Kháng
án về Phán quyết của ṭa Brooklyn
bác bỏ vụ khiếu nại chất Da cam/Dioxin của Việt Nam
(Appeal of the Brooklyn court’s decision dismissing the complaint filed by the
Vietnamese Association of Victims of Agent Orange and other Vietnamese
nationals)
Ngày 10 tháng 3 năm 2005, Chánh án Jack Weinstein của ṭa án liên bang ở
Brooklyn, New York đă ra một phán quyết bác bỏ tất cả các khiếu nại của Hội Nạn
nhân chất Da cam/Dioxin Việt Nam (HNNCDC/DVN) và một số công dân Việt Nam đ̣i
các công ty hóa chất Hoa Kỳ, đứng đầu là Dow Chemical và Monsanto, bồi thường
thiệt hại v́ thương tật cá nhân và ô nhiễm môi trường mà phía Việt Nam cáo buộc
là do ảnh hưởng của chất da cam, được quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa sử
dụng trong cuộc chiến Việt Nam. Ngày 8 tháng 4, phía Việt Nam nộp thông báo
kháng án (notice of appeal), và ṭa án Brooklyn đă chuyển thông báo kháng án đến
ṭa Kháng án Khu vực 2 (Second Circuit Court of Appeals) vào ngày 20 tháng 4 để
tiến hành thủ tục kháng án. Để t́m hiểu thêm chi tiết về việc kháng án của
HNNCDC/DVN, chúng tôi có trao đổi với Kỹ sư (KS) Nguyễn Minh Quang, một chuyên
viên thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Ông thường xuyên theo dơi những
diễn tiến trên khía cạnh luật pháp và khoa học của vụ kiện này.
Hỏi: Trong thời gian gần đây, các phương tiện truyền thông trong nước có
loan báo tin tức về việc thăm viếng của phái đoàn luật sư Hoa Kỳ đại diện phía
Việt Nam trong vụ khiếu nại chất da cam/dioxin để chuẩn bị cho nội dung văn bản
kháng án. Theo luật sư Jonathan Moore, trưởng phái đoàn, th́ văn bản nầy được
nộp cho ṭa Kháng án Khu vực 2 vào ngày 30 tháng 9 năm 2005. KS có thể cho biết
tại sao phía Việt Nam phải mất hơn 5 tháng mới nộp văn bản kháng án, mặc dù ṭa
đă tiến hành thủ tục kháng án từ ngày 20 tháng 4?
Đáp: Dạ thưa, bất cứ một kháng án về dân sự (civil appeal) thuộc thẩm
quyền của ṭa Kháng án Khu vực 2 đều phải tiến hành theo thủ tục, được gọi là Kế
hoạch Quản trị Kháng án Dân sự (Civil Appeals Management Plan (CAMP)) dựa theo
thủ tục kháng án liên bang số 33 (Federal Rules of Appellate Procedure 33). Thủ
tục nầy được ṭa áp dụng từ ngày 15 tháng 4 năm 1974.
Thủ tục được áp dụng nhằm mục đích phân xử các vụ kháng án một cách công bằng và
nhanh gọn bằng cách tạo một diễn đàn thân thiện để thảo luận việc dàn xếp các
tranh chấp, tạo điều kiện thuận lợi cho hai bên thu xếp các giải pháp một cách
sáng tạo và uyển chuyển, thu ngắn thời gian kháng án bằng một thời biểu nghiêm
ngặt, và giới hạn các đề nghị từ hai phía. Phía Việt Nam phải theo đúng thời
biểu và lịch tŕnh do ṭa ấn định.
Hỏi: KS có thể cho quư thính giả đài Á Châu Tự Do biết thêm chi tiết về
thủ tục của ṭa Kháng án Khu vực 2 nầy không?
Đáp: Sau khi ṭa Kháng án nhận được Thông báo Kháng án từ ṭa dưới, bên
kháng án phải hoàn tất hồ sơ pháp lư tại pḥng Lục sự ṭa Kháng án trong ṿng 10
ngày. Trong khoảng thời gian từ 4 đến 6 tuần sau khi hoàn tất hồ sơ, pḥng Pháp
lư sẽ tống đạt Thông báo Hội nghị Tiền Tranh luận (Pre-Argument Conference
Notice) để thông báo ngày giờ và địa điểm cho Hội nghị Tiền Tranh luận. Cùng
lúc, pḥng Pháp lư cũng thông báo lịch tŕnh nộp văn bản tóm tắt và phụ lục và
ấn định thời gian tranh luận. Lịch tŕnh nầy có thể gia hạn nếu có lư do chánh
đáng, nhưng rất hiếm xảy ra.
Hỏi: Tại sao phải có Hội nghị Tiền Tranh luận trước khi phân xử, thưa KS?
Đáp: Hội nghị Tiền Tranh luận nhằm mục đích gia tăng khả năng dàn xếp
giữa hai bên, thu ngắn thời gian và giảm thiểu chi phí trong việc tiến hành thủ
tục kháng án. Nhân viên pháp lư (staff counsel) của ṭa Kháng án sẽ thảo luận
chung và riêng rẽ với luật sư đại diện hai bên để t́m hiểu vấn đề và lượng định
sự rủi ro của từng bên. Chi tiết của Hội nghị Tiền Tranh luận được giữ kín, kể
cả ṭa Kháng án cũng không được biết. Nếu hai bên đồng ư dàn xếp, luật sư đại
diện hai bên sẽ kư thỏa ước (settlement agreement) rồi nộp đơn băi nại lên ṭa
Kháng án. Thỏa ước nầy sẽ được giữ kín. Nếu không thể dàn xếp, vụ kháng án sẽ
được ṭa phân xử cho đến khi có phán quyết của chánh án.
Hỏi: Như vậy th́ lịch tŕnh cho vụ kháng án của HNNCDC/DVN đă được ấn
định, phải không KS?
Đáp: Dạ thưa, đúng như vậy. Vào ngày 2 tháng 6, luật sư Frank Scardilli
của pḥng Pháp lư đă gởi thông báo và lịch tŕnh cho Hội nghị Tiền Tranh luận
đầu tiên, được dự trù vào tuần lễ 26 tháng 9. Theo lịch tŕnh nầy th́ ṭa
Brooklyn phải chuyển hồ sơ qua ṭa Kháng án trước ngày 8 tháng 7, bên kháng án
phải nộp văn bản tóm tắt trước ngày 15 tháng 7, và bên bị đơn phải nộp văn bản
tóm tắt trước ngày 15 tháng 8. Nhưng đến ngày 20 tháng 6, luật sư Frank
Scardilli đă hủy bỏ thông báo và lịch tŕnh nầy.
Sau khi chánh án Peter Hall chấp thuận yêu cầu thay đổi lịch tŕnh của phía Việt
Nam, một lịch tŕnh mới cho vụ kháng án đă được ấn định vào ngày 8 tháng 8. Theo
đó, ṭa Brooklyn phải chuyển hồ sơ khiếu nại qua ṭa Kháng án trước ngày 30
tháng 9, bên kháng án phải nộp văn bản và phụ lục trước ngày 30 tháng 9, và bên
bị đơn phải nộp văn bản tóm tắt trước ngày 16 tháng 1 năm 2006. Các văn bản tóm
tắt không được quá 28.000 chữ, và văn bản trả lời của bên kháng án không được
quá 14.000 chữ. Hội nghị Tiền Tranh luận được ấn định vào tuần lễ 17 tháng 4 năm
2006.
Hỏi: Như vậy, phía Việt Nam đă nộp văn bản tóm tắt và các phụ lục đúng
thời hạn.
Đáp: Dạ đúng như luật sư Jonathan Moore đă loan báo, phía Việt Nam đă nộp
văn bản tóm tắt và 4 quyển (volumes) phụ lục lên ṭa Kháng án vào ngày 30 tháng
9 vừa qua. Ba ngày trước, tức ngày 27 tháng 9, ṭa Brooklyn cũng đă chuyển toàn
bộ hồ sơ vụ khiếu nại của Việt Nam sang ṭa Kháng án.
Hỏi: Dựa theo những lời tuyên bố của các luật sư đại diện, các văn bản
tóm tắt mà phía Việt Nam nộp lên ṭa Kháng án sẽ tập chú vào 3 vấn đề (1) chất
da cam là thuốc diệt cỏ có chứa chất độc chứ không phải là thuốc diệt cỏ đơn
thuần, (2) việc sử dụng thuốc diệt cỏ có chứa chất độc vào lúc đó là vi phạm
luật pháp quốc tế, và (3) ảnh hưởng của chất da cam/dioxin đối với nạn nhân Việt
Nam. KS có biết tại sao phía Việt Nam chỉ tập chú vào 3 vấn đề nầy?
Đáp: Theo sự suy luận của tôi, phía Việt Nam chỉ tập chú vào 3 vấn đề nầy
trong việc kháng án v́ hai lư do. Trước hết, họ phải tuân theo sự hướng dẫn của
ṭa Kháng án, trong đó có việc giảm bớt các vấn đề tranh luận, loại bỏ các tranh
luận không cần thiết (meritless arguments), tránh các giả thuyết bạo ngược,
tránh biện hộ, và đừng cáo buộc đối phương là kẻ xấu xa. Thứ hai, họ tin rằng họ
đă thu thập thêm được bằng chứng để thuyết phục rằng phán quyết của chánh án
Weinstein bác bỏ đơn khiếu nại ngày 10 tháng 3 năm 2005 là sai.
Hỏi: KS có thể chia sẻ với thính giả của đài những bằng chứng thuyết phục
mà phía Việt Nam đă đưa ra để phản bác phán quyết của chánh án Weinstein không?
Đáp: Theo thủ tục được ghi trong Kế hoạch Quản trị Kháng án Dân sự của
ṭa Kháng án Khu vực 2, tất cả tài liệu và hồ sơ dùng cho Hội nghị Tiền Tranh
luận đều được giữ kín. Ngay cả nhân viên của pḥng Pháp lư cũng không được tiết
lộ các tài liệu và hồ sơ nầy cho bất cứ thành viên của ṭa Kháng án. Bên kháng
án và bên bị cũng không được tiết lộ cho bất ai nếu không được sự chấp thuận của
ṭa. Tài liệu và hồ sơ liên quan đến vụ kháng án chỉ được công bố trong giai
đoạn xét xử.
Hỏi: Như KS có cho biết, thủ tục tiến hành các vụ kháng án ở ṭa Kháng án
Khu vực 2 tạo điều kiện thuận lợi cho hai bên có cơ hội dàn xếp tranh chấp. KS
có nghĩ rằng các công ty hóa chất sẽ t́m cách dàn xếp với phía Việt Nam, như họ
đă từng làm với cựu chiến binh Hoa Kỳ vào năm 1984?
Đáp: Tôi không thấy một lư do nào khiến cho các công ty hóa chất muốn dàn
xếp với phía Việt Nam; bởi v́ nếu muốn dàn xếp, th́ các công ty nầy đă dàn xếp
ngay sau khi phía Việt Nam đâm đơn khiếu nại ở ṭa Brooklyn. Các công ty hóa
chất không muốn dàn xếp v́ t́nh h́nh và vụ kiện hiện nay khác với t́nh h́nh và
vụ kiện năm 1984, khi họ phải đối phó với cựu chiến binh Hoa Kỳ và mất ăn mất
ngủ v́ chưa biết kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất da cam đang tiến hành vào
lúc đó. Nay th́ các công ty hóa chất lại càng không muốn dàn xếp, v́ họ đă thắng
keo đầu và v́ đối thủ của họ đang ở trong cái thế càng ngày càng suy yếu, ngay
cả trong việc khuấy động dư luận ở Hoa Kỳ như luật sư Jonathan Moore đă thú
nhận.
Hỏi: Theo các luật sư Mỹ đại diện cho phía Việt Nam, điều quan trọng nhất
là làm sao bác bỏ lập luận của ṭa Brooklyn. KS có nghĩ rằng họ sẽ thành công
hay không?
Đáp: Tôi không nghĩ rằng các luật sư Mỹ đă có đủ cơ sở để có thể bác bỏ
lập luận của chánh án Weinstein trong phán quyết của ông. Ai cũng biết chất da
cam là thuốc diệt cỏ có chứa dioxin, một hóa chất được xem là chất độc; nhưng
không có một luật pháp quốc tê nào ngăn cấm việc sử dụng “thuốc diệt cỏ có chứa
chất độc” khi chất da cam được sử dụng trong cuộc chiến Việt Nam, kể cả Nghị
định thư Geneve 1925 về việc cấm sử dụng các chất độc và vũ khí sinh học trong
chiến tranh mà các luật sư nầy đă trích dẫn. Các luật sư Mỹ cũng loan báo rằng,
trong 5 ngày làm việc ở Việt Nam, họ đă thu thập được những bằng chứng từ những
công tŕnh nghiên cứu gần đây về ảnh hưởng của dioxin đối với sức khỏe của con
người. Nhưng nếu “bằng chứng là thực tế” do Tiến sĩ Trần Xuân Thu, Tổng thư kư
của HNNCDC/DVN, cung cấp, th́ những bằng chứng nầy không có giá trị thuyết phục
trong ṭa án. Họ biết như vậy, và họ cũng biết các công ty hóa chất sẽ không bao
giờ dàn xếp, nên đă chuẩn bị để kháng án lên Tối cao Pháp viện.