Trong suốt chiều dài của cuộc chiến Việt Nam, nhiều công dân Việt Nam Cộng Hoà
(Nam Việt Nam) đă bị chính quyền của nhà nước này bắt giam như Huỳnh Tấn Mẫm,
Dương Văn Đầy, Lê Văn Nuôi, Nguyễn Công Khế là thành phần sinh viên học sinh.
Một số nhân vật khác, không bị giam cầm, như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh Văn Trọng, Vũ
Ngọc Nhạ là những người làm việc trong nhiều cơ quan và tổ chức công quyền tại
miền Nam. Sau ngày 30 tháng Tư họ đều lộ diện rơ là những cán bộ được cộng sản
cài đặt.
Cũng trong thời chiến tranh, tuy có những người Việt làm việc cho Cơ Quan T́nh
Báo Trung Ương Hoa Kỳ, tức CIA, nhưng cho đến nay chưa một ai tiết lộ tung
tích. Trừ trường hợp của Yung Krall, tức Đặng Mỹ Dung, một phụ nữ Việt muốn
cứu gia đ́nh ra khỏi Việt Nam trong những ngày trước khi chính quyền Sài G̣n
sụp đổ và trở thành điệp viên cho CIA. Nhưng bà không hoạt động trong thời
chiến tranh mà chỉ làm điệp viên sau ngày 30 tháng Tư 1975 với công tác xâm
nhập những tổ chức “Việt kiều yêu nước” tại Hoa Kỳ và Pháp Quốc.
Câu chuyện và cuộc đời của nữ điệp viên CIA Đặng Mỹ Dung được bà kể lại trong
412 trang sách của cuốn tự truyện A Thousand Tears Falling (Ngàn giọt lệ rơi)
[1].
Như nhiều gia đ́nh Việt Nam đă sống qua thập kỷ 1950, gia đ́nh của Mỹ Dung bị
chia cắt bởi những luồng ư thức hệ du nhập vào mảnh đất quê hương trong những
năm trước và sau dấu mốc thời gian của Hiệp định Genève 1954.
Ḍng tộc của Mỹ Dung thuộc thành phần nông dân - tiểu tư sản ở miền đồng bằng
Cửu Long, nhiều người thân tin vào “chủ nghĩa xă hội” nhưng cũng có người
không tin và thích lối sống Tây phương, có người tin vào “cách mạng” và cũng
có người coi Hồ Chí Minh là “đồ chó đẻ”. Đặng Mỹ Dung sinh năm 1946, thuở nhỏ
rất yêu lá cờ đỏ sao vàng, thích hát quốc ca, và thường hay có dịp nghe cha
mẹ, d́ dượng tranh luận về ư thức hệ mà với đầu óc non nớt, cô bé miệt vườn
không hiểu ǵ, chỉ được người lớn nhắn nhủ rằng: “Con c̣n nhỏ chưa hiểu được”.
Cha của Mỹ Dung, ông Đặng Văn Quang, hoạt động cách mạng nên nơi ông và gia
đ́nh sinh sống đă là điểm gặp gỡ, hội họp của những cán bộ như Lê Đức Thọ và
Lê Đức Mai. Lê Đức Thọ sau này là trưởng đoàn thương thuyết tại Ḥa đàm Ba Lê;
c̣n Lê Đức Mai, tức Mai Chí Thọ, là bộ trưởng công an của Hà Nội.
Tung tích của gia đ́nh Mỹ Dung ít ai biết được v́ trước khi tập kết và đem
theo người con trai cả là Đặng Văn Khôi, ông Quang đă cho điều chỉnh giấy khai
sinh của những người con thành ra những đứa trẻ mang họ Trần của mẹ, không cha
và cho hủy đi tất cả những h́nh ảnh gia đ́nh có mặt ông trong đó. Cô bé Đặng
Mỹ Dung nay thành Trần Ngọc Dung.
Sau khi đất nước chia đôi, ḍng tộc của Mỹ Dung có tất cả tám người tập kết.
Đặng Văn Quang rời bỏ vùng đồng bằng Cửu Long, nói là tập kết ra Bắc nhưng
thực sự từ năm 1954 đến 1960 ông được bố trí hoạt động ở miền Nam, trong những
“vùng giải phóng”. Khi ông đi rồi, cán bộ sử dụng kỹ thuật tuyên truyền để gia
đ́nh ông phải chú ư nghe đài Hà Nội, một cách tuyên truyền của cách mạng được
bà Đặng Mỹ Dung kể lại trong cuốn tự truyện.
Dân làng, là cán bộ hay có cảm t́nh với cánh mạng, thường nói với mẹ của Mỹ
Dung rằng họ đă nghe được chính giọng nói và cả tiếng đàn vĩ cầm của Đặng Văn
Quang và người con trai cả trên làn sóng đài phát thanh Hà Nội, khiến bà mẹ
phải t́m cách nghe đài mỗi đêm, dù việc này thời đó bị chính quyền miền Nam
cấm, bị cảnh sát theo dơi, nếu bắt được có thể phải ở tù. Nhưng nhiều tối nghe
hoài cũng không thấy giọng của người chồng và đứa con đầu ḷng mà bà hằng
thương yêu.
Sau này gia đ́nh biết được Đặng Văn Quang chẳng bao giờ lên tiếng trên đài Hà
Nội trong những năm từ 1954 đến 1960, là thời gian ông chưa ra Bắc. Cán bộ địa
phương tung các loại thông tin như thế để nhiều người t́m cách nghe những lời
tuyên truyền của đài Hà Nội hơn.
Sau khi người cha ra đi, mẹ của Mỹ Dung đă phải di chuyển gia đ́nh nhiều lần,
từ Vĩnh Long, Cần Thơ, lên Sài G̣n rồi về lại miệt vườn để tránh bị cơ quan an
ninh để ư về tung tích. Nhưng trong nhiều trường hợp, gốc gác của gia đ́nh đă
gây ra khó khăn cho những người con.
Ngoài Bắc, cha của Mỹ Dung đổi tên thành Đặng Quang Minh, làm việc trong ngành
ngoại giao và năm 1968 làm đại diện Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam tại
Liên Xô. Người anh cả là Đặng Văn Khôi được đi Liên Xô học quân sự và trở
thành chuyên viên tên lửa trong Quân đội Nhân dân. Trong Nam, một người chị
của Mỹ Dung là Cương lập gia đ́nh với một người lính Mỹ, qua Hoa Kỳ sinh sống.
Người chị song sinh với Cương là Kim cũng qua Hoa Kỳ. Em trai Đặng Hải Vân gia
nhập binh chủng không quân, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, là một phi công trực
thăng xuất sắc, được gửi qua Mỹ tu nghiệp và bị tử thương trong một tai nạn
khi đang thụ huấn. Đặng Quang Minh tin là cái chết của người con trai thứ do
bàn tay của người Mỹ v́ đă biết tung tích gia đ́nh của ông.
Mỹ Dung lớn lên, ra đời và làm việc trong các cơ quan tâm lư chiến quân đội
miền Nam (G-5) ở Cần Thơ rồi lên Sài G̣n làm thư kư kế toán tại câu lạc bộ sĩ
quan độc thân của quân đội Hoa Kỳ (Bachelor Officers’ Quarter). Duyên số đưa
đẩy, Mỹ Dung gặp trung úy phi công của Hải quân Hoa Kỳ là John Krall. Hai
người yêu nhau, Mỹ Dung được John đưa về Mỹ và chính thức kết hôn vào năm 1968
ở thành phố biển Monterey, California.
Không mấy ai biết được cha của Mỹ Dung đă làm đại sứ tại nước cộng sản đứng
đầu thế giới. Cho đến khi biến cố 30-4 xảy ra. Được cha mật báo trước, Mỹ Dung
muốn đưa mẹ và hai người em gái c̣n lại ra khỏi Việt Nam trong những ngày cuối
của cuộc chiến tranh nên đă cho giới chức Hoa Kỳ biết tung tích về cha ḿnh,
rồi tŕnh bày thẳng với đô đốc tư lệnh Hạm đội Thái B́nh Dương về việc muốn di
tản mẹ và hai em.
Khi gặp sĩ quan tư lệnh phó, Mỹ Dung hứa nếu Hoa Kỳ giúp di tản gia đ́nh th́
bà sẽ làm mọi chuyện để cộng tác với chính phủ Hoa Kỳ sau này. Chồng của Mỹ
Dung vào Việt Nam công tác trong những ngày cuối của cuộc chiến. Trung tuần
tháng Tư 1975, mẹ và em của Mỹ Dung rời Việt Nam. Cũng trong thời gian này, vợ
chồng họ Krall đă giúp di tản được nhiều trẻ em mồ côi ra khỏi Việt Nam.
Làm ǵ để cộng tác với chính phủ Hoa Kỳ sau khi mẹ và gia đ́nh đă rời Việt
Nam? Đặng Mỹ Dung đă trở thành một điệp viên của CIA.
Những gặp gỡ, tiếp xúc sau này với cha, đại sứ Đặng Quang Minh, hay với những
nhân viên của sứ quán Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc ở New York hay Paris, với
những tổ chức “Việt kiều yêu nước” ở thủ đô Washington, San Francisco hay
những hội “Liên hiệp Việt kiều” ở Pháp là nằm trong kế hoạch của CIA nhằm phá
vỡ mạng lưới t́nh báo của Hà Nội trên đất Mỹ.
Mỹ Dung đă xâm nhập vào nhiều tổ chức của Hà Nội, gặp gỡ nhiều cán bộ, từ Đinh
Bá Thi, đại sứ Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc; đại sứ Vơ Văn Sung, Phan Thanh Nam,
đại diện Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam ở Paris; đến những người hoạt
động ngoại vi cho Hà Nội như Trương Đ́nh Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Thoa, Nguyễn
Văn Lũy ở Mỹ; Huỳnh Trung Đồng, Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp.
Nhiều lần vào hang cọp, hồi hộp như truyện trinh thám của Z-28, của John le
Carré, như phim James Bond 007, nhưng đó là những chuyến đột kích có thật mà
Yung Krall đă ghi lại với nhiều t́nh tiết. Kết quả công tác của Mỹ Dung là phá
vỡ được một mạng lưới hoạt động với mục đích thu thập tin tức của chính phủ
Hoa Kỳ do Trương Đ́nh Hùng (David Trương) và Ronald Humphrey, một nhân viên
của cơ quan thông tin Hoa Kỳ (United States Information Agency) chủ mưu. Ra
ṭa, với Mỹ Dung là nhân chứng chính, hai bị cáo đă bị kết án mỗi người 15 năm
tù.
Tự truyện của Yung Krall cho người đọc h́nh dung ra quê hương Việt Nam trong
thời chiến tranh là một bi kịch cho đất nước với biết bao mất mát, chết chóc
vô lư v́ những chủ nghĩa, lư tưởng xa vời do lănh đạo áp đặt lên nhân dân. C̣n
dân, thực tế như nhiều người đă có kinh nghiệm, trong đó có gia đ́nh tác giả,
th́ đă phải đối phó với nghịch cảnh là ban ngày theo “quốc gia”, tối yểm trợ
“cách mạng”. Phần tác giả, ngày c̣n nhỏ và ở tuổi niên thiếu rất ưa thích mầu
đỏ, nên có khi bị gọi là “Việt cộng”. Sau này với những kinh nghiệm trường
đời, Yung Krall đă nhận ra những hành vi của cộng sản thường tàn ác và chủ
thuyết cộng sản chỉ là những lời nói rỗng, lư thuyết suông.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, hai cha con được gặp lại nhau sau hơn 20 năm xa
cách. Cuộc hội ngộ diễn ra vào tháng 8 năm 1975 tại thủ đô Tokyo khi đại sứ
Đặng Quang Minh đến Nhật Bản dự một hội nghị. Đây là một cuộc hội ngộ lư thú
v́ Mỹ Dung đang làm gián điệp cho CIA. Khi có mặt cán bộ khác, cha con chỉ dám
giới thiệu là người cùng quê, xưng “bác” và “cháu” để tránh sự nghi ngờ, soi
mói của cán bộ cộng sản hiện diện.
Với thắng lợi thống nhất đất nước vừa đạt được, đại sứ Đặng Quang Minh không
hề có điều ǵ hối tiếc v́ đă theo con đường của ông. Lần sau, gia đ́nh gặp
nhau bên Anh năm 1977, ông cũng không thay đổi ḷng tin của ḿnh vào con đường
cách mạng ông đă theo. Cô con gái có ư định thuyết phục cha ḿnh sau khi nghỉ
hưu th́ qua Mỹ đoàn tụ, sống với mẹ và các con, các cháu, hay ở bất cứ một nơi
nào khác ngoài Việt Nam, nhưng ông một mực từ chối và nói rằng đất nước c̣n
cần đến ông.
Trong cuộc gặp gỡ ở Anh, CIA có kế hoạch bắt cóc đại sứ Đặng Quang Minh nếu
được cô con gái đồng ư. Nhưng điều này đă không xảy ra sau khi hai cha con
tranh luận về lư tưởng. Mỹ Dung tôn trọng những suy nghĩ và không muốn làm cho
cha ḿnh đau khổ nên bỏ ư định bắt cóc. Đại sứ Đặng Quang Minh về nước, làm cố
vấn của bộ ngoại giao, rồi qua đời ở Việt Nam năm 1986.
Qua tự truyện của Yung Krall, người đọc thấy được những giằng co giữa t́nh phụ
tử, ràng buộc gia đ́nh, giữa những ư thức hệ mà người dân Việt đă bị nhồi
nhét.
Về cách tổ chức và hoạt động t́nh báo hải ngoại, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, A
Thousand Tears Falling tiết lộ những phương án mà Hà Nội muốn “Việt kiều yêu
nước” và những tổ chức thân Hà Nội thực hiện trong giai đoạn sau khi chiến
tranh chấm dứt, đó là vận động Hoa Kỳ viện trợ hơn 3 tỉ đô-la cho Việt Nam vào
việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Tổ trưởng gián điệp của Hà Nội ở Paris là
Phan Thanh Nam c̣n đề nghị Yung Krall thúc đẩy chồng đánh cắp tài liệu của Hoa
Kỳ về tầu ngầm và những dữ liệu thăm ḍ địa chất về dầu hỏa trên thềm lục địa
Việt Nam.
Vụ án gián điệp trong A Thousand Tears Falling đă ra toà, kết thúc từ năm 1978
và những can phạm đến nay cũng đă hết thời gian thọ án. Nhưng thành phần “Việt
kiều yêu nước” cũ th́ dù nhà nước mời gọi, không mấy ai trở về đóng góp cho
quê hương. David Trương Đ́nh Hùng ra tù, chuyển qua Hà Lan sinh sống. Nguyễn
Văn Lũy, qua Mỹ từ năm 1948, nay đă ngoài 80; Nguyễn Thị Ngọc Thoa qua Mỹ năm
1968, nay ngoài 50 tuổi; và những nhân sự cốt lơi của “Hội Việt kiều yêu nước”
tại Mỹ ngày xưa nay vẫn c̣n ở vùng San Francisco.
________
[1] A Thousand Tears Falling: The true story of a Vietnamese family torn apart
by war, communism and the CIA. Tác giả: Yung Krall. NXB LongStreet Press,
Atlanta. 1995