ĐT. 714-541-9859, 714-423-0577                      THONG THIEN HOC

Google

Trang Chính

English

Việt Nam


Hoa Kỳ

Sinh Hoạt Cộng Đồng


Thế Giới
Diễn Đàn

Văn Học

B́nh Luận

Kinh Tế
Câu Chuyện ThờiSự

Chuyện Lạ 4Phương

Khoa Học

Sức Khỏe

Ẩm Thực

Nhân Vật

Người / Ngợm

Vui Cười


Biếm Thi

Linh Tinh

Rao Vặt

Nhạc Hoàng Vân

VNCH Foundation

Ca Dao Việt Nam

Thơ Hà Huyền Chi

Hà Phương Hoài

Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam

OVERSEAS
FREE VIETNAMESE
COMMUNITIES

RADIO
SAIGON-HOUSTON
Orange County's best source for local information

Sunday, June 27, 2004

Wise stand on Vietnam, not a 'destructive' one  

By Khai Q. Nguyen (senior economic consultant, Association for Democracy and Development of Vietnam); Nguyen V. Canh (director of the Center for Vietnam Studies); W.A. Koetsier (adviser, the International Foundation for Development of Vietnam, The Netherlands); Nam V. Pham (regional vice president of Citizens Bank); Au D. The (president of the Association for Democracy and Development of Vietnam, Germany ); Thuan T. Do (computer science faculty, Cal State-Fullerton); Nguyen V. Tran (former sociologist with the Foundation Orphelins Apprentis Auteuil, Paris); Trang Thanh Nguyen (chairman of the Vietnam Human Rights Network); Ngo Van Tuan (president of the International Foundation for Development of Vietnam, The Netherlands)  

Contrary to the assertion that "many Vietnamese-Americans have no wish to continue the fight against communism" ["A destructive obsession," Guest Column, June 6], more and more Vietnamese, both overseas and inside Vietnam , are fed up with the nation's authoritarian regime - the greatest barrier to development and growth. The one-party system is the main cause of pervasive corruption and social injustice. Almost three decades after the war ended, Vietnam remains the poorest country among all Asia-Pacific Economic Cooperation members and one of the "most unfree" economies. Resource misallocation, an outcome of the mixed planned-market system, keeps the economy from growing at its full potential.

Generally speaking, there are two schools of thought among Vietnamese overseas. One small group believes in constructive engagement. It has increased ties with Vietnamese inside Vietnam mostly through humanity projects. This is basically a people-to-people relationship. Several Vietnamese-Americans have encouraged other Vietnamese overseas to help promote the development of the country. Unfortunately, they have failed to point out that the Hanoi government needs to improve social and political conditions in support of such contributions. Some people have argued that economic reforms would automatically lead to political reforms. China 's record since 1978 and many well-known studies prove that this has not been the case.

The second, larger group - a majority of Vietnamese overseas - strongly supports communist-free zones, such as those in Garden Grove and Westminster , as well as the Vietnam Human Rights Act. They believe Hanoi will not accept any reforms unless it is forced to do so. As an example, the communist regime was forced to withdraw troops from Cambodia in the late 1980s after Vietnam had been devastated by food shortages and there was a substantial reduction and eventual cutoff of all aid from the former Soviet Union and Eastern Europe .

More recently, facing economic stagnation due to the Asian financial crisis and a desperate need to gain World Trade Organization membership, the Hanoi regime was forced to sign a bilateral trade agreement with the U.S. , develop the private sector, liberalize the investment environment and its trade regime, and restructure the legal system and state- owned enterprises.

In our opinion, although there is no coordination among these two groups of overseas Vietnamese, their strategies supplement each other.

It is a travesty for the June 6 guest columnist to compare the systematic violations of human rights in Vietnam with those committed by individual U.S. servicemen in Iraq in order to recklessly justify and defend the Vietnamese government's record on this matter. Since the U.S. government became aware of the problem, appropriate measures were taken to end it immediately. Meanwhile, the Vietnamese government keeps hiding the facts about its own record and criticizing international human rights organizations and foreign governments for interfering in Vietnam 's internal affairs. Japan , Vietnam 's biggest aid donor, recently declared that it would link future aid to human rights improvements, progress towards democracy and a market economy. The European Union and the U.S. also urged Vietnam to respect human rights at a gathering last year of donor nations.

Not only does the Hanoi government have the power and the means to unite all Vietnamese and make peace first with its own citizens, it also bears the responsibility to do so. As a first step, all political prisoners and religious leaders should be freed. In addition, the rights of ethnic minorities should be respected.

Such initiatives would provide incentive for overseas Vietnamese to soften their stance against the Hanoi government for the sake of the advancement of the whole society. When Vietnam becomes a free country, the idea of "communist-free zones" will become obsolete.

 

“Vùng cấm cộng sản” là phó sản của cộng sản cuồng tín

(Communist-free zones are a by-product of communist fanaticism)  

Nguyễn Quốc Khải (Hoa-Kỳ), 20.6.2004  

Đồng tác giả: TS Nguyễn Văn Canh (Hoa-Kỳ), TS W.A. Koetsier (Ḥa Lan), Pham Văn Nam (Hoa-Kỳ), TS Âu Dương Thệ (Đức), GS Đỗ Thị Thuấn (Hoa-Kỳ), TS Nguyễn Văn Trần (Pháp), TS Nguyễn Thanh Trang (Hoa-Kỳ), TS Ngô Văn Tuấn (Ḥa Lan) và KS Đoàn Việt-Trung (Úc)

 LGT: Báo the Orange County Register (OCR) vào ngày 6.6.2004 đă đăng một bài b́nh luận mang tựa đề “A destructive obsession - Vietnamese-Americans are held hostage by fanatic anti-communist faction.” (Một ám ảnh tai hại – Người Mỹ gốc Việt bị các phần tử chống cộng cực đoan bắt làm con tin.) Các tác giả của bài báo này gồm có Viet Thanh Nguyen - USC,  Hien Duc Do - San Jose state university; Hung Thai - UC Santa Barbara; Jeffrey Brody - Cal State-Fullerton; Van Bich Thi Tran -  Social Science Research Council tại New York; Nguyen-vo Thu-huong - UCLA; Yen Le Espiritu - UC San Diego; Phuong Nguyen - USC; và Dan Duffy - University of North Carolina.

 Bài b́nh luận chỉ trích “vùng cấm cộng sản” và cho rằng đă đến lúc phải lên tiếng một cách mạnh mẽ chống lại thái độ chống cộng theo kiểu McCarthyist của một số người Mỹ gốc Việt.  Bài báo khẳng định rằng “nhiều người Mỹ gốc Việt không c̣n muốn chống cộng sản nữa nhưng rất ngần ngại không muốn nói ra v́ sợ phản ứng hung bạo của những chống cộng cực đoan. Bài b́nh luận kêu gọi người Việt hải ngoại hăy chú tâm đến nhiều vấn đề khác của Việt-Nam liên quan đến lănh vực kinh tế, xă hội và y tế thay v́ chỉ biết lên án chế độ cộng sản. Bài báo này cũng lên tiếng bào chữa những vi phạm nhân quyền hiện nay ở Việt-Nam bằng cách nêu ra những “tội ác” của Mỹ trong chiến tranh Việt-Nam và những vi phạm nhân quyền của binh sĩ Hoa-Kỳ vừa xẩy tại Iraq. Tuy nhiên các tác giả của bài b́nh luận này đă minh định rằng nói như thế không có nghĩa là họ ủng hộ chính phủ Việt-Nam hoặc tất cả những chính sách của chính phủ này.

 Bản tiếng Việt sau đây và bài tóm tắt bằng tiếng Anh nhan đề “Communist-free zones are a by-product of communist fanaticism” được đăng trên báo OCR ngày 27.6.2004 trả lời bài b́nh luận của nhóm giáo sư đại học Hoa-Kỳ kể trên. 

 Ж Ж Ж  

Trái với nhận định cho rằng “nhiều người Mỹ gốc Việt không muốn tiếp tục chống cộng sản,” trên thực tế càng ngày càng có nhiều người Việt-Nam ở hải ngoại và trong nước, kể cả những đảng viên cộng sản cấp tiến và viên chức nhà nước, chống lại chế độ độc tài v́ chính nó là một trở ngại lớn nhất cho sự phát triển và tăng trưởng. Hệ thống độc đảng kiểm soát chặt chẽ các phương tiện truyền thông, mạng lưới toàn cầu (Internet), công an, quân đội, hệ thống pháp lư, và ngành lập pháp. Do đó hệ thống độc đảng chính là nguyên nhân gây ra nạn tham nhũng sâu rộng và bất công xă hội nghiêm trọng.

 Mặc dầu vào năm 2003, gần ba thập niên sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt-Nam đă được Liên Hiệp Quốc bỏ ra khỏi danh sách những nước kém mở mang nhất thế giới, Việt-Nam vẫn là một quốc gia nghèo nhất trong khối Hợp Tác Kinh Tế Á Châu và Thái B́nh Dương (APEC) và có một nền kinh tế hầu hết thiếu tự do.  Việc phân phối tài nguyên thiếu hiệu quả vẫn tiếp tục v́ Việt-Nam có một chế độ kinh tề hỗn hợp vừa chỉ huy vừa thị trường. Điều này làm cho kinh tế không thể phát triển hết tiềm năng.  

Những tổ chức phi chính phủ của người Việt hải ngoại có những mục tiêu và chương tŕnh hoạt động khác nhau.  Một số tổ chức giúp Việt-Nam bành trướng giao thương với thế giới. Những tổ chức khác chuyên về công tác xă hội. Tuy nhiên những người tranh đấu cho nhân quyền, tự do tôn giáo và chính trị đa nguyên bị bắt vào tù hoặc bị cấm không cho vào Việt-Nam. Đối với họ, Việt-Nam trở thành một khu cấm địa: “No Human Rights Advocates Zone,” (Vùng cấm những người bênh vực nhân quyền). Chính v́ vậy mà nhiều người Việt ở hải ngoại rất ngần ngại không dám công khai chống đối CSVN v́ sợ không được về thăm thân nhân ở Việt-Nam.

 Nói một cách tổng quát, về tư tưởng khối người Việt ở nước ngoài có hai hệ phái. Một nhóm nhỏ tin vào sự giao tiếp xây dựng (constructive engagement). Nhóm này chủ trương giúp đồng bào ở trong nước qua những dự án nhân đạo. Đây là sự liên hệ giữa dân với dân.  Một số người Mỹ gốc Việt khuyến khích những người đồng hương giúp phát triển Việt-Nam. Tuy nhiên chúng tôi thất vọng là họ đă không lên tiếng đ̣i hỏi chính quyền Hà-Nội cần phải cải thiện t́nh trạng xă hội và chính trị để khuyến khích những đóng góp của những người Việt hải ngoại.

 Chính phủ địa phương cũng như trung ương thường không giúp những người Việt về nước thực hiện công tác xă hội. Trái lại các viên chức địa phương lại thường đ̣i hỏi những đoàn công tác một số đặc ân. Chính phủ đă không tham gia tích cực vào những dự án nhân đạo của tư nhân này, một phần v́ nghi ngại ảnh hưởng của người Việt ở nước ngoài đối với đồng bào trong nước.  

Trong hai thập niên vừa qua, một số ít những nhà trí thức đă viếng thăm Việt-Nam để thực hiện những chương tŕnh nghiên cứu. Họ đă khéo léo tránh né những vấn đề dễ gây tranh căi để làm vui ḷng nhà nước.  Họ sợ không được phép trở lại Việt-Nam nếu họ gây ra chuyện lôi thôi. Điều này làm cho họ tự giới hạn phạm vi hoạt động, tự làm công việc kiểm duyệt và như vậy làm giảm giá trị của công tŕnh nghiên cứu và sự chính trực trong nghề nghiệp của họ. Một số người cho rằng cải tổ kinh tế sẽ tự động đưa đến cải tổ chính trị. Kinh nghiệm ở Trung Quốc từ năm 1978 và nhiều cuộc khảo cứu nổi tiếng đă cho thấy sự thật không phải như vậy.  

Đa số những người Việt ở hải ngoại ủng hộ mạnh mẽ “vùng cấm cộng-sản” cũng như Dự Luật Nhân Quyền Việt-Nam bởi v́ họ tin rằng chính quyền Hà-Nội không chấp nhận bất cứ cải tổ nào nếu không bi bắt buộc phải thay đổi.  Lấy một thí dụ, nhà nước cộng sản đă bị bắt buộc thực hiện chương tŕnh “Đổi Mới” và rút quân khỏi Cao Miên vào cuối thập niên 1980 chỉ sau khi Việt-Nam đă bị thiếu thực phẩm trầm trọng và viện trợ của cựu Liên Bang Sô Viết và các nước Đông Âu bị cắt giảm mau chóng và sau cùng chấm dứt hoàn toàn.  

Gần đây hơn, để đối phó với nền kinh tế tŕ trệ v́ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu và rất cần gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, chế độ Hà-Nội đă phải đồng ư kư Hiệp Định Thương Mại Mỹ-Việt, phát triển khu vực tư doanh, cải tổ môi trường đầu tư và chế độ ngoại thương, và sửa đổi cơ cấu hệ thống ngân hàng và xí nghiệp quốc doanh.  

Theo quan niệm của chúng tôi, không có sự mâu thuẫn giữa hai nhóm người Việt kể trên. Mặc dầu không có một sự phối hợp nào giữa các nhóm, hai chiến thuật của họ bổ túc cho nhau. Chiến thuật ôn ḥa tạo dựng một h́nh ảnh nhân đạo của người Việt hải ngoại và chuẩn bị hạ tầng cơ sở cho một xă hội dân sự ở Việt-Nam. Chiến thuật cứng rắn tiêu biểu thích hợp cho ước vọng đ̣i tự do và dân chủ.  

Thật là điều ngớ ngẩn khi đem so sánh những sự vi phạm nhân quyền trắng trợn và có hệ thống tại Việt-Nam với những vi phạm tại Iraq của một số quân nhân Hoa-Kỳ để bênh vực chính sách của Hà-Nội. Ngay khi biết được những hành động vô ư thức của các quân nhân này chính phủ Hoa-Kỳ đă cho thi hành ngay những biện pháp thích hợp để chấm dứt ngay những vi phạm. Trong khi đó chính phủ Việt-Nam tiếp tục che đậy những sự thật và chỉ trích những cơ quan nhân quyền quốc tế và những chính phủ ngoại quốc là đă can thiệp vào vấn đề nội bộ của Việt-Nam. CSVN xâm lăng miền Nam nhằm mục tiêu bành trướng đế quốc cộng sản quốc tế. Đây là một tội ác lớn lao không thể chối căi được đối với dân tộc Việt-Nam. Trong cuộc chiến tranh này, Hoa-Kỳ và đồng minh chỉ đóng vai tṛ giúp miền Nam ngăn chặn làn sóng đỏ.   

Nhật Bản, quốc gia tài trợ nhiều nhất cho Việt-Nam, vào đầu tháng 6 vừa qua đă tuyên bố rằng viện trợ của Nhật Bản cho Việt-Nam trong tương lai sẽ phụ thuộc vào sự cải thiện t́nh trạng nhân quyền và tiến bộ về tiến tŕnh dân chủ hóa và kinh tế thị trường. Liên Hiệp Âu Châu và Hoa-Kỳ cũng kêu gọi Việt-Nam tôn trọng nhân quyền tại phiên họp những quốc gia và tổ chức tài trợ quốc tế vào tháng 12 năm vừa qua tại Hà-Nội.  

Nhiều người Việt-Nam ở hải ngoại vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng tai hại của những điều kiện vô nhân đạo tại các trại tù “cải tạo”, những hậu quả ác nghiệt tại những “vùng kinh tế mới,” và sự biệt tích của những người thân thuộc trên biển cả trên đường đi t́m tự do. V́ vậy họ coi cộng sản là kẻ thù. Nếu chúng ta không hiểu được điều này chúng ta là những kẻ vô tâm.  Trên thực tế vẫn có những viên chức cao cấp cộng sản Việt-Nam cứng rắn thuộc thành phần bảo thủ c̣n tin tưởng một cách mù quáng vào chủ nghĩa Maxit-Leninit. Đối với họ, kinh tế thị trường chỉ là một dụng cụ cho mục tiêu xă hội hoá.  

Trong khi Việt-Nam được hưởng đặc quyền xuất cảng mọi loại ấn phẩm, băng h́nh và âm thanh, phim ảnh, v.v.  đến Hoa-Kỳ và các quốc gia khác, chính phủ Việt-Nam giữ độc quyền nhập cảng những sản phẩm tương tự.  Trên thực tế, chính quyền cộng sản đă cấm nhập cảng những hàng hoá này, đặc biệt loại tiếng Việt. Những nghệ sĩ Việt-Nam có thể đến Mỹ và các nước tŕnh diễn. Tuy nhiên những đồng nghiệp của họ ở ngoại quốc không được tŕnh diễn tại Việt-Nam nếu không có giấy phép của Hà-Nội. Phóng viên Việt-Nam được gửi những bài tường thuật từ hải ngoại về nước, trong khi đó những đồng nghiệp Việt-Nam của họ sống ở nước ngoài, kể cả nhân viên của đài RFA do Quốc Hội Hoa-Kỳ uỷ nhiệm, không được phép đến Việt-Nam làm việc.  Một số kư giả ngoại quốc trong quá khứ viết bài công kích chính phủ hoặc đảng CSVN bị cấm không cho phép trở lại.  

Sự cuồng tín của cộng sản làm cho thái độ chống cộng của những nạn nhân cộng sản trở nên cực đoan. “Khu vực cấm Cộng-Sản” đơn giản là một biện pháp tự vệ. Chính phủ Hà-Nội không những có quyền lực và phương tiện, họ c̣n có trách nhiệm đoàn kết tất cả những người Việt-Nam và hoà giải trước hết với chính những người dân của họ ở trong nước.  Bước đầu tiên là trả tự do cho tất cả những tù nhân chính trị và những nhà lănh đạo tôn giáo. Ngoài ra quyền của đồng bào thiểu số phải được tôn trọng. Những sáng kiến như vậy sẽ khuyến khích những người Việt ở hải ngoại giảm bớt lập trường chống đối chính quyền Hà-Nội, làm lợi cho mục đích thăng tiến toàn thể xă hội. Ư kiến “khu vực cấm cộng sản” sẽ trở thành lỗi thời khi Việt-Nam trở thành một nước tự do, không c̣n là vùng cấm địa đối với những người bênh vực nhân quyền.

 

Xin vui ḷng liên lạc với  butvang@yahoo.com  về mọi chi tiết liên quan tới Ánh Dương
Copyright © 2004 Anh Duong Online
Last modified: 08/10/06