| |
C̣n lại
ǵ
Phạm Thị Hoài
Như mây đă sẵn ở trên trời, lúc tôi sinh ra chiến tranh cũng đă sẵn. Tôi
không phải làm quen với nó, nó phải làm quen với sự xuất hiện của tôi. Mười lăm
năm, ngày ngày ngửa mặt ngắm chiến tranh chầm chậm trôi, tôi không là một đứa bé
bất hạnh. Những đám mây ấy phần lớn đều mầu hồng. Thỉnh thoảng có đám mây giông,
nhưng chỉ để mầu hồng sau đó càng rực rỡ. Ngay cả khi chiến tranh ở nơi sơ tán
là chùm bom lao vùn vụt, nhanh hơn mọi vật biết chuyển động mà tôi từng biết cho
đến lúc ấy; ngay cả khi chiến tranh là những cánh tay và khúc chân rơi rải rác
mà lúc đi nhặt tôi cố đoán chúng từng thuộc về bạn nào, lớp nào..., th́ với tôi,
sinh ra và lớn lên tại miền Bắc Việt Nam những năm sáu mươi và bảy mươi, chiến
tranh tự nhiên thuộc về cuộc sống, là phần tươi hồng của cuộc sống. Gắn với cuộc
chiến ấy, cái chết cũng lấp lánh, cũng nháy mắt hẹn ngày mai gặp lại. Nếu không
có thay đổi ǵ đặc biệt, lúc tôi ra khỏi cuộc đời th́ chiến tranh hẳn vẫn b́nh
thản trôi tiếp, như măi măi là thế, như mây trên trời.
Mùa xuân năm 1975, từ giữa tháng Ba với Buôn Ma Thuột, mỗi buổi sáng trước giờ
khai giảng một học sinh tiên tiến được vinh dự cầm cây cờ đỏ sao vàng bé xíu lên
cắm trên tấm bản đồ đất nước, đúng ở điểm vừa được giải phóng, vừa „hoàn toàn
thuộc về ta“. Huế 26.3, Đà Nẵng 29.3, Phan Rang 16.4, Xuân Lộc 21.4... Mầu đỏ
san sát, tiến ào ạt xuống phiá Nam tới mức tôi sợ đến lượt ḿnh th́ không c̣n
đất cắm. Ngày 27.4, cầm lá cờ làm bằng giấy mầu và tăm tre tiến vào Bà Rịa, tôi
cũng khóc như bao người, nhưng không phải nước mắt của chiến thắng. Tôi có biết
ǵ đâu về cái giá của chiến thắng. Đó là nước mắt của chia tay. Chiến tranh đă
làm quen với tôi, nay tôi phải làm quen với sự ra đi của nó. Ai sẽ thay nó, nháy
mắt chào? C̣n lại ǵ, sau chiến tranh?
Một thập kỉ hậu chiến với chế độ phân phối thời chiến, nếp sống hà khắc thời
chiến, tư duy sắt đá thời chiến, xung đột quân sự ở biên giới phiá Tây với
Cambodia, xung đột quân sự ở biên giới phía bắc với Trung Quốc và sự tiếp diễn
của chiến tranh lạnh đă biến nền độc lập dân tộc vừa giành được thành sự cô lập
quốc tế, biến đất nước vừa thống nhất thành một lănh thổ toàn vẹn của nghèo đói,
lạc hậu và đàn áp từ Bắc chí Nam. Sống ở Hà Nội đầu những năm tám mươi, tôi đă
h́nh dung ḿnh sẽ sinh một đứa con, và nó sẽ mở đầu lí lịch bằng câu: Như mây đă
sẵn ở trên trời, khi tôi sinh ra hậu chiến cũng đă sẵn. Ngày ngày cúi mặt cho
những đám mây hậu chiến mầu ch́ chầm chậm trôi... Nhưng giữa thập niên tám mươi,
chính sách Đổi mới bắt đầu. Những người chiến thắng phải mất mười năm để nhận ra
rằng vinh quang không phải là thứ nhai được thay cơm. Năm 1994, lệnh cấm vận
thương mại với Việt Nam được băi bỏ, tiến tŕnh b́nh thường hoá quan hệ Việt-Mỹ
bắt đầu. Nước Mỹ mất hai mươi năm để kí giao kèo hoà thuận với quá khứ của chính
ḿnh. Với Mỹ, chiến tranh Việt Nam đă hoàn toàn thuộc về lịch sử. Nó chỉ c̣n
được dùng bốn năm một lần làm phép thử không mấy hiệu nghiệm cho ḷng ái quốc và
tư cách đạo đức của các ứng viên tổng thống, hoặc để đối chiếu với những cuộc
chiến khác mà Mỹ đă và có thể sẽ bận bịu tiến hành. Ba mươi năm sau, người ta
nói ngắn gọn: Lịch sử đă lên sẹo, hăy cho nó được nghỉ yên, không có lí do ǵ để
khai quật những chứng tích chẳng c̣n liên quan đến hiện tại. Hăy nh́n về tương
lai.
Tôi thuộc về số - có lẽ là thiểu số - những người không dễ dàng tuyên bố như
thế. Ba mươi năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi cắm
vào Bà Rịa trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu dân
thường, 1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa,
hàng chục triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít chất độc
hoá học và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đă thuộc về lịch sử, tôi
không khai quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng nhất của cuộc chiến
tranh đạt những kỉ lục không thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn c̣n
nguyên, đơn giản v́ chúng chưa bao giờ được đưa vào danh sách các hậu quả cần
khắc phục.
Kết cục của chiến tranh Việt Nam là sự toàn thắng của những người cộng sản. Cuộc
chiến ấy là nguồn sữa, trường học và ḥn đá thử của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam,
là lời biện minh của lịch sử cho quyền lănh đạo tất yếu của Đảng Cộng sản, là
bằng chứng của sự hoàn thành một Thiên mệnh. Chủ nghĩa cộng sản đă t́m được con
đường đặc biệt của nó tại Việt Nam để lên ngôi: thông qua một Thiên mệnh đặc
biệt đẫm máu. Song chiến tranh th́ đă qua, Thiên mệnh vẫn c̣n lại. Từ ấy đến
nay, tính chính đáng của ba mươi năm trước được ôn lại ráo riết, được khẳng định
bền bỉ, được chân lí hoá và thần thánh hoá; những anh hùng thời chiến tiếp tục
giành độc quyền chỉ huy thời b́nh; chế độ chỉ đạo quân sự trong chiến tranh
thăng hoa trọn vẹn vào chế độ lănh đạo toàn trị trong hoà b́nh. Hơn ai hết, Đảng
Cộng sản Việt Nam hiểu rơ rằng mọi thứ đều có thể đối mới, nhưng huyền thoại về
Thiên mệnh ấy không được phép suy suyển, bởi mọi lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản
hoặc đă bị bản thân những người cộng sản đang cầm quyền phản bội mà không một
lời tự xin lỗi, ít nhất trước chính ḿnh, hoặc đă hoàn toàn phá sản. [1] Chẳng
lẽ có thể xếp cuộc chiến tranh ấy vào hồ sơ của một giai đoạn lịch sử, nhưng
giấy ủy nhiệm của giai đoạn lịch sử ấy th́ giữ vô thời hạn cho riêng ḿnh? Tại
Việt Nam ba mươi năm sau chiến tranh, những giá trị nền tảng của văn hoá Việt
truyền thống đều đă mất hiệu lực, những giá trị cao cả nhất của lí tưởng cộng
sản đă trở thành tṛ hề, những giá trị căn bản nhất của mô h́nh dân chủ xuất
phát từ phương Tây chưa t́m được chỗ đứng, và những giá trị tích cực nhất của
một thế giới toàn cầu hiện đại chưa thành h́nh. Nạn tham nhũng, t́nh trạng phạm
pháp, sự băng hoại đạo đức và nhân cách, sự sụp đổ của hệ thống y tế và giáo
dục, đà tăng tiến chóng mặt của bất b́nh đẳng xă hội, quả bom nổ chậm của xung
đột sắc tộc và tôn giáo, nguy cơ hỗn loạn từ một nông thôn khổng lồ hoàn toàn bị
bỏ rơi, sự tàn phá và ô nhiễm môi trường, sự nghèo nàn thảm hại của đời sống
tinh thần, sự tê liệt của tầng lớp trí thức, sự vô hiệu hoá khả năng liên kết
của các tầng lớp xă hội, sự khủng hoảng niềm tin và thiếu vắng hi vọng..., trước
tất cả những vấn nạn đó của thời hậu cộng sản, chế độ toàn trị tại Việt Nam đă
có đủ thời gian và cơ hội để chứng minh xuất sắc rằng ḿnh không c̣n thẩm quyền,
và nhất là không c̣n độc quyền đưa ra giải pháp. Chẳng lẽ có thể tiễn cuộc chiến
tranh Việt Nam vào bảo tàng, nhưng đi theo chế độ toàn trị Việt Nam vào tương
lai? Chẳng lẽ cái giá xứng đáng cho hoà b́nh là một nền độc tài?
Kết cục của chiến tranh Việt Nam không phải là sự sụp đổ của Hợp chúng quốc Hoa
Ḱ, mà là sự tiêu vong của Việt Nam Cộng Hoà, quốc gia từng hiện diện trên một
nửa lănh thổ Việt Nam không kém hợp pháp hơn người anh em của nó ở phiá Bắc, và
- bất chấp tất cả sự thối nát của những nội các cụ thể, sự bất lực của các nhân
vật lănh đạo cụ thể - là nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thiết lập trên
những nguyên tắc căn bản của nền dân chủ hiện đại. [2] Tôi sẽ không bao giờ gột
nổi thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong bức h́nh nổi tiếng của Eddie Adams ra
khỏi trí nhớ, và những lời nói sau của người phóng viên nhiếp ảnh ấy chỉ tô đậm
đường nét bi kịch quái đản mà Orina Fallaci đă phác hoạ sau buổi gặp giữa bà và
ông Giám đốc Nha Cảnh sát Sài G̣n, người yêu hoa hồng, Brahms, Chopin, khinh bỉ
nghiệp vơ biền, ví một nhà sư tự thiêu trong phong trào Phật giáo phản kháng với
một con chó say ma tuư và coi Việt Cộng là một lũ trẻ hư đáng bị ăn đ̣n [3] .
Nhưng nhà tù, trại cải tạo, tước đoạt tài sản, ḱ thị trẻ em lai, phân biệt đối
xử và thanh trừng trí thức, huỷ diệt và cấm đoán các sản phẩm văn hoá văn nghệ,
xoá trắng hàng loạt cuộc đời và sự nghiệp... ở quy mô bao trùm toàn xă hội miền
Nam ngay sau ngày giải phóng nhất định không phải là những hành vi xứng đáng với
tư thế của kẻ chiến thắng trong chính nghĩa, không phải là bằng chứng cho tính
ưu việt của chế độ mới so với chế độ mà nó vừa kết liễu. Ba mươi năm sau, Việt
Nam vẫn chưa một lần chính thức ghi nhận cuộc di tản đau thương của gần một
triệu người Việt miền Nam. Như thể họ không thuộc về dân tộc Việt và khối đại
đoàn kết dân tộc đă khai trừ họ. Như thể nước Việt Nam là của những người Việt
này và không của những người Việt khác. Như thể lúa đă mọc lại trên chiến hào ra
sao th́ t́nh dân tộc ắt bắt rễ trên miệng hố sâu của chia rẽ và hận thù như thế,
chẳng cần ai khoả lấp. Người ta dễ dàng nói ngắn gọn: Vết thương đă ăn da non,
đừng ngoáy sâu vào nữa. Nhưng đó không là vết thương. Đó là khối u mà thời gian
không hề là phép chữa nhiệm mầu. Ngược lại. Sự chia cắt dân tộc là điểm xuất
phát của cuộc chiến, chẳng lẽ điều c̣n lại ba mươi năm sau chiến tranh vẫn là
chia cắt? Làm sao có thể hoà giải, nếu không sám hối và tha thứ? Làm sao có thể
khép lại quá khứ, khi người Việt và người Mỹ đă có thể ch́a tay cho nhau, nhưng
người Việt tiếp tục không ch́a tay cho người Việt?
Ba mươi năm nay, với mỗi ngày một ḷng biết ơn không thuyên giảm tôi làm quen
với hoà b́nh. Nhưng những cái bóng đen nhất mà chiến tranh Việt Nam hắt lại vẫn
c̣n đó. Vẫn chầm chậm trôi, như măi măi là thế, như mây trên trời. Nếu không có
thay đổi ǵ đặc biệt.
(Phần chính của bài viết này đă đăng trong bản dịch tiếng Anh ngày 29.4.2005:
http://www.opendemocracy.net/themes/article-1-2464.jsp)
© 2005 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Tôi muốn dành chú thích này để bày tỏ ḷng tôn trọng với những người cộng sản
c̣n giữ nguyên ước mơ về một thế giới đại đồng, ḷng kính trọng với những người
cộng sản đă ngă xuống cho ước mơ ấy, ḷng cảm phục và hi vọng với những người
cộng sản phản tỉnh và li khai đường lối toàn trị của chủ nghĩa xă hội hiện thực.
[2]Nhận định này không đồng nghĩa với việc chia sẻ hay ủng hộ các nỗ lực phục
hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở không ít cộng đồng người Việt tị nạn.
Lịch sử không thể làm lại, mặc dù có thể viết lại.
| |


|