| ||||||
|
CRFV Ghi Lại Cuộc Phỏng Vấn Lm Nguyễn Văn Lư Về T́nh H́nh TDTG Tại Việt Nam ngày 7 tháng 8, 2005 Trên Đài Việt Nam Hải Ngoại
Bà Ngô Thị Hiền (NTH): Chúng tôi Ngô Thị Hiền xin kính chào quí thính giả. Xin đặc biệt gửi đến quí vị ư kiến của linh mục Nguyễn Văn Lư về t́nh h́nh tự do tôn giáo tại Việt Nam. Chúng con là Ngô Thị Hiền, con xin kính chào Cha.
Lm Nguyễn Văn Lư (Lm NVL): Xin kính chào chị Ngô Thị Hiền, và tất cả các bạn hữu cũng như tất cả quí vị, đồng bào Việt Nam.
NTH: Thưa Cha, đồng bào hải ngoại rất là quan tâm về t́nh h́nh tự do tôn giáo tại VN; đặc biệt hiện nay nhà cầm quyền VN đang đàn áp khốc liệt GHPGHH . Xin Cha vui ḷng chia sẻ một chút tin tức này với chúng con?
LmNVL: Vấn đề TDTG th́ đă liên tục được đề cập đến trong suốt 60 năm vừa qua tại VN. Nhưng trong những ngày vừa rồi th́ vấn đề tôn giáo lại trở nên nóng bỏng qua việc 9 tín đồ PGHH ở An Giang bị bắt và trong số đó có 2 tín đồ đă tự thiêu; một đă qua đời, và một đang bị phỏng rất nặng. Chính v́ vậy mà vấn đề TDTG trong những ngày này tại VN lại được nêu lên. Vấn đề này thật là phức tạp; bởi lẽ, nếu như, ở VN có TDTG thật sự th́ vấn đề này không cần được nêu lên liên tục trong suốt 60 năm qua. Nên việc vấn đề này được nêu lên nhiều như vậy th́ chứng tỏ vấn đề này thực sự vô cùng trầm trọng. Vấn đề này phải được hiểu như thế nào? Cũng có một số các chức sắc tôn giáo, một số tác giả, một số các nhà văn nhà báo trả lời rằng ở VN tự do tôn giáo là b́nh thường hoặc là chỉ có những giới hạn không đáng kể. Tại sao lại có những lời như vậy? Đấy có phải được hiểu rằng số người ấy đang được yên thân, họ đang gặp được nhiều thuận lợi, hoặc họ chỉ thấy những vấn đề hời hợt, bề ngoài như ở thành phố , ở những nơi sầm uất. Họ không bận ḷng ǵ đến các vùng xa xôi hẻo lánh; cũng không bận ḷng ǵ đến những giáo hội đang bị bách hại nặng nề. Sự không bận ḷng này đi đến chỗ có thể nói là vô cảm trước những khó khăn và đau khổ chồng chất của các giáo hội ấy. Ví dụ GHPGHH đặc biệt vùng An Giang, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các GH Tin Lành vùng Tây Nguyên, GH Mennonite ở Sài G̣n. Những người này hoặc v́ cố t́nh hoặc v́ợ do nhận thức về TDTG quá sơ sài hời hợt. Ví dụ họ cho rằng những nhà chùa nhà thờ được sửa được xây; các lễ hội đông vui; rồi đi nhà thờ, đi nhà chùa cũng không thấy có ai công khai cấm cản cả. Họ cho rằng đó là có TDTG. Sự thực ngay cả những vấn đề rất sơ đẳng này, th́ trong nhiều vùng dân chúng vẫn c̣n bị cấm cản. Ví dụ 30 năm rồi cả ngàn giáo hữu vùng A Lưới, Nam Đông ngay tại tỉnh Thừa Thiên này vẫn chưa được phép làm nhà thờ. Hàng ngàn giáo hữu Quảng B́nh, Ba Ḷng, Quảng Trị vẫn chưa được phép có linh mục để dâng thánh lễ. Rồi hàng ngàn giáo điểm của GH Tin Lành vùng Tây Nguyên vẫn không được phép làm nguyện đường và cũng không được phép tụ tập để cầu nguyện. Như vậy ở VN, chỉ có trẻ con chưa đủ trí khôn và người lớn quá khôn khéo mới cho VN có TDTG. Thật đáng tiếc là khi một nhà nước, một tổ chức, một cá nhân từng quan hệ thuận lợi với nhà nước VN th́ đều t́m mọi cách ép lương tâm ḿnh mà giải thích rằng TDTG VN hiện nay có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận. Đặt điều một cách khôn khéo kiểu ngoại giao như vậy là cố t́nh gượng ép để nói cho vừa ḷng nhà nước VN mà thôi. Chính tôi đây cũng đă biết nói dối gần gần như vậy để nhà nước VN bớt mất mặt mà thả tôi ra. H́nh như một nhà nước nào khi muốn quan hệ tốt với nhà nước VN th́ đều t́m cách gượng ép để nói một cách khôn khéo ngoại giao như vậy chứ thực sự vấn đề TDTG tại VN chưa có tiến bộ đáng ghi nhận ǵ cả. Bằng chứng rơ ràng nhất là ngày mồng 5 tháng 8 vừa rồi, hai tu sĩ của PGHH An Giang đă lựa chọn cho ḿnh một cái chết vô cùng đau thương bi thảm là tự ḿnh đổ xăng vào người để làm ngọn đuốc soi rọi lương tri của nhà cầm quyền chỉ để đ̣i hỏi một điều duy nhất là giáo hội của ḿnh phải được pháp luật thừa nhận. Các tổ chức quốc tế đă liên tục lên tiếng đ̣i nhà nước VN trả lại các quyền cơ bản nhất cho dân ḿnh. Đó là những bằng chứng hiển nhiên nhất là ở VN chưa có TDTG thực sự .
NTH: Thưa Cha, theo ư Cha th́ phải làm thế nào để VN sớm có TDTG thực sự?
LmNVL: Muốn có TDTG thực sự tại VN th́ các cơ quan quốc tế, Việt kiều hải ngoại, dân chủ trong nuớc, và nhất là các nhà đấu tranh quốc nội phải đấu tranh một cách kiên tŕ, ngày càng gia tăng áp lực với nhà nước CS. Và quan trọng nhất là phải có tự do ngôn luận. Khi nhà nước VN muốn có bang giao quốc tế, muốn mở rộng ra với thế giới văn minh của loài người, họ phải chấp nhận phương tiện văn minh hiện đại là Internet, là điện thoại liên đại lục. Đây là điểm yếu của nhà nước VN . Khi chấp nhận cho thông tin th́ nhà nước không thể bưng bít được nửa. Các nhà đấu tranh phải biết lợi dụng vào thế mạnh này để đồng bào tại VN sớm có quyền tự do ngôn luận thực sự theo tiêu chuẩn của công ước quốc tế. Khi có tự do ngôn luận rồi, th́ những tờ báo đối lập, những tờ báo độc lập hoặc những tờ báo của tư nhân, hoặc những phương tiện truyền thông mà ḿnh có được trong tay để hướng dẫn quần chúng thoát khỏi các nỗi sợ hăi vu vơ để sống cho ra người là luôn luôn nói trung thực không sợ hăi. Ai ai cũng cho rằng VN đang có hai quốc nhục và 5 quốc nạn, điều này do chính nội bộ của đảng CS đưa ra. Thế nhưng, chỉ nh́n vào nghèo đói, tham nhũng tụt hậu mà cho đó là quốc nạn và quốc nhục th́ theo tôi chưa chính xác. Cái quốc nạn và quốc nhục lớn nhất ở VN là toàn dân đều phải nói dối. Một thói quen phải nói dối, một sự cần thiết phải nói dối, một sự cưỡng bức phải nói dối, một sự buộc ḷng phải sống trong giả dối, coi sự hành sử gian trá lừa lọc là việc đương nhiên phải có tại VN. Cái đại quốc nhục và quốc nạn này bao trùm lên tổ quốc 60 năm rồi và như vậy tương lai của dân tộc VN sẽ hoàn toàn bế tắc một cách triệt để. Nếu không chửa trị, nếu không điều trị tận căn gốc, theo tôi đó chính là đại quốc nhục của VN. VN đang là một trường đào tạo người thuộc loại nói dối khổng lồ. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, nguồn gốc của mọi quốc nhục quốc nạn mà đa số dân th́ vẫn c̣n cứ mù mờ. Họ phải thấy rằng họ không nên, không thể tiếp tục sống mải trong một nước mà sự gian trá đă thành hơi thơ,Ư thành nếp sống. Cho nên phải giúp cho dân thấy rằng chuyện này không thể tiếp tục được nửa mà có nhiều nhà trí thức nhiều chức sắc của các tôn giáo có thể chưa thấy được vấn đề then chốt này. Sau khi đă có tự do ngôn luận th́ đương nhiên sẽ có tự do dân chủ và trong đó sẽ có TDTG. Các nhà đấu tranh về phía các tôn giáo họ đấu tranh cho TDTG là bởi v́ đây là việc chuyên môn chứ c̣n chống quyền TDTG th́ đă có bao hàm quyền tự do ngôn luận rồi. Để có TDTG, các giáo hội phải có những tờ báo lớn; phải có những cơ quan truyền thông độc lập của ḿnh để hướng dẫn lương tri của giáo hữu và lương tri của đồng bào. Các nhà đấu tranh phải giúp cho dân thắng được sự sơ hăi triền miên này để họ hiên ngang cầm một tờ báo đọc mà không sợ bị tịch thu. Họ cầm một bức thư của một người khác viết họ không sợ bị bắt bớ để họ có thể thông tin cho nhau những tin tức chính xác của thế giới văn minh mà không sợ bị phiền phức trong cuộc sống, không sợ bị bắt, không sợ bị vào trại giáo dục là một trại tù mà được trá h́nh là cơ sở giáo dục hoặc là trại dưỡng giáo. Thật sự đó là những trại tù mà không có ṭa xét xử, khi người dân đọc một quyển sách đọc một tờ báo mà không hề sợ hăi ǵ cả và muốn cho ai đọc cũng được th́ lúc đó mới nói đến TDTG, tự do dân chủ. Theo chị những điều tôi nói có thuận lợi và chính xác không?
NTH: ThưaCha, con nghĩ rằng chắc chắn người Việt hải ngoại rất đồng ư với Cha. Thưa Cha, theo ư Cha th́ nếu chúng ta cố gắng tranh đấu để thực hiện những điều này th́ bao lâu nửa sẽ có TDTG, cũng như sẽ có dân chủ hoàn toàn tại VN, thưa Cha?
LmNVL: Về thời gian cho chính xác th́ cũng hơi khó nói một chút. Tuy nhiên, nếu như theo mức độ hiện nay th́, hoặc là trước, hoặc là sau một chút của Đại Hội 10 của đảng CS sắp tới, tức là sang năm th́ buộc ḷng đảng CS phải cho đa nguyên đa đảng. Tuy nhiên, đa nguyên đa đảng đầu th́ cũng chỉ là những đảng , do đảng CSVN tách ra, nhưng mà cũng có những đảng dân chủ của người dân tự động thành lập, mà điều có được đa nguyên đa đảng th́ đương nhiên có những tờ báo đối lập, và đó chính là khởi sự của dân chủ VN. Từ khởi sự này cho đến khi có một đời sống dân chủ an ninh b́nh thường như các nước Tây Âu th́ có lẽ VN đang phải trải qua khoảng 10, 15 năm gian khổ nửa. Trong thời gian đó, các nhà đấu tranh phải nỗ lực để nâng cao dân trí cho người dân để họ hiểu thế nào là dân chủ, thế nào là sự văn minh trong thế giới văn minh. Thế nào là biết lắng nghe lời nói đối lập, thế nào là biết trân trọng với ư kiến, khác với chính kiến với ḿnh. Không thể nói đến dân chủ khi chưa có dân trí, mà muốn nâng dân trí của dân VN th́ phải có một thời gian dài. Những nhà đấu tranh phải biết đó làvấn đề then chốt để nỗ lực mà làm. C̣n ḿnh chỉ có hô hào đ̣i đa nguyên đa đảng mà không nói đến giáo dục toàn dân, không nỗ lực để giúp cho thanh niên nam nữ học lên cao th́ không thể đa nguyên đa đảng ấy đem đến ổn định cho đất nước được. Nếu dân trí thấp th́ rất dễ lộn xộn và trở lại chế độ độc đoán. Nhất là phong lư của người Á Đông th́ dù nhà nước nào đi nửa th́ cũng rất dễ độc tài với dân.
NTH: Dạ thưa Cha, tiện đây Cha có lời nhắn nhủ nào đối với cộng đồng VN Hải Ngoại không ạ?
LmNVL: Kính thưa đồng bào VN trong và ngoài nước rất thân yêu. Vấn đề TDTG và tự do dân chủ của VN như tôi vừa cố gắng tóm tắt, tóm lược ở trên, chưa thể minh họa đầy đủ hai vấn đề nóng bỏng này ở VN. Nhưng hy vọng tôi đă đưa ra những vấn đề then chốt nhất và hy vọng chúng ta sẽ có dịp để trở lại với hai đề tài này trong một dịp khác. Xin kính chào tất cả quí vị bạn hữu và đồng bào trong và ngoài nước. Chúng ta luôn luôn hiệp thông cầu nguyện cho nhau thật nhiều, đêm cũng như ngày, Và xin cảm ơn quí vị đă vui ḷng nghe. Và Xin kính chào.
NTH: Chúng con xin Cảm ơn và xin kính chào Cha. Xin kính chào quí thính giả. Kính chúc quí vị một đêm an lành.
|
|
Xin vui ḷng liên lạc với butvang@yahoo.com về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương Copyright © 2004 Anh Duong Online Last modified: 08/10/06 |