TỪ
“BÓNG ĐÈ” ĐẾN “CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN”
Trần Yên Ḥa
Bóng Đè là tập truyên ngắn của nhà văn nữ Đỗ Hoàng Diệu. Tác giả sinh tại Thanh
Hoá, 28 tuổi. Bóng Đè gồm có 8 truyện ngắn: Bóng Đè, Linh Thiêng, Hoa Máu, Vu
Quy, Ḍng Sông Hủi, Người Đàn Bà Và Một Đám Táng, Huyền Thoại Về Lời Hứa, Căn
Bệnh. Sách do Nhà Xuất bản Đà Nẵng xuất bản ngày 07.07.2005.
Đây là một tập truyện của một nhà văn nữ đă có truyện đăng ở hải ngoại, tạp chí
Hợp Lưu đăng truyện ngắn “T́nh chuột” của cô, đă được một số nhà phê b́nh chiếu
cố. Bóng Đè phát hành ở trong nước đă có tiếng vang, cả hai mặt, tốt và xấu.
Theo tác giả kể trong diễn đàn điện tử Talawas, là doanh thu về nhuận bút, Đỗ
Hoàng Diệu đă nhận của ông đầu nậu sách là 35 triệu đồng Việt Nam, được trả làm
ba đợt, không kể sách in lậu hoặc in thêm ngoài tầm kiểm soát của nhà xuất bản
và của tác giả. Như vậy th́ Bóng Đè đă rất thành công về mặt tài chánh.
Bóng Đè là truyện ngắn đầu của tập truyện.
Truyện viết về một nhân vật nữ xưng tôi, có chồng sống tại Hà Nội. Gia đ́nh êm
đềm hoà thuận, kể cả chuyện ái ân cũng b́nh thường. Người chồng tên Thụ, có gia
đ́nh gốc ở quê, là con trai trưởng nên hàng năm Thụ phải đưa cả gia đ́nh về quê
cúng giỗ (mỗi năm 16 cái giỗ). Trong dịp về dự đám giỗ đầu tiên, người đàn bà về
quê cùng chồng. Buổi tối, hai vợ chồng được chia nằm ngủ trên bộ phản trước bàn
thờ tổ tiên. Trong bóng đêm mờ ảo đó, người chồng đă ngủ say, người đàn bà thấy
ḿnh bị bóng đè, trong suy nghĩ của cô, có thể cái bóng đó là của người cha
chồng đă chết, trong sự sợ hải, cô lại có những cái rung động của thân xác, cái
rung động tuyệt vời mà cô không có được cùng chồng. Chuyện này khiến cô nhớ măi
và mong đến những đám giỗ sau. Đám giỗ sau cô cũng bị Bóng Đè và cũng của cha
chồng, ông nội chồng hay một ông già Tàu nào đó. Cô tiếp tục hưởng thụ 4 lần
khoái lạc như vậy.
Trích:
“Những khi nằm trên tấm phản, tôi nằm sấp, cánh cửa lại mở tành banh, ḷng sông
ngập nước. Tôi ép mủi xuống mặt phản. Tôi không ngờ bóng đen đến nhanh vậy.
Không rà rẫm xoa bóp, không hít hà rờ ngữi. Vừa kịp hiện ra sau bức màn đỏ đă
thẳng thừng cắm trên, cắm dưới vào ḷng sông. Lần đầu tiên tôi khát nước. Găy
gập, cắt khúc tôi trong cơn xoáy bạo liệt. Lần đầu tiên tôi hưởng thụ đau đớn mà
thoả mản…Tôi qụy gục hoàn toàn, Tôi thương tôi và tôi ghét tôi. Tôi đă đồng
loă…Tôi kiểng chân rên rỉ rồi sau đấy lại nghĩ ḿnh bị hăm hiếp. Tôi căm oán
bóng đen tổ tiên nhà Thụ. Rồi lại mong chờ, lại hào hứng thèm thuồng…”
“Thứ máu đen đặc mặt phản, thứ máu quện bết đùi tôi không phải máu đàn bà mỗi
tháng. Mà là máu tươi chảy róc rách từ vết thương rách toạt bị đâm sâu hung bạo.
Mọi người bảo tôi bị “bóng đè”, nhưng bóng đè chỉ là giấc mơ khi đang ngủ, c̣n
tôi ră rời, hai bắp đùi nhớp nháp trơn nước con gái.”
Đỗ Hoàng Diệu tự bạch thêm:
“Tôi đă từng bị Bóng Đè nhiều lần, và cái nặng nề bị trói buộc, tứ chi bất động
trong khi trí óc vẫn tỉnh táo đă hằn in vào tiềm thức. Nhiều năm nay, không c̣n
bị Bóng Đè, cảm giác ấy vẫn c̣n rơ mồn một. Chắc chắn nhiều người trên thế gian
này cũng từng bị Bóng Đè, không ai nói được Bóng Đè. Như vậy có thể suy diễn
bóng đè là việc không tốt cho con người, chính v́ thế tôi mượn hiện tượng có
thật này để tôi viết truyện ngắn. Chính thế tôi đặt tên truyện là Bóng Đè. Bao
giờ cũng vậy, có cái tốt và cái xấu. “bị” bóng đè sau “hóa giá” cũng có nghĩa
“được” bóng đè.
Truyện có vẻ trần trụi, dung tục, nên bị đưa lên bàn mỗ của các nhà phê b́nh áo
thụng văn học xă hội chũ nghĩa và báo chí trong nước, ra sức lên án tác phẩm này
không thương tiếc.
Qua những lời phê b́nh suy diễn của giới văn nghệ Nhà nước, họ cho ông già Tàu
kia trong Bóng Đè là chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, gả Thượng trong truyện
“Ḍng Sông Hủi” là đặt vấn đề sắc tộc hiện nay, và “Vu Quy” là chối bỏ Chủ Nghĩa
Marx ở Việt Nam bây giờ. Chuyện được nâng lên quan điểm và đổ tội cho Đỗ Hoàng
Diệu viết truyện bêu xấu chế độ Xă Hội Chũ Nghĩa. Nhiều phê phán kết tội, khiến
cho Đỗ Hoàng Diệu phải huỵch toẹt ra những câu hỏi sau:
“Tôi đang sống ở thời đại nào? Xă hội Việt Nam đang có ở đầu thế kỷ 21 hay
không? Hay là đang ở thời kỳ Hán thuộc Mă Viện?
Cây bút phê b́nh rặc ṛng theo giáo điều cộng sản là Đông La, nêu lên trong bài
“Các Mac, t́nh yêu bao la” có đoạn:
“Đỗ Hoàng Diệu c̣n quá trẻ, thiếu hiểu biết, nh́n nhận sai lệch, th́ làm sao đủ
sức giải bài toán lớn của văn chương, của xă hội, của dân tộc, mà lại hổn hào
báng bổ thần tượng của dân tộc.”(ư nói báng bổ Đảng cộng sản).
Các nhà phê b́nh đă đồng loạt lên tiếng trong các báo Công An Nhân Dân, An ninh
Thủ Đô, An ninh Thế Giới, Công An TPHCM, Sài G̣n Giải Phóng… bồi thêm cho Đỗ
Hoàng Diệu là đă “bắn đại bác” vào quá khứ, tức nhiên là phủ nhận cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản, của đảng cộng sản.
Đỗ Hoàng Diệu trả lời:
“Quá khứ tôi biết, cái quá khứ quư vị đang bàn luận, thông qua những cuốn sách
giáo khoa lịch sử và sau này là dăm ba cuốn khảo cứu, biên soạn cùng một mớ
thông tin báo chí… Sôi nổi nhất, ấn tượng nhất có lẽ là hàng trăm lễ kỷ niệm
30/4, 22/12/ 27/7, 2/9…mà tôi đă tham dự hoặc được hưởng không khí quá độ dưới
cờ sao…Quá khứ tôi là những bữa cơm độn khoai, độn sắn với gạo mốc, là những
lạng thịt phân chia hiếm hoi hàng tháng được mẹ tôi băm nát kho chung với muối.”
Rồi Đỗ Hoàng Diệu bồi thêm cho “phê b́nh gia” của đảng là Trịnh Thanh Sơn:
“ Nếu ông Trịnh Thanh Sơn sinh ra và lớn lên ở miền Nam, biết đâu ông ấy lại
không phải là Nguyễn Đ́nh Bảo, Nguyễn Khoa Nam, Lưu Kim Cương. Tội danh của quư
vị đưa ra, tôi mỏi tay cả buổi mà không t́m thấy trong Từ Điển Pháp Luật, lại
cũng không thấy miêu tả trong từ điển Lương Tâm. Quá khứ thật sự đă chết. Nếu nó
c̣n sống, tại sao những chiến sĩ anh dũng trong chiến tranh giờ đây lại trở
thành tham nhũng viên, quan liêu viên, cá cược viên, ám hại viên nhiều như vậy.
Và làm sao cột mốc biên giới lại dịch chuyển lung tung mà chỉ dịch lùi về phía
nam? Và làm sao, làm sao, trăm thứ làm sao.”
Điều nữa, các nhà phê b́nh lên tiếng :
”Bóng đè là dâm ô, là trần trụi, là thô bỉ, là sex, từ “đè” đă nói lên điều ấy”.
Bùi Công Thuấn viết trên Gio-o:
“Sex của người ta cao đẹp, trong sáng, lung linh, c̣n sex Bóng Đè là của con
vật.”
Đỗ Hoàng Diệu trả lời:
“Chẳng lẽ tôi miêu tả sex của một cô gái điếm thực thụ cũng phải thăng hoa ḥa
quyện hết ngày này đến ngày khác bởi t́nh yêu à? Nói th́ bảo là chống chế, nhưng
quư vị quen cách lấy bóng đè người. Nhân vật của tôi “sex” trong giấc mơ (Bóng
đè) trong hồi tưởng (Vu Quy), bạn đọc ṭ ṃ chuyện “ấy” chẳng phê chút nào, tốn
tiền mua sách! Người thật việc thật c̣n chẳng ăn ai nữa là mơ với mộng. Chưa kể
là bị phê phán, cứ cài cắm những thứ cao siêu vào truyện. Nào là tấm thân cong
lên h́nh chữ S, tấm thân thơm hắc mùi đền đài lăng tẩm không chịu nằm dưới cứ
rướn cao lên măi…”
Nhà văn xă hội chủ nghĩa Dạ Ngân, trả lời với báo chí khẳng định rằng:
“Bóng đè không phải là sex. nó có ư đồ chính trị lộ liễu.”
Trong tạp chí Thế Giới Mới, số 664 ra ngày 5-12-05, có bài viết của người kư tên
là Diệu Hiền về Bóng Đè:
“Tập truyện Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu là đề tài nóng hổi của độc giả. Người ta
lùng sục và bàn tán về nó. Văn chương của Đỗ Hoàng Diệu gây ra hai trạng thái
cảm nhận ngược chiều và khá cực đoan. Trong 8 truyện ngắn có 2 truyện được người
đọc chú ư hơn cả là Bóng Đè và Vu Quy.”
“Riêng về cá nhân Diệu Hiền, quả là sau khi đọc kỹ cũng không hề nắm bắt được
một thông điệp nào mà tác giả muốn gởi gắm qua tác phẩm.”
Lời phê b́nh sau đây của ông Nguyễn Ḥa, cũng tiếp theo như những lời phê b́nh
của đám văn nô:
“Một khi cái đóng lại lúc đọc xong tác phẩm, chỉ là sự ngỗn ngang của những sự
cương cứng thúc lên, cảm giác cứng cáp quệt ngang, đâm vào, bốc cao, phịch hạ,
tọng đầy, thă hút, mê man, cất trong ḷng một cú thọc sâu, nhồi vào…bền bỉ, mạnh
mẽ th́ thông điệp tác giả ngỡ đă đem tới cho người đọc chỉ c̣n là một ngộ nhận,
một “ngụy biện” một t́nh trạng “tự kỷ ám thị” liệu có nên bộc bạch một cách hồn
nhiên?”
Đó là đám lố nhố văn nô nhà nước bi bô phê b́nh, thoá mạ.
C̣n đây là những lời binh vực.
Nhà văn Nguyên Ngọc, người đă khám phá ra một Nguyễn Huy Thiệp với tác phẩm
Tướng Về Hưu, truyện này bị bỏ trong tủ, lăng quên mấy năm, khi ông về làm Tổng
Biên Tập báo Văn Nghệ mới t́m ra và cho đăng. Ông cũng đă cho đăng bài Linh
Nghiệm của Trần Huy Quang (viết về Hồ Chí Minh) nên bị mất chức Tổng Biên Tập.
Nguyên Ngọc đă viết:
”Và cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn
học là đọc họ, ta cảm thấy như bằng trực cảm, bằng một thứ an teng riêng, dường
như họ nhận ra được và truyền đến cho chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về con
người, xă hội, đất nước, thậm chí về số phận dân tộc, mà chính họ bằng lư luận
cũng không nói ra cho rơ được. Tôi cho rằng ta có thể chờ đợi ở Đỗ Hoàng Diệu
một tài năng như vậy qua một số truyện ngắn c̣n khá ít ỏi của chị mà chúng ta đă
được đọc.”
Nhà phê b́nh Phạm Xuân Nguyên th́ viết:
“Bóng Đè là truyện đứng tên chung cả tập, rất tiêu biểu. Nó đầy tượng trưng, đầy
ám ảnh. Nó là cả một thời đại, một lịch sử, một thân phận lớn. Đây là một truyện
ngắn gần như trọn vẹn.”
Sau đó là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, là nhà thơ Dư Thi Hoàn, nhiếp ảnh gia Dương
Văn Long, tiến sĩ văn học Nguyễn Thị B́nh, những người này đă không đứng về phía
đảng, để kết tội Đỗ Hoàng Diệu, mà đă dũng cảm, dù bị nhiều sức ép cảnh cáo,
nhưng vẫn phát biểu rơ ràng chính kiến của ḿnh trước công chúng về Bóng Đè.
Chuyện Bóng Đè chưa xệp xuống th́ tiếp tục “Cánh Đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc
Tư bị đưa lên bàn mỗ. Lần này tác phẩm bị các quan chức Đảng của Hội Văn Học Cà
Mau, Ban Tuyên Giáo Tỉnh Uỷ Cà Mau “săn sóc” tận t́nh.
CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN, tập truyện của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, MỘT TÁC PHẨM PHẢN
ĐỘNG?
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nữ nổi lên từ mấy năm trở lại đây, với những truyện
ngắn được đăng ở trong nước và hải ngoại. Truyện “Một Mối T́nh” đă được đăng ở
Tạp san Văn, tuần báo Sài G̣n Nhỏ. Nguyễn Ngoc Tư có lối viết mới, lạ, dùng ngôn
ngữ miền Nam, tả những mối t́nh của những người dân quê ở miệt Cà Mau, Năm Căn
đọc nghe thấy thương những số phận, những con người, hẩm hiu, nghèo đói, cùng
cực, nhưng cũng rất chung thủy và sắc son.
Tập truyện Cánh Đồng Bất Tận gồm có 13 truyện ngắn: Cải Ơi!, Thương Quá Rau Răm,
Hiu Hiu Gió Bấc, Huệ Lấy Chồng, Cái Nh́n Khắc Khoải, Nhà Cổ, Mối T́nh Năm Cũ,
Biển Người Mênh Mông, Nhớ Sông, Duyên Phận So Le, Một Trái Tim Khô và Cánh Đồng
Bất Tận.
“Cánh Đồng Bất Tận” là truyện cuối sách, được dùng tên chủ đề cho toàn tập
truyện. Các truyện kia, đă từng đăng trong những tập khác, đă xuất bản trước của
Nguyễn Ngọc Tư, nay lấy in lại trong tập này.
Cánh Đồng Bất Tận viết về một cô gái, nhân vật xưng tôi, là một trong ba cha con
một người đàn ông đi chăn nuôi vịt thả đồng. Cô là chị 19 tuổi, đứa em trai tên
Điền, 17 tuổi, đi rong hết cánh đồng này qua cánh đồng khác cho vịt ăn. Họ đă
cưu mang một người đàn bà làm đĩ, khi người đàn bà này bị các bà vợ của các ông
chồng, nghi là có gian díu với cô ta, đă đánh chị: “Môi chị ta sưng vều ra, xanh
dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đă đắp cho là một cái áo khác đă bị
xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.
Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đă dùng tay, ngoay
chúng để kéo chị lê lếch hết một quảng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở
nhà máy chà gạo. Họ dằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương văi trấu…Họ
dùng dao phay chặt mái tóc dài kia, dục dặc, h́ hục như phạt một nắm cỏ cứng và
khô. Khi đuôi tóc kia đứt ĺa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe
chúng tôi như một một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đỗ những
bao trấu cha vừa mới xếp.”
Và từ đó câu chuyện xoay quanh giữa ba cha con với người đàn bà làm đĩ này.
Người cha th́ căm thù đàn bà v́ vợ ông đă bỏ ông đi theo người bán văi dưới
sông. Đứa con trai tên Điền cũng hừng hừng những thèm muốn thầm kín với người
đàn bà và sau đó đă yêu và bỏ đi theo người đàn bà làm đĩ đó. Truyện cũng mô tả
những ngày mùa, đám đàn bà làm đĩ đêm đêm t́m đến cánh đồng bu quanh những đụn
lúa. Ba cha con và người đàn bà sống trên ghe, ông đă ngủ với người đàn bà (và
đă với nhiều người đàn bà khác, coi như là một cách trả thù), móc tiền trả trước
mặt hai đứa con, đến nỗi đứa con trai nói:”Cha làm chuyện đó cũng giống như mấy
con vịt đạp mái...”
Đến ngày có dịch cúm gia cầm, toán người kiểm kê đến bắt phải hủy đàn vịt, đó là
gia tài của cả gia đ́nh, người đàn bà làm đĩ đành phải cứu gia đ́nh, bèn cách
đến nơi làm việc của mấy ông kiểm tra viên tự nguyện hiến thân. Khi về, người
cha dững dưng như không có chuyện ǵ xảy ra, người đàn bà bỏ đi, đứa con trai
về, nghe tin liền chạy theo, chỉ c̣n lại hai cha con. Đến lúc, có bọn chăn vịt
khác, bọn này đi cướp vịt của người khác bèn cách phết sơn đen lên đầu những con
vịt và phởn phơ đến nhận chúng. Bọn nó đă cướp đến nửa đàn vịt và sau khi thấy
đứa con gái quá đẹp này, bọn chúng đă cùng nhau thay phiên hăm hiếp, người cha
đến cứu cũng bị chúng đánh và:”Tôi biết rằng không có cái ǵ làm cho cuộc chiếm
đoạt này dừng lại. Cha không chấp nhận, vừa bụm mắt, vừa chữi lên ngậu xị. Không
đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, nó giữ cho ông hướng về phía
tôi. Rồi bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha ở một tư thế đó.”
Cuối cùng sau khi bọn đó bỏ đi, người cha cởi áo đắp lên người cô gái, người cha
ḅ quanh đứa con, t́m bất cứ cái ǵ để có thể che cơ thể đứa con gái dưới ánh
mặt trời. Câu hỏi của cô gái thật tội nghiệp:”Không biết con có bị có con không,
hả cha? Và cô nghĩ, nếu như cô có con, cô sẽ dạy con, hăy tha thứ lỗi lầm của
người lớn.
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư viết nhẹ nhàng, bằng lối hành văn ngắn gọn, tiếng miền
Nam rặc ṛng. Dù có tả những cảnh hung bạo, nhưng đọc lên vẫn thấy thấm ư nhân
hậu. Cốt truyện th́ vây, nhưng đọc sâu hơn, ta mới thấy Nguyễn Ngọc Tư đă bộc
bạch mô tả những cảnh đời heo hút quá. Truyện xây dựng ở khoảng thời gian năm
2005 mà ta cứ tưởng xă hội thụt lùi về mấy trăm năm trước. Những cánh đồng mang
tên Hưng Khánh, Bầu Sen, thấp thoáng đâu đó ở trong cái huyện Đầm Dơi, Cà Mau.
Cảnh đời cùng khổ, cuộc đời cùng khổ của những người sống không nổi trên đất
liền, phải xuống những chiếc ghe, sống lềnh bềnh trên sông nước với đàn vịt mấy
trăm con. Cuộc sống dàn trải như một tội t́nh đến với những con người ấy, làng
xóm ấy, chế độ ấy, nó sao âu sầu thê lương quá đổi.
Cảnh người đàn bà bị người ta đánh hoài, một câu đối thoại nhỏ nhưng đọc lên
nghe lạnh buốt sống lưng:
“Những vết thương đă lành rất mau.Chị cười. Bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi
chị làm ǵ để bị đánh. Chị cười. Làm đĩ. Rồi có lẽ chị áy náy v́ quá sỗ sàng với
chúng tôi, chị ṿ đầu Điền:”Chắc mấy cưng không biết đâu.”
Chuyện “làm đĩ “ sao mà dễ dàng và nhiều người làm đến thế kia, trong một vùng
thôn quê của chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa. Nguyễn Ngọc Tư viết:
“Chúng tôi đă gặp rất nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt.
họ lại dập d́u trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông
giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẽ trẻ trung, tươi tắn, nhưng
mặt và cổ đă nhăo, nh́n kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả
tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man…lên trời, làm nhiều người đàn bà đang
cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt ḷng lại. Tối nào mua rượu cho cha,
chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi
không c̣n mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo
thân ḿnh chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê.
Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm
việc quần quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói ră ruột ở thị thành mới chạy xuống quê,
cất cái quán nhỏ, giả đ̣ buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó,
đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm,
bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chin. Cũng có lúc thu hoạch bất
ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào tṛ chơi giường chiếu suốt hai ngày
đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn xóa đói giảm nghèo, khi về tới nhà,
với tám trăm ngàn c̣n lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy năo nề biết bao, oán
chị biết bao khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng
nắng chiều.”
Ôi những mảnh đời sao mà bi thảm quá, nhưng Nguyễn Ngọc Tư đă tả cái thực của
đời sống của người dân Nam Bộ bây giờ, chuyện làm đĩ để kiếm miếng cơm cũng
thường thôi, như đi chăn vịt, đi mót lúa, đi cắm câu, đi hái bông điên điển, vậy
thôi.
Sống riết ở trên những cánh đồng bất tận như vậy, khiến chị em cô gái quên mất
tiếng người:
“Vừa may, một bữa trưa nắng rập rờn trên nách rạ, chúng tôi cảm nhận được những
tiếng nói lao xao. Thằng Điền thảng thốt, ”Tụi ḿnh ba trợn thiệt sao, Hai?” khi
nhận ra đó là tiếng của vịt. Tôi cười, hớn hở. Thế giới của vịt mở ra. Không
ghen tuông, hờn giận, chắc cái đầu của vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho yêu thương.
Tôi thôi thắc mắc v́ sao cả bầy trăm con chỉ cần mười lăm con vịt trống.
Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta nh́n ḿnh
như những kẻ điên (nghĩa là tạm quên nổi buồn của cơi người) Chị em tôi học cách
yêu thương đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào
đó). Nhưng mỗi khi nh́n thằng Điền dỏng tai coi mấy con vịt nói cái ǵ, tôi giật
ḿnh, nuốt một họng đắng, tự hỏi đă đến nỗi nầy sao, đến nỗi chơi với người thấy
buồn nên chuyển qua chơi cùng vịt.”
Rồi đến chuyện dịch cúm gia cầm. Đám người nuôi vịt cũng phải xất bất xang bang
v́ lệnh trên “thiêu hủy hết những đàn vịt có trên đồng”:
“Chúng tôi nghe một cụm từ lạ, dịch cúm gia cầm. Những người nuôi vịt chạy đồng
cười khào:”Chấc, mấy con vịt chết gió, mấy ông nhà nước nói cho quá…” Hôm chính
quyền thông báo thiêu huỷ tất cả các bầy đàn, họ xửng vửng kêu lên:”Trời, bộ hết
chuyện giỡn sao, mấy cha?
Chẳng ai giỡn cả. Người ta dùng ư tưởng của Tào Tháo thời Tam Quốc, thà giết lầm
c̣n hơn tha lầm, dồn tất cả vịt trên cánh đồng lại vào đào hố chôn.”
…Sáng sau, người ta t́m được một người chăn vịt nằm sát mép hố, mắt chong chóng
ngó trời không chớp, miệng sùi ra thứ bọt trong vắt như bọt cua nhưng hôi nồng
nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đă cạn tới giọt cuối cùng. Sống th́ khó
chứ chết sao mà dễ? Sự báo ứng dường như đang ở rất gần.”
Rồi th́, người đàn bà làm đĩ đă ra tay cứu gia đ́nh cô gái, cứu đàn vịt bị lệnh
cho thiêu huỷ. Người đàn bà làm đĩ, mà đám cán bộ kiểm tra tưởng là vợ của người
cha nên rất thèm khát, phải đem thân xác ḿnh cho đám cán bộ, mới cứu được đàn
vịt:
“Cái nh́n của chị chảy theo nước mắt của thằng Điền, chị khẻ bảo, không sao đâu,
mấy cưng. Chị đon đả. chèo kéo hai người đàn ông lạ về phía ḿnh.”Mấy anh thương
em với, nở nào để cả nhà em chết đói.” Một người càu nhàu:
-Ở trên lịnh xuống tụi tui căi sao được.
Nụ cười đong đưa, tung tẩy trên khoé mắt, “Th́ em có bảo mấy anh cải ai đâu, mấy
anh giả đ̣ không biết, không nh́n thấy bầy vịt của em là được rồi. Dễ ợt…” Thằng
Điền bệu bạo cắn răng, nó tự ḱm chế bằng cách siết vai tôi đau nhừ. Cách đó năm
bảy bước, giọng nói của chị vẫn lướt như một ḍng gió đầy hơi nước, thấm dịu lại
hai khuôn mặt (cố tỏ ra) cứng đơ. Một người nuốt nước miếng, ánh nh́n ham muốn
như mủi kim tḥ ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một
thoáng. Người c̣n lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp được xem một vở cải lương có
vẽ thú vị. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng
tôi, ngầm bảo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đă kết thúc rồi.
-Hai anh cứ về trước, chút nữa em lựa mấy con vịt tơ đem lại cho các anh lai
rai. Nhà anh Năm đây em biết chứ sao không, đi tới đâu, em cũng coi mặt thổ địa
trước chớ…”
Ôi! chuyện đọc đau đến nhói tim, đến rĩ máu, nó tàn bạo, dă man nhưng âm thầm
hơn cảnh chị Dậu trong Tắt Đèn của Nguyễn Công Hoan, đi ở thuê để đóng thuế thay
chồng. Đó là những ngày c̣n Pháp thuộc. Đến bây giờ, ở thế kỷ 21, sao trong cái
nước gọi là Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mà c̣n có những cảnh đau thương
như vậy?
Dù được nhà xuất bản Trẻ chịu trách nhiệm kiểm duyệt và biên tập, nhưng những
con mắt cú vọ của đám văn công của cơ quan chức năng là Ban Tuyên Giáo Tỉnh Ủy
Cà Mau, đă đề nghị Hội Văn Học Nghệ Thuật Cà Mau, yêu cầu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
viết kiểm điểm về tác phẩm này.
Dương Việt Thắng, trưởng ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Cà Mau nói:
“Có độc giả Việt kiều và các nhà nghiên cứu phê b́nh văn học cho rằng đây là thứ
văn chương phản động, thậm chí là chống cộng, tục tĩu, dâm ô, chống lại chủ
trương của đảng và nhà nước, chủ yếu là chị em phụ nữ, tại v́ họ giận.”
Vùng đất tác phẩm thể hiện chủ yếu ở Cà Mau, huyện Đầm Dơi là nơi có nhiều địa
danh lịch sử như Bàu Sen, đầm B́m Bịp.
Về chủ đề tư tưởng, tôi thấy nói cái xấu nhiều quá! Những nhân vật như ông già,
con cháu, gái làm đĩ…kể cả cán bộ xă đều là nhân vật xấu.”
C̣n ông Đỗ Kim Cuông, Vụ trưởng Vụ Văn hoá th́ nói:
“Nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ngọc Tư c̣n non kém chứ không có chống cộng ǵ
đâu! Chúng tôi đề nghị Hội tạo điều kiện cho nhà văn nâng cao nhận thức nghiệp
vụ chuyên môn, chứ như hiện nay Nguyễn Ngọc Tư mới học xong lớp 11 mà thôi”.
Như thế th́ Nguyễn Ngọc Tư phải làm kiểm điểm v́ tác phẩm Cánh Đồng Bất Tận.
Viết văn, viết cái xấu sờ sờ ra đó, khắp nơi khắp chốn, từ trên xuống dưới, từ
trong ra ngoài, cán bộ lănh đạo cấp càng cao th́ cái xấu càng nhiều, vậy mà đảng
vẫn oang oang cái lỗ miệng là chế độ ưu việt.
Khi Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh ra Nghị Quyết đổi mới tư duy, cởi trói cho văn
nghệ sĩ, có người nói:
“Văn Nghệ Sĩ chứ có phải con heo con ḅ đâu mà muốn trói th́ trói, muốn cởi th́
cởi”. Và đến nay, cũng hơn mười mấy năm cởi trói, thực thi kinh tế thị trường.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu đă viết thật về hoàn cảnh xă hội mà ḿnh
đang sống, viết thật, viết đúng, mà sao nói viết cái xấu nhiều quá! Nhiều nhỏi
ǵ, thế là c̣n ít, chỉ một chút, một khía cạnh thôi. Cái xấu, cái ác trong xă
hội Việt Nam bây giờ vẫn đầy dẫy ra đó.
Thôi, Nguyễn Ngọc Tư hăy làm kiểm đi, nói là ḿnh viết thật, viết đúng, không có
tội ǵ hết, nhen cưng!
TRẦN YÊN H̉A