Phán quyết
ngày 10 tháng 3 năm 2005 của Chánh án Weinstein
(Judge Weinstein’s
March 10, 2005 Judgment)
Như chúng tôi đă loan tin, vào ngày 10 tháng 3 năm 2005, Chánh án Jack
Weinstein của ṭa án liên bang ở Brooklyn, New York đă ra một phán quyết
bác bỏ tất cả các khiếu nại của Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam
(HNNCDC/DVN) và một số công dân Việt Nam đ̣i các công ty hóa chất Hoa Kỳ,
đứng đầu là Dow Chemical và Monsanto, bồi thường thiệt hại v́ thương tật
cá nhân và ô nhiễm môi trường mà phía Việt Nam cáo buộc là do ảnh hưởng
của chất da cam, được quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa sử dụng trong
cuộc chiến Việt Nam. Để t́m hiểu thêm chi tiết về phán quyết của Chánh án
Weinstein, chúng tôi có trao đổi với Kỹ sư Nguyễn Minh Quang, một chuyên
viên thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Ông thường xuyên theo dơi
những diễn tiến trên khía cạnh luật pháp và khoa học của vụ kiện này.
Hỏi :
KS có
thể cho quư thính giả của đài Á Châu Tự Do biết thêm một số chi tiết về phán
quyết ngày 10 tháng 3 năm 2005 của Chánh án Weinstein không ạ?
Đáp :
Dạ thưa
anh, tôi có cơ hội được đọc phán quyết ngày 10 tháng 3 năm 2005 của Chánh án
Weinstein về vụ khiếu nại của Việt Nam và có ghi nhận một số chi tiết mà tôi
nghĩ quư thính giả của đài cũng muốn biết. Nhưng trước khi đề cập đến những
chi tiết có liên quan đến phán quyết về vụ khiếu nại của Việt Nam, có một
chi tiết khác mà tôi nghĩ quư thính giả cũng muốn biết, đó là phán quyết sau
cùng cho 23 vụ kiện tương tự của các cựu chiến binh Hoa Kỳ, mà gần nhất là
của hai cựu chiến binh Isaacson và Stephenson.
Đơn kiện của các cựu chiến binh nầy đă bị ṭa án Brooklyn bác bỏ, nhưng
nguyên đơn chống án và được ṭa Kháng án chấp thuận; do đó, ṭa án Brooklyn
đă thụ lư và xét xử. Ngày 9 tháng 2 năm 2004, Chánh án Weinstein đă ra phán
quyết bác bỏ vụ kiện của các cựu chiến binh với lư do là các công ty hóa
chất được luật bảo vệ nhà thầu của chính phủ bảo vệ, nhưng Ông hoăn việc thi
hành phán quyết 6 tháng v́ Ông nghĩ vụ khiếu nại của Việt Nam có thể cung
cấp dữ kiện mới hổ trợ cho các vụ kiện của cựu chiến binh. Nhưng vụ khiếu
nại của Việt Nam đă không cung cấp thêm dữ kiện mới nào, cho nên Chánh án
Weinstein đă ra phán quyết sau cùng bác bỏ tất cả các vụ kiện của cựu chiến
binh Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 3 năm 2005.
Hỏi :
Nhưng tại sao vụ kiện của các cựu chiến binh lại có liên quan đến vụ khiếu
nại của Việt Nam, thưa KS?
Đáp :
Thưa vụ kiện của các cựu chiến binh Hoa Kỳ tương tự như vụ khiếu nại của
Việt Nam, v́ các cựu chiến binh cũng đ̣i các công ty hóa chất, đứng đầu là
Dow Chemical, bồi thường thương tật mà họ cáo buộc là do tiếp xúc với chất
da cam do các công ty hóa chất sản xuất để dùng trong cuộc chiến Việt Nam.
Chính v́ sự giống nhau nầy nên vụ kiện của các cựu chiến binh Hoa Kỳ có liên
quan mật thiết, hay nói cách khác, có ảnh hưởng trực tiếp đến vụ khiếu nại
của Việt Nam. Thủ tục pháp lư và kết quả của vụ kiện của các cựu chiến binh
đă, đang, và sẽ được ṭa dùng như một “án lệ” để xem xét vụ khiếu nại của
Việt Nam.
Hỏi :
Trở lại
với phán quyết ngày 10 tháng 3 năm 2005 của Chánh án Weinstein, KS ghi nhận
được những ǵ?
Đáp :
Phán quyết ngày 10 tháng 3 năm 2005 là một văn kiện có tiêu đề “Biên bản
Ghi nhớ, Án lệnh, và Phán quyết” dày 233 trang, trong đó, Chánh án
Weinstein đă phân tích lập luận của các bên nguyên đơn, bị đơn, chánh phủ
Hoa Kỳ, và các nhóm tranh đấu quyền lợi; tŕnh bày quan điểm của ḿnh (chấp
thuận hay bác bỏ) đối với các lập luận được phân tích; và sau cùng đưa ra
phán quyết đối với đơn khiếu nại của Việt Nam. V́ phán quyết bác bỏ đơn
khiếu nại có tính bao quát (comprehensive), ṭa không cứu xét riêng rẽ từng
đề nghị (motions) của bị đơn.
Phán quyết của Chánh án Weinstein dựa trên cáo buộc của nguyên đơn Việt Nam
cho rằng các công ty hóa chất phải chịu trách nhiệm v́ (1) vi phạm luật bồi
thường thiệt hại quốc gia (domestic tort law) và (2) vi phạm luật pháp quốc
tế (international law). Đối với luật pháp quốc gia, Ông đồng ư với lập luận
của bị đơn rằng các công ty hóa chất được bảo vệ bởi luật bảo vệ nhà thầu
của chánh phủ đúng theo án lệ trong vụ kiện của các cựu chiến binh trước
đây. Đối với luật pháp quốc tế, Ông cho rằng ṭa án Hoa Kỳ có thẩm quyền
hành xử như một ṭa án quốc tế trong việc cứu xét các khiếu nại đối với các
công ty ở trong nước có liên quan đến nhân quyền quốc tế. Ông bác bỏ lập
luận của bị đơn trong việc dùng luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ để bác bỏ
đơn khiếu nại của Việt Nam, nhưng Ông kết luận rằng, dựa theo luật pháp quốc
tế, việc sử dụng thuốc diệt cỏ của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam trước năm 1975
th́ không vi phạm bất cứ luật pháp quốc tế nào mà nguyên đơn dẫn chứng.
Hỏi :
Theo
chỗ chúng tôi được biết, bị đơn cũng dùng luật giới hạn thời gian để yêu cầu
ṭa bác bỏ đơn khiếu nại của Việt Nam. Quan điểm của Chánh án Weinstein về
việc nầy như thế nào?
Đáp :
Bị đơn
đă dẫn chứng luật bồi thường ngoại kiều (alien tort statute) và luật bảo vệ
tù nhân (torture victim protection act) để chứng minh rằng đơn khiếu nại của
Việt Nam không hợp lệ v́ đă quá thời hạn quy định. Chánh án Weinstein cho
rằng luật bồi thường ngoại kiều không thể áp dụng được v́ nó không có quy
định giới hạn. Đối với luật bảo vệ tù nhân, Ông cho biết là Ông không rơ
việc cấm vận của Hoa Kỳ có phải là lư do chánh đáng của nguyên đơn hay không
v́ Quy định kiểm soát tài sản ngoại quốc không ngăn cấm hoặc giới hạn việc
khiếu nại về thương tật cá nhân. Hơn nữa, luật bảo vệ tù nhân chỉ có hiệu
lực từ năm 1992, sau khi thương tật của nguyên đơn đă xảy ra. Ông sẽ nghiên
cứu thêm dữ kiện về vấn đề nầy nếu ṭa Kháng án bác bỏ phán quyết của Ông.
Hỏi :
Từ
trước đến nay và trong đơn khiếu nại, Việt Nam vẫn khẳng định rằng thuốc
khai quang mà quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa sử dụng trong cuộc chiến
là “thuốc độc (poison).” Về điểm nầy, Chánh án Weinstein nhận định như thế
nào, thưa KS?
Đáp :
Dạ thưa
Chánh án Weinstein cũng có phân tích về “thuốc độc” trong phán quyết của
Ông. Theo Ông, thuốc diệt cỏ là một chất dùng để tiêu diệt hoặc kềm hăm sự
sinh trưởng của cây cối; trong khi thuốc độc là một chất, qua phản ứng hóa
học của nó, có thể giết chết, gây thương tích hoặc tàn tật cho một cơ quan
của động vật. Thuốc diệt cỏ cực độc có thể độc hại và thuốc độc có thể hại
cây cối; nhưng việc xác định tùy thuộc vào mục đích và nồng độ. Ông công
nhận dioxin là thuốc độc, nhưng nồng độ của nó trong thuốc khai quang quá
nhỏ (nhỏ hơn 10 phần dioxin trong 999.990 phần thuốc khai quang) nên không
thể kết luận rằng thuốc khai quang là thuốc độc; cũng như không thể kết luận
thuốc chủng thimerosal cho trẻ em có chứa mercury hoặc nước uống đóng chai
có chứa arsenic là thuốc độc. Ông kết luận rằng thuốc khai quang, bao gồm
chất da cam và các chất khác, phải được xem như là thuốc diệt cỏ chứ không
phải là thuốc độc.
Hỏi :
Trong
đơn khiếu nại, các nguyên đơn Việt Nam cáo buộc rằng việc phun thuốc diệt cỏ
do bị đơn sản xuất đă gây tổn thương và thống khổ cho họ măi đến hôm nay.
Chánh án Weinstein có đồng ư với lập luận nầy hay không?
Đáp :
Thưa anh, những tổn thương và thiệt hại của nguyên đơn Việt Nam và con cái
của họ th́ được tŕnh bày một cách rất ngắn gọn trong đơn khiếu nại và được
trích dẫn trong phán quyết. Chánh án Weinstein kết luận rằng, sự kiện có
một số người sanh bệnh sau khi phun thuốc diệt cỏ không đủ để chứng
minh nguyên nhân một cách tổng quát hay cá biệt, hay nói cách khác, không đủ
để chứng minh rằng những tổn thương và thiệt hại của nguyên đơn là do việc
phun thuốc diệt cỏ gây ra. Ông nói lập luận “sau sự kiện, cho nên bởi sự
kiện (post hoc ergo propter hoc)” không thể chấp nhận được trong luật bồi
thường độc hại. Bằng chứng của sự liên kết tùy thuộc phần lớn vào dữ kiện
khoa học và dịch tễ học, nhất là có hơn 4 triệu người Việt được xem là bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Ông kết luận rằng bằng chứng tóm lược trong đơn
khiếu nại không đủ để chứng minh nguyên nhân và hậu quả.
Ông cũng cho biết là c̣n quá sớm để cứu xét đề nghị bác bỏ đơn khiếu nại v́
thiếu bằng chứng về nguyên nhân. Nếu ṭa Kháng án bác bỏ phán quyết của
Ông, Ông sẽ cho phép điều tra cặn kẽ về nguyên nhân trên phương diện dịch tễ
học tổng quát cũng như trên bệnh lư của từng cá nhân.
Hỏi :
Từ khi nộp đơn khiếu nại lên ṭa án Brooklyn, phía Việt Nam thường lập đi
lập lại quan điểm của họ rằng “những cựu chiến binh Hoa Kỳ đă từng rải chất
da cam th́ lại được bồi thường cho những thương tật mắc phải, trong khi các
nạn nhân người Việt th́ không được bồi thuờng.” Chánh án Weinstein có đề
cập đến vấn đề nầy trong phán quyết của Ông không, thưa KS?
Đáp :
Chánh
án Weinstein không thảo luận trực tiếp lập luận nầy của phía Việt Nam.
Nhưng trong phần thảo luận về việc sử dụng thuốc khai quang trong cuộc chiến
Việt Nam, Ông có trích dẫn nghiên cứu của Tiến sĩ Stellman rằng chưa có một
nghiên cứu dịch tễ học rộng răi nào được thực hiện trên dân số Việt Nam hoặc
cựu chiến binh Hoa Kỳ. Dữ kiện về tử vong và thương tật, ít nhất là ở Hoa
Kỳ, có thể dùng cho các nghiên cứu nguyên nhân (causation studies), nhưng
các nghiên cứu quan trọng đó vẫn chưa thực hiện. Ông kết luận rằng những
nghiên cứu nguyên nhân ở Hoa Kỳ, được dùng để hổ trợ cho Bộ Cựu chiến binh
trong việc ấn định danh sách các bệnh được cho (presumptively) là do
chất da cam gây ra để thanh toán trợ cấp tàn phế, th́ gần như không có giá
trị để xác định nguyên nhân trong việc tranh tụng.
Hỏi :
Theo
chỗ chúng tôi được biết, bị đơn có yêu cầu ṭa án loại HNNCDC/DVN ra khỏi
danh sách nguyên đơn và bác bỏ các khiếu nại của Hội về ô nhiễm môi trường.
Chánh án Weinstein phán quyết như thế nào về việc nầy?
Đáp:
Bị đơn có yêu cầu ṭa loại HNNCDC/DVN ra khỏi danh sách nguyên đơn v́ Hội
không đủ tư cách pháp nhân để đại diện cho hội viên của ḿnh, nhưng Chánh án
Weinstein bác bỏ lập luận nầy. Ông cho rằng, mặc dù HNNCDC/DVN là một tổ
chức chuyên đề (ah hoc organization) được thành lập cho vụ khiếu nại chất da
cam, nó phải được công nhận v́ phạm vi địa lư lớn lao và tầm mức phức tạp
của vụ khiếu nại, số người bị ảnh hưởng, sự khó khăn trong việc tố tụng, và
tầm mức quan trọng đối với Hoa Kỳ và quốc tế trong việc thực thi luật pháp
quốc tế.
Về
vấn đề ô nhiễm môi trường, Ông cho rằng nguyên đơn không có cơ sở pháp lư v́
đă không dẫn chứng được bất cứ một luật lệ hoặc quy ước quốc tế nào có liên
quan đến luật môi trường ngăn cấm việc sử dụng thuốc diệt cỏ trước năm 1975.
Hỏi :
C̣n
việc nguyên đơn Việt Nam cáo buộc các công ty hóa chất đă “giúp đỡ và xúi
giục việc vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh” qua việc sản xuất
thuốc khai quang. Quan điểm của Chánh án Weinstein như thế nào?
Đáp:
Đối với lư thuyết “giúp đỡ và xúi giục,” Ông đồng ư với lập luận của các
nhóm tranh đấu quyền lợi như Center for Constitutional Rights, Earthrights
International, và International Human Rights Law Clinic rằng các công ty có
thể có trách nhiệm dân sự dựa theo luật pháp quốc tế. Nhưng Ông cũng cho
biết rằng những luật lệ quốc tế mà nguyên đơn dẫn chứng - gồm có Quy ước
Hague thứ tư (Hague Convention IV), Nghi thức Geneva 1925 (1925 Geneva
Protocol), và Nghị quyết 2603-A của Liên Hiệp Quốc (United Nations
Resolution No. 2603-A) - chỉ áp dụng cho quốc gia mà thôi. Ngoài ra, nguyên
đơn cũng phải chứng minh rằng việc sử dụng thuốc diệt cỏ ở Việt Nam bị luật
pháp quốc tế lúc đó ngăn cấm.
Hỏi :
Ngoài tội ác chiến tranh, nguyên đơn Việt Nam c̣n đưa ra những cáo buộc khác
chẳng hạn như diệt chủng và hành hạ nạn nhân. Phán quyết của Chánh án
Weinstein về những cáo buộc nầy ra sao, thưa KS?
Đáp :
Trong
phán quyết ngày 10 tháng 3 năm 2005, Chánh án Weinstein đă bác bỏ tất cả 13
cáo buộc mà nguyên đơn Việt Nam đưa ra trong đơn khiếu nại bổ túc ngày 10
tháng 9 năm 2005. Ngoài tội ác chiến tranh, các cáo buộc c̣n lại là diệt
chủng, tội ác chống nhân loại, tra tấn, tấn công và hành hung, cố ư gây
thống khổ tinh thần, bất cẩn gây thống khổ tinh thần, bất cẩn, gây tử vong,
an toàn sản phẩm, vi phạm trật tự công cộng, làm giàu bất chính, và làm giảm
thiệt hại môi trường.
Ông đă dựa trên luật bảo vệ nhà thầu của chánh phủ để bác bỏ 8 trong số 13
cáo buộc nêu trên. Các cáo buộc về tội ác chiến tranh, diệt chủng, tra tấn
bị Ông bác bỏ dựa trên luật pháp của Hoa Kỳ và một số luật pháp quốc tế,
trong số đó có các luật pháp do nguyên đơn dẫn chứng. Ông đă dùng luật cổ
truyền quốc tế để bác bỏ cáo buộc về tội ác chống nhân loại. Ông cũng bác
bỏ cáo buộc đ̣i bị đơn làm giảm thiệt hại môi trường dựa theo án lệ Bano vs.
Union Carbide Coporation năm 2003 với sự đồng ư của ṭa Kháng án năm 2004.
Hỏi :
KS có thể cho biết thêm chi tiết về các luật lệ mà Chánh án Weinstein đă
dùng trong việc bác bỏ cáo buộc về tội ác chiến tranh, diệt chủng, và tra
tấn không ạ?
Đáp:
Thưa vâng. Ba bộ luật của Hoa Kỳ mà Chánh án Weinstein cứu xét gồm có Luật
bảo vệ tù nhân (TVPA) 1991 về tra tấn tù nhân, Luật tội ác chiến tranh (WCA)
năm 1996 quy định tội h́nh sự, và Luật áp dụng quy ước về diệt chủng (GCIA)
1987. Các hiệp ước và luật pháp quốc tế được Chánh án Weinstein cứu xét gồm
có Quy ước Hague thứ tư 1907, Nghi thức Geneva 1925, Hiến chương London
1945, Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Quy ước Geneva 1949, và Nghị quyết 1969
của Liên Hiệp Quốc. Ông kết luận rằng việc sử dụng thuốc diệt cỏ của Hoa Kỳ
ở Việt Nam trước năm 1975 th́ không vi phạm hoặc bị giới hạn bởi bất cứ một
hiệp ước, luật pháp hoặc quy định quốc tế về nhân quyền mà Hoa Kỳ phê chuẩn.
Hỏi :
Thưa c̣n cáo buộc về tội ác chống nhân loại?
Đáp :
Chánh
án Weinstein dựa theo hai định nghĩa về tội ác chống nhân loại để bác bỏ cáo
buộc nầy. Theo định nghĩa của Ông Cherif Bassiouni trong quyển Các tội ác
của Chiến tranh, tội ác chông nhân loại là bất cứ hành động tàn bạo nào được
tiến hành trên một phạm vi rộng lớn. Theo định nghĩa của Nguyên tắc
Nuremberg 1945, tội ác chống nhân loại bao gồm ám sát, tiêu diệt, nô lệ hóa,
trục xuất, các hành động vô nhân đạo đối với thường dân trước hoặc trong
thời chiến, và đàn áp v́ chính kiến, chủng tộc hay tôn giáo. Ông cho rằng
việc sử dụng thuốc diệt cỏ ở Việt Nam trước năm 1975 th́ không bao gồm trong
hai định nghĩa vừa nêu.
Hỏi :
KS có cho biết Chánh án Weinstein dùng án lệ Bano kiện Union Carbide
Corporation để bác bỏ cáo buộc đ̣i bồi thường thiệt hại về môi trường do
việc sử dụng thuốc khai quang ở Việt Nam. KS có thể cho quư thính giả của
đài biết thêm về vụ kiện nầy không?
Đáp :
Ngày 2
tháng 12 năm 1984, hơi độc (methyl isocyanate) thoát ra từ nhà máy hóa chất
ở Bhopal, Ấn Độ làm 8.000 người chết và hơn 200.000 người bị thương. Nhà
máy nầy do công ty Union Carbide Ấn Độ điều hành, nhưng 50,9% là do Union
Carbide Hoa Kỳ sở hữu. Đến năm 1999, một nạn nhân sống sót cùng một số tổ
chức khác đă nộp đơn lên ṭa án liên bang New York, New York để đ̣i bồi
thường thiệt hại về thương tật và tài sản cá nhân và môi trường. Đơn kiện
bị ṭa New York bác bỏ trong năm 2000, nhưng ṭa Kháng án yêu cầu xét xử lại
một phần của đơn kiện vào năm 2001. Ṭa án New York đă xử lại và cũng bác
bỏ đơn kiện vào năm 2003. Phía nguyên đơn lại kháng cáo và trong phán quyết
ngày 17 tháng 3 năm 2004, ṭa Kháng án đồng ư với ṭa án New York trong phán
quyết bác bỏ bồi thường thiệt hại do thương tật cá nhân và bác bỏ tính cách
pháp nhân của các tổ chức đại diện cho nạn nhân; nhưng ṭa Kháng án lại cho
phép nạn nhân đ̣i bồi thường thiệt hại tài sản cá nhân và đề nghị ṭa án New
York có toàn quyền cứu xét lại việc bác bỏ yêu cầu tẩy xóa ô nhiễm môi
trường ở tại nhà máy trong trường hợp chánh phủ Ấn can thiệp hoặc yêu cầu
ṭa ra lệnh. Cho đến nay, ṭa New York chưa đưa ra phán quyết sau cùng cho
vụ kiện.
Hỏi :
Ṭa Kháng án trong vụ kiện Union Carbide có phải là ṭa Kháng án cho vụ
khiếu nại chất da cam của Việt Nam không, thưa KS?
Đáp :
Dạ thưa đúng như vậy.
Cám ơn Kỹ sư Nguyễn Minh Quang của Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trụ sở
đặt tại Hoa Kỳ, đă cung cấp thêm một số chi tiết về phán quyết ngày 10 tháng
3 năm 2005 của ṭa án Brooklyn, New York về vụ khiếu nại chất da cam, trong
đó nguyên đơn là Hội nạn nhân chất độc da cam /dioxin của Việt Nam, bị đơn
là một số công ty hoá chất của Hoa Kỳ. ….. kính chào Quư thính giả.