| ||||||
|
Phan Châu Trinh đă bắt đầu bằng thực học để tạo nên sức mạnh của xă hội và quốc gia, để xây dựng một xă hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được thật sự nâng cao. Phải chăng bài học cơ bản ấy, cả con đường đi cụ thể ấy, con đường bắt đầu bằng một cuộc đột phá cách mạng về giáo dục, rất có thể có ư nghĩa thực sự thiết thực đối với chúng ta hôm nay ? ----- O -----
Uỷ
ban Trung ương MTTQ Việt Nam - Hội nghị Đoàn chủ tịch mở rộng
Góp ư kiến về “Báo cáo tổng kết một số vấn đề
lư luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới” Tôi hoan nghênh phương thức làm việc mới lần này của Trung ương và của Uỷ ban TƯ MTTQ Việt Nam để chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng. Đặc biệt có báo cáo “Tổng kết một số vấn đề lư luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới”, làm cơ sở cho việc xây dựng báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng, báo cáo “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xă hội 5 năm 2006-2010” và các văn kiện khác của đại hội. Việc ba đồng chí uỷ viện Bộ Chính trị đến Hội nghị Mặt trận trực tiếp giới thiệu các dự thảo báo cáo các văn kiện chính của Đại hội X, các đồng chí lại ở lại theo dơi hội nghị cả ba ngày, chú ư lắng nghe, ghi chép, tôi chợt nhớ tới một câu nói của tiến nhân “Người lănh đạo càng ở cấp cao bao nhiêu th́ đức nghe càng phải dầy bấy nhiêu”, càng thêm kính mến các đồng chí. Cho nên chúng tôi cũng xác định rơ thêm trách nhiệm của ḿnh phải tâm huyết với sự nghiệp của Đảng, v́ dân, v́ nước, phải nói thẳng, nói thật theo sự suy nghĩ nghiền ngẫm của ḿnh đối với những vấn đề đă được nêu ra trong các văn kiện. Rất tiếc rằng văn kiện th́ nhiều (8 văn kiện, 270 trang) được xây dựng khá công phu, thời gian nghiên cứu quá ngắn, chỉ có 3 ngày cho nên ư kiến phát biểu có thể chưa được chuẩn xác, chưa có hệ thống. Rất mong được sự chỉ giáo và lượng thứ. Thời gian có hạn (20 phút), tôi chỉ xin tập trung phát biểu ư kiến đối với “Bản tổng kết một số vấn đề lư luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới”. Điều may mắn đối với tôi hôm nay là được sự có mặt của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, người chịu trách nhiệm xây dựng bản tổng kết này. Rất mong sẽ được đồng chí chỉ dẫn cho những ǵ chưa đạt hoặc cần tiếp tục nghiên cứu thêm. * * * Điều rất đáng mừng là qua tổng kết đă xác nhận được rơ mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xă hội : Xă hội xă hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một xă hội dân giàu, nước mạnh, công bằng dân chủ văn minh. Đó là xă hội do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no hạnh phúc; được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, b́nh đẳng giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, v́ nhân dân dưới sự lănh đạo của Đảng cộng sản, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Tôi đề nghị nên chăng thêm cụm từ vào sau chữ Đảng cộng sản “gồm các phần tử tiên phong cần, kiệm, liêm, chính” v́ hiện nay có nhiều đảng bộ thoái hoá đă bị nhân dân phủ định. Thế là nỗi băn khoăn day dứt thế nào là xă hội chủ nghĩa, thế nào là định hướng xă hội chủ nghĩa từ hàng chục năm nay đă được tháo gỡ, nhưng nhận thức cũ sai lầm về chủ nghĩa xă hội là không có người bóc lột người, là đấu tranh giai cấp, là chuyên chính vô sản, là vô thần... đă được giải quyết. Một nhận thức mới và đúng đắng như vậy có tác dụng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, không c̣n lo sợ ǵ chệch hướng, tăng thêm bạn, bớt thù. Tuy vậy, bản báo cáo với nội dung và cấu trúc như đă được giới thiệu mang tính chất một bản báo cáo thành tích qua 20 năm đổi mới. Tôi xin phép được góp ư thêm một số ư kiến vào phần kết luận thông qua phương pháp t́nh huống đối với một số sự kiện thành công hoặc chưa thành công đă diễn ra trong 20 năm đổi mới. Sự kiện nào cũng cần được điều tra nghiên cứu, phân tích trên quan điểm hệ thống, toàn diện và trên quan điểm lịch sử. Sự kiện thành công mang tính lịch sử. 1. Từ 10 năm trước khi có Nghị quyết 10/1988 của Bộ Chính trị, kinh tế nông hộ nằm trong kinh tế hợp tác xă thuộc hệ thống nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khoảng trên dưới 500.000 tấn lương thực. Từ sau khi có Nghị quyết 10 “sản phẩm” đầu tiên của công cuộc đổi mới, đường lối của Đại hội VI (1986), lương thực tăng đều hàng năm, Việt Nam xuất khẩu trong 15 năm liền, b́nh quân mỗi năm trên dưới 3 triệu tấn gạo, xếp hàng thứ hai trên thế giới. V́ sao vậy ? Làm ǵ và làm thế nào để phát triển thêm cả về số lượng và chất lượng, giữ vững được thị trường thế giới ? 2. Từ sau khi có chủ trương hội nhập, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, khuyến khích tư bản nước ngoài vào Việt Nam, thập chí đầu tư 100%, đề cao vai tṛ các doanh gia Việt Nam cả hiện tại và quá khứ (Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Ngô Tử Hạ...), nền kinh tế Việt Nam khởi sắc hẳn lên. Không những đạt hiệu quả về kinh tế, mà c̣n đạt nhiều thắng lợi trong mối bang giao quốc tế. Như vậy, với công cuộc đổi mới, Việt Nam đă từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đă tạm gác ra một bên khái niệm cũ về bóc lột và công thức CVM của Mác, hai đặc thù của CNXH khoa học của Mác. Việt Nam đă ngầm từ bỏ CN Mác – Lênin hay là bổ sung cho chủ nghĩa Mác, hay là phát triển sáng tạo ? Sự kiện chưa thành công hoặc xấu (tiêu cực) cũng mang tính lịch sử. 1. Việt Nam đă có 30 năm độc lập thống nhất tự do và đă trải qua 20 năm đổi mới 1986-2005, tại sao Việt Nam vẫn thuộc loại nghèo nàn và lạc hậu nhất trên thế giới, với khoảng 500 USD GDP/người, trong khi dó Hàn Quốc đạt 11.000 USD GDP/người; Đài Loan 17.000, Singapore 23.000; Thái Lan 2.500. Riêng Sài G̣n trước năm 1975 gấp khoảng 2 lần Bangkok, th́ nay 2005, Bangkok gấp hơn hai lần Thành phố Hồ Chí Minh. Về mặt nghiên cứu lư luận – thực tiễn theo phương pháp sự kiện để giải quyết vẫn đề được sáng rơ hơn (MASI-A – Méthode Analytique et Synthétique des Incidents et concrets – Action) ta có thể đặt câu hỏi tương tự như vậy đối với hai miền Nam và Bắc Triều Tiên (Hàn Quốc và CHND Triều Tiên) đối với Đài Loan và lục địa Trung Quốc. 2. V́ sao nước Việt Nam anh hùng đă thắng đế quốc Pháp năm 1954 và thắng đế quốc Mỹ 30/4/1975, xếp vào loại nhất thế giới, th́ sau 30 năm giành được hoà b́nh thống nhất, trong đó có 20 đổi mới, Việt Nam lại bị Hội Bảo Minh Quốc tế (Transparency International Organization) với 2,4 điểm tiêu chuẩn, xếp ngang hàng với 5 nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới là Tanzania, Soudan, Côngô, Lybie, Iraq ? Trong khi đó, Singapore với 9,4 điểm tiêu chuẩn, được xếp ngang với 5 nước trong sạch nhất thế giới là Thuỵ Điển, Đan Mạch, Anh Quốc và úc. Tại sao vậy ? Lư giải thế nào đây ? Dân Việt Nam ta lại c̣n phải đương đầu hàng ngày với 5 quốc nạn : Lăng phí, quan liêu, h́nh thức, phá huỷ môi trường sống đặc biệt là phá rừng mạnh hơn các thời kỳ miền Nam thuộc chính quyền cũ, hơn nhiều lần hồi thuộc Pháp; quốc nạn giao thông, mỗi ngày có trên 30 người tử vong (có lẽ nhất thế giới); quốc nạn dạy thêm học thêm kèm với quốc nạ quay cóp (Ngô Gia Huy), không thấy có ở một nước nào trên thế giới; ma tuư HIV-AIDS và nhiều tệ nạn xă hội khác, đạo đức xă hội xuống cấp chưa từng thấy, đặc biệt tệ hại nhất trong 5 năm đầu của thế kỷ 21 ? Rất đau ḷng mà phải nhận xét một thực tiễn là chưa thấy có nước nào trên thế giới ở đầu thế kỷ 21 mà lại giống như Việt Nam phải sống trong trạng thái hai quốc nhục (nghèo nàn, lạc hậu nhất, tệ nạn tham nhũng nhất làm suy thoái đất nước) và phải đương đầu hàng ngày với 5 quốc nạn! Đứng ở góc độ nghiên cứu lư luận và thực tiễn, trong thời kỳ 20 năm đổi mới, rất cần đi sâu nghiên cứu hàng loạt sự kiện tiêu cực lớn khác, chưa hề diễn ra từ ngày lập quốc “Nước Việt nam dân chủ cộng hoà” như : - Vụ nhân dân biểu t́nh ở Thái B́nh với khẩu hiệu : Chống sưu cao thuế nặng, chống áp bức cường quyền (1997). Lúc đầu cứ cho là do có bàn tay địch, do diễn biến hoà b́nh. Về sau Cố vấn Phạm Văn Đồng đă phải kết luận : “Phải nói đó là mâu thuẫn giữa nhân dân và những người cầm quyền hư hỏng ức hiếp nhân dân. Nội dung bản chất của sự việc th́ mới t́m ra giải pháp đúng, hợp ḷng dân. Một nhân dân tốt đến như vậy th́ phải khẳng định như vây”. (Phạm Văn Đồng trong ḷng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế – Hồi kư – NXB CTQG năm 2002 trang 828). - Vụ nhân dân biểu t́nh 2 lần ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004, vụ sau mạnh hơn vụ trước, có bạo lực. Lúc đầu ta cũng cho là có bàn tay địch. Có bàn tay địch thật, nhưng thực chất là vấn đề chiếm hữu ruộng đất của đồng bào Tây Nguyên và vấn đề dân tộc. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn chuyên trách về “Dân tộc” đă nhiều lần phát biểu về vấn đề này tại nhiều cuộc hội nghị của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Các vụ Năm Căn, Epco Minh Phụng Thành phố Hồ Chí Minh, vụ Lă Thị Kim Oanh (Bộ NN-PTNT), vụ sân Mỹ Đ́nh, vụ Vietso Petro... mà các tội phạm phần lớn là các cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước. Từ việc nghiên cứu phân tích các t́nh huống lớn trên đây theo “phương pháp xử lư t́nh huống – hành động” của Bác Hồ (xem Sử đổi lề lối làm việc – Mấy điều kinh nghiệm, trang 19-20, NXB CTQG 2002), tôi xin có một số ư kiến sau đây : 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh đúng là nền tảng, là kim chỉ nam rất đúng đắn cho mọi thời kỳ lịch sử ngay cả cho một tương lai xa của Việt Nam ở thế kỷ 21. Sau này có lên đến xă hội chủ nghĩa đích thực th́ cũng sẽ vẫn là : Không có ǵ quư hơn độc lập – tự do, xă hội dân chủ công bằng văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, hoà b́nh và hữu nghị giữa các dân tộc, vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em. Chắc chắn và đương nhiên là chất lượng ăn, chất lượng mặc, chất lượng học hành sẽ được cao hơn. Nên chăng là xác nhận chủ nghĩa xă hội Hồ Chí Minh. V́ chính đă sử dụng cụm từ này “chủ nghĩa xă hội Hồ Chí Minh” mà tôi đă giành phần thắng cho Việt Nam trong hai cuộc tranh luận gay go tại Pháp. Một là với nhiều giáo sư và sinh viên Pháp tại giảng đường trường Đại học Nông nghiệp nhiệt đới ESAT – Montpellier. Hai là tại cuộc họp của 20 Việt kiều yêu nước, trí thức Việt Nam tiêu biểu của Paris (theo sự giới thiệu của Giáo sư Hoàng Xuân Hăn – 1992). Chủ nghĩa Mác – Lê nin không thể là kim chỉ nam cho Việt Nam ở thế kỷ 21 trong điều kiện Việt Nam đă thừa nhận nền kinh tế thị trường, đă gia nhập khối ASEAN, đang phấn đấu để gia nhập WTO năm 2005-2006; đă công khai tuyên bố từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đă công khai tuyên bố từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đă công khai tuyên bố mời tư bản nước ngoài đầu tư 100% vào Việt Nam, đă khuyến khích tư bản tư nhân Việt Nam phát triển để làm giàu cho bản thân, cho đất nước để giải quyết vấn đề lao động, đă khuyến khích Đảng viên làm kinh tế, thuê lao động, đă khuyến khích Đảng viên làm kinh tế, thuê lao động tự do, miễn là phải tuân theo luật pháp Nhà nước và có đạo đức văn hoá trong kinh doanh, làm gương mẫu cho quần chúng. 2. Xét bối cảnh mới của Việt Nam và của thế giới như đă nói được một phần ở trên, bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam không c̣n như lúc ban đầu được thành lập; Đảng trong hai kỳ đại hội IX (2001) và Đại hội X đă coi ḿnh là Đảng của toàn dân mới mời Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam đóng góp ư kiến, và nhân dân cũng đă tự nguyện thừa nhận Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của ḿnh, cho nên đổi tên thành Đảng Việt Nam như Bác Hồ đă tuyên bố trước quốc dân đồng bào và trước thế giới ngày 31/10/1946 nhân kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá I tại Hà Nội “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới : Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam...”. Được như vậy là đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Đảng và của Việt Nam. Chắc chắn sẽ có ảnh hưởng to lớn trong nước và trên thế giới, có khi c̣n hơn cả lời tuyên bố của Đảng cộng sản Trung Quốc khi công bố thuyết mới : “Ba đại diện”. 3. Phải đổi mới cơ chế lănh đạo của Đảng, không thể để như hiện nay. Thủ tướng Phan Văn Khải đă nhiều lần tuyên bố trên không bảo được dưới, v́ dưới nó phải đợi xin ư kiến của bí thư tỉnh là Trung ương uỷ viên, cũng không để rồi lại xẩy ra t́nh huống “Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tại hội trường Bộ Nông nghiệp, có đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tham dự, tuyên bố : tôi, Thủ tướng Chính phủ, tôi chẳng có quyền ǵ cả”. 4. Phải đổi mới bộ máy hành chính, thực hiện tam quyền phân lập như nhiều nước dân chủ tiến bộ đă làm, hoặc ngũ quyền phân lập như Đài Loan (theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên mà Hồ Chí Minh rất tôn trọng và thấy rằng phù hợp với Việt Nam. Mọi chức vụ đều phải thi tuyển, tránh t́nh trạng con ông cháu cha, thân quen, hoặc thanh niên ở Ban Thường vụ Thanh niên cấp tỉnh hết tuổi thanh niên lại chuyển sang làm Phó chủ tịch tỉnh hoặc Giám đốc một sở chuyên ngành, tránh t́nh trạng như vậy đă diễn ra ở cấp Trung ương và cấp Bộ. Phải thực sự là bộ máy Nhà nước pháp quyền. Phải trả lương tối thiểu cho một công nhân viên chức là khoảng 100 đến 200 đô la để họ có thể nuôi được một con đến tuổi trưởng thành. Như thế mới tránh được tham nhũng tràn lan như hiện nay ở mọi cấp, từ cấp thấp nhất cho đến cấp cao. Chế độ “phong b́” công khai hối lộ và công khai đ̣i hối lộ chỉ thấy ở Việt Nam ... Phải làm được việc này trong 2-3 năm, như vậy chỉ có một phương thức trả lương, nhân dân - ngân sách Nhà nước chỉ trả lương cho một hệ thống công nhân viên chức Nhà nước mà thôi. Tăng lương 10-20% mỗi năm như hiện nay không giải quyết được vấn đề ǵ (1). 5. Đổi mới giáo dục, c̣n rất nhiều việc phải làm. Đề nghị môn triết học phương Đông và các giá trị của triết học phương Tây, trong đó có chủ nghĩa Mác – Lênin phải được học từ trung học phổ thông và ở đại học. Nếu không kỹ sư, cử nhân Việt Nam thua kỹ sư, cử nhân khu vực và trên thế giới. Phải đổi mới nội dung giảng dạy triết học Mác – Lênin, loại bỏ những ǵ đă xa lạ với thời hiện đại : “Phải bổ sung chủ nghĩa Mác, củng cố nó bằng dân tộc học phương đông” (Toàn tập Hồ Chí Minh – Tập I – Bài viết về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, trang 465 – NXB CTQG), như Nguyễn ái Quốc đă xác định rơ từ đầu thế kỷ 20. Càng thấy Bác Hồ của chúng ta rất trí tuệ, tài giỏi. Tôi xin phép nhắc lại kiến nghị của tôi trong kỳ họp Hội nghị lần thứ hai 11-13/1/2005 của Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành lập Uỷ ban giám sát của Mặt trận, phát động quần chúng chống tham nhũng, lăng phí, quan liêu đạt kết quả trước đại hội Đảng X, th́ rồi Đại hội Đảng X mới thành công và rồi các Nghị quyết, các kế hoạch chương tŕnh của đại hội X mới thực hiện được. V́ Bác Hồ đă chỉ giáo theo qui luật của dịch lư : Trời có 4 mùa, đất có 4 phương, người có 4 đức Cần – Kiệm – Liêm – Chính ; thiếu một mùa th́ không thành Trời, thiếu một phương th́ không thành Đất, thiếu một đức th́ không thành Người; tham nhũng là giặc nội xâm không thể để cho giặc nội xâm có trong hàng ngũ đảng viên, cấp uỷ của đại hội X. Kính thưa đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch đoàn và Hội nghị v́ thời gian có hạn, tôi xin được phép dừng tại đây. Tuỳ điều kiện thời gian và theo yêu cầu, tôi vui ḷng sẽ báo cáo tiếp, nhất là cách giải quyết vấn đề theo phương pháp xử lư t́nh huống – hành động, với ban soạn thảo văn kiện, với một số lănh đạo cấp cao có trách nhiệm, như tôi đă phục vụ một số đồng chí lănh đạo ở cấp Trung ương trước và sau Đại hội VII (1991).
Trần Văn Hà
(1) Nếu có điều kiện tôi sẽ xin báo cáo kỹ càng giải quyết vấn đề này trên cơ sở đă nghiên cứu “t́nh huống” bộ máy quản lư và chế độ tiền lương của ta và của một số nước trên thế giới. ----- O ----- Thư của Đại tá Như Thiết Hà Nội ngày 1 tháng 5 năm 2005.
Kính gửi : Đồng chí
Chủ Tịch nước Trần Đức Lương Tôi là một đảng viên tuổi đă gần đất xa trời. Hàng ngày vẫn nghe đài đọc báo đều đặn, tôi thấy t́nh h́nh đất nước bê bối mà chua xót trong ḷng. Tôi vẫn luôn mong các đồng chí lănh đạo phải quyết tâm chống tham nhũng, lăng phí và giải quyết được các tệ nạn xă hội khác. Nhưng h́nh như các đồng chí mải lo "việc riêng", không làm tṛn trách nhiệm của ḿnh, khiến cho các tệ nạn không những không kiềm chế được mà c̣n ngày càng gia tăng. Thật là đáng lo lắng biết bao ? Trong những điều suy tư, tôi muốn đề cập đến một việc cụ thể là gần đây, tôi có dịp t́m hiểu kỹ vụ T4. Đây là một vụ án cực kỳ nghiêm trọng. Đáng lư ra, các đồng chí phải dũng cảm đứng ra giải quyết theo pháp luật. Nhưng Bộ Chính trị đă lờ đi. Như vậy là các đồng chí bao che cho tội phạm (dù chưa được ṭa án xử, nhưng tội trạng của những kẻ vi phạm đă quá rơ ràng !). Các đồng chí đă không coi phép nước ra ǵ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc Đảng. Như các đồng chí đă biết, ông Lê Đức Anh đă bị nhiều người đứng tên tố cáo khai man lư lịch Đảng, làm nhiều điều lộng hành vi phạm pháp luật. Vậy mà không bị xử lư ǵ. Nguyễn Chí Vịnh, người đứng đầu Tổng cục II tác oai tác quái, cũng không bị xử lư mà c̣n được thăng cấp Trung tướng !!! Tôi thực đau ḷng khi thấy Đảng ta ngày càng mất tín nhiệm với dân, đường lối th́ bế tắc, đạo đức của đảng viên th́ suy đồi, tinh thần đoàn kết bị thách thức nghiêm trọng. Có một người, cũng là một Đảng viên lăo thành, tâm sự với tôi: " Anh ạ, Đảng ta bây giờ là ǵ ? Có phải là Đảng cách mạng, hay là đảng Mafia? Lănh đạo Đảng th́ tham nhũng, bạc nhược. Có người không phải là Đảng viên mà leo lên đến Chủ tịch nước, lộng hành, phá phách. Có người cấp tướng của Công an; ủy viên Trung Ương Đảng, mà lại câu kết với xă hội đen Năm Cam, gây ra biết bao phiền nhiễu cho xă hội,....Tôi thấy ngán quá!". Tôi kể lại chuyện này để các đồng chí thấy niềm tin của Đảng viên vào Đảng đă bị suy giảm như thế nào. Không phải chỉ có một vài người như anh bạn già của tôi, mà đă có rất nhiều Đảng viên mất niềm tin...Tôi có nhiều dịp gần gũi với dân, nghe họ phản ảnh nhiều điều rất sâu sắc mà xác thực. Gần đây, nhiều người bàn tán về trường hợp ông Nguyễn Thanh Giang. Ông Giang đă viết một bài bênh vực những nạn nhân của vụ T4, trong đó có đại tướng Vơ Nguyên Giáp. Ông Giang đ̣i hỏi phải mở một phiên ṭa đại h́nh xét xử Lê Đức Anh và đồng bọn.Tôi nghĩ, trong "điều kiện" hiện nay, có những tiếng nói như vậy là vô cùng đáng quư. Đó là biểu hiện đúng đắn của tinh thần trách nhiệm công dân. Phải khuyến khích những tiếng nói như vậy. Phải nói là trong bài viết ấy ông Giang đă đưa ra quan điểm khác với quan điểm chính thống về cuộc chiến tranh chống Mỹ, cho rằng nó là vô nghĩa với cả hai phía. Tôi hiểu là ông ấy muốn nói nó không cần thiết và có thể tránh được. Thiết nghĩ, trong xă hội ta bây giờ việc một công dân thẳng thắn đưa ra quan điểm của ḿnh phải được coi là chuyện b́nh thường. Đâu có phải trong thời chiến mà phải có sự đồng tâm nhất trí hoàn toàn. Nếu ai không đồng ư với quan điểm này quan điểm khác th́ cứ việc tranh luận bằng văn bản. Nhưng báo chí đă cắt xén, xuyên tạc, rồi bôi nhọ, phỉ báng cá nhân ông Giang. Bất cứ ai hiểu biết đều thấy rằng báo chí của Đảng mà làm như vậy là vi phạm pháp luật. Người ta c̣n kích động mấy thương binh đến nhà ông Giang với thái độ hung hăng, đe dọa. Người b́nh thường ắt phải đặt câu hỏi: "Phải chăng những người mang danh thương binh kia đến đe dọa và gây sự với ông G, là người của ông Lê Đức Anh và Tổng cục II (thủ phạm của vụ T4) sai đến? Phải chăng những kẻ côn đồ đó ngang nhiên làm được như vậy là nhờ có công an bao che? Liệu trong việc này Bộ Chính trị có nhúng tay vào không ?" v.v... Tôi đề nghị các đồng chí phải xem xét nghiêm túc chuyện này, đừng để dư luận kéo dài gây ra bất lợi. Với những người trí thức trung thực dám nói ra điều ḿnh nghĩ để Đảng sửa chữa khuyết điểm cần phải khuyến khích và bảo vệ. Nếu các đồng chí không có biện pháp kịp thời ngăn ngừa những kẻ quá khích, rồi để xảy ra điều ǵ đáng tiếc đối với ông Giang, th́ vết nhơ này Đảng khó mà gột sạch. Nhân dân sẽ c̣n mất niềm tin vào Đảng hơn nữa và xa lánh Đảng hơn nữa. Những người cương trực sẽ không ai dám nói ra những ư kiến đóng góp chân thành với Đảng. Trước thềm Đại hội X, tôi khẩn thiết đề nghị các đồng chí phải giải quyết triệt để vụ T4 theo đúng pháp luật, phải giữ ǵn toàn vẹn sự trong sạch của Đảng. Những kẻ có tội phải bị nghiêm trị. Có như thế, nhà nước của chúng ta mới đúng là nhà nước pháp quyền. Lời góp ư , đề nghị của tôi được nói ra bằng tất cả tâm huyết của một đảng viên đă quá nửa đời người chiến đấu dưới lá cờ của Đảng. Tôi biết rằng lời nói thẳng khó nghe, nhưng tôi không thể không nói. Tôi chúc các đồng chí làm tṛn trách nhiệm và bổn phận trên cương vị của ḿnh. Chào thân ái và quyết thắng !
Đại tá Như Thiết ----- O ----- Thư ngỏ gửi những người chuẩn bị cho Đại Hội Đảng lần thứ 10 Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2005 Kính gửi: Những người chuẩn bị cho Đại Hội Đảng lần thứ 10
Hăy trả tự do
cho những người bị Đảng bắt giữ vu oan là gián điệp! Kết luận
Thủ tưởng Phan
Văn Khải muốn chuyến đi thăm nước Mỹ thành công tốt đẹp, điều đầu tiên hăy
trả tự do cho những người bị bắt giữ, bị vu oan là gián điệp, chấp hành đúng
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền mà Việt Nam đă kư kết ngày 24/9/1982. Kính
Trần Đại Sơn ----- O ----- LTS. Ông Đoàn Duy Thành, một cán bộ cao cấp của ĐCS VN, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: bí thư thành uỷ Hải Pḥng, bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (phó thủ tướng) chính phủ, tác giả cuốn hồi kư trường thiên "Làm người là khó. Làm người xă hội chủ nghĩa c̣n khó hơn nhiều", trong đó tác giả đă hé mở nhiều chuyện trong thâm cung bí sử của Đảng ông ta. Chúng tôi xin lần lượt giới thiệu với bạn đọc những đoạn trích thú vị trong cuốn hồi kư này, ngơ hầu cung cấp cho quư vị những hiểu biết thêm vào những ǵ đă biết về nội bộ ĐCSVN. Cuộc đối chất có một không hai trong lịch sử Đảng ta (Tr 365) … Suốt hai năm ṛng ră, từ khi tôi thôi Uỷ viên Trung ương khoá VII, hằng tháng hoặc hai tháng tôi biên thư cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư xin đối chất với những người có đơn vu khống chính trị tôi. Tôi nghĩ những người này không những loại được tôi ra khỏi chính trường, họ c̣n muốn làm nhục tôi nữa. Nên họ rêu rao do tôi khai man lư lịch phải ra khỏi các chức vụ. Nếu làm rơ ràng th́ tôi c̣n phải khai trừ và đưa ra toà về tội làm gián điệp cho Pháp. Bởi vậy tôi phải kiên quyết đề nghị đối chất với họ. Đối với người làm hại ḿnh, bên ngoài lại tỏ vẻ hàm ơn cho ḿnh, bao dung cho ḿnh, tôi cũng cần phải làm rơ trắng đen. Tôi nói rơ trong đơn, nếu lư lịch của tôi có chỗ khai man, tôi xin được “xử bắn”. C̣n người vu khống tôi, chỉ cần thề trước khi đối chất là: “Nếu vu khống tôi, xin làm con chó là đủ”. Nhưng nguyện vọng ấy măi không được chấp nhận. Anh Đỗ Mười và một số đồng chí bảo tôi: “Lư lịch anh đă có văn bản của anh Vơ Chí Công kết luận rồi, Đảng có đánh giá ǵ anh đâu mà phải đ̣i đối chất”. Tuy nói vậy, nhưng một số người vẫn vu khống, họ cũng không chịu cùng tôi đối chất. Họ nói: “V́ bảo vệ Đảng mà họ nói thôi. Đối chất mất hết t́nh nghĩa giữa chúng tôi và anh Thành”. Họ nói đạo lư “xanh rờn” như vậy nghe có “thấu tinh đạt lư không” (!?).Tôi viết thư cho anh Lê Đức Anh, nói: “Đề nghị anh chủ tŕ giúp, v́ anh Mười đối với tôi và anh Tô Duy cũng khó nói..” Anh Lê Đức Anh gặp tôi ở Quốc Hội nói: “Việc này đă rơ quá rồi, không làm không được, tôi sẽ nói với anh Mười chủ tŕ giải quyết sớm”. Nhưng măi cũng không thấy tổ chức đối chất. Anh Đỗ Mười gặp tôi bảo phía bên kia họ không đối chất. Một hôm nhà tôi và tôi đến thăm anh Mười. Lúc đó nhà tôi thấy bức xúc quá, nên cứ vừa khóc, vừa đập bàn nói: “Anh phải chủ tŕ giải quyết cho nhà em. Nhà em phải hy sinh vào đất địch gian khổ, bị bắt, bị tra tấn, giam cầm khổ như thế nào. Nay họ vu khống cho nhà em là gián điệp quốc tế, các cháu đều là đảng viên cả, chúng sẽ nghĩ về Đảng ra sao? v.v..” Anh Mười quay sang bảo tôi: “Tại sao anh Thành lại nói việc này với chị ấy? Việc này để tôi giải quyết. Cô ốm nên yên tâm chữa bệnh. Tại sao anh Thành lại nói với chị ấy trong lúc ốm đau?” Tôi hơi khó chịu, nói:”Thưa anh Mười, việc này cả nước cùng biết, tôi sao giấu được nhà tôi. Anh bảo với Tô Duy có đào mả bố hắn lên cũng không t́m được tài liệu tôi bị bắt tháng 2-1951”. Anh Mười dứng phắt dậy đi ra tủ sách xem, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Tôi rỉ tai nhà tôi: “Chạm nọc rồi”. Khoảng 5, 7 phút sau đi ṿng xem các tủ sách như t́m cái ǵ, anh Mười tỏ ra bực tức, nhưng không nói. Sau trở lại ngồi xuống nói với chúng tôi: “Cô cứ yên tâm để việc này tôi giải quyết” . Chúng tôi đứng dậy xin phép anh Mười ra về. Tôi nghĩ phải kéo những người này ra trận tiền, không để họ cứ ở chỗ tranh tối, tranh sáng trong xó tối, nhân danh bảo vệ Đảng để tiếp tục vu khống, làm nhục ḿnh. Tôi bèn viết một lá thư gửi anh Mười và gửi rộng răi các đồng chí Ban Bí thư, Bộ chính trị, các ban của Đảng. Tôi thôi không xin đối chất nữa, chỉ cần xác minh cho tôi bị bắt tháng 9-1951 không phải tháng 2-1951 là đủ. Lá thư đó lọt đến tay những người vu khống tôi, họ yên trí là tôi sợ đối chất, v́ họ có nhân chứng sống như Hoàng Chữ, đă có thư gửi anh Đỗ Mười (phần trên đă nói nội dung bức thư). Họ hí hửng cho rằng chỉ một nhân chứng sống Hoàng Chữ cũng đủ để đánh gục tôi. C̣n ngày bị bắt tháng 2 hoặc tháng 9-1951 không c̣n ư nghĩa nữa. Lập tức những người vu khống kư tên xin đối chất với tôi, gồm 12 người. Sau anh Nguyễn Văn Bút, Phó Bí thư thành uỷ xin rút. V́ hôm họp anh em kháng chiến Đèo Voi, anh Bút gặp tôi giơ tay bắt tay, tôi không bắt tay. Anh Bút vẫn nài tôi bắt tay. Tôi nói: “Anh phải hứa với tôi từ nay không tham gia với nhóm vu khống tôi”. Anh Bút đồng ư, tôi bắt tay anh Bút. Từ đó anh cự tuyệt và không tham gia với nhóm này nữa. Quan hệ giữa tôi và anh Nguyễn Văn Bút trở lại b́nh thường. Hôm 19-6-2004 vừa qua, trong bữa cơm Thành uỷ và UBND thành phố Hải Pḥng chiêu đăi chúng tôi, anh Bút lại kể lại t́nh bè bạn thân thiết giữa tôi và anh Bút cho mọi người nghe (trong đó có đồng chí Trịnh Văn Sử, Phó Bí thư thường trực, Chủ tịch UBND thành phố Hải Pḥng cùng nghe). Anh Bút kể lại câu chuyện khi chúng tôi về chuẩn bị nhận chức Bí thư Quân uỷ Bạch Đằng và Ngô Quyền: “Trong lúc chờ đợi ở Đèo Voi, sống khổ sở, mỗi bữa có một con cá phèn nướng, sáng tôi ăn đầu, anh Thành ăn đuôi, chiều ngược lại. Có mấy cọng rau muống cũng chia đôi...” Mọi người nghe rất xúc động. Măi đến ngày 26-2-1993, Ban Bí thư mới quyết định cho tổ chức cuộc họp đối chất do anh Đỗ Mười, Tổng Bí thư chủ tŕ, có anh Nguyễn Đ́nh Hương, uỷ viên Trung ương đảng, trưởng ban Bảo vệ Chính trị nội bộ và 8 cán bộ vụ trưởng, vụ phó Ban tổ chức Trung ương. Ban Bảo vệ chính trị nội bộ cùng tham gia cuộc đối chất xác minh vấn đề bị bắt, bị tù của tôi, và những đơn tố giác. Hải Pḥng có đồng chí Lê Danh Xương, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Trần Huy Năng, uỷ viên thường vụ, trưởng Ban tổ chức thành uỷ cùng dự. Về phía những người tố giác có 11 đồng chí:
Và 7 đồng chí khác là Nguyễn Thắng, Vũ Kính, Phạm Điệt, Vũ Tiến Long, Hoàng Hải, Hoàng Chữ, Phùng Văn Vể. Về phía nhân chứng cho tôi có 10 đồng chí:
Đến hội nghị đối chất vẫn c̣n vu khống trắng trợn Đúng 8 giờ ngày 26-2-1993, Hội nghị họp, đồng chí Đỗ Mười chủ tŕ hội nghị, tuyên bố: “Hôm nay tôi là Bao Công. Ai có ư kiến ǵ nói cho hết”. Sau đó anh Mười nói: “Bị bắt tháng 2 hay tháng 9 có ǵ quan trọng nhỉ? Vấn đề bị khai báo ra sao, trong tù hoạt động thế nào, mới là quan trọng chứ!”. Tôi đứng lên báo cáo với anh Mười: “Các anh đây không t́m thấy khuyết điểm của tôi khi bị bắt, khi bị tù, các anh ấy xoay sang việc tôi bị bắt tháng 2-1951. Trong lư lịch tôi khai bị bắt tháng 9-1951, như vậy chênh lệch nhau 7 tháng. Bảy tháng ấy tôi đi đâu? Chắc đi huấn luyện làm t́nh báo cho địch. Không đơn giản như anh nói đâu, anh Mười ạ!” Ban tổ chức báo cáo là c̣n thiếu anh Hoàng Chữ. Tức thời anh Nguyễn Thắng, anh Vũ Tiến Long đứng dậy nói: “Anh Hoàng Chữ không dám lên Hà Nội họp v́ sợ anh Thành giết”. Anh Nguyễn Mạnh Ái cũng nói là anh Hoàng Chữ nói với anh Ái như vậy. Có mỗi một nhân chứng sống lại vắng mặt. Nhân chứng này viết thư trực tiếp cho anh Mười, nếu không có mặt th́ chứng lư ǵ để đối chất? Trong lúc đó, một cán bộ Ban tổ chức đứng dậy báo cáo với anh Mười: “Anh ta trốn đấy! Chứ ai giết mà anh ta sợ”. Anh Mười bảo anh Lê Danh Xương cho người t́m và dẫn bằng được anh Hoàng Chữ lên Hà Nội. Đồng chí Lê Danh Xương điện về Hải Pḥng yêu cầu t́m mọi cách đưa anh Hoàng Chữ lên Hà Nội họp ngay. Cuộc họp bắt đầu. Các anh Tô Duy, Trần Đông phát biểu trước, rồi đến các anh Nguyễn Thắng, Vũ Tiến Long, Phạm Điệt, Nguyễn Mạnh Ái. Họ phát biểu dài ḍng đại để như: - tôi đă 20 năm làm công an nên có kinh nghiệm chống gián điệp, âm mưu nọ, âm mưu kia. Họ không nêu được ư ǵ cụ thể cả, chỉ nghe dư luận, v.v... Tôi có lúc khó chịu, có lúc suưt bật cười. Tôi ghi chép kỹ, để khi phát biểu sẽ nói cho mỗi vị một trang. Tất cả đều chung chung. Có anh không nói, v́ không biết ǵ cả, như anh Hoàng Hải, anh Lê Quang Tuấn, họ đă định không phát biểu. Tôi nhắc anh Mười bảo anh Tuấn phát biểu, anh Tuấn mới phát biểu: “Đây là hội nghị của Đảng, nên cứ phát biểu chung, không nên hết phe này phát biểu đến phe kia phát biểu” (chấm hết). Lúc đó đă là 3 giờ chiều. Một cán bộ Ban tổ chức thành uỷ đưa anh Hoàng Chữ vào hội trường. Ngồi 5 phút, anh Mười bảo anh Hoàng Chữ phát biểu. Anh Chữ nói: “Tôi xin lỗi đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Đoàn Duy Thành, tôi chỉ nghe quân tôi nói, tôi không trông thấy đồng chí Thành mặc quần áo trắng, đọc nhật tŕnh, không bị tra tấn ǵ, ngồi xem anh em bị tra tấn. Tôi nói như vậy là có sự tác động. Một lần nữa tôi xin lỗi đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Thành”. Rồi anh Hoàng Chữ ngồi xuống. Tôi liền hỏi: “Ai tác động ?” Anh Hoàng Chữ không trả lời. C̣n anh Phùng Văn Vể, cháu ông bà Ngỡi, ở ngơ Sỏi phố Ga Hải Pḥng là nhân chứng đă tuyên bố biết tôi bị bắt tháng 2-1951, đă cùng ăn, cùng ngủ với tôi ở nhà ông bà Ngỡi. Anh Vể phát biểu: “Tôi chưa gặp anh Thành lần nào, chỉ thấy cô, chú tôi nói là anh Duy bị bắt ở đây. Tôi nhớ là mùa nóng bức, tôi không nhớ rơ là ngày tháng nào cả”. Anh Hoàng Hải phát biểu: “Tôi không biết ǵ cả. Các anh ấy nhờ tôi đưa anh Vể lên đây giúp”. Đặc biệt là anh Vũ Kính, nguyên Uỷ viên thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, phụ trách văn pḥng từ khi mới lập quận, anh người Hưng Yên, Thường vụ huyện uỷ Mỹ Hào, được điều sang Hải Pḥng từ 1949. Anh cũng học Hán tự, cũng biết đạo lư của thánh hiền. Anh biết tôi làm Bí thư quận uỷ, rồi xuống làm Phó bí thư v́ không phải là Thành ủy viên. Tháng 7-1951, tôi vào nội thành hoạt động, tôi gửi tài liệu và Trung ương sang cho anh. Sau anh gửi tài liệu và Trung ương sang của tôi cho anh Trần Phương (Phương Xích) là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền trả lại tôi. Anh Vũ Kính đă làm chánh văn pḥng thành uỷ và đón tôi ở Côn Đảo về. Sau anh làm Phó giám đốc Sở công an, rồi làm Hiệu trưởng trường trung cấp công an của Bộ Nội vụ, trường đóng ở Hà Bắc. Tôi đă có ư định mời anh Vũ Kính làm chứng cho tôi, sau biết dược anh đứng trong danh sách 11 đồng chí dự đối chất với tôi nên tôi không mời nữa, đợi xem ngày họp đối chất anh sẽ nói ǵ về tôi. Đến khi phát biểu, anh Vũ Kính chỉ nói một câu: “Tôi đến đây chỉ để chứng minh cuộc họp Ban Chấp hành quân uỷ Ngô Quyền tháng 6-1951 là không có. Lúc đó tôi đi học ở trường Trần Phú”. Rồi anh Kính ngồi xuống không nói ǵ thêm. Tôi cũng hơi buồn cười, v́ chẳng có ai nhắc đến cuộc họp tháng 6-1951 cả. Khi giải lao, tôi gặp anh Kính, nhắc lại chuyện cũ. Anh Kính bảo tôi: “Tôi c̣n nhớ tất cả, kể cả tháng 7-1951, tôi c̣n đưa anh ra Đồng Vành chụp ảnh, rồi đưa cậu Văn Te làm giấy chứng minh do Bang Tŕnh Thuỷ Nguyên kư”. Tôi nói lại: “Tôi định mời anh làm nhân chứng cho tôi, nhưng thấy danh sách đối chất với tôi có tên anh rồi, nên tôi không mời nữa". Anh lặng yên không nói ǵ. Từ 3 giờ 30 chiều, 10 đồng chí bảo vệ sự thật mới cho tôi phát biểu. Trong lúc những người tố giác nói sai sự thật, các đồng chí phía tôi rât tức giận, như cô Định, đồng chí Thiện, đồng chí Vũ Quang Đạo... Họ giơ tay liên tục đ̣i phát biểu. Tôi ra hiệu cho họ cứ b́nh tĩnh, để các anh phía bên kia nói cho hết ư đi, ḿnh phát biểu cũng không muộn. Cô Định tức giận đứng dậy phát biểu rất xúc động. Khi cô phát biểu xong, đồng chí Đỗ Mười ôm hôn cô và nói: “Tôi thương vợ chồng cô quá!”. Đồng chí Nguyễn Tân (Văn Tân) tức giận nói: “... Chúng tôi đă bị địch giày xéo lên xác chúng tôi , các anh c̣n định giày xéo lên xác chúng tôi lần nữa hay sao ?” Anh Vũ Quang Đạo, móc một mắt giả (do anh làm “cỏ-về”, đập đá ở Côn Đạo bị đá bắn vào mù mắt), nói: “Tôi lấy một con mắt c̣n lại, bảo đảm rằng đồng chí Thành là một đảng viên kiên cường, đă cùng với anh Văn (Hiến), anh Lê Đ́nh Thụ cùng các đồng chí trong Đảo uỷ Côn Đảo vạch ra kế hoạch vượt đảo có một không hai trong lịch sử các nhà tù của đế quốc ... “.Khi kết thúc hội nghị, đồng chí Vũ Quang Đạo nói với anh Đỗ Mười: “Hôm nay tôi đem cả thẻ đảng viên đến đây. Nếu anh kết luận khác là tôi trả thẻ Đảng, để xin ra Đảng”. Anh Mười nói: “Đến thế cơ à!?” Đến 7 giờ tối, hai phía đă phát biểu xong, anh Mười nh́n tôi bảo: “Đủ rồi, để tôi kết luận kẻo muộn. Anh Thành không cần phát biểu nữa”. Tôi xin phát biểu 5 phút. Tôi nói: “Tôi định phát biểu dài, tôi đă chuẩn bị phát biểu trả lời cho mỗi anh một trang, nhưng anh Mười bảo thôi, vậy tôi chỉ nói về anh Vũ Kính. Anh Kính biết tất cả mọi việc của tôi, nếu anh nói hết sự thật cho các anh này biết, có thể không phải có cuộc họp này. Tôi kể lại đầu duôi từ ngày thành lập quận, anh Vũ Kính ở đủ các thời kỳ tôi vào nội thành hoạt động. Tôi bị bắt, bị tù, ra tù, anh Vũ Kính lại đón tôi, nghe hết mọi chuyện thẩm tra, điều tra xác minh về tôi, v.v... Tất cả lời phát biểu của tôi, anh Kính đều công nhận là đúng. Tôi định nói thêm về anh Nguyễn Mạnh Ái một chút, nhưng anh Mười bảo tôi quá muộn rồi, để anh kết luận. Tôi ngồi xuống và suy nghĩ. Anh Vũ Kính có học Hán tự nên c̣n giữ được chữ “Tín”. C̣n anh Tô Duy, việc rành rành như “canh nấu hẹ”, như việc vợ chồng anh và chị Lê Thu cưới tập thể với vợ chồng anh chị Linh và Phụng Dương, anh Lê Xuân Thịnh và chị Kiệm, 5 người c̣n sống (trừ anh Thịnh đă hy sinh từ 1952), cớ sao anh có thể nói khác đi. Năm 1982, vợ chồng anh Tô Duy và chị Lê Thu c̣n xác minh lại với tôi là: họ cưới nhau 8-7-1951 ở Hồ Lao, có mặt tôi ở đó, rồi mấy hôm sau họ c̣n đến thăm tôi. Anh Linh (Nghĩa), chị Phụng Dương, chị Kiệm đều chứng nhận tôi có mặt trong sự kiện trọng đại của ba đôi vợ chồng. Thế mà anh Tô Duy phủi tay để vu khống tôi bị bắt tháng 2-1951 chứ không phải tháng 9-1951, để ghép cho tôi 7 tháng vắng mặt là được địch cho đi đào tạo làm gián điệp. Anh Tô Duy c̣n bảo các anh em đi thẩm tra, bắt tôi phải tả lại đám cưới, nơi tổ chức đám cưới, trang trí như thế nào? Để bảo đảm tính trung thực của ḿnh, tôi tả lại đầy đủ đám cưới cho cán bộ đi thẩm tra. Anh Tô Duy lại xoay ra việc khác, nói với cán bộ đi kiểm tra: “Cậu Thành đă đi điều tra tỉ mỉ nơi tổ chức đám cưới...”. Anh Tô Duy có biết đâu từ đó đến nay tôi chưa lần nào trở lại Hồ Lao, và cũng chẳng hỏi lại ai về việc này làm ǵ. .... Anh Đỗ Mười kết luận (... ). Trước khi kết thúc anh Mười nói: “Đề nghị anh Thành thôi không truy ngược lại nữa. V́ Đảng ta c̣n khó khăn” (??)". Bản thông báo lời lẽ rơ ràng, nghiêm túc. Có đoạn viết: “... các đồng chí nghi vấn chính trị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là sai, không có căn cứ xác thực, yêu cầu các đảng viên phải nghiêm túc chấp hành kết luận của Ban Bí thư. Nếu đồng chí nào c̣n có ư kiến bảo lưu ở khía cạnh này, hay khía cạnh khác th́ để lưu vào hồ sơ. Không đồng chí nào được nói khác kết luận của Ban Bí thư. Phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và kỷ cương của Đảng”. Thông báo này phổ biến đến các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, Riêng đảng bộ thành phố Hải Pḥng và Đảng bộ cơ sở nơi đồng chí Đoàn Duy Thành sinh hoạt đảng được phổ biến đến chi bộ (đ/c Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đă kư). Sau 3, 4 tháng, t́nh h́nh lắng dịu. Khoảng tháng 9-1993, có hội nghị giữa nhiệm kỳ, bầu bổ sung Trung ương. Số đại biểu đi dự đại hội lần thứ VII chỉ được triệu tập khoảng 70%, tôi không được triệu tập đi họp, dù tôi là đại biểu chính thức. Đại hội Đảng lần thứ VII, tôi không được cử đi họp là chắc chắn như dự đoán của tôi. Tôi cũng không biết chính xác số đại biểu dự hội nghị giữa nhiệm kỳ là bao nhiêu. Nhiều đồng chí uỷ viên, có cả uỷ viên BCT nói với tôi, yêu cầu Trung ương mời tôi đi dự Hội nghị giữa nhiệm kỳ và bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương. Nhưng tôi đều cảm ơn và từ chối, không đặt vấn đề này ra làm ǵ nữa. Việc đă qua rồi, cho nó qua. Có đồng chí c̣n nói găng: “Cứ đến bắt đền ông Mười là ông ấy phải giải quyết”. Tôi nói lại: “Tôi đă nói với anh Mười, tôi chỉ đến xin công việc làm ích quốc lợi dân, c̣n xin chức vụ, quyền lợi không bao giờ tôi xin”. Trong bản dự thảo thông báo cuả Văn pḥng Trung ương về vấn đề của tôi, đưa cho anh Mười duyệt, anh chỉ gạch đi 2 từ “hoàn toàn” ở câu: “Các đồng chí nghi vấn chính tị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là hoàn toàn sai”. Nay chỉ c̣n “là sai”. Nó cũng làm nhẹ khuyết điểm cho những đồng chí vu khống tôi một ít. Anh Đỗ Mười thừa biết là họ “hoàn toàn” bịa đặt Sau một thời gian, họ lại tung tin: “Anh Đỗ Mười vội vàng, hồ đồ kết luận không chính xác về Đoàn Duy Thành”. Rồi họ đi “vơ bèo vạt tép” tung tin thất thiệt về tôi, như nhân chứng Nguyễn Văn Cấp, nguyên bí thư huyện uỷ Kim Thành nói là không có việc tôi về chữa bệnh ở Kim Thành. Tôi yêu cầu cho đối chất với anh Cấp. Anh Mười bảo: “Đối chất thế là đủ rồi. Vấn đề là để làm rơ bị bắt tháng 9 hay tháng 2-1951. Tháng 7-1951, cậu c̣n ở cơ quan Văn pḥng thành uỷ. C̣n dự đám cưới tập thể, bao nhiêu người làm chứng. C̣n việc đi chữa bệnh ở Kim Thành tháng 2 đến tháng 5-1951 đă có anh Lê Công Thiệu làm chứng là đủ” . Tôi muốn đối chất với anh Cấp để vạch bộ mặt giả dối của anh ta. V́ tôi về chữa bệnh ở cơ quan huyện đội, anh Cấp cùng đồng chí Nguyễn Đ́nh Củng, chánh văn pḥng đến thăm tôi ở nhà bà Kỷ, xóm Chùa, thôn Quê Phương, xă B́nh Dân. Khi cơ quan huyện đội chuyển sang sơ tán ở Băi Xuân Đám, Thành Hà, ban đêm ngủ trên thuyền, anh Cấp c̣n đánh cờ tướng bằng trí nhớ với tôi, vv... Anh Cấp quen biết quá rơ tôi. Thế mà trong đơn tố cáo tôi, anh Cấp nói: “Tôi không biết anh Thành, tôi cũng không gặp anh Thành lần nào. Chỉ khi anh Thành làm Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi mới biết”. Anh bị một số anh em tù Côn Đảo ở Hải Dương và đồng chí Lê Công Thiện phản bác lại. Anh Cấp lại đến đồng chí Nguyễn Đ́nh Củng xác minh việc anh ta đến thăm tôi và có ư vận động anh Củng nói là không có. Khi thấy đấu tranh nội bộ nếu không nghiêm, nó sẽ lây lan rất phức tạp. Chính sau khi đối chất xong, các đồng chí Ban tổ chức kiến nghị với anh Mười nên có h́nh thức kỷ luật với những người nói sai sự thật, nhưng anh Mười gạt đi. (!?). Một số anh em trong số 11 người đi phân bua với nhiều người, nói là v́ việc chung phải làm. Có người c̣n nói với một đồng chí bạn thân của tôi là: “Ḿnh phục vụ cho ông ấy (ư nói anh Mười), ông ấy lại kết luận ḿnh sai. Nay ḿnh chỉ yêu cầu ông ấy sửa bản thông cáo, bỏ chữ “là sai” là chúng ḿnh không làm tiếp nữa (nghĩa là không vu khống ông Thành tiếp nữa)”. Cổ nhân đă răn dạy, cần phải nhớ: “Sinh sự, sự sinh, hà nhật liễu!” (Sinh ra việc, gây sự với người ta, người ta phải gây sự lại, không ngày nào kết thúc được). Do đó ngựi lănh đạo v́ dân, v́ nước, phải biết v́ lợi ích của nhân dân, phải chọn điểm dừng, chấm dứt sự việc. Chỉ biết có ḿnh và quên việc người khác phản ứng lại ra sao, tất nhiên phải đẻ thêm chuyện, không biết giải quyết đến lúc nào cho hết. Đến nay tháy rơ hai phía đều đ̣i nợ anh Mười. Tôi đ̣i anh Mười phải trả lại những ǵ anh đă làm ảnh hưởng đến tôi, gia đ́nh vợ con tôi. C̣n phía bên kia họ đ̣i công phục vụ anh, hơn nữa đă không được trả công lại bị kết luận là sai. Cứ thế, và cứ thế... Từ việc làm không đàng hoàng chính trực, biết bao cán bộ cấp dưới bắt chước, sinh nhờn kỷ luật. Từ kỷ luật sắt, thành kỷ luật “mỡ”, đó chẳng phải là bài học xây dựng Đảng, xây dựng con người lănh đạo phải có đức, có tài để làm gương tốt cho đời nay và mai sau hay sao ?”. Các con tôi, bốn trai, các cháu đă trường thành, đều là đảng viên và cán bộ trung cấp. Chúng biết suy nghĩ và đều có bản lĩnh. Các cháu không buồn, không nản ḷng, chỉ cám cảnh cho những đồng chí của bố ḿnh lại làm những việc đen tối, nhằm hăm hại bố ḿnh một cách độc ác. Có một số nhà văn, nhà báo đến phỏng vấn các cháu, cháu Đoàn Duy Khương, con trai thứ ba của tôi đă trả lời: “Tôi biết bố tôi đă hy sinh cho đất nước, cho gia đ́nh và chúng tôi như thế nào. Mẹ tôi và bạn bè của bố tôi kể lại cho chúng tôi nghe. Tôi tin tưởng sắt đá rằng bố tôi là người trung thành tuyệt đối với Đảng và dân tộc. Nhưng cứ giả thiết rằng bố tôi là “gián điệp quốc tế”, th́ tôi rất tự hào được là con một người thông minh nhất thế giới. V́ tất cả các loại gián điệp, phải thay tên đổi họ, phải bỏ vợ con gia đ́nh ở quê hương, đi một nơi khác... Thế mà bố tôi làm “gián điệp quốc tế” vẫn sống đầm ấm với mẹ con tôi, vẫn sống ở quê nhà với cái tên thật mà trong nước lẫn thế giới đều quen thuộc: “Ông Đoàn Duy Thành”. Như thế phải là người thông minh nhất thế giới mới che mắt được cơ quan chống gián điệp của ta chứ”. Đồng chí Đỗ Mười đă dùng rất nhiều cách để hạ uy tín của tôi. Có rất nhiều chuyện, tôi chỉ kể ra đây hai chuyện. Trước đại hội VII, trong cuộc họp bàn về nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, anh Mười đứng lên phát biểu: “Bây giờ mới khui ra Đoàn Duy Thành có 3, 4 nhà ở Hải Pḥng”. Đồng chí Nguyễn D́nh Hương phải đứng lên cải chính: “Anh Đoàn Duy Thanh chỉ có một nhà ở Hải Pḥng do thành phố thu xếp cho, chúng tôi đă đi kiểm tra. Khi về công tác ở Trung ương, anh Thành đă trả lại nhà cho thành phố”. Câu chuyện thứ hai, anh Mười nói với một số cán bộ thân anh Mười để họ làm cái loa nói theo: “Đoàn Duy Thanh ôm chân Vơ Văn Kiệt”. Họ rêu rao chuyện đó hằng năm. Anh Lê Đức Thọ nghe biết chuyện này. Anh Thọ đă nói trong một cuộc họp: “Đoàn Duy Thành nó thèm ôm chân ai. Đến tôi, nó cũng căi tới số”. Một hôm tôi gặp anh Mười, tôi bảo: “Anh bảo tôi ôm chân anh Vơ Văn Kiệt? Anh biết đấy, ở cái đất nước này, tôi không thèm ôm chân ai. Tôi đề nghị anh không nên nói như vậy. Tôi quí trọng người có đức, có tài; lễ độ, tôn kính người biết tự trọng và đối nhân xử thế có nhân cách...” Từ đó anh Mười mới không nói nữa. v.v... Kẻ ra c̣n nhiều, nhưng tôi nghĩ những chuyện sinh hoạt tầm thường của cá nhân không nên kể. Năm 1997, Đại hội Pḥng Thương mại và Công nghiệp có dư luận nói là lần này tôi không làm Chủ tịch và về hưu. Việc về nghỉ, với tôi, tôi đă nói nhiều rồi. Bao giờ Đảng và Nhà nước bảo nghỉ là nghỉ ngay. Tôi không xin. Không rơ ai nói đến tai nhà tôi, nhà tôi đến nhà anh Mười, xin cho nhà tôi ở thêm khoá nữa. Khi nhà tôi về, tôi hỏi nhà tôi đi đâu. Nhà tôi bảo đi đ̣i nợ ông Mười. Tôi hỏi lại, đ̣i cái ǵ? Nhà tôi mới cho biết đến đề nghị anh Mười để tôi làm thêm một khoá nữa. Tôi bảo: “Anh đă bảo em nhiều lần, không nên xin anh Mười chức vụ, quyền lợi ǵ?. Nhà tôi đứng phắt dậy nói: “Em đến đ̣i nợ ông ta. Ông ta đă làm anh khổ sở, quá thiệt tḥi. Đến đ̣i được ít nào hay ít ấy... Anh để mặc em, lần này em phải làm cho ra nhẽ. Không để ông ấy bắt nạt ḿnh măi...” Mấy hôm sau, anh Mười gọi tôi đến bảo: “Cậu về làm đơn xin làm thêm khoá nữa”. Anh không nhắc ǵ chuyện nhà tôi đến gặp anh. Tôi bảo: “Anh bảo tôi làm đơn, anh có ủng hộ không? Nếu anh không ủng hộ, không sao đâu” . Anh Mười chỉ bảo: “Cậu về làm đơn đi”. Tôi về suy nghĩ, bàn với mấy đồng chí giúp việc. Các đồng chí khuyên tôi nên viết đơn. Pḥng Thương mại và Công nghiệp cũng rất cần tôi làm thêm khoá nữa. C̣n tôi, tôi cũng nghĩ đến những công tŕnh dở dang, cơ chế về vai tṛ của doanh nghiệp và doanh nhân chưa được thông qua, nếu tôi làm tiếp cũng là để hoàn tât được công việc. Tôi viết đơn gửi anh Mười và gửi đồng chí Nguyễn Văn An, uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương. Sau Đại hội Pḥng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, anh Mười đi một số nơi tại Hải Pḥng, anh Mười nói: “Đấy, Đoàn Duy Thành xin tôi làm khoá nữa, tôi cho làm đấy”. Tôi nghe các đồng chí nói lại. Tôi bảo nhà tôi: "Anh Mười đă kể công với ḿnh đấy” Nhà tôi bực ḿnh nói: “Mặc ông ấy, ḿnh đ̣i được một ít nợ là được rồi”. Tôi bảo: “Nợ này được cái ǵ? Chỉ biết trước mắt phải làm bao nhiêu việc cho doanh nghiệp, cho VCCI ...”. Nhà tôi lại lư sự với tôi: “Được làm việc cho cách mạng, đem lại lợi ích cho mọi người chứ sao. Để người khác họ đến phá và thu vén hết cho cá nhân, th́ công lao khoá trước của anh cũng mất hết...”. Tôi cười vui và nói: “Tôi lại thấp mưu hơn cô”. Đến giữa nhiệm kỳ khoá VII, tôi lại thăm anh Mười. Dù anh đối xử với tôi thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn giữ t́nh cảm anh em, đồng chí với anh. Lúc nào tôi cũng coi anh là thủ trưởng. Anh kể cho tôi nghe, cuộc họp Trung ương giữa nhiệm kỳ này, anh xin nghỉ. Tôi hỏi ai thay, anh bảo tôi: “Lê Khả Phiêu”. Rồi anh giới thiệu quá tŕnh của anh Lê Khả Phiêu, có đoạn đáng lưu ư và buồn cười với sự giới thiệu và giải thích này: “Cậu Phiêu nó chiến đấu ở B́nh Trị Thiên được rèn luyện 14 năm. Nó lên có thể giữ được 2 khoá. C̣n bảo nó hủ hoá th́ mấy người c̣n hủ hoá quá nó!... ”. Tôi nói phải giữ được hàng trăm năm chứ sao lại hai khoá? C̣n đoạn sau tôi không b́nh luận. Khi nghĩ một Tổng Bí thư giới thiệu một Tổng Bí thư mới thay ḿnh mà nói như vậy nghe không được. Không rơ anh Mười đă nói với bao nhiêu cán bộ về câu chuyện này? Tôi thấy cách giải thích đó không đúng tầm của một cán bộ lănh đạo quốc gia. Đến Đại hội IX, trong thời gian chuẩn bị nhân sự đại hội, tôi biết có nhiều phức tạp. Hôm Bộ Chính trị mời một số cán bộ cao cấp đến tham khảo ư kiến về nhân sự, trước khi đến họp, tôi lại thăm anh Mười. Anh nói nhiều chuyện về nhân sự. Khi nói đến Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, anh Mười nói: “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi. Có đứa là CIA. Kỳ này phải thay người khác...”. Tôi đă định nói một câu, nhưng suy đi nghĩ lại sợ anh Mười phật ḷng, nên tôi không nói nữa. (Câu tôi định nói là: “Nay chắc anh Lê Khả Phiêu hủ hoá hơn mấy người trước ?”) Tôi thấy rât buồn, cán bộ chủ chốt không đào tạo, không qui hoạch, thay đổi vội vàng th́ ḷng Đảng không yên, ḷng dân yên sao được ? Trong việc thay anh Lê Khả Phiêu, tôi đến đự hội nghị được một đồng chí cho biết: có một cán bộ thân với anh Mười, hỏi anh Mười sao lại làm như vậy. Anh Mười trả lời: “Nó lật tôi, tôi lật lại”. Tôi nghĩ trong nội bộ mà xử sự như vậy lộn xộn lắm! Tôi nhớ lại Đại hội VII, anh Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư sẽ nghỉ. Anh bảo tôi lại nhà chơi. Anh hỏi tôi giới thiệu ai là người thay anh. Rồi anh đưa vài người ra phân tích cho tôi nghe. Khi anh lại hỏi ư kiến, tôi nói: “Như anh đă nói nhiều lần khi anh làm Tổng Bí thư khoá VI; Cán bộ không qui hoạch, không đào tạo, nước đến chân mới nhảy, như cầm đóm đi soi ếch... C̣n bây giờ tuỳ anh và Bộ Chính trị chọn. Tôi nghĩ: “Cạn ao, bèo đến đất”, “Chọn bó đũa lấy cột cờ”, giữ được đoàn kết nội bộ, ổn định chính trị là tốt nhất. C̣n các đồng chí mà anh giới thiệu, kẻ tám lạng, người nửa cân, người được mặt này, yếu mặt kia, tuỳ anh lựa chọn. Tôi không dám tham gia cụ thể”.
Sắp hết đời chỉ mong được tự do Cuối năm 2002, mọi người đều biết là đến 4-2003, tôi sẽ nghỉ hưu, sau Đại hội Pḥng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Một số nhà văn, nhà báo đến chơi. Trong các buổi đến chơi, các đồng chí cũng không đặt vấn đề phỏng vấn, chỉ đề nghị tôi trong đời hoạt động cách mạng có những ǵ c̣n đọng lại, mang dấu ấn vui buồn th́ kể lại cho nghe. Trong các cuộc gặp gỡ cuối năm vui vẻ đó, tôi kể một số chuyện mà tôi tâm đắc nhất... Rồi các nhà báo về tự viết. Họ đưa lại tôi xem những sự kiện viết có chính xác không, c̣n văn vẻ, đầu đề bài báo do nhà báo, nhà văn viết, tôi không duyệt lại. Số báo có các bài khi xuất bản các đồng chí đều biếu tôi. nơi một bản, nơi 2, 3 bản, như các bài “Vị tướng của doanh nhân” (báo Thế Giới Mới); bài “Thủ lĩnh của doanh nghiệp” (báo Tài Chính); bài “Người say mê với sự nghiệp làm giàu” (báo Khoa Học), va một số báo khác. Những bài báo trên là hoàn toàn sự thật 100% nhưng không hiểu sao anh Đỗ Mười lại tức giận đến thế! Anh không nói ǵ với tôi, nhưng qua nhiều nguồn tin tôi biết. Tôi nghĩ có dịp đến thăm, tôi sẽ nói cho anh Mười rơ là tôi không có ư định viết về ḿnh. Ngay các nhà báo viết những bài trên, gần đây đến chơi và gọi điện cho tôi nói rằng họ viết hoàn toàn tự nguyện, không ai đề nghị, nhưng áy náy v́ đă làm cho tôi phải phiền ḷng. Tôi bảo không sao cả, quan trong là sự thật. Đến ngày 2-8-2003, anh Đỗ Mười bảo tôi đến chơi. Nhân đó tôi hỏi anh Mười sao không kỷ luật những người tái vu khống tôi trên tờ báo An Ninh Thế Giới? “Tôi sẽ kiện ra toà về tội vu khống chính trị. Hôm nay tôi chính thức đề nghị với anh đồng ư cho tôi kiện”. Anh Mười vội vàng t́m máy gọi anh Nông Đức Mạnh, anh Phan Diễn, anh Trần Đ́nh Hoan để nói chuyện. Nhưng ba anh trên đều đi vắng. Anh Mười nói chuyện với thư kư của ba anh, nhắc ba anh giải quyết sớm vụ việc của tôi không để tôi đi kiện. Sau đó anh ngồi nói chuyện với tôi, anh bảo: “Ḿnh đă vo tṛn lại, cậu lại rũ rối ra”. Câu nói đó tôi rất sửng sốt, không hiểu tôi rũ rối cái ǵ. Vụ anh Tô Duy vu khống tôi, từ ngày có kết luận của Tổng Bí thư tôi có nói ǵ nữa đâu. Chỉ khi họ tung tin anh Mười kết luận “hồ đồ”, “vội vàng”, ám chỉ anh Mười thiên vị tôi, tôi mới làm đơn xin đối chất lại, xoá kết luận cũ, giao cho một người chủ tŕ do phía anh Tô Duy giới thiệu, để khỏi mang tiếng cho anh Mười. Có thế thôi. Tôi có rũ rối ǵ đâu. Anh Mười nói: “Tôi nhận được miếng giấy con của anh Nguyễn Văn Trân (anh giơ ba đầu ngón tay ra, và nói: “Bằng từng đây này”), phản đối bài báo của cậu ”Vị tướng của doanh nhân”. Tôi nghĩ liên quan ǵ đến anh Nguyễn Văn Trân về bài báo này nhỉ? Tôi ngồi suy nghĩ phân vân quá! V́ sao mấy bài báo nói sự thật vừa qua, lại dẫn đến bài báo của anh Tô Duy đăng ở trang 31 báo An Ninh Thế Giới ra ngày 17-4-2003? Trước ngày họp Đại hội Pḥng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam? Thật là khó hiểu... . Sau đó anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện Tô Duy nữa: “Hai ông gộc, một Phó Thủ tướng, một Bộ trưởng đi kiện nhau làm ǵ?" Tôi nói tôi kiện th́ anh và anh Vơ Chí Công cũng phải ra toà làm chứng. Anh Mười bảo: “Thế cơ à?” Tôi cười và nói: “Luật của thế giới là vậy đấy. C̣n ở ta các anh viết một lá thư, hoặc cho luật sư nói thay là đủ”. Anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện nữa, sẽ bảo anh Nông Đức Mạnh giải quyết sớm. C̣n việc nhập vàng hỏi chú Thuư, anh không nhớ. Tôi nghĩ việc nhập vàng anh “chửi” tôi hàng năm, anh lại không nhớ. Thật là kỳ lạ! Tôi chào anh ra về. Anh tiễn tôi ra đến cổng một cách thân mật. Tôi về nhà, tôi tiếp tục suy nghĩ. Mở lá thư của anh Tô Duy viết ngày 15-5-2003 gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và anh Đỗ Mười, trang 4 có đoạn viết: “Đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Trung ương đảng tố cáo bài báo đó chứa đựng nhiều điều bịa đặt, lừa bịp rất trắng trợn, để đề cao cá nhân Đoàn Duy Thành một cách hết sức lố bịch”. Tôi lại nhớ buổi gặp anh Mười, khi tôi mới đến, anh Mười nói ngay: “Cậu Tài nó mới được phong Anh hùng đấy!”. Thoáng nghĩ tôi hiểu anh lại muốn động viên tôi (anh Tài cũng bị nghi oan khi ở tù như tôi, sau được thẩm tra kết luận tốt). Khi tôi nói đến các bài báo mới đăng dịp tết năm 2002-2003 đều hoàn toàn là sự thật, chẳng có một việc nào bịa đặt, tôi ch́a lá thư của anh Tô Duy ra. Anh Mười tỏ vẻ hơi bối rối, nói lảng sang chuyện khác. V́ lá thư này anh Tô Duy cũng gửi cho anh Mười. Tôi định đọc đoạn anh Mười nhận xét bài báo như đă nói trên, nhưng suy nghĩ tôi lại thôi. V́ anh mời tôi đến chơi chứ tôi không chủ động đến để “đôi co” với anh. Mấy hôm sau khi chị Kiệm, nguyên Vụ trưởng Viện Kiếm sát nhân dân tối cao (phu nhân đồng chí Lê Xuân Thịnh, nguyên Bí thư thành uỷ Hải Pḥng đă hy sinh ở Thái B́nh) đến chơi kể lại chuyện mới gặp anh Mười. Chị kể: “Anh Mười nói: cậu Thành cũng có khuyết điểm. Tôi đă vo tṛn rồi cậu Thành lại cho đăng báo tâng bốc ḿnh qúa mức. Việc nhập vàng là tôi bảo Cao Sĩ Kiêm nhập. Cậu Trần Phương và cậu Thành lúc đó tính đều sai cả. Tôi làm, tôi tính mới đúng, mới giải quyết được lạm phát, khủng hoảng kinh tế”... Chị Kiệm nói lại với anh Mười: “Tôi tưởng khuyết điểm ǵ, chứ nói quá mức thành tích th́ không khuyết điểm để so sánh với việc anh Tô Duy đăng trên báo An Ninh thế Giới...” Sau khi tôi nghe chị Kiệm kể lại câu chuyện gặp anh Mười, tôi buồn cười về một đồng chí thủ trưởng vơ hết thành tích về ḿnh, đổ lỗi cho người khác, nhất là nói sai sự thật:
C̣n bài tính của tôi khi làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, anh Mười đă tuyên bố hai lần ở các phiên họp Hội đồng Bộ trưởng và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng là “làm theo bài tính của anh Đoàn Duy Thành”. Nay anh Mười (lại) nói với chị Kiệm là tôi tính sai hết. Tôi vừa buồn cười vừa suy nghĩ, nói với chị Kiệm: “Đúng là nhân dục vô nhai. Ḿnh là thằng đầy tớ dọn cỗ cho thày ăn, ḿnh chỉ đợi vét đĩa mà cũng không được vét đĩa, thầy lại đ̣i vét nốt...”. Tôi nhớ lại khi được điều về Hà Nội công tác, vội vàng khăn gói ra đi, nhà tôi sợ tôi ốm cũng theo lên Hà Nội phục vụ chồng, giao cho bà ngoại trong nom các cháu ở Hải Pḥng. Các cháu cũng đă lớn, đi làm việc nhưng vẫn ăn ở chung tại số 10 Đinh Tiên Hoàng. Nghe chú Xuân Khang, kỹ sư, nhạc sĩ kể lại mà tôi rơi nước mắt: “Đến gặp chú Tiến, cháu Khương, cháu Trọng đang ăn cơm trưa, chẳng thấy có ǵ. Cháu Khương bảo cháu Trọng xem c̣n ǵ mang cho anh ăn cơm. Cháu Trọng bảo chỉ c̣n mấy con tôm, bà dặn để dành tối ăn...”. Tôi nhắc câu chuyện đó với nhà tôi, bảo nhà tôi lo cho các cháu đôi chút về đời sống. Nhà tôi gắt: “Lương chỉ có thế th́ ăn thế. Nghe cái mồm chú Khang làm ǵ...” Trong lúc đó, không biết theo chỉ thị của ai, họ đem camera, đặt ở tầng hai nhà kế bên nhà số 10 Đinh Tiên Hoàng để theo dơi nhà tôi. Sau này tôi biết một chi tiết rất nhỏ: “Đặt camera theo dơi nhà ông Thành xem có di chuyển tài sản ǵ đi đâu không. Nếu có, báo ngay cho biết chuyển tài sản ǵ đi, nhất là ban đêm, sẽ ập vào bắt và khám nhà”. Theo dơi nửa năm chẳng thấy động tĩnh ǵ nên họ rút. Pḥng gác hai là của đồng chí Phan Văn, giám đốc Sở Văn hoá được phân phối. Nhưng đồng chí Phan Văn về ở với con, pḥng khoá cửa. C̣n do ai cho muợn để đặt máy quay th́ đồng chí kể lại chuyện này không cho tôi biết. Họ nghĩ rằng tôi công tác ở Hải Pḥng 36 năm, làm Chủ tịch và Bí thư thành uỷ 7 năm, chắc vơ vét được nhiều tiền của lắm, nhiều tài sản quí hiếm lắm! Sau khi được nghe kể lại chuyện này, tôi rất buồn. Làm cho dân, cho nước, ḿnh không vụ lợi một xu nhỏ, đối xử với ḿnh lại như thế? Măi đến năm 1990, khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại và xin về hưu, một số công ty thuộc Bộ và địa phương đến thăm thấy Bộ trưởng tài sản chẳng có ǵ, đồng chí Mai Văn Dâu, giám đốc Tổng hợp I của Bộ mang xuống tặng một cái tivi cũ của Nhật Bản; công ty Xuất nhập khẩu thành phố Vũng Tàu và tỉnh Đồng Tháp cho cái tủ lạnh và bộ radio cassette, vợ chồng đồng chí giám đốc Công ty Huy Hoàng - Cẩm Nhung cho bộ cassette 4 tầng mới nhất của Nhật Bản và 5 triệu đồng. Nhà tôi từ chối măi không được. Chú Huy Hoàng và cô Cẩm Nhung nằn ń măi, và nói: :”Anh đă nghỉ rồi, đây là t́nh cảm, chị nhận cho”. Nhà tôi nhất định không nhận, Hai cô chú cứ để lại và ra về... Công ty Rau quả Hải Pḥng cho nhà tôi một điều hoà cũ do Liên Xô sản xuất. Từ đó trong nhà chúng tôi mới có hàng “xịn” để dùng. C̣n trước chỉ có một tivi Neptun của BaLan sản xuất, một đài Hồng Đăng của Trung Quốc. Nghỉ Bộ trưởng, thành ra đổi đời về sinh hoạt. Khi đương chức, một số anh em biếu quà b́nh thường th́ nhà tôi nhận, c̣n th́ không nhận. Có người đi nước ngoài về cho mấy củ sâm Cao Ly, khách ra đến cổng rồi, nhà tôi c̣n đuổi theo trả lại. Năm 1993, tôi sang thăm Thái Lan. Biết anh Nguyễn Văn Linh mới đi thăm Italia về cùng nghỉ ở lầu trên khách sạn Principale- Băng Cốc, tôi lên thăm anh. Anh kể chuyện đi thăm Italia cho tôi nghe. Rồi anh nhắc lại việc tôi xin từ chức, anh lại khóc, anh lại nói lại: “Tôi không cứu được anh”. Tôi bảo: “Tôi làm ǵ khiến anh phải cứu? Có ủng hộ tôi th́ ủng hộ”. Tôi biết anh Nguyễn Văn Linh rất có t́nh cảm với Hải Pḥng và với tôi. Anh lớn lên từ 6 tuổi đă ở với ông chú tại Hải Pḥng. Qua nhiều năm công tác, tôi quen biết anh, lại cùng ở tù Côn Đảo, tuy anh là bậc đàn anh, lớp tù trước so với tôi nhưng mỗi khi anh em gặp nhau là chuyện tṛ rất sôi nổi... Các đồng chí Tỉnh uỷ Hải Hưng kể lại với tôi, anh đến thăm Hải Hưng, nói chuyện với tỉnh uỷ, anh cũng nhắc đến tôi một cách tŕu mến và nói:”Trong Đảng ta, cán bộ cao cấp được thử thách, thẩm tra, xem xét kỹ nhất là đồng chí Đoàn Duy Thành...”. Có đồng chí hỏi anh: “Tại sao anh không bảo vệ được anh Thành?”. Anh trả lời: “Ba thằng đánh một, chẳng chột cũng què”. Tôi cũng chẳng t́m hiểu họ là ai, mặc dù một số đồng chí tỉnh uỷ Hải Hưng nói rơ là anh Linh đă chỉ ra họ, tên là ǵ, nhưng tôi nghĩ t́m hiểu để làm ǵ? Ḿnh theo tư tưởng và đạo dức của Bác Hồ, và đối nhân xử thế của Khổng đạo. Sách Luận ngữ đă chép, có một học tṛ hỏi Khổng Tử một câu về xử thế: “Dĩ đức báo oán hà như ?” (Lấy điều đức để báo oán lại oán thù có được không?) Khổng tử trả lời: “Bất nhược dĩ trực báo oán” (Không bằng lấy điều thẳng để báo lại). Bởi vậy t́m hiểu chỉ thêm phải suy nghĩ. Một người đă quá đủ rồi, hưống chi lại ba người đánh một! Tôi bỏ qua, chằng nghĩ, chằng nói làm ǵ, họ chỉ là người “góp cỗ chia phần” thôi. “Giậu đổ th́ b́m leo”, đó là thói đời. Trước khi anh Nguyễn Văn Linh mất 25 ngày, tôi đến thăm anh ở nhà riêng, có các đồng chí Vũ Tiến Lộc, Nguyễn Hữu Hải, Phạm Gia Túc cùng đi. Lúc này anh yếu nhiều. Anh vẫn đi từ gác xuống, một tay bịt một bên mắt, một tay ôm bụng, tiếp chúng tôi hơn một giờ. Tôi tặng anh cuốn “Côn Đảo một thời để nhớ”, hồi kư của tập thể anh em tù chính trị Côn Đảo sinh sống ở Hà Nội. Anh cố vui để tiếp chúng tôi, nói nhiều chuyện trong nước và thế giới. Bất th́nh ĺnh anh hỏi: “Tại sao lúc đó anh lại thôi Phó Thủ tướng nhỉ?” Tôi cũng bất ngờ, tôi trả lời anh: "Tôi từ chức tại hội trường T78, anh chủ tŕ mà anh quên rồi à!”. Anh suy nghĩ một lát rồi nhớ ra: “Tại sao tôi lại cho anh từ chức nhỉ?”. Rồi anh lại khóc. Tôi vừa cảm động, vừa thương anh, không biết với anh chống đỡ được đến bao giờ bệnh ung thư đang hoành hành ở anh. Đau yếu thế, mà anh chỉ bàn việc, lo cho nước, cho dân. Bao nhiêu suy nghĩ mà anh bộc lộ với tôi và các đồng chí cùng đi. Chúng tôi rất cảm động về con người cộng sản này. Hoạt động từ năm 13 tuổi, đến 16 tuổi đă bị băt, bị tra tấn và đầy đi Côn Đảo. Gần đây đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên BCT khi làm trưởng ban Tổ chức kể lại với tôi là: “Anh Linh là người mà bảo nghỉ là nghỉ ngay, rất vui vẻ, không khó khăn như những anh khác...” Kể, từ sau ngày tôi từ chức đến lúc anh Nguyễn Văn Linh qua đời, tôi gặp anh bốn lần. Lần nào anh cũng khóc mỗi khi nhắc đến việc từ chức của tôi. C̣n tôi từ chức là v́ lư tưởng và phẩm chất của tôi, giữ cho Đảng ta nội bộ đoàn kết, t́m được người có tài-đức để xây dựng thành công chủ nghĩa xă hội. Đối với anh Nguyễn Văn Linh, tôi biết ơn anh đă có t́nh cảm thực sự chân thành với tôi. Và, từ ngày 2-8-2003, tôi khẳng định được hơn 20 năm qua anh Đỗ Mười là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây rắc rối cho đời hoạt động của tôi. C̣n anh Tô Duy là người trung thành với anh Đỗ Mười, được anh Mười giao mọi việc, đă cung cấp tài liệu giả để anh Mười tin. Khi sự thật đă quá rơ ràng, anh Mười không c̣n cách nào khác, phải kết luận là tôi đúng. Anh Tô Duy vừa không bằng ḷng, vừa cố ư t́m chứng cứ để cho anh Mười tin ḿnh đúng, nên đă táng tận lương tâm cứ nói tôi bị bắt tháng 2-1951, dù không có chứng cứ ǵ cả. C̣n anh Mười cũng phải bảo vệ anh Tô Duy. Anh Tô Duy v́ anh Mười mà làm. Bởi thế sự việc giải quyết không dứt điểm được. Tôi tự hỏi sự việc này c̣n kéo dài đến bao giờ? Đó là nguy cơ tiềm ẩn, gây rối ren trong nội bộ, gây bài học xấu cho hiện nay và mai sau về việc tranh chức, tranh quyền trong nội bộ. C̣n tôi sống được đến hôm nay v́ trong Đảng cũng c̣n dân chủ, cũng có những cán bộ trung thực, không a dua làm điều bất nghĩa. Tôi nhớ năm 1996, tôi đến Paris dự hội thảo và dự triển làm Việt Nam tại Pháp. Xong việc, tôi cùng đồng chí Bùi Việt Cường, đại diện Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc đóng ở Geneve, Thụy Sĩ và ông Phó chủ tịch kiêm Tổng thư kư Hội Việt kiều ở Pháp, đến thăm người em con ông cậu tôi là Nguyễn Đức Riễm đă gần 90 tuổi. Hai vợ chồng chú Riễm đón chúng tôi, chú mừng rỡ nói: “Bác c̣n giữ được cái đầu đến thăm em là quí lắm rồi! Bên này người ta đồn bác là gián điệp quốc tế, em rất lo. Thế là chế độ cộng sản cũng c̣n công minh hơn phong kiến nhà Lê. Nếu không th́ đă có vụ Lệ Chi Viên thứ hai ở Việt Nam”. Tôi buồn cười hỏi: “Sao, ghê thế cơ à? Tôi chẳng thấy ǵ đáng sợ. Tôi không lúc nào buồn và suy nghĩ ghê gớm như chú cả. Tôi vẫn làm việc b́nh thường”. (Chú Riễm là cơ sở t́nh báo của ta, từ 1954 đưa vào vùng tạm chiếm hoạt động, c̣n hoạt động như thế nào tôi không biết. Chú Riễm đă mất năm 2000). Trong nước cũng nhiều người lo lắng cho tôi, nhưng tôi không kể làm ǵ cho thêm đau ḷng. Mong sao từ nay trở về sau không c̣n có những con người như vậy, để Đảng ta vượt lên tầm của thời đại, để có một Đảng trong sáng tuyệt vời. Noi gương Bác Hồ để xây dựng Đảng th́ mọi việc sẽ thành công. C̣n đối với anh Đỗ Mười, tôi phải phục anh là người “siêu” trong việc che giấu nội tâm của ḿnh. Ngày 21-6-2003, trong thư tôi gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, anh Đỗ Mười, anh Vơ Chí Công, ở trang 7 tôi c̣n đánh giá: “Chắc cả nước ta ai cũng biết đồng chí Đỗ Mười là người thẳng thắn trung thực”. Nhưng măi đến ngày 2-8-2003, hơn 20 năm sau, sự thật trần truồng (La vérité toute nue), tôi mới khẳng định được người đứng sau vụ án “gián điệp quốc tế” này, chính là đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta. Đồng chí Đỗ mười đạo diễn và chỉ đạo rất tinh vi, lúc cứng lúc mềm đối với tôi, làm cho đối Tượng như rơi vào trận đồ bát quái, không xác định được phương hướng. Do đó, quá tŕnh diễn ra vụ án nghi vấn chính trị lớn nhất đối với tôi, có rất nhiều đồng chí, kể cả hầu hết Uỷ viên BCT, Uy viên Ban Bí thư lúc đó đặt câu hỏi với tôi: “Cần phải xem xét c̣n có nguyên nhân sâu xa ǵ nưă mà hơn một chục cán bộ chủ chốt Hải Pḥng, không ai có chứng cứ cụ thể, lại dám kư vào đơn tố cáo ? Anh cần xem xét kỹ việc này”. Tôi chưa trả lời được câu hỏi ấy. Nhưng từ sau ngày 2-8-2003, tôi đă có thể trả lời câu hỏi này, khi đồng chí Trần Đ́nh Hoan, Uỷ viên BCT, Ban Bí thư, trưởng ban Tổ chức Trung ương, ngày 8-8-2003 đặt câu hỏi như nội dung trên. Xin thưa: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”. Tháng 1-2004, đồng chí Nguyễn Đức Tâm,. nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương lại đặt lại câu hỏi này với tôi, mà trước đây đồng chí đă hỏi tôi nhiều lần, tôi chưa trả lời được. Nay tôi đă trả lời chính thức đồng chí Nguyễn Đức Tâm: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”. Viết đến đây tôi nhớ đến Nguyễn Trăi. Trước khi qua dời ông đă than rằng:
“... .Mọi chưng
khắp chốn đều thông cả, Và lời trăng trối cuối cùng của Phu-xích, Uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Tiệp khắc, tác giả tiểu thuyết “Viết dưới giá treo cổ” :
“Nhân loại hỡi! Ta
yêu tất cả mọi người, (Tr 491) Anh Nguyễn Đức Tâm - nhà tổ chức thận trọng và khiêm tốn. Anh nghiên cứu về cán bộ, hoặc đi thăm những nơi sản xuất, đến các công tŕnh của Hải Pḥng. Anh suy nghĩ cách làm, gợi ư nhỏ nhẹ cho địa phương suy nghĩ từng việc cụ thể, để thực hiện cho tốt. Anh làm tổ chức nên rất quan tâm đến quá tŕnh hoạt động của cán bộ. Anh lo cho những cán bộ chủ chốt có được một lư lịch chân thực trong sạch, không c̣n hiện tượng man khai lư lịch, lừa dối tổ chức để lên chức lên quyền. Đối với cá nhân tôi, tôi biết anh theo dơi và nghiên cứu tiểu sử của tôi rất kỹ. Nên khi một số người xấu vu khống lư lịch tôi, anh thường đặt đi đặt lại câu hỏi rất nhiều lần với tôi: “Anh phải xem kỹ, đằng sau vấn đề này là vấn đề ǵ? Chẳng nhẽ hơn một chục cán bộ chủ chốt của Hải Pḥng không có thù ghét ǵ với anh, họ chẳng có chút chứng cứ ǵ trong tay, mà dám kư tên tập thể tố cáo anh, tại sao? Cần suy nghĩ t́m ra cho được nguyên nhân”. Tôi phải khất lại để suy nghĩ và t́m hiểu, không thể suy diễn được. Đến ngày 2-8-2003, tôi đă t́m ra nguyên nhân để trả lời câu hỏi khó khăn phức tạp đó. Tháng 1-2004, tôi gặp anh. Tôi tưởng bây giờ anh đă nghỉ, chắc anh cũng quên việc của tôi. Không ngờ sau những câu chuyện thông thường, anh lại nghiêm nghị hỏi: “Cái việc anh Tô Duy, anh đă t́m ra cái ǵ ở đằng sau đó chưa ?”. Hôm đó tôi báo cáo với anh, tôi đă t́m ra rồi. Đó là anh Đỗ Mười chỉ đạo anh Tô Duy vu khống tôi hơn 20 năm qua. Anh Tâm bảo tôi: “Có thế chứ, vô lư những con người đó tự nhiên lại kư và tố cáo dai dẳng. Khi tổ chức đă kết luận và đă chứng minh đầy đủ họ sai, nhưng họ vẫn làm, vậy phải có nguyên nhân sâu xa. Tôi làm tổ chức, tôi hiểu điều đó rất rơ”. Rồi anh thở phào nhẹ nhơm, như vừa trút được một gánh nặng. Tôi báo cáo anh tôi cũng thấy buồn, tôi không nghĩ con người đó lại là con người như vậy, buồn cho ḿnh, buồn cho Đảng ta... ----------- (1) Nếu có điều kiện tôi sẽ xin báo cáo kỹ càng giải quyết vấn đề này trên cở sở đă nghiên cứu “t́nh huống” bộ máy quản lư và chế độ tiền lương của ta và của một số nước trên thế giới. Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam |
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |