Pḥng
Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel. : (Paris) (331) 45 98
30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : ubcv.ibib@buddhist.com
Web : http://www.queme.net/
********************************************************************************
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 16.8.2005
Anh Lê Công Cầu, Huynh trưởng Gia Đ́nh Phật tử Huế, phản bác ông Ngô Yên Thi
về các lời ông xuyên tạc trên Đài Á châu Tự do
Trong chương tŕnh Đài Á châu Tự do phát về Việt Nam lúc 21 giờ ngày 5.8.2005,
kư giả Gia Minh phỏng vấn ông Ngô Yên Thi, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ. Ông
Thi có những lời tuyên bố xuyên tạc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
về sự kiện Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Ḥa thượng Thích Quảng Độ "hoàn
toàn tự do", "không bị quản chế", gây bất măn trong dư luận người Việt nói chung
và Phật giáo đồ nói riêng trong và ngoài nước, mà người ta đọc được trên các
mạng lưới điện tử toàn cầu. Đặc biệt trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Ỷ Lan
hôm 12.8.2005, Ḥa thượng Thích Quảng Độ đă phản bác luận điệu dối trá của ông
Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ (xin vào nghe kho lưu trữ của Đài Á châu Tự do,
hoặc đọc bản chép lại cuộc phỏng vấn này trong bản Thông cáo báo chí của Pḥng
Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành ngày 15.8.2005).
Hôm nay Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế nhận được từ Huế bài viết "Nói chuyện
với ông Ngô Yên Thi, Trưởng ban Tôn gíao Chính phủ" của Huynh trưởng Lê Công
Cầu. Trước đây trong bản Thông cáo báo chí phát hành ngày 8.1.2004, chúng tôi đă
đăng tải một bài viết giá trị của anh Lê Công Cầu mang tựa đề "Tâm sự giữa đất
và trời", qua đó, anh công khai nói lên 3 điều hiện hữu vừa lịch sử vừa pháp lư
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và 3 điều hiện hữu như tay sai chính
trị cho Nhà nước Cộng sản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tức Giáo hội Nhà
nước).
Hôm nay, chúng tôi đăng tiếp nguyên văn bài viết mới của anh dưới đây như một
tiếng nói nhân chứng cất lên từ Cố đô Huế để đánh lên tiếng chuông hồi đáp sự
dối gạt dư luận của một "cơ quan quản lư tôn giáo" thuộc Đảng và Nhà nước Cộng
sản Việt Nam :
Nói chuyện với ông Ngô Yên Thi,
Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ
Lê Công Cầu
Huynh trưởng Gia đ́nh Phật tử Việt Nam
Thưa ông Ngô Yên Thi !!!
Vừa rồi, tôi có nghe và có đọc bài trả lời phỏng vấn của ông, do phóng viên Gia
Minh đài Á châu Tự do thực hiện ngày 5/8/2005.
Phần đầu tôi không lạm bàn, nhưng phần liên quan đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống nhất th́ ông đă cố t́nh "giấu đầu", nhưng lại "hở đuôi" quá lộ liễu. Ở đây
tôi xin nêu những cái "hở đuôi" ấy để đồng bào và Phật tử thấy rơ cái dă tâm
xuyên tạc sự thật của ông và cũng như để ông nhận thức lại hành vi của chính
ḿnh.
PHẦN I :
1. Gia Minh hỏi : Dư luận nhiều nơi trên thế giới nói về Giáo hội Phật Giáo Việt
Nam Thống nhất và đ̣i phục hoạt lại cho Giáo hội đó.
2. Ngô Yên Thi trả lời : Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất là trước năm
1975 (1) . Vào những năm 80-81, đại bộ phận họ đă thống nhất lại Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam rồi (2).
Ví dụ Hoà Thượng Minh Châu, Trí Tịnh là của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất nay là thuộc Giáo hội Phật Giáo Việt Nam ; chỉ có một vài vị không chịu,
muốn có giáo hội riêng của họ ; và nói rơ ra là họ có bên ngoài thúc đẩy. Do vậy
chuyện này ít ra trong giáo hội phải thuyết phục nhau để không chia năm xẻ bảy,
loại bỏ yếu tố chính trị (3), thực hành theo con đường của Đức Phật (4).
Thưa ông,
Qua câu trả lời trên, tôi nhận thấy, ông có 4 điểm sai lầm mà ông cố t́nh xuyên
tạc, chứ một ông Trưởng ban Tôn giáo như ông th́ không thể có một sự hiểu biết
lập lờ như thế.
I. Sai lầm thứ nhất :
Ông nói Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất là trước năm 1975, nghĩa là ông
cố t́nh đánh lừa quần chúng để quần chúng hiểu lầm rằng Giáo hội Phật giáo Việt
nam Thống nhất là của miền Nam Việt Nam cũ. Nên khi chính quyền miền Nam Việt
Nam sụp đổ, th́ giáo hội ấy phải sụp đổ theo không c̣n nữa, đúng không ? Vậy tôi
xin nêu các thời điểm lịch sử để ông và quần chúng thấy rơ sự tồn tại hợp pháp
và tương tục của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất.
1. Dưới thời thực dân Pháp : Đạo dụ số 10 ra đời và được thừa nhận bởi chính phủ
Bảo Đại, trong đó qui định các tổ chức hiệp hội và Phật giáo chỉ được xem như là
một hiệp hội. Thiên chúa giáo lại nằm ngoài đạo dụ số 10, v́ Thiên chúa giáo
được xem là một tôn giáo. Đến thời Ngô Đ́nh Diệm, đạo dụ số 10 được khai thác
triệt để với mục đích tiêu diệt Phật giáo. Trước những bất công ấy và luôn bị
đàn áp khốc liệt, Tổng hội Phật giáo Việt Nam đă lănh đạo Tăng tín đồ toàn quốc
đấu tranh cho Năm nguyện vọng của Phật giáo, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Gia
đ́nh trị họ Ngô.
Năm 1964, Tổng hội Phật giáo Việt Nam đă triệu tập 11 tập đoàn Phật giáo trên
toàn quốc tham dự Đaị hội Thống nhất Phật Giáo Việt Nam, và danh xưng Giáo hội
Phật Giáo Việt Nam Thống nhất ra đời. Sự Thống nhất này mang một ư nghĩa lớn
lao, đó là "Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất không đặt sự tồn tại của ḿnh
nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân
tộc".
Sở dĩ tôi nói dông dài như vậy để ông thấy rằng Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
Thống nhất không kư thác sinh mệnh của ḿnh vào một chế độ, mà kư thác sinh mệnh
của ḿnh vào ḍng sinh mệnh của dân tộc và nhân loại. Dân tộc c̣n, th́ đạo pháp
c̣n ; nhân loại c̣n th́ đạo pháp c̣n. Nó không giống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
của Nhà nước. V́ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam đă kư thác sinh mệnh của ḿnh vào
chế độ cho nên đă lấy phương châm Đạo pháp Dân tộc và Xă hội chủ nghĩa. V́ thế,
theo tiến tŕnh của nhân loại, ngày nào đó chế độ Xă hội chủ nghĩa không c̣n th́
giáo hội ấy tất phải sụp đổ theo.
Và với mục tiêu đó, ngay sau khi ra đời Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất
đă nỗ lực vận động cho hoà b́nh sớm trở về với quê hương, chấm dứt cuộc chiến
tranh ư thức hệ kéo dài trên 20 năm, gây nên cảnh huynh đệ tương tàn, quê hương
thống khổ.
Sau năm 1975 đất nước thống nhất, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất lại một
lần nữa đứng lên đấu tranh để bảo vệ nhân quyền và tự do đang bị xâm hại, cuộc
đấu tranh ấy đến nay vẫn chưa ngừng nghỉ.
2. Năm 1975, Cọng sản chiến thắng miền Nam, trên tinh thần ấy Nhà nước Cọng sản
có quyền thừa nhận hay huỷ bỏ bất cứ một tổ chức nào dưới chế độ cũ, v́ cho rằng
đó là tàn dư của chế độ. Thế nhưng, cho đến nay Nhà nước Cọng sản vẫn chưa hề có
một văn bản nào giải thể Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất. V́ sao thế ?
Xin thưa, v́ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất là thành viên của Hội Liên
Hữu Phật giáo Thế giới. Đây là một tổ chức phi chính phủ được Liên Hiệp Quốc
thừa nhận. Nếu giải thể Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất tức là vi phạm
các cam kết của Liên Hiệp Quốc mà nước Việt nam là thành viên.
3. Năm 1977 (sau giải phóng 2 năm) : Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất đă
tổ chức Đại hội toàn quốc kỳ VII. Dù theo Hiến chương của Giáo hội th́ toàn quốc
ở đây chỉ từ vĩ tuyến 17 trở vào, nhưng đă chấp nhận danh xưng Đại hội toàn quốc
th́ có nghĩa đă chấp nhận Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất là giáo hội hợp
pháp trên qui mô toàn quốc.
4. Năm 1981, Nhà nước tổ chức Đại hội Phật giáo toàn quốc để thành lập Giáo hội
Phật Giáo Việt Nam Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất đă có phái đoàn tham
dự do Hoà thượng Thiện Siêu dẫn đầu. Dù phái đoàn này do Đảng, Nhà nước và Ban
Vận động Thống nhất Phật giáo của Hoà thượng Thích Trí Thủ sắp đặt, nhưng nó đă
nói lên sự hiện diện hợp pháp của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất sau năm
1975.
5. Sau năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt nam của nhà nước ra đời, trong Hiến
chương có ghi là các truyền thống, hệ phái vẫn được duy tŕ và phát triển. Trước
đây tôi có nói là giả dụ hăy tạm xem Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất là 1
hệ phái trong Giáo hội Nhà nước th́ có nghĩa là Giáo hội Phật giáo Việt nam
Thống nhất vẫn tồn tại hợp pháp có hiến định.
6. Năm 2003 : Đại lăo Hoà thượng Thích Huyền Quang đă uỷ nhiệm thượng toạ Thích
Tuệ Sỹ thay mặt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến họp với đại diện Ủy
hội Âu châu ngay tại Hà nội, ông F. Bazon (Đại diện Liên hiệp Âu Châu) nói rằng,
đây là phiên họp chính thức giữa Ủy hội Âu châu với Giáo hội Phật giáo Việt nam
Thống nhất, phiên họp đă được xin phép chính phủ Việt Nam. Phía chính phủ Việt
Nam không có công hàm phản đối phiên họp nầy, tức là chính phủ đă mặc nhiên thừa
nhận sự hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Đúng không, thưa
ông ?
7. Đăc biệt nhất là việc Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp kiến Hoà thượng Thích
Huyền Quang được truyền h́nh cho đồng bào trong nước cũng như hải ngoại xem. Thủ
tướng tiếp một người tù ư ? Không phải. Thủ tướng tiếp một Cao Tăng ư ? Không
đơn giản như thế. Nhất là khi Thủ tướng nói : "Các vị tự sắp xếp lại nội bộ Phật
giáo". Ta phải hiểu rằng người mà Thủ tướng yêu cầu đứng ra sắp xếp lại nội bộ
Phật Giáo tức là người phải có thẩm quyền và trách nhiệm với Phật giáo. Ngài
Huyền Quang không phải là Pháp chủ Giáo Hội Phật giáo Nhà nước, không phải
Trưởng ban Tôn giáo chính phủ, không phải Chủ tịch Mặt trận. Vậy quyền hạn và
trách nhiệm của ngài là ǵ ? Đó chính là nhà lănh đạo tối cao của Giáo hội Phật
giáo Việt nam Thống nhất. Như vậy, chính Thủ tướng đă gián tiếp công nhận ngôi
vị lănh đạo của ngài và sự tồn tại của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất.
Phải vậy không, thưa ông ?
8. Tháng 10 năm 2003, Đại hội Bất thường của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh B́nh Định, là bước đầu trong công cuộc sắp
xếp lại nội bộ Phật giáo như Hoà thượng Huyền Quang và Thủ tướng đă thoả thuận.
Đại hội được tiến hành công khai. Ban Tôn giáo tỉnh B́nh Định đă xin cử cán bộ
vào quan sát buổi lễ. Đồng thời Hoà thượng Quảng Độ đă gởi văn thư cho Thủ tướng
Phan Văn Khải phản đối những cản trở bất hợp pháp của chính quyền các địa phương
đối với chư vị Tôn túc tham dự đại hội. Đây là một văn kiện chính thức mà Hoà
thượng Quảng Độ báo cho Thủ tướng biết những việc mà Giáo Hội Thống nhất đang
làm. Thủ tướng không có văn thư ngăn cấm. Như vậy chứng tỏ đại hội được tổ chức
hợp pháp. Đây là một yếu tố nói lên sự tồn tại trên pháp lư của Giáo hội Phật
giáo Việt nam Thống nhất. Đúng không, thưa ông ?
Đáng tiếc sau đó xảy ra sự biến Lương Sơn, các lực lượng công an đă chận đường
chư vị tôn túc đi dự Đại hội Bất thường Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất
trở về. Và qui kết chư vị tôn túc làm lộ bí mật quốc gia ? ? Và quản thúc mỗi
người mỗi nơi, tạo nên một khủng hoảng mới về tôn giáo tại Việt Nam, phá hoại
thoả thuận giữa Thủ tướng và Hoà thượng Thích Huyền Quang về việc sắp xếp lại
nội bộ Phật giáo. Trách nhiệm về sự biến Lương Sơn hoàn toàn về phía chính quyền
mà trong đó trách nhiệm rất lớn là do ông v́ ông là Trưởng ban Tôn giáo. Đúng
không, thưa ông ?
Tôi nêu 8 sự kiện nêu trên để chứng tỏ sự tồn tại hợp pháp và tương tục của Giáo
hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất mà ông đă cố t́nh "giấu đầu" và dưới đây là
phần "hở đuôi" của ông. Tôi xin chỉ rơ để ông thấy.
II. Sai lầm thứ hai :
Ông nói : Đại bộ phận của họ đă thống nhất thành Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
rồi.
Thưa ông, đại bộ phận có nghĩa là một số lớn. Như vậy là ông đă xác nhận rằng
chỉ có một số Tăng Ni dù là số lớn của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất đă
ly khai giáo hội để tham gia vào Gíao hội Phật giáo của Nhà nước, chứ không phải
là toàn thể Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất tham gia. Đúng không, thưa
ông ?
Ông nói sai nhưng đó lại là sự thật. Sau Đại hội toàn quốc kỳ 7 của Giáo hội
Phật giáo Việt nam Thống nhất, giáo hội đó đă nhiều lần đề nghị Thống nhất Phật
giáo hai miền Nam Bắc, nhưng dưới con mắt của Đảng th́ Giáo hội Phật giáo Việt
nam Thống nhất là một tổ chức quần chúng, có quần chúng và huy động được quần
chúng. Ngược lại dưới chế độ Xă hội chủ nghĩa, Phật giáo miền Bắc chỉ c̣n là một
tập hợp của những người theo Đảng, không có quần chúng. Sự tương quan lực lượng
nầy làm cho Đảng lo lắng và đảng đă quyết tâm chia chẻ Giáo hội Thống nhất ra
từng mảnh trước khi Thống nhất Phật giáo toàn quốc. Mảnh thứ nhất, có những phần
tử mà Đảng cho là nguy hiểm, cần phải tiêu diệt hay tù đày tiêu biểu là các Hoà
thượng Thiện Minh, Huyền Quang, Quảng Độ. Mảnh thứ hai, là những tu sĩ hoạt động
cho Đảng mà tiêu biểu là Thượng Toạ Thiện Châu. Mảnh thứ ba, là những người chấp
nhận thời cuộc mà tiêu biểu là Hoà thượng Minh Châu, Hoà thượng Trí Tịnh.
Loại trừ được mảnh thứ nhất rồi Ban Bí Thư Trung Ương Đảng mới cho tập hợp hai
mảnh c̣n lại cộng với Phật giáo miền Bắc gọi là 9 tập đoàn, tổ chức đại hội tại
hội trường Giảng Vơ Hà Nội dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông Trần Quốc Hoàn - Ủy
viên tổ chức Ban Bí thư Trung Ương Đảng. Như vậy, tôi xin ông lưu ư 4 điểm sau
đây :
1. Một số người tự ư ly khai Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất để tham gia
Giáo hội Nhà nước, chứ Giáo hội không tham gia, ngay cả phái đoàn của Hoà thượng
Thiện Siêu cũng chẳng có một văn bản nào của Hội đồng Lưỡng viện công cử. Đây là
đại bộ phận họ Thống nhất lại thành Giáo hội Phật giáo Việt nam như ông đă nói.
2. Vậy th́, phải c̣n một tiểu bộ phận nữa chứ. Vậy thưa ông, tiểu bộ phận ấy là
ai. Đó chính là những người không xu phụ thời cuộc, không tham gia Giáo hội Nhà
nước. Đây là thành phần trung kiên của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất mà
tôi tạm gọi là mảnh thứ tư cộng với những người tù tội, lưu đày ở mảnh thứ nhất
cùng nhau ǵn giữ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất. Và như vậy Giáo hội
Phật Giáo Việt Nam Thống nhất vẫn c̣n phải không, thưa ông ?
Nói rơ thêm, ví dụ như là Đảng Cọng sản của ông, nếu có đại bộ phận đảng viên
tham gia một đảng khác th́ như vậy không có nghĩa là Đảng Cọng sản chấm dứt, số
đảng viên c̣n lại vẫn bảo vệ và duy tŕ, th́ Đảng Cọng sản vẫn tồn tại, đúng
không, thưa ông ?
3. Một điều đáng nói là, sau khi Giáo Hội Phật giáo Việt Nam ra đời, trên thực
tế, Nhà nước không xem đó là một Giáo hội mà chỉ là một Hội đoàn trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam như hội thanh niên, hội phụ nữ, hội người cao tuổi... mà thôi.
Bằng chứng là các văn bản bằng tiếng Anh, Nhà nước gọi Giáo hội Phật giáo Việt
Nam là Association of Buddhism of Viet Nam (Hiệp hội Phật giáo Việt Nam). Xem
thế, Đảng và Nhà nước đối xử với Phật giáo Việt Nam hiện nay c̣n tệ hơn các chế
độ cũ nhiều. V́ ở các chế độ cũ, tuy trên danh nghĩa, Phật giáo bị xem như là
một hiệp hội, nhưng hoạt động của Phật giáo vẫn độc lập với chính quyền. C̣n
Giáo hội Phật giáo Việt nam hiện nay th́ hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của
Ban Tôn giáo Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt nam.
4. V́ những lư do trên mà chúng ta phải khẳng định rằng, tại Việt nam, hiện nay
vẫn chỉ tồn tại một giáo hội Phật giáo đúng nghĩa của nó, đó là Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống nhất mà thôi..
III. Sai lầm thứ ba :
Thưa ông,
Ông nói loại bỏ yếu tố chính trị nhưng mà Đảng cứ bắt họ làm chính trị, chứ có
cho họ tu hành thuần tuư đâu. Ai cũng biết rằng Đảng đă biến Giáo hội Phật giáo
Việt nam thành một tổ chức chính trị khi bắt Giáo hội Phật giáo Việt nam bỏ vào
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chịu sự trực tiếp chỉ đạo của hai cơ chế
chính trị : Mặt trận và Ban Tôn giáo. Kể từ đó, Giáo hội Phật giáo Việt nam phải
thực hiện mọi ư đồ chính trị của Đảng và Nhà nước ngay cả trong việc giáo dục
Tăng Ni.
Loại bỏ yếu tố chính trị là một việc làm cấp thiết, nhưng đó là việc mà Đảng và
Nhà nước phải làm. Phật giáo chỉ là nạn nhân mà thôi. Muốn thế, Đảng phải đẩy
Giáo hội Phật giáo Việt nam ra khỏi Mặt trận, để Giáo hội Phật giáo Việt nam trở
về với sinh hoạt thuần tuư tôn giáo. Phải vậy không, thưa ông ?
IV. Sai lầm thứ tư :
Thưa ông,
Ông nói thực hành theo con đường của Đức Phật. Nhưng Đảng cứ buộc Phật giáo đi
theo con đường Mác-Lê, chứ có để cho Phật giáo đi theo con đường của Đức Phật
đâu. Ông phải hiểu rằng, con đường của Đức Phật là con đường của giới luật :
1. Giới luật không cho phép Tu sĩ nạp Tăng tịch cho chính quyền, mà chính quyền
bắt phải nạp mới cho lên Hoà thượng, Thượng toạ.
2. Giới luật không cho phép Tu sĩ tham gia chính trị, nhưng Đảng cứ bắt buộc quư
Ngài ứng cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, hết kỳ này đến kỳ khác.
3. Giới luật không cho phép Tu sĩ nhận huân chương của Đảng, vậy mà Đảng cứ bắt
họ đeo vào.
Vậy muốn Tu sĩ đi đúng con đường của Đức Phật, th́ Đảng phải chấm dứt ngay việc
làm nêu trên. Phải không, thưa ông ?
PHẦN II :
1. Gia Minh hỏi : Trước đây Hoà thượng Huyền Quang được Thủ tướng hứa hẹn ?
2. Ngô Yên Thi trả lời : Thủ tướng nói là Nhà nước rất tôn trọng các vị Cao
Tăng, theo đúng đường tu học, chứ đừng nên đấu đá nhau. Tuy nhiên bản thân Phật
giáo vẫn c̣n bất đồng.
(Điều nay tôi đă nói trong điều 7 về sai lầm thứ nhất của Phần I, khỏi cần phải
bàn lại).
3. Gia Minh hỏi : V́ sao lại có lệnh quản chế đối với các vị đó ?
4. Ngô Yên Thi trả lời : Tôi biết không có quản chế .
5. Gia Minh hỏi : Có những phái đoàn muốn đến gặp cụ Huyền Quang vẫn bị ngăn
trở.
6. Ngô Yên Thi trả lời : Cụ đang ở Nguyên Thiều nên đoàn nào muốn thăm cũng nên
báo cho địa phương biết .
Thưa ông,
Ông Lê Dũng (phát ngôn viên của Bộ ngoại giao) đă lặp đi lặp lại nhiều lần trên
đài truyền h́nh là không có quản chế. Bà Tôn Nữ Thị Ninh (Phó chủ nhiệm Ủy ban
Đối ngoại Quốc hội) đi khắp năm châu, bốn bể để nói là không có quản chế. Chúng
tôi không trách ông Lê Dũng hay bà Tôn Nữ Thị Ninh v́ họ là nhân viên thừa hành,
trên bảo nói sao th́ dưới phải nói vậy. Nhưng ông là Ủy viên Trung ương đảng, là
Ttrưởng Ban tôn giáo chính phủ chắc chắn ông biết rơ là có quản chế và sự quản
chế ấy có bàn tay của ông sắp đặt v́ ông là Trưởng ban tôn giáo. Ông đă cố t́nh
lừa bịp dư luận, nhưng ông "giấu đầu" không khéo, nên lần này ông lại "hở đuôi"
nữa rồi.
Ông có nhớ rằng sau sự biến Lương Sơn, Hoà thượng Huyền Quang bị áp tải về lại
tu viện Nguyên Thiều, Hoà thượng Quảng Độ bị áp tải về Thanh Minh Thiền viện,
quư Thượng toạ : Tuệ Sỹ, Thanh Huyền... sau một thời gian làm việc ṿng vo đều
bị áp tải về chùa và nhận lệnh quản chế với lư do rất mơ hồ. Từ đó các ngài sống
trong cảnh nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chính quyền đă cô lập các ngài một cách
gắt gao và tàn nhẫn. Các ngài chẳng được tự do đi lại thăm viếng đồng bào, Phật
tử và ngược lại con cháu Phật tử đến thăm viếng quư ngài cũng bị cản trở khốc
liệt. Tôi xin nêu hai trường hợp điển h́nh để cho ông và đồng bào thấy :
1. Năm ngoái huynh trưởng Bạch Hoa Mai từ Mỹ về đă cùng với huynh trưởng Nguyễn
Đ́nh Khôi (Ủy viên Ban hướng dẫn Trung ương Gia đ́nh Phật tử Việt Nam) đi từ Sài
G̣n ra B́nh Định thăm Hoà thượng Huyền Quang. Khi xuống ga Diêu Tŕ th́ "được"
công an B́nh Định mời về trụ sở công an để làm việc, và chính công an đă mua vé
tàu buộc hai anh phải trở lại Sài G̣n, chứ không được đến Tu viện Nguyên Thiều.
Hai vị Huynh trưởng này đă điện thoại cho tôi rơ.
2. Gần đây nhất là hôm 20/6/2005, phái đoàn chư Tăng Thừa Thiên Huế vào Nha
Trang đi đám Hoà thượng Đổng Minh. Trên đường trở về Huế, phái đoàn ghé Tu viện
Nguyên Thiều để vấn an Đức Tăng Thống đệ tứ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất. Phái đoàn bị chặn ngay tại đầu cầu Bà Di, theo lối vào Tu viện. Sau đó,
công an đă tạo ra nhiều lư do để buộc phái đoàn phải trở về trụ sở xă Nhơn
Thành, huyện An Nhơn, tỉnh B́nh Định để làm việc. Sau một ngày đêm bị giữ tại cơ
quan chính quyền. Công an đă dẫn độ quư ngài về lại Huế và Quảng Trị, và cuối
cùng quư ngài không thăm được Đức Tăng Thống.
Thưa ông,
Tôi dẫn chứng 2 sự kiện trên để cho đồng bào thấy ông đă bóp méo sự thật. Nhưng
sự thật lại được phơi bày khi ông nói : Hoà thượng Huyền Quang đang ở Nguyên
Thiều, nên đoàn nào muốn thăm cũng nên báo cho chính quyền địa phương biết. Xin
ông nghe nói đây !
Đúng là Hoà thượng Huyền Quang đang ở Nguyên Thiều cũng như Hoà thượng Trí Tịnh,
Minh Châu đang ở Vạn Hạnh, Hoà thượng Thanh Tứ đang ở Quán Sứ. Nếu có phái đoàn
nào đến (Vạn Hạnh) thăm Hoà thượng Minh Châu, Hoà thượng Trí Tịnh hay đến Quán
Sứ thăm Hoà thượng Thanh Tứ th́ có cần báo cho chính quyền Sài G̣n hay Hà Nội
biết không ? Chắc chắn là không. Vậy th́ tại sao khi đến Nguyên Thiều thăm Hoà
thượng Huyền Quang th́ phải báo cho chính quyền địa phương biết. Biết để làm ǵ
? Biết để ưa cho ai thăm th́ cho, không cho ai thăm th́ ngăn chặn, phải vậy
không ?. Như vậy, tức là ông đă thừa nhận Hoà thượng Huyền Quang đang có vấn đề,
phải không ? Vậy vấn đề ở đây là ǵ ? Xin thưa đó chính là Hoà thượng đang bị
quản thúc, bị cô lập, chứ chẳng c̣n một lư do nào khác. Lời nói bưng bít của ông
vô t́nh tố cáo lại ông rồi, ông thấy không ?
Để kết luận, tôi xin cảnh báo với ông hai điểm đễ ông suy nghĩ :
I. Ông cũng như tôi là những người đang sống trong ḍng lịch sử. Chứng kiến
những biến cố của đất nước trước năm 1975 cho đến hôm nay. Nhưng ông phải hiểu
rằng không phải chỉ có ông và tôi mà cả thế hệ chúng ta đều là chứng nhân lịch
sử, cho nên :
1. Ông là Ủy viên Trung ương đảng mà ông nói sai sự thật th́ nhân dân không tin
ông. Đă không tin ông, th́ nhân dân cũng không tin vào Đảng của ông.
2. Ông là Trưởng Ban Tôn Giáo Chính phủ mà ông nói sai sự thật th́ nhân dân
không tin ông. Đă không tin ông, th́ nhân dân cũng không tin vào Chính phủ của
ông nữa.
Như vậy chính các ông làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chính phủ, chứ
chẳng ai khác.
II. Thời trai trẻ ông đă từng mặc áo Lam, đeo hoa sen trắng đến chùa sinh hoạt
Gia đ́nh Phật tử như chúng tôi. Nhưng khi theo Đảng các ông đă khai không có tôn
giáo. Sự quay lưng lại với tôn giáo của ḿnh tức là các ông đă từ bỏ những giá
trị đạo đức truyền thống của cha ông ta để lại.
Sự từ bỏ những giá trị đạo đức ấy là mầm mống phát sinh ra quá nhiều tệ nạn :
tham nhũng, hối lộ, hiếp dâm, cửa quyền, lăng phí... Đáng tiếc là trong Đảng của
ông lại có quá nhiều thành phần như vậy.
Ngày xưa cứ mỗi chiều chủ nhật đến chùa, ông đều có đọc 5 Điều luật Gia đ́nh
Phật tử. Trong đó, điều luật thứ ba là : Phật tử trau dồi trí huệ, tôn trọng sự
thật. Nếu trong tâm tư ông c̣n vướng lại một chút của điều luật này, th́ xin ông
hăy đem ra áp dụng ngay đi.
Tôn trọng sự thật là cách duy nhất để cứu văn niềm tin của toàn dân đối với Đảng
của các ông đang trên đà suy thoái, và cứu văn niền tin của nhân dân đối với
Chính phủ của ông đang trên đà khủng hoảng, trước đ̣i hỏi Đa nguyên, Đa đảng như
hiện nay.
Xin chào ông.
Lê Công Cầu