏi 3: Cuộc nghiên cứu đă tiến hành như thế nào, thưa TS?
Đáp 3: Các mẫu đất, máu, sữa mẹ, và thực động vật lấy từ thung lũng được phân
tích để t́m chỉ dấu của dioxin, một hóa chất độc hại có trong thuốc khai
quang. Do chi phí phân tích quá cao (khỏang US$ 1.000/mẫu). Có 28 mẫu được
phân tích trong năm 1996 cho vùng A Lưới, và 22 mẫu cho A So trong năm 1997.
Sau đây là kết quả các cuộc phân tích trích ra từ báo cáo trên:
Đất: A So: 220 ppt (một phần ức)(3/99)
Đáy hồ A So: 6,9 (1998); A Lưới: 1,1 – 0,9 ppt (1997);
Rễ khoai ḿ: ND (1996), ND (1997).
Cá chép: Mô mở/ A So: 1,9 – 21 ppt (1999);
Gia súc: Gan vịt/A So: 1,4 ppt (1/96);
Gan vịt/A Lưới: ND (1996);
Mở vịt/A So: 6,1 ppt (1997);
Gan heo/A So: ND (1996), ND (1999).
Máu/ A So - Đàn ông: - (lớn hơn 25 tuổi) 41 ppt (1999);
- Đàn bà : - (lớn hơn 25 tuổi) 16 ppt (1999);
Sữa mẹ/ A So: 1,4 – 16 ppt (1999).
Hỏi 4: Từ các kết quả trên, báo cáo Hatfield đă đứa ra kết luận như thế nào
thưa TS?
Đáp 4: Các kết luận sau đây được ghi nhận trong báo cáo 1998:
· Dây chuyền thực phẩm có chỉ dấu nhiễm độc dioxin trong đất, đáy hồ, cá, vịt
, và người ở gần căn cứ A So.
· Ở những vùng khác của thung lũng A Lưới lượng dioxin ở dưới mức tác hại căn
cứ theo định mức Tây phương.
· Lượng dioxin tương đối cao được t́m thấy trong máu cư dân sống quanh căn cứ
A So. Trẻ em sinh sản sau chiến tranh cũng có lượng dioxin cao trong máu chứng
tỏ rằng dioxin đă xâm nhập vào dây chuyền thực phẩm.
· Số lượng phân tích cho thấy có sự liên hệ trực tiếp giữa chất màu da cam và
môi trường có ảnh hưởng lên sức khỏe con người.Tuy nhiên báo cáo cũng đề nghị
cần phải có những khảo sát sâu rộng hơn nữa cùng với sự tham gia của các tổ
chức đa quốc gia gồm những chuyên viên chuyên môn về dioxin để thẩm định lại
những mối liên hệ trên.
Nh́n chung các kết luận và đề nghị trong báo cáo sơ khởi nầy tương đối khách
quan và trung thực dựa theo các số liệu thu thập được. Qua đến báo cáo 4/2000,
và cũng là báo cáo tổng kết, sự việc ḥan ṭan trái ngược hẳn. Các số liệu
trong báo cáo trước đă được xử dụng lại cộng thêm một số kết quả phân tích mới
trong năm 1997, 1998, và 1999.
Hỏi 5: TS vừa nói đến báo cáo tháng 4/2000 hoàn toàn trái ngược với báo cáo ở
những năm trước đó. Như vậy có điều ǵ nghịch lư chăng?
Đáp 5: Thưa có thưa anh. Về Đất. Trước hết, theo kết luận của Hatfield, căn cứ
theo kết quả thu thập năm 1996, 1997 th́ vùng đất đă bị ô nhiễm dioxin phải
được tuyên bố là “vùng ô nhiễm” (contaminated site) (trang 2 trong báo cáo)
căn cứ theo quy định Tây phương (western juridictions). Theo luật Canada, đất
nông nghiệp và đất xây cất nhà ở (residential) th́ tiêu chuẩn dioxin có thể
ảnh hưởng lên sức khỏe người dân không được vượt quá 350 ppt. Trong lúc đó, US
EPA đă thẩm định và tái thẩm định liên tục tác hại của dioxin để định mức tiêu
chuẩn chấp nhận được hơn 10 năm nay mà vẫn chưa có kết luận chắc chắn, và định
mức chấp nhận sự hiện diện của dioxins trong đất hiện tại là 1.000 ppb (phần
tỷ – 10 -9 ).
Về máu người. Kết quả phân tích và suy diễn hàm lượng dioxin trong máu của cư
dân sống tại A So đă được tŕnh bày trên đây cho thấy có hiện tượng không b́nh
thường. Để có khái niệm về hàm lượng dioxin trong máu người dân sống ở các
nước Tây phương, các số liệu sau cho thấy lượng dioxin trung b́nh trong máu
người dân sống chung quanh các cơ sở hay nhà máy sản xuất có nguy cơ phóng
thích ra dioxin trong quy tŕnh sản xuất:
· Hoa kỳ (Dân chúng sống chung quanh nhà máy giấy): 8,6 ppt dioxin;
· Nga sô (Nhân viên văn pḥng ở nhà máy hóa chất nông nghiệp): 23,5 ppt;
· Đức (nhà máy sản xuất 2,4,5-T): 331,8 ppt và 125,6 ppt ở hai thành phố sản
xuất khác nhau;
· Nga sô (Nhà máy sản xuất 2,4,5-T) 168 ppt (đàn ông), 202 ppt (đàn bà).
Tiến sĩ Bruce Ames, nhà độc tố học nổi tiếng trên thế giới nhận định và so
sánh rằng, lượng dioxin mà con người hấp thụ trong thực phẩm hàng ngày khoảng
1pg/Kg/ngày sẽ làm tăng sác xuất ung thư thấp hơn việc uống một lon bia/ngày
trong 125 năm, và khả năng sinh con dị h́nh dị dạng thấp hơn việc uống bia
trong 3000 năm!
Ở những nơi có hàm lượng dioxin cao trong máu như một vài vùng ở Đức, Nga sô,
măi cho đến nay, vẫn chưa thấy có báo cáo chính thức nào về các hiện tượng dị
h́nh dị dạng cũng như các chứng ung thư xảy ra cho cư dân sống chunh quanh
vùng bị ô nhiễm.
Hỏi 6: C̣n về sữa mẹ th́ sao?
Đáp 6: Về sữa mẹ. Báo cáo cung cấp lượng dioxin t́m thấy trong sữa mẹ ở vùng A
So trong năm 1999 thay đổi từ 1,9 đến 19 ppt cho 16 mẫu thử nghiệm (trung b́nh
là 14.6 ppt). Trong lúc đó, ở các quốc gia Tây phương lượng dioxin trung b́nh
trong sữa mẹ được ghi nhận như sau: Kazakhstan (vùng nông thôn ở Nga sô, 8
mẫu) 46,5 ppt (số liệu của Hatfield) ; Los Angeles (21 mẫu) 3,1 ppt;
Birmingham (Anh quốc, 1 mẫu) 6,5 ppt; Thuỵ điển (10 mẫu) 3,3 ppt; Ḥa lan
(nông thôn, 1 mẫu) 5,2 ppt; và Bỉ (vùng kỹ nghệ, 1 mẫu) 10,2 ppt. Theo báo cáo
nghiên cứu của Kim Hooper et al. (Environmental Health Perspectives Volume
107, Number 6, June/1999) th́ mức độ ô nhiễm ở vùng nông nghiệp phía Nam tỉnh
Kazakhstan (Nga Sô) rất cao. Lượng dioxin trong sữa mẹ đă lên đến 208pg/g (hay
ppt) (phần ức) qua 64 mẫu thử nghiệm, vùng nầy là một vùng trồng bông vải và
đă xử dụng thuốc diệt cỏ dại có chứa TCDD. Người viết đă trực tiếp hỏi Tiến sĩ
Hooper về t́nh trạng sức khỏe ở vùng nầy nhưng được cho biết là không có báo
cáo về vấn đề nầy.
Tóm lại, các số liệu và dữ kiện trên đây là những bằng cớ xác định sự hiện
diện của dioxin trong máu và sữa mẹ của cư dân sống ở vùng A So, nơi bị phun
xịt rất nhiều chất da cam, và những nơi trên thế giới đă xảy ra tai nạn hay
nhiễm độc dioxins. Kết quả so sánh cho thấy nồng độ trong máu giữa các nơi kễ
trên cũng không sai biệt bao nhiêu, và tại những nơi nầy cũng chưa thấy có chỉ
dấu bất thường nào cả.
Hỏi 7: Như vậy toàn vùng A Sho, A Lưới hoàn toàn bị tiêu hủy và đất không c̣n
có thể canh tác được theo báo cáo của Hatfield, phải không?
Đáp 7: Vẫn theo báo cáo trên th́ đúng như vậy thưa anh. Tuy nhiên dựa theo tin
tức đăng tải trên báo Sài G̣n Giải Phóng ngày 15/9/2004 th́ t́nh h́nh khác
hẳn.
Hỏi 8: Khác như thế nào thưa TS?
Đáp 8: Cái khác biệt ở đây là từ một vùng đă được công bố là bị nhiễm nặng
chất độc da cam mà nay, Đoàn kinh tế-quốc pḥng 92 đă khai thac tối đa tiềm
năng đất đai ở đây để đẩy mạnh kinh tế trong vùng. Đặc biệt là cây trồng như
bầu, bí, rau quả...đều cho cây trái tốt tươi và đàn bó phát triển mạnh ngay
trên đồng cỏ nguyên là sân bay A Sho cũ. Chỉ nội điều nầy thôi cũng đă nói lên
tính mâu thuẩn trong kết luận năm 200 của công ty Hatfield mà Hội NNCDCViệt
Nam đă dựa vào báo cáo nầy để kiện 37 công ty hóa chất Hoa Kỳ.
Hỏi 9: TS đă nêu ra những nghịch lư trong báo cáo trên, như vậy tại sao Hội
NNCDCViệt Nam lại xử dụng báo cáo nầy để làm tăng trọng lượng cho vụ kiện?
Đáp 9: Ngay trong phần mở đầu của phần kết luận trong báo cáo 4/2000, Cty
Hatfield đă “khẳng định” như sau :” Cho đến ngày nay, với mức độ của dioxin
hiện diện trong môi trường và trong máu cư dân sống quanh thung lũng A Lưới và
nếu trường hợp trên xảy ra ở những nơi như Hoa kỳ, Canada, hay Âu châu, th́
một kế hoạch bảo vệ sức khoẻ người dân sẽ được khai triển tức khắc để hạn chế
hay giải quyết vấn đề”. Theo sự ghi nhận của người viết, tại Hoa kỳ, vấn đề
giải quyết và xử lư ô nhiễm dioxin chỉ xảy ra trong một trường hợp duy nhất ở
thị trấn Times Beach (Missouri), và quyết định của chính quyền sở tại là phải
di chuyển 1.400 cư dân trong thành phố nầy và tiêu hủy một số lượng lớn xà bần
đă bị ô nhiễm. Cũng tại Hoa kỳ, có rất nhiều nhà máy sản xuất giấy tập trung ở
tiểu bang Wisconsin, là nơi sản xuất giấy và các sản phẩm về giấy lớn nhất thế
giới; các cơ sở nầy thải hồi vô số chất phế thải rắn và lỏng trong quy tŕnh
sản xuất có chứa dioxin....nhưng cho đến nay vẫn chưa có báo cáo về ảnh hưởng
của hóa chất trên lên cư dân hay công nhân làm việc trong vùng.
Trong phần kết luận về đất, Cty Hatfield lại “khẳng định” thêm: “Phần lớn đất
ô nhiễm đă liên đới một cách rơ ràng (clearly) với 2,3,7,8-T4CDD chất da cam
chứ không phải phát xuất từ các nguồn kỹ nghệ nào khác của dioxin”. Nói như
thế, tức là “khẳng định” một cách vô căn cứ, ḥan ṭan không dựa theo một căn
bản khoa học nào cả. Trong lúc đó các thuốc diệt cỏ dại, thuốc trừ sâu rầy đan
cử ở phần trên đă được xử dụng hàng loạt trong canh tác kễ từ sau chiến tranh
mà nồng độ t́m thấy cao hơn nhiều so với nồng độ dioxin hiện diện, và các
thuốc nầy cũng là những hóa chất nầy được xem như là hợp chất tương đương
dioxin. Hậu quả và mức tác hại của những chất trên đă được chứng minh và xác
định một cách “rơ ràng” ảnh hưởng lên sức khỏe con người như: ung thư, dị h́nh
dị dạng nơi trẻ sơ sinh...giống như đă được gán cho dioxin.
Thêm nữa, hàm lượng dioxin được t́m thấy ở thung lũng A Lưới như Hatfield đă
công bố vẫn c̣n thấp so với nhiều nơi trên thế giới, và tại những nơi nầy vẫn
chưa hề có những báo cáo để đánh động dư luận và lương tâm thế giới như ở A
Lưới. Theo ước tính của Arthur Westing (Nature, London, 298, 114, 8-7-1982)
trong báo cáo nơi Đại hội Quốc tế về Thuốc Khai Quang và Diệt cỏ tại Sàigon
tháng 1/1983, trong số 57 triệu Kg chất da cam xịt xuống miền Nam Việt Nam
trên một diện tích độ 38.000 Km2, tổng cộng có khoảng độ 170 Kg Dioxin . Và
cũng theo báo cáo trên, sự bán hủy (half life) của dioxin là mười năm, thử
hỏi, sau hơn 30 năm, những vết tích của dioxin có c̣n bao nhiêu nữa không?
Về máu, Cty Hatfield lại “khẳng định”: “Các thử nghiệm năm 1999 xác nhận mức
độ cao của dioxin-chất da cam (AO dioxin) trong máu cư dân A So so với kết quả
năm 1997.” Kết luận nầy lại mâu thuẩn với những số liệu đo đạc và “lời b́nh”
(comments) của tác giả. Đối với đàn ông, nồng độ trong máu tăng từ 31 ppt
(1997) lên 41 ppt (1999), và đàn bà giảm từ 25 ppt (1997) xuống c̣n 16 ppt
(1999). Các số liệu trên đă nói lên tính cách suy luận có “định kiến sẳn” của
báo cáo rồi. Và với kết quả trên, làm sao giải thích được dioxin đă xâm nhập
vào dây chuyền thực phẩm qua gia súc và tôm cá... Hơn nữa, ở một phần khác báo
cáo giải thích rằng, đàn ông ở A Lưới v́ thường xuyên đi làm việc ở xa thung
lũng, rất ít xử dụng lương thực có được ở A Lưới...cho nên ít bị ảnh hưởng của
dioxin qua thức ăn hơn. Nếu nhận định như thế th́ làm sao giải thích được
lượng dioxin trong máu cao nơi đàn ông? Và nếu kết quả đo đạc là một xác tín,
có phải chăng các nam nhân nầy đă bị nhiễm do các hoá chất diệt cỏ dại, thuốc
diệt trùng trong khi lao động ngoài đồng?
Ở phần kết luận về thuốc diệt cỏ dại, báo cáo ghi nhận:” Việc xử dụng các
thuốc diệt cỏ dại thực hiện ở mức độ thấp ở thung lũng, do đó hàm lượng các
chất trên c̣n ở mức độ thấp trong ḷng đất và sữa mẹ”. Và trong một bảng ghi
kết quả, tổng lượng DDT, DDE, và DDD trong sữa mẹ được ghi nhận là 10.611 ppt
trong năm 1999 !?
Tại sao Cty Hatfield và Ủy ban 10-80 lại chọn thung lũng A Lưới, một nơi hoang
dă và rất khó khăn đi lại làm điểm thí nghiệm? Có thể có nhiều lư do trong đó:
· A Lưới đă nổi danh dưới tên Hamburger Hill là nơi quân đội Hoa kỳ với căn cứ
không quân A So và có kho chứa chất màu da cam;
· Hoặc dựa theo báo cáo của Hội Cựu quân nhân Hoa kỳ trong việc đ̣i bồi thường
về những hậu quả mà họ và con cháu mắc phải;
· Hoặc đây là một điểm nóng có thể đạt được dương tính ngay trong khi phân
tích mẩu;
Tại sao phải đợi măi đến tháng 11/1996 mới bắt đầu lấy mẩu trong khi Ủy ban
10-80 đă được thành lập từ tháng 10/1980?
· Có lẽ theo ước tính của Ủy ban, thời điểm thuận lợi cho việc “la làng” không
thích hợp với thời gian trước đây, và năm 1996 là thời gian thuận lợi nhất
ngay sau khi có được bang giao chính thức với Hoa kỳ;
· Hoặc v́ chưa kết hợp với một đối tác đồng thuận như Cty Hatfield trước đo,ù
cũng như chưa nhận được nguồn tài trợ trong thời gian đầu.
Cuối cùng, sự mâu thuẫn trong số liệu về các mẫu thử nghiệm làm cho báo cáo
Hatfield có thêm nhiều nghi vấn! Trong phần đầu của báo cáo có ghi tổng số mẫu
đă được phân tích là 50 mẫu v́ chi phí phân tích quá cao. Nhưng trong Figure
2.12 th́ tổng số mẫu tính riêng cho việc phân tích máu mà thôi (không kễ việc
phân tích đất, cây cối và súc vật) đă lên đến 790 mẫu! Điều nầy cho thấy tính
tiền hậu bất nhất và thiếu tính trong sáng trong nghiên cứu khoa học.
Như đă tŕnh bày ở phần trên, chiến dịch hâm nóng lại vấn đề chất da cam
dioxin đă nở rộ từ hơn sáu tháng trở lại đây trên truyền thông, qua báo chí
khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam. Hầu hết các các dữ kiện trong
bài viết nầy đều căn cứ theo văn bản của báo cáo 4/2000 của Cty Hatfield và Ủy
ban 10-80.
Những lời b́nh luận ở phần trên dựa trên căn bản của các số liệu công bố trong
báo cáo, và được xem như là những “dữ kiện thật và đúng”, mặc dù dựa theo kinh
nghiệm chuyên môn, vấn đề đo đạc dioxin vẫn c̣n là một vấn đề cần phải thẩm
định lại nhiều nơn nữa.
Từ các phân tích ở phần trên, Cty Hatfield và Ủy ban 10-80 đă vô t́nh hay cố ư
tạo ra những báo cáo không trung thực, và đôi khi các kết qủa và kết luận lại
mâu thuẫn với những khám phá đo đạc của chính công ty ấy. Cty Hatfield đă thẩm
định và suy diễn một cách có dụng ư từ những “con số phân tích” để đưa ra
những kết luận có thể làm sai lệch sự thật.
Làm như thế, Hatfield đă đánh lạc hướng dư luận quần chúng trên thế giới, nhất
là quần chúng Việt Nam có thể hiểu một cách sai lạc về vấn đề chất da cam –
dioxin do quân đội Hoa kỳ phun xịt xuống Miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở
vào trong giai đoạn chiến tranh vừa qua.
Làm như thế, Cty Hatfield có dụng tâm ǵ khác hơn là hy vọng có được một hợp
đồng béo bở cho việc xử lư vùng bị ô nhiễm?
Làm như thế, Việt Nam hy vọng được ǵ ng̣ai việc đánh động lương tâm thế giới,
mong t́m được số tiền bồi thường khổng lồ từ phía chính phủ Hoa kỳ, mong được
thêm tài trợ từ các cơ quan từ thiện trên thế giới, hay thầm kín hơn nữa, mong
giải thích cho đồng bào cùng khổ ở Việt Nam biết được rằng v́ hậu quả chiến
tranh triền miên mà không thể phát triển đất nước như mong muốn để cho dân
giàu nước mạnh được?!
Nên nhớ, hiện tại các công ty hóa chất Hoa kỳ chấp nhận tài trợ chi phí y tế
cho cựu quân nhân Hoa kỳ và con cháu, không phải v́ công nhận hậu quả của
dioxin, nhưng là một hành động thuần túy nhân đạo và chính trị để trấn an dư
luận của Hội Cựu Chiến binh Hoa kỳ.
Vấn đề dioxin hiện diện trong chất màu da cam là một thực tế không cần phải
bàn cải thêm nữa. Nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào xác định được một cách
chính xác và có căn bản về mức độ nhiễm độc của dioxin lên con người. Hậu quả
của dioxin phải được chứng minh bằng khoa học và thử nghiệm đứng đắn.
Để kết luận, chúng tôi xin trích dẫn một câu hỏi của Ông chánh án ở Brooklyn,
Jack Weinsteintrong một buổi phúc thẩm tại ṭa vào ngày 18/3/2004 để trả lời
cho ông Kokkoris, luật sự đại diện Hội NNCDC Việt Nam là :” Nếu bên Nguyên đơn
(Việt Nam) xâm nhập bất hợp pháp vào vùng đất đă bị phun xịt, tức là miền Nam
Việt Nam, th́ điều đó ảnh hưởng như thế nào đối với việc chủa trị (nạn nhân)
không?”
Kính chào thính giả của Đài ACTD