27-01-2006
Chủ nghĩa cộng
sản là tội ác của nhân loại
Lưu Vũ
Ngày 24 tháng 1
năm 2006, các nghị sĩ của Nghị viện châu Âu đă tranh luận gay gắt trước
phán quyết cho một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng đă làm thay đổi
cục diện thế giới trong gần suốt thế kỷ XX. Đó là giai đoạn thống trị
của chủ nghĩa cộng sản tại châu Âu và trên toàn thế giới.
Với 99 phiếu thuận
và 42 phiếu chống, nghị quyết chính thức của 46 nước thành viên Nghị
viện châu Âu đă ra đời, xác định: chủ nghĩa cộng sản là tội ác.
Châu Âu, nơi đẻ
ra học thuyết, xâm nhập và bành trướng chủ nghĩa cộng sản, bằng nghị
quyết số 1481, ngày 24/01/2006, đă đào mô chôn vĩnh viễn một chủ nghĩa
khát máu mang đến không biết bao nhiêu tai ương và thảm hoạ cho nhân
loại.
Cũng nên nhắc lại
rằng, sau khi chế độ cộng sản bị xoá bỏ, từ 1994, hiến pháp của nước
Cộng Hoà Ba Lan đă đặt chủ nghĩa cộng sản bên cạnh chủ nghĩa phát xít
(Nazi), chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và cấm mọi h́nh thức hoạt động,
tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản.
Nghị quyết của
Nghị viện châu Âu khẳng định “sự cần thiết thiết lập một toà án quốc tế
xét xử tội ác của chủ nghĩa toàn trị cộng sản”.
Ngoài ra nghị
quyết cũng kêu gọi các đảng cộng sản và hậu cộng sản phải làm sạch quá
khứ lịch sử của chính ḿnh.
Nghị quyết của
Nghị viện châu Âu ngày 24/01/2006 ra đời là từ dự thảo của nghị sĩ người
Sweden (Thuỵ Điển) trên cơ sở đề nghị của nghị sĩ các nước cộng hoà
Baltic. Với các nước này, chủ nghĩa cộng sản là ư thức hệ mà theo đó,
những người lính Nga với quân kỳ đỏ đă sát nhập Estonia, Latvia và
Lithuania vào đế quốc Xô-Viết.
Không ai phủ nhận
được rằng, “chủ nghĩa toàn trị cộng sản” đă tạo nên những chế độ bạo
tàn. V́ thế, đại đa số các nghị sĩ thuộc khối Liên Xô cũ đă không đưa ra
nhiều khuyến cáo đối với các đồng nghiệp phương Tây trước khi biểu
quyết.
Phương thức thanh
toán với quá khứ đă không được một số nghị sĩ cánh tả châu Âu thích thú.
Họ cho rằng không thể làm nhục hết mọi người cộng sản bằng cách gán ghép
“tất cả những người cộng sản là những tên giểt người”. Nhà xă hội học,
nghị sĩ Spain (Tây Ban Nha) Luis Yanez-Barnueè Garcia nói: “Không phải
mọi nơi chủ nghĩa cộng sản đều gây tội ác. Có một số nước mà những người
cộng sản bị truy bức và giết hại. Chúng ta đă không có được nghị quyết
chỉ trích chế độ của tướng Franco”. Xin mở ngoặc: trong thời gian cai
trị Tây Ban Nha tướng độc tài không cộng sản Franco đă đàn áp thẳng tay
cánh tả, trong đó có nhiều đảng viên đảng cộng sản Tây Ban Nha bị giết
hại.
Tưởng cũng cần
biết rằng, trong quá tŕnh biểu quyết, những người hoạt động cánh tả của
Greece (Hy Lạp) va France (Pháp) đă tổ chức biểu t́nh trước nghị viện
Châu Âu tại Strasburg. Họ ra yêu sách về việc đánh giá “chính xác hơn”
lịch sử mới nhất của châu Âu mà trong đó, chủ nghĩa toàn trị không đồng
nhất với ư thức hệ cộng sản. Họ hô to khẩu hiệu: “Cánh tả là cuộc chiến
đấu cho công lư chứ không phải là chủ nghĩa toàn trị Stalin”.
Những người bỏ
phiếu chống nghị quyết chủ yếu là các nghị sĩ của Nga. Nhiều người trong
số họ cho rằng “chủ nghĩa cộng sản” có nghĩa là “Liên Xô và sự bảo vệ
học thuyết Marx”. Họ phải đứng về phía lịch sử của chính ḿnh. Quá khứ
và hậu quả hiện đang đè lên vai quá nặng khiến họ không thể thanh thản
và trung thực biểu hiện lập trường của ḿnh. Người Nga rất e ngại các
nước cộng hoà Baltic lấy nghị quyết làm cớ để bắt Nga phải xin lỗi v́
hiệp ước Ribbentrop-Molotov và giai đoạn rất khó xử hậu chiến tranh. Với
Ba Lan, hiệp ước Ribbentop –Molotov đă được quốc hội Ba Lan, trong dịp
60 năm chiến thắng phát xít (5/2005) mô tả trong một nghị quyết “là con
dao đâm sau lưng dân tộc Ba Lan” của Stalin và Hitler, tạo tiền đề cho
Đức quốc xă nổ súng xâm lược Ba Lan 9/1939, mở màn cho đại chiến thế
giới II.
Trưởng đoàn nghị
sĩ Nga tại Nghị Viện châu Âu Constantin Kosachov đă thuyết phục mọi
người như sau: “Quá khứ của chúng tôi sẽ không bị xét xử dưới ánh sáng
của nghị quyết này”.
Chính v́ một số
nguyên do trên, Nghị viện châu Âu đă không đạt được 2/3 số phiếu cho dự
án các hoạt động cụ thể như: toà án xét xử sẽ được thiết lập ra sao;
chuẩn bị tổ chức các hội nghị quốc tế của 46 nước châu Âu với đề tài tội
ác của chủ nghĩa cộng sản; thực hiện các chiến dịch tuyên truyền ở mức
độ toàn châu lục về “tội ác đỏ” và các cuộc hội thảo về lịch sử của thế
kỷ XX. Ngoài ra dự án cũng đề nghị các nước thuộc hệ thống Liên Xô cũ
thành lập các hội đồng chuyên môn để thu thập tài liệu của thời quá khứ
máu sắt.
Tuy nhiên các
chương tŕnh hành động trên sẽ c̣n được tiếp tục thảo luận trong tương
lai.
Dầu sao, 16 năm
sau khi hệ thống cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu tan ră, một nhận định
chính thức về lịch sử đă được đại đa số các nước toàn châu Âu phán
quyết. Một dấu chấm hết không có biện minh.
Goobye Marx!
Goobye Lenin!
Nghịch lư thay,
chủ nghĩa cộng sản bị tiêu diệt ngay nơi mảnh đất sinh ra nó th́ ngày
nay vẫn c̣n rơi rớt lại ở vài nơi mà nền văn minh và văn hoá của những
xứ đó hoàn toàn xa lạ với châu Âu.
Vài kẻ độc tài
ngoan cố, can tâm “cơng rắn cắn gà nhà”, lấy chủ nghĩa cộng sản ngoại
lai làm nền tảng lừa gạt, áp đặt thống trị lên dân tộc tại 4 nước Trung
Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba và Việt Nam, đang cố t́nh giả mù, giả điếc.
Những kẻ này không
bao giờ bơi ngược được ḍng lịch sử đang chảy xiết. Càng ngu ngốc bám
víu, tội của chúng với dân tộc càng lớn và nhất định sẽ không trốn tránh
được sự trừng phạt của thế hệ tương lai.
Và không loại trừ
khả năng chúng sẽ phải đứng trước vành móng ngựa quốc tế như Slobodan
Milosevich, nhà độc tài cộng sản Yugoslavia (Nam Tư cũ).
Warsaw 26/01/2006.
---------------------------------------------
Tin của hăng thống tấn Ba Lan PAP, Reteurs và nhật báo Gazeta Wyborcza
25/01/2006.
_______________________________________________________________________________
Tưởng Năng Tiến
Ở mỗi thời kỳ, mỗi
dân tộc sẽ phải cam chịu
hay có một số phận xứng đáng
với sự lựa chọn và cách sống của họ.
(Ngô Thế Vinh)
Có lẽ do ảnh huởng
thời tiết của mùa Xuân, và do bữa đó trong không khí có thoang thoảng chút
hương vị Tết, nên tôi uống hơi nhiều. Cao hứng, tôi cất tiếng “ngợi khen”
ông… Vơ Phiến:
- Cái bài anh viết về
những bản thảo cũ của Nhất Linh, đăng trên Thế Kỷ 21 (số tháng 7 năm rồi)
đọc hay quá xá. Sao anh minh mẫn, hóm hỉnh và trí nhớ vẫn c̣n tốt quá trời
quá đất như vậy - há?
Thỉnh thoảng thăm hỏi
và nói với nhau đôi lời chân thành và tử tế - kể cả vào lúc (có hơi) quá
chén như thế - vốn không phải là chuyện vẫn thường xẩy ra giữa hai người
Việt! Bởi vậy, tôi cứ ngỡ là ông Vơ Phiến sẽ cảm động chết luôn và sẽ mỉm
cười (vô cùng) sung sướng.
Tôi lầm. Ổng không
cười (cười gượng cũng không luôn); đă thế, c̣n hoá đăm chiêu rồi bỗng dưng
coi nghiêm và buồn - thấy rơ:
- Tui đọc cuốn Xóm Cầu
Mới của Nhất linh vài chục năm trước, nhiều đoạn bây giờ vẫn c̣n nhớ như in…
Nhưng cái đầu của ḿnh bây giờ lạ lắm, nó chỉ linh hoạt khi nghĩ tới những
chuyện xa xưa, và hay loay hoay t́m về dĩ văng, chớ không thiết tha ǵ đến
tương lai nữa.
Nghe rồi, tôi cũng
thấy buồn luôn, và cũng “hoá đăm chiêu”, đâu chừng… nửa tháng. Ông Vơ Phiến,
dù lập gia đ́nh muộn, vẫn dư sức có một thằng con trai út - lóc nhóc cỡ tuổi
tôi. Tôi trẻ hơn ổng rất nhiều mà sao cái đầu cũng quyết liệt từ chối không
nghĩ tới tương lai nữa. Coi có ghê không chớ? Mà đây không phải chỉ là
“chuyện riêng” của tôi và ông Vơ Phiến đâu nha. Cả dân tộc Việt Nam - bất kể
tuổi nào, dù đang sống nơi đâu - cũng đều như vậy tuốt!
Cầm thử bất cứ một
cuốn đặc san nào đó xuất bản ở hải ngoại mà xem. Khỏi cần coi kỹ, chỉ cần
đọc tựa của mấy bài viết không thôi là cũng đủ thấy ngậm ngùi, xót xa và
buồn rầu hết biết: quê xưa/ chốn cũ, thầy xưa/ trường cũ, chiến trường xưa/
đồng đội cũ, người xưa/ t́nh cũ, ḍng sông xưa/ con đ̣ cũ, xóm làng xưa/ bè
bạn cũ…
Và đó mới chỉ là những
nỗi buồn hạng nhẹ, của những người không nặng kư - chỉ tầm tầm cỡ thường dân
- những kẻ mà tâm sự có thể giải bầy trong một bài thơ nhỏ, hoặc vài ba
trang tùy bút. Những nhân vật quan trọng th́ họ viết nguyên cả một cuốn hồi
kư đàng hoàng.
Cuốn nào cũng đều mang
nặng cả “trời tâm sự”. Đôi khi, tâm sự của người này lại đụng chạm đến tâm
sự của người kia - hoặc của nhóm người kia - nên sinh ra tùm lum xung đột,
hiềm khích, oán thù, tranh chấp… rất ồn ào và (thuờng khi) rất không cần
thiết!
Đó là chưa kể đến
những bài khảo cứu công phu về “chuyện xưa tích cũ” (liên quan đến nhân vật
này, áng văn kia hay những lỗi lầm - trong quá khứ - của tôn giáo này hoặc
tôn giáo nọ), cùng với những ḍng thơ văn hoài cổ… đầy nhóc trong sách báo
xuất bản ở hải ngoại.
Một đám người thua
cuộc, nhà tan cửa nát, hớt ha hớt hải bỏ của chạy lấy người - thoát thân,
rồi nằm buồn rầu thoi thóp ở một góc trời xa lạ - và cứ ngoái trông về cố lư
mà thương nhớ măi bến nước xưa, cây cầu cũ, hay cứ tiếc nuối hoài những ngày
tháng an b́nh (hoặc vàng son) đă mất th́ (tưởng) cũng là chuyện b́nh thường
thôi chớ? Có ǵ lạ đâu mà kiếm chuyện (cà khịa) nẫy giờ vậy, cha nội?
Ư Trời, đừng nói vậy
chớ! Như vậy là gieo tiếng ác và mang tội chết (mẹ) à nha. Tui thiệt t́nh
không (bao giờ) dám kiếm chuyện đâm hơi hay châm chọc ǵ ai. Nói t́nh ngay,
chả qua v́ sợ dĩ văng của chúng ta quá nặng nề khiến mọi người hoá lề mề
(khi xoay trở với hiện tại) và ái ngại khi nghĩ đến tương lai (nếu không
phải là chuyện tương lai của riêng ḿnh) nên tôi thấy có hơi kỳ (và “bàn
ra”) chút đỉnh - vậy thôi.
Hơn nữa - như đă thưa
- cái tâm cảm “nước c̣n cau mặt với tang thương”, không phải chỉ t́m thấy
nơi những kẻ sống ở nước ngoài hay những nguời bại trận. Nhà thơ Nguyễn Duy
(một chiến sĩ và thi sĩ nổi tiếng của phe thắng trận) ghé về thăm quê - sau
hơn một thập niên, kể từ ngày “đất nước được hoàn toàn giải phóng” - cũng đă
không nén được bùi ngùi:
Cha ta cầm cuốc
trên tay
Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa
Lưng c̣ng bạc nắng thâm mưa
Bụng nhăn lép kẹp như chưa có ǵ
(Thanh Hóa - cuối năm
Th́n 1988)
Bây giờ là đầu năm
Tuất, thêm gần hai mươi năm nữa đă trôi qua.
Người dân quê Việt Nam
vẫn cứ sống trong những căn “nhà xơ xác hơn ngày xa xưa”, và vẫn tiếp tục
“cầm cuốc trên tay”- như nông dân của Thời Trung Cổ. Những kẻ sinh sau đẻ
muộn, không c̣n đất để cuốc, dắt díu nhau rời bỏ làng quê, lần vào thành phố
kiếm ăn.
Họ đi xin (nếu không
có máu hay có thân h́nh bán được), hoặc bán sức lao động - dưới mọi h́nh
thức - để sống qua ngày. Giản dị nhất là trở thành cửu vạn. Khỏi phải làm
đơn, đỡ tốn tiền “c̣”, không cần hộ khẩu, và cũng chả lo đến lư lịch - kể cả
loại lư lịch trích ngang - v́ dân cửu vạn chỉ là một thứ phu phen (xuống
cấp) của thời đại mới. Họ là những kẻ sống bên lề, lề đường, của xă hội cộng
sản Việt Nam.
Họ đứng ngồi chờ trực
suốt ngày (và suốt đêm) để đợi người “ới” đi làm. Họ sẵn sàng làm tất cả
việc nặng nhọc và bẩn thỉu: khuân vác, dọn nhà, dọn vườn, móc cống, vét
rănh, thông cầu… Và tiền công th́ hoàn toàn tùy thuộc vào ḷng hảo tâm của
người đối diện!
“Dù cả ngày lao
động nặng nhọc nhưng đến bữa họ cũng chỉ dám ăn qua loa. Có lúc bữa cơm chỉ
là chiếc bánh ḿ hoặc 2. 000 đồng suất cơm trắng với canh. Nhiều người c̣n
không dám thuê nhà trọ. Những hiên nhà, gầm cầu, quán chợ là nơi họ ngả lưng
qua đêm, mặc cho cái rét như kim châm…Người Hà Nội cứ nườm nượp đi sắm Tết,
cành đào cây quất rực rỡ khắp phố nhưng những lao động xa nhà vẫn ngong
ngóng được khách chọn. Và họ cũng chỉ chịu rời Hà Nội vào ngày cuối cùng của
năm
(http: //www.
vnexpress. net/Vietnam/Xa-hoi/2006/01/3B9E6521/).
Dễ có đến chừng nửa
dân số Việt Nam đang sống (dở) và chết (dở) - như thế - trong những căn “nhà
xơ xác” ở thôn quê, hay trên những vỉa hè ở phố thị. Với họ, khi “bàn” đến
tương lai, có lẽ tất cả sẽ đều nghĩ ngay đến một nắm xôi - cho buổi sáng sớm
mai!
Phần dân chúng c̣n lại
ở Việt Nam th́ hẳn là phải có một mức sống khả kham (hoặc khá giả) hơn như
vậy. Dù ở thôn quê hay thành thị họ cũng có đủ cơm ăn áo mặc, có nhà cửa
(hay “cơ ngơi”) tử tế. Dự phóng về tương lai của họ, đối với không ít kẻ, đă
vượt qua những nhu cầu vật chất “cơ bản” (như đồng hồ hay xe đạp…) từ lâu.
Với những người này - cũng như phần lớn những đồng bào “ăn nên làm ra” của
họ ở nước ngoài - khi nói đến chuyện mai sau, họ có thể nghĩ đến tuốt… cái
sân sau (đang trồng cây ăn trái) hoặc mảnh bằng trước mặt của đứa con vừa
(hay sắp) vào đại học. Không ít kẻ c̣n lo xa cả đến một chỗ để nằm, sau khi
tắt thở!
Chung cuộc -xem ra -
dường như chỉ có những người đang nắm quyền ở Việt Nam là có khả năng thích
ứng với thực tại, và có viễn kiến về tương lai. Sau khi mở cửa với thế giới
bên ngoài, chấp nhận luật chơi của kinh tế thị trường, đến khoá họp trung
ương đảng kỳ V - từ 18 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3 năm 2002 - CSVN đă chính
thức cho phép đảng viên được phép làm kinh doanh tư nhân.
Quyết định “lột xác”
biến (cái rẹt) từ cộng sản sang tư sản của họ, tiếc thay, đă không được dân
Việt hoan nghênh hayï khích lệ. Không những thế, một công dân hiện đang sống
trong nước đă đưa ra một nhận định (vô cùng) khinh thị - như sau:
“Như thế là mọi
chuyện bất chính, bất luơng, bất hợp pháp nay trở thành danh chính ngôn
thuận hết. Cứ việc nhân danh Đảng mà phù phép biến hoá của công thành của
riêng, xí nghiệp quốc doanh thành xí nghiệp tư nhân, của tham nhũng hối lộ
thành bổng lộc hợp pháp. Một tuyệt chiêu lưu manh vô địch” (TTN, “Tư Bản
Đỏ, ” Đàn Chim Việt, Sept. 2002).
“Tuyệt chiêu” này cũng
không được tán thưởng bởi những người Việt khác, dù họ đang sống ở (tận)
nước ngoài:
“Đừng để bị huyền
hoặc v́ danh xưng “tư sản đỏ”. Tư sản không có màu sắc, không có tư sản đỏ
và tư sản xanh, chỉ có tư sản kinh doanh trong một nước dân chủ pháp trị
lành mạnh và tư sản lưu manh trong một chế độ độc tài tùy tiện. Tư sản đỏ
tại Trung Quốc và Việt Nam hiện nay là bọn tư sản lưu manh. Chúng không kinh
doanh, chúng bóp nghẹt kinh doanh và làm giàu bằng hối mại quyền thế. Chúng
không làm kinh tế thị trường, chúng bóp nghẹt thị trường và làm giàu bằng
đặc quyền đặc lợi. Chúng không mưu lợi cho đất nước, chúng cướp đoạt tài
nguyên và tiềm năng đất nước để mưu lợi cho riêng chúng. Chúng không cần tài
năng dù chúng đứng đầu những công ty lớn, v́ chúng không phải cạnh tranh với
ai cả. Chúng không cởi mở và tiến bộ dù chúng đi xe hơi sang trọng và du
lịch khắp thế giới. Chúng càng không phải là một chặng đường trong cuộc
chuyển hóa về dân chủ, trái lại chúng chống lại cuộc đấu tranh cho dân chủ
để giữ nguyên đặc quyền đặc lợi”. (Nguyễn Gia Kiểng, “Ai Cầm Quyền, ”
Thông Luận, Dec. 2002).
Khi mà gần nửa dân tộc
chỉ nghĩ được tới nắm xôi, nửa c̣n lại cũng không mấy kẻ nghĩ xa hơn… tô phở
- hay bún ḅ hoặc hủ tíu… ǵ đó - và những người lănh đạo đất nước lại là
những kẻ “lưu manh vô địch”, chỉ chăm chăm “cướp đoạt tài nguyên và tiềm
năng đất nước để chỉ mưu lợi riêng cho chúng” th́ chuyện non sông (“gấm
vóc”) kể như là… rồi - chớ c̣n (khỉ) gỉ nữa?
Vậy mà vẫn c̣n có một…
nhúm người - có tên là Nhóm Bạn Cửu Long, http: //mekongriver. org - cứ băn
khoăn măi về sinh mệnh của một ḍng sông. Theo họ: “Cửu Long Cạn Ḍng (là)
Biển Đông Dậy Sóng”. Đây cũng là tên một tác phẩm của nhà văn Ngô Thế Vinh,
đă được nhà Văn Nghệ (Hoa Kỳ) tái bản năm 2002.
Khi trả lời phỏng vấn
của Tập San Hợp Lưu (số 56, tháng 12/2000 & 1 năm 2001 - do Nguyễn Mạnh
Trinh thực hiện) Ngô Thế Vinh đă bầy tỏ sự quan ngại về t́nh trạng toàn vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long có nguy cơ bị tràn ngập bởi nước mặn, với hậu quả
là”… vĩnh viễn chẳng c̣n đâu một nền Văn Minh Miệt Vườn và cũng không c̣n
đâu vựa lúa để nuôi sống ngót 100 triệu dân của cả nước”.
Ông Ngô Thế Vinh có lo
xa quá không? Không đâu, chỉ vài năm sau là nỗi lo của ông ấy đă trở thành…
hiện thực. Theo báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 11 tháng 12 năm 20005, tỉnh Cà Mau
có gần 7. 000 ha diện tích lúa tôm bị chết yểu, nông dân hết cách khôi phục.
Huyện Trần Văn Thời trồng được 3. 994 ha diện tích lúa tôm th́ chết non gần
3. 300 ha. Tại sao vậy? Theo PGS TS Nguyễn Hữu Chiếm, trưởng bộ môi trường
và quản lư tài nguyên thiên nhiên đại học Cần Thơ, nguyên nhân sâu xa là do
cấu trúc hạ tầng của ḿnh xả mặn không kịp - nghĩa là hệ thống của ḿnh
không c̣n tự nhiên nữa
(http: //www. tuoitre.
com. vn/Tianyon/Index. aspx? ArticleID=112836&ChannelID=3).
Nếu “cả nuớc” - từ
trong ra ngoài - chỉ quay đầu nh́n về dĩ văng (để nuối tiếc hay hậm hực)
hoặc chỉ cúi đầu (v́ bận kiếm ăn hay v́ sợ bị ở tù), và “trọn gói” non sông
mang giao cho những kẻ “lưu manh” - những kẻ đủ nhẫn tâm để tháo cạn nước
của một ḍng sông và đốt cháy nguyên một khu rừng, khi cần vài con cá nướng
trui cho bữa ăn chiều trong gia đ́nh họ - th́ hiểm họa đang đe doạ ḍng sinh
mệnh của cả dân tộc Việt, chứ đâu có riêng chi một ḍng sông.
Nói chuyện tương lai,
giữa những mùa xuân ly loạn, đă không có ǵ vui mà (dám) c̣n làm cho không
ít người buồn. Nếu lỡ như vậy th́ tôi mong được sự bao dung và độ lượng của
“toàn thể đồng bào” trong ba ngày Tết. Nếu không có Tết, và không có rượu,
bà nội mẹ tui cũng không dám làm mích ḷng - cùng lúc - cả đống người như
thế!
______________________________________________________
Thursday, January 26,
2006
Bruce J. Dickson
Nguyễn Ước dịch
Với sự nổi bật của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Đại hội Thứ 16 của Đảng này vào tháng Mười
Một năm 2002 bằng một ban lănh đạo mới và một chương tŕnh cập nhật hóa, hệ
thống chính trị đang nắm quyền kiểm soát đó có triển vọng chính trị nào?
Giải quyết nhẹ nhàng
việc chuyển giao quyền lực như vừa qua chứng tỏ một cấp độ ổn định có tính
định chế chưa từng thấy bên trong giới tinh hoa chính trị (elites) của Trung
Quốc. Và tuy hiện nay Đảng Cộng sản Trung Quốc có th́ giờ để nh́n sự tàn lụi
dần cái sức mạnh của hạ tầng cơ sở quần chúng, nạn nhân của nhiều trầm cảm
phát sinh từ sự hội nhập tăng theo mức lũy tiến của Đảng cùng với một xă hội
đang thay đổi lẹ làng. Trong khi đó, các chính sách “cải cách và mở cửa” của
Đảng Cộng sản Trung Quốc có những hệ quả ngoài dự tính, làm yếu thêm viễn
tượng về sự tiếp tục độc quyền chính trị của nó: v́ khu vực tư nhân đang
bành trướng, Đảng không c̣n kiểm soát nơi chốn nhân dân ở và làm việc; v́ sự
lan rộng của việc tiếp cận internet, vô tuyến truyền h́nh qua vệ tinh viễn
thông và truyền thông tự chọn, Đảng không c̣n kiểm soát loại thông tin nào
người dân đang có hoặc nó được phổ biến như thế nào; và v́ sự kết hợp những
lợi tức sẵn có để chi tiêu rộng răi hơn và sự giải phóng chính trị, Đảng
không c̣n kiểm soát những ǵ dân chúng làm trong lúc nhàn rỗi. Để giải quyết
những hệ quả đó, Đảng dùng một sách lược mới. Trong chừng mực thiết yếu của
sách lược đó, nó tái định hướng một cách có hiệu quả mối quan hệ của Đảng
với xă hội Trung Quốc, và tới một mức độ nào đó, phát sinh câu hỏi được
nhiều người chia sẻ về sự sinh tồn lâu dài của một chế độ toàn trị đang giải
phóng và hiện bị khống chế bởi một đảng độc nhất: Việc thích nghi với môi
trường kinh tế và xă hội mới sẽ làm mạnh hoặc quả thật làm yếu sự tiếp tục
nắm quyền lực của Đảng?
Từ bên trong lẫn bên
ngoài Trung Quốc, nhiều nhà quan sát kỳ vọng rằng sự tiếp tục cải cách kinh
tế và tư nhân hóa cùng hội nhập hệ thống quốc tế sẽ dẫn tới những phát triển
kinh tế và rồi lần lượt đẩy mạnh những h́nh thức phát triển xă hội - đặc
biệt sự ló dạng một xă hội dân sự, và tối hậu, sự khởi đầu mạnh mẽ công cuộc
dân chủ hóa. Đây là một quan điểm hấp dẫn, đặt căn bản trên những cái nh́n
thấu suốt của lư thuyết về hiện đại hóa; chúng thường bị sỉ vả nhưng vẫn
được nhiều người ưa chuộng. Tuy thế, sự thật th́ phát triển xă hội và kinh
tế chưa là đáp ứng “tự nhiên” đưa dân chủ tới gần: Trong khi bị liên quan
tới các cấp độ phát triển, dân chủ cũng là những diễn tiến chính trị rất cá
biệt, được thúc đẩy một cách cá biệt bởi những người làm chính trị (cả bên
trong lẫn bên ngoài chế độ). Đảng Cộng sản Trung Quốc biết như thế nên nó
hành động để ngăn chặn những yêu cầu mang tính tổ chức đang dậy lên từ bên
ngoài Đảng nhằm mục đích thay đổi chính trị.
Chiến lược của Đảng
Cộng sản Trung Quốc gồm hai mũi giáp công: Nung đúc những quan hệ nặng tính
liên hiệp và đồng thời bổ dụng giới tinh hoa kinh tế và kỹ thuật. [1] Vào
đầu thập niên 1980, thấy sự thành lập vô số các tổ chức kinh tế, xă hội và
chuyên gia, các quan chức của Đảng hoặc chính phủ bắt đầu khống chế các chức
vụ chóp bu của nhiều tổ chức đó, cho phép nhà nước bỏ rơi ngay tức khắc
những “khát vọng chuyên chế” của nó và duy tŕ sự kiểm soát có liều lượng
trên các nhóm có ảnh hưởng nhất trong xă hội. [2] V́ lư do ấy, rất ít các tổ
chức đó được hưởng ngay cả mấp mé cái cấp độ tự quản mà các kiểu mẫu có tính
tiêu chuẩn hóa của “xă hội dân sự” đ̣i hỏi. Có điều không tổ chức nào t́m
kiếm cấp độ tự quản ấy, v́ tại Trung Quốc, tự quản th́ giống như bất lực.
Thay vào đó, họ thích được nằm sâu bên trong nhà nước, không khác ǵ ư thích
của các tổ chức tương tự tại hầu hết các nước Đông Á và các xứ đang phát
triển. [3]
Trong khi đó, Đảng
tuyển mộ loại chuyên gia kinh tế và kỹ thuật cần thiết để đẩy mạnh công cuộc
hiện đại hóa kinh tế. Ở đây, lư do cơ bản tự nó có hai nếp gấp: Thứ nhất,
Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn được móc nối với những loại người nó cần để
thúc đẩy tăng trưởng liên tục mà vốn là nguồn gốc chủ yếu của lời tuyên xưng
đương đại của Đảng về sự cai trị có tính chính thống của nó. Thứ hai, Đảng
Cộng sản Trung Quốc muốn ngăn chặn những nỗ lực phát xuất từ các nhóm tinh
hoa mới này nhằm hoặc thành lập các nhóm của chính họ trong vị trí đối lập
với Đảng hoặc đứng chung hàng ngũ với những kẻ đối lập với chế độ. Loại bổ
dụng này không giống với lối xây dựng Đảng từ trước tới nay của Đảng Cộng
sản Trung Quốc với đối tượng Đảng là người dân thường - chủ yếu là người lao
động và nhà nông - và tiến hành công tác đó bằng việc lập các tiểu tổ tại
chỗ họ sinh sống và làm việc. Nhưng hiện nay, Đảng ngày càng đặc biệt ra sức
nhấn mạnh tới những người có tài năng phát triển kỹ thuật và doanh nghiệp:
Trong khi có khoảng 5% dân số tùy thuộc vào Đảng th́ tỉ lệ đảng viên trong
giới doanh gia tư nhân từ 13% năm 1993 lên tới khoảng 20% năm 2000. Ngược
lại, các công nhân kỹ nghệ và nông nghiệp hiện nay chiếm phần thiểu số trong
tổng số đảng viên, họ từ 63% năm 1994 xuống c̣n 45% năm 2002. Đảng cũng tạo
ưu tiên để thu hút các chuyên gia có học. Tỉ lệ đảng viên có tŕnh độ giáo
dục trung học hoặc cấp cao hơn từ 17.8% năm 1984 lên tới 52.5% năm 2002. Và
trong Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tỉ lệ các ủy
viên có bằng đại học hoặc cao đẳng từ 55.5% năm 1982 lên tới 98.6% năm 2002,
c̣n tỉ lệ của những người có bối cảnh kỹ thuật (nghĩa là khoa học, kỹ thuật
hoặc quản trị) từ chỉ 2% năm 1982 lên tới 57% năm 1997. Cả 9 ủy viên của Ban
Thường vụ Bộ Chính trị được tuyển chọn hồi tháng Mười Một năm 2002 đều là
chuyên gia khoa học kỹ thuật.
Hậu quả của những
chuyển đổi này là Đảng Cộng sản Trung Quốc tái định nghĩa mối quan hệ của nó
với xă hội Trung Quốc - một sự tái định nghĩa được diễn tả bằng khẩu hiệu
“Tam đại biểu - Ba đại diện”: Thay v́ mô tả ḿnh đơn giản là người tiên
phong của giai cấp vô sản, Đảng lúc này tuyên bố đại diện cho: 1. “Các lực
lượng sản xuất tiên tiến” của xă hội, nghĩa là đặc biệt các giai cấp trung
lưu thành thị càng ngày càng đông đảo, gồm các nhà kinh doanh, các chuyên
viên, các chuyên gia kỹ thuật cao; 2. Sự cổ vũ “văn hóa tiên tiến”, như đối
lập với những truyền thống “phong kiến” hoặc chủ nghĩa duy vật chất hiện
đại; và 3. Các quyền lợi của đại đa số nhân dân Trung Quốc. Chính sự tái
định hướng này của Đảng, hơn bất cứ những sắp xếp việc kế thừa được định chế
hóa ở cấp thượng đỉnh, tạo ra tiềm năng thật sự cho sự thay đổi chính trị.
Cấm hay không cấm
Cả hai sách lược ấy
đều có nguy cơ: Một đằng, các tổ chức mới có thể tự triển khai bản sắc của
chúng và từ khước quyền lănh đạo của Đảng; đằng khác, các đảng viên mới ấy
có thể đẩy Đảng tới hướng tuyệt thông với các thành phần cơ bản và chính
thống của nó. Và quả thật, chính những quan tâm này làm dậy lên những cuộc
tranh luận hiềm khích bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc suốt thập niên
1980, đặc biệt về tư cách đảng viên của doanh gia. Vào tháng Tám năm 1989 -
không lâu (cũng không phải ngẫu nhiên) sau khi chế độ buộc ḷng phải đàn áp
những cuộc biểu t́nh thân dân chủ của quần chúng trong năm đó tại Bắc Kinh
và hàng trăm thành phố khác ở Trung Quốc - các lănh tụ chính thống của Đảng
Cộng sản Trung Quốc cấm ngặt việc kết nạp doanh gia. Lệnh này làm chậm lại
sự sinh sôi nảy nở của thành phần doanh gia trong Đảng nhưng c̣n lâu lắm mới
chấm dứt được sự kết nạp đó: Các viên chức Đảng địa phương thường làm lơ
lệnh cấm ấy, trong khi các đảng viên hiện hành th́ xói ṃn nó bằng việc bản
thân họ càng ngày càng đi vào doanh nghiệp tư nhân.
Suốt thập niên 1990,
tính chất thích đáng hay không của lệnh cấm ấy được thảo luận kỹ lưỡng trên
các tạp chí của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Người ủng hộ th́ ghi nhận sự mâu
thuẫn giữa các biểu đồ nhân số đang thay đổi của Đảng và truyền thống xă hội
chủ nghĩa trong việc ủng hộ các quyền lợi của người lao động, đặc biệt của
tầng lớp nông dân, chống lại những kẻ thuộc về tư bản tư nhân, đồng thời
cảnh cáo rằng số lượng ngày càng tăng các doanh gia ở trong Đảng đang xói
ṃn tính chặt chẽ của Đảng và thậm chí đang đe dọa sự sống c̣n của Đảng.
Người chống lại lệnh cấm th́ đưa lời tranh căi thực dụng hơn. Họ tuyên bố,
các doanh gia mới này sở dĩ thành công là do bởi các chính sách của Đảng, và
không nên trừng phạt họ v́ họ làm theo chính sách của Đảng; thêm nữa, sự
thành công của họ làm lợi cho Đảng và cho đất nước bằng việc tạo ra công ăn
việc làm mới và gia tăng sự thịnh vượng chung, qua đó nâng cao tính chính
thống của chế độ; và cuối cùng, nếu các doanh gia tiếp tục bị cấm vào Đảng
th́ lúc đó họ có khả năng tổ chức chống lại Đảng, v́ các tài nguyên kinh tế
ngày càng tăng của họ sẽ chuyển đổi, một cách không tránh được, thành sức
mạnh hoặc ảnh hưởng chính trị.
Vào ngày 1 tháng Bảy
năm 2001, kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí
thư Giang Trạch Dân chính thức thúc giục hủy lệnh cấm đó - nhưng ông thất
bại, kể cả việc giải quyết vấn đề đó. Các sách báo xuất bản dùng đường lối
Mác-xít chính thống để phê b́nh kịch liệt và chỉ trích rằng lời phát biểu ấy
của họ Giang làm hại quyền lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc, rồi họ đi rất
xa tới độ cáo buộc ông vi phạm kỷ luật Đảng qua việc đề nghị một sáng kiến
gay cấn như thế mà không có sự xem xét cặn kẽ và thích đáng trong nội bộ
Đảng. Giang phản ứng bằng cách đóng cửa các tạp chí đó và như thế, bịt miệng
tiếng nói công khai của chủ nghĩa Mác chính thống của Đảng. Trong kỳ họp
quốc hội tháng Mười Một năm 2002, đề nghị kết nạp doanh gia và lư thuyết của
họ Giang về “tam đại biểu” được ghi bổ sung vào bản Hiến pháp nhưng cuộc
tranh luận ấy vẫn tiếp tục nơi hậu trường. Kẻ chống lại sự bổ sung đó th́
tranh căi rằng chính sách kinh tế mới của Trung Quốc làm chuyển thể xă hội
Trung Quốc và có nguy cơ tạo ra sức ép chính trị theo một cách thức và trên
một quy mô mà sẽ đưa sự cai trị của Đảng tới một chung cuộc. Người ủng hộ
th́ phản bác rằng việc đi theo định nghĩa mới về vai tṛ của Đảng và việc mở
hàng ngũ Đảng ra cho các quyền lợi kinh tế đa dạng của Trung Quốc đương đại
(mà trong quá khứ, nhiều đại diện của nó bị bức hại như là các “kẻ thù của
giai cấp”) sẽ giúp tăng cường chứ không làm tiêu hao quyền cai trị của Đảng.
Cùng lúc đó, hiện ra
rơ ràng trước mắt là các tổ chức quần chúng của Đảng đang bị phân ră. Trong
khi Đảng có mặt ở mọi chốn lao động của nền kinh tế quy hoạch thuở trước,
th́ nay rơ ràng là nó vắng mặt tại những chốn lao động của khu vực tư nhân
đang ngày càng tăng. Đảng Cộng sản Trung Quốc nay chỉ phát triển được cơ sở
không tới 1% trong hơn một triệu rưỡi các xí nghiệp tư nhân đang xuất hiện
trên toàn xứ sở và nó chỉ tuyển mộ được một ít đảng viên trong các lực lượng
lao động. Ở nông thôn, đất sống của 70% trong tổng số 1.3 tỉ dân số Trung
Quốc, vào giữa thập niên 1990, Đảng tuyên bố có một nửa các tổ chức nông
thôn của Đảng không hoạt động v́ hiếm có người chịu gia nhập Đảng. Dù Đảng
bỏ ra nhiều nỗ lực để tái tiếp tế sinh lực cho các cơ sở của ḿnh ở nông
thôn, những báo cáo về t́nh trạng èo uột của chúng và mức gia nhập thấp vẫn
tiếp tục được gởi lên trên và chuyền quanh. Người ta ước lượng có khoảng 2.5
triệu đảng viên, hầu hết là thanh niên, đang gia nhập “dân số nổi trôi” của
đám dân thiên di t́m việc làm tại các thành phố. Như thế, sự có mặt của Đảng
tại vùng nông thôn lại yếu ớt thêm. Đối với hệ thống Lênin-nít, thành tố
quyết định của nó là năng lực giám sát và phê chuẩn động thái kinh tế và xă
hội; hệ thống ấy có được ổn định hay không là tùy vào năng lực thiết yếu đó.
[4] Như Samuel P. Huntington ghi nhận, sức mạnh của bất cứ chế độ toàn trị
độc đảng nào cũng tùy thuộc, trên một quy mô lớn, vào sức mạnh của đảng cai
trị. Khi đảng suy yếu th́ chế độ mất ổn định. [5]
Liên hiệp chủ nghĩa và
bổ dụng, hai sách lược song sinh của Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể nói là
tương tự với hai thành tố gom vào và loại trừ của chủ nghĩa liên hiệp của
nhà nước mà Alfred Stephan nhận ra: Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn gom vào nó
những người nào thuộc giới tinh hoa về kinh tế và kỹ thuật mà không đe dọa
nó bằng một nghị tŕnh chính trị khác, đồng thời nó muốn loại trừ những
người nào có khả năng đe dọa nó; Đảng muốn gom vào nó các phần tử nào, các
mảng nào của xă hội dân sự đang xuất hiện mà kinh tế là quyền lợi chủ yếu
của chúng không thành vấn đề đối với nó; cùng lúc đó, Đảng loại trừ và thỉnh
thoảng đàn áp các phần tử thích tranh luận chính trị và có nhiều khả năng
tạo ra thách đố cho Đảng, thí dụ, Đảng Dân chủ Trung Quốc hoặc Pháp Luân
Công, một tập đoàn gần như có tính cách tôn giáo và hấp dẫn quần chúng. Như
Michael W. Foley và Bob Edward ghi nhận, nếu một xă hội dân sự đầy khí lực
là thiết yếu cho các nền dân chủ ổn định th́ nó lại có khuynh hướng tạo
thành nguy cơ lớn lao cho các chế độ toàn trị. [6] Đảng Cộng sản Trung Quốc
nhận thức rất rơ sự dị biệt giữa lănh vực kinh tế bên trong xă hội dân sự
của Trung Quốc, một lănh vực mà quyền lợi của nó tương hợp với quyền lợi của
Đảng, với lănh vực chính trị nhỏ hơn mà nguy hiểm hơn đang tiềm tàng sự
thách đố. [7] Sách lược mà Đảng Cộng sản Trung Quốc vạch ra là ôm chặt lănh
vực kinh tế, trấn áp lănh vực chính trị, và ngăn chặn sự ly khai chống lại
Đảng của giới tinh hoa kỹ thuật và kinh tế. Như kẻ đánh bạc liều lĩnh, Đảng
cho rằng sách lược ấy là đúng đắn và có thể thực hiện lâu dài, nhưng như Ken
Jowittt đă cảnh cáo, rằng chính giai đoạn gom vào này có thể là bước đi
trước làm tuyệt chủng, một cách giản dị, các đảng Lênin-nít hơn là ngăn chặn
sự tuyệt chủng đó. [8]
Cái ǵ đang lâm nguy
Các nhà lănh đạo Trung
Quốc đang héo hon v́ những đe dọa đối với sự ổn định của hệ thống của họ.
Thật không dễ thấy sự mỏng manh của Đảng Cộng sản Trung Quốc v́ từ năm 1989
tới nay, nó không phải đối mặt với một thách đố trực tiếp nào trong lúc phải
xoay xở để sống sót với những phí tổn cực lớn cho uy tín của nó ở bên trong
Trung Quốc và tiếng tăm của nó ở hải ngoại. Kể từ lúc đó, những người phản
kháng cũng thận trọng để sống sót dưới h́nh thức tổ chức lỏng lẻo và không
liên kết nhau, đồng thời tránh việc chất vấn về căn bản chính thống của hệ
thống chính trị của chế độ hiện hành. Nhưng bất chấp những thận trọng đó, sự
phản kháng đang ngày càng tăng trên khắp xứ sở, ở cả thành thị lẫn nông
thôn. [9] Hầu hết những sự cố ấy đều liên quan tới các vấn đề cơ bản: Tiền
lương không trả, hợp đồng bị cắt ngang, tịch thu tài sản, đánh thuế phi
pháp, các giấy hẹn thay cho tiền mặt dùng chi trả các hợp đồng cung cấp lúa
gạo và các loại thực phẩm khác, và vân vân. Đảng Cộng sản Trung Quốc đối phó
lại bằng một hỗn hợp củ cà rốt và cây gậy, vừa đáp ứng các yêu cầu về tiền
bạc của những người phản kháng, vùa bắt bỏ tù những kẻ đứng đầu các cuộc
phản kháng.
Một cách kiên quyết và
thỉnh thoảng tàn nhẫn, Đảng bảo vệ sự độc quyền của nó đối với các hội đoàn
có tính chính trị. Thậm chí một phong trào cực kỳ vô hại như phong trào
khuyến khích sinh viên bảo vệ môi sinh bằng cách đừng dùng loại đũa chỉ dùng
một lần, cũng đă cẩn thận không tự tổ chức ḿnh, v́ sợ bị đánh giá là một
nhóm có tiềm năng đối lập và rồi những người đứng đầu phong trào có nguy cơ
bị đuổi học hoặc thậm chí bị bỏ tù. Sự vắng mặt các cuộc phản kháng có quy
mô lớn sau một thập niên có những gương mẫu đặc biệt - từ Bức tường Dân chủ
năm 1978-79 tới những cuộc phản kháng của đại chúng tại Quảng trường Thiên
An Môn năm 1989 - không thể được đánh giá một cách đáng tin cậy là dân chúng
đang măn nguyện, nhưng đó chỉ là phản ứng “có lư trí” trước một chế độ từng
chứng tỏ nó “máu lạnh” tới ngần nào trong ư chí trấn áp và khả năng trấn áp
những ai đ̣i hỏi thay đổi chính trị sâu rộng hơn. [10] Dù chế độ ra sức đặt
căn bản tính chính thống của nó trên sự phát triển kinh tế, nhưng đi kèm với
phát triển kinh tế là sự gia tăng của tham nhũng và bất b́nh đẳng, mỉa mai
thay, cùng lúc, đă và đang xói ṃn tính chính thống. Có điều tự thân sự ủng
hộ yếu ớt mà nhân dân đang dành cho Đảng không đe dọa nền cai trị của Đảng.
Như Adam Przeworski tranh căi rằng: Sự chú ư mà người ta dành cho “tính
chính thống” của một chế độ thường bị đặt sai chỗ: Cái quan trọng hơn (sự
ủng hộ của nhân dân) là sự thiếu vắng cái có khả năng thay thế có hiệu quả.
[11] Và Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công trong việc ngăn chặn cái có khả
năng thay thế nó. Nó bằng ḷng chấp nhận con số ngày càng tăng những cuộc
biểu t́nh rời rạc, trong chừng mực chúng đừng hiệp nhất hoặc tổ chức thành
nhóm quyền lợi xă hội có thể hoạt động lâu dài. Điều ấy cho phép Đảng tiếp
tục đàn hồi, khi co khi giăn, trong việc tối thiểu hóa nhu cầu thích nghi về
chính trị. Nhưng nó cũng có ư nghĩa rằng không có một lực lượng xă hội tự
quản và chặt chẽ mà khi lâm vào thời kỳ khủng hoảng, Đảng có thể thương thảo
với nó để hoặc đưa tới một giải pháp êm thấm hoặc một sự chuyển tiếp được
“thỏa ước” rất đỗi khó khăn.
Thay đổi chính trị và
xă hội đang diễn ra tại Trung Quốc có những hệ quả chính trị nào? Suốt kỷ
nguyên sau Mao, nhiều người quan sát ghi nhận sự bất tương hợp của các định
chế Lênin-nít và nền kinh tế thị trường đang tăng trưởng; họ tiên liệu rằng
tới một lúc nào đó, các hệ thống chính trị và kinh tế ấy sẽ đưa tới một ḥa
điệu căn bản, có thể bằng cải cách có tính dân chủ hơn là bằng sự khôi phục
việc quy hoạch có tính tập trung. Cho tới lúc này, Đảng Cộng sản Trung Quốc
đang gây trở ngại cho các kỳ vọng đó và sự bất tương hợp ấy vẫn c̣n. Dù vậy,
nhiều người quan sát vẫn tiếp tục mường tượng rằng công cuộc chuyển thể
Trung Quốc thành một thực thể dồi dào sinh lực với tiềm năng thương mại lớn
lao cuối cùng sẽ đưa tới sự chuyển tiếp dân chủ tương đối êm thấm. [12]
Nhưng không phải ai cũng lạc quan như thế. Những khủng hoảng kinh tế và tài
chánh đang hiện ra lờ mờ ở Trung Quốc khiến một số người tiên đoán sự sụp đổ
của chính quyền Trung Quốc, dù trong số những người ấy chẳng ai có tham vọng
tiên đoán sự sụp đổ ấy sẽ xảy ra vào thời điểm nào hoặc sau sự sụp đổ sẽ là
cái ǵ. [13]
Cả hai viễn ảnh kể
trên đều bỏ sót các khía cạnh quan trọng của toàn cảnh. Người tin rằng sự
chuyển thể chế độ của Trung Quốc đi liền với, một cách không tránh được, sự
hiện đại hóa kinh tế, đă không để ư tới vấn đề tác nhân trung gian - nghĩa
là vấn đề ai sẽ lănh đạo cuộc chuyển thể và nó sẽ cho cuộc chuyển thể đó một
h́nh thù như thế nào; trong bối cảnh toàn trị, sự dân chủ hóa là kết quả
không thể tránh của sự tăng trưởng kinh tế hơn là hậu quả hành động của các
lănh tụ chính trị bên trong chế độ và các lực lượng dân chủ bên ngoài xă hội
nói chung. Hầu hết các doanh gia tư nhân và giới tinh hoa kỹ thuật của Trung
Quốc đều cho thấy họ ít quan tâm tới việc cổ vũ cho dân chủ hóa. Cộng đồng
của những người bất đồng chính kiến tại Trung Quốc đă và đang bị Đảng xói
ṃn rất hiệu quả bằng cách bỏ tù hoặc trục xuất ra nước ngoài những lănh tụ
nổi tiếng nhất; trong khi đó, giữa các lănh tụ ấy lại có xung khắc cá nhân
và không tín nhiệm nhau - đặc biệt giữa những người sống lưu vong - gây trở
ngại cho một sự hợp tác có hiệu quả hoặc tuyên truyền một thông điệp hợp
nhất.
Xét theo chuỗi t́nh
huống ấy th́ thật khó xác định một trung gian nào có khả năng làm tác nhân
cho công cuộc đổi thay chính trị có tính dân chủ. Mặt khác, người tiên đoán
sự sụp đổ của chế độ cộng sản th́ không để ư tới những tài nguyên chính trị
mà Đảng hiện có: các tổ chức có tính chính trị, nghĩa là sự tiếp tục vắng
mặt của tổ chức đối lập, và sự tiếp tục chấp nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc
của hầu hết nhân dân Trung Quốc như một loại h́nh sinh hoạt chính trị độc
nhất hiện có trong nước. Cùng lúc ấy, Đảng tiếp tục là nguồn bảo trợ chủ yếu
cho công ăn việc làm và các cơ hội kinh doanh. Đảng cũng đang tự quấn quanh
thân nó lá quốc kỳ Trung Quốc giữa lúc ḷng yêu nước đang gia tăng, biến sự
phê b́nh Đảng thành một hành động trông có vẻ không ái quốc. Thêm nữa, Đảng
làm cho quần chúng nản ḷng ủng hộ sự đổi thay chính trị bằng sự nơm nớp sợ
hăi rằng sẽ có t́nh trạng bất ổn đi liền với công cuộc dân chủ hóa. Và nhiều
người tại Trung Quốc chấp nhận lời tuyên bố của Đảng Cộng sản Trung Quốc
rằng chế độ dân chủ th́ không thích hợp với nền văn hóa Trung Quốc, v́ thế,
làm giảm thiểu thêm nữa cái sức ép buộc Đảng phải cam kết cải cách chính trị
sâu rộng hơn.
Loay hoay mày ṃ măi
Trong các điều kiện
ấy, kịch bản có khả năng xảy ra nhất về một tương lai có thể thấy trước là
Đảng Cộng sản Trung Quốc loay hoay măi với sách lược thích nghi có giới hạn
của nó, liên hiệp các quyền lợi mới trong khi đề kháng sức ép của khát vọng
thay đổi chính trị. Đây không chỉ là kịch bản có khả năng xảy ra nhất mà c̣n
là kịch bản tốt lành nhất đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc, v́ những đổi
thay đang diễn ra về xă hội và chính trị có khuynh hướng làm tiêu hao hơn là
làm vững mạnh địa vị đảng cai trị của nó. Có khả năng xảy ra là sự tăng
trưởng kinh tế và tư nhân hóa sẽ làm Đảng suy yếu qua sự tiếp tục băng hoại
của các tổ chức quần chúng của Đảng và sự tiếp tục suy yếu khả năng của Đảng
trong việc giám sát và kiểm soát các khuynh hướng xă hội đang chiếm ưu thế.
Trong khi Trung Quốc
đang kinh qua cải cách chính trị nhiều hơn các nhà quan sát thừa nhận, [14]
th́ sự quy hoạch cải cách đó làm cho hệ thống toàn trị hoạt động hữu hiệu
hơn chứ không làm cho nó đáp ứng hơn sức ép đ̣i thay đổi của xă hội. Cùng
lúc đó, không thể chối căi rằng các sức ép ấy đang gia tăng. Câu hỏi là liệu
Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể điều tiết chúng trong khuôn khổ Lênin-nít
thiếu yếu của nó hay không. Và căn cứ vào lịch sử của Đảng Cộng sản Trung
Quốc và kinh nghiệm của các đảng Lênin-nít khác, câu trả lời có khả năng là
không. Trước hết, chủ nghĩa Lênin bất tương hợp với sự xuất hiện một xă hội
dân sự chính cống; khát vọng chủ yếu của các đảng ấy là nhấn mạnh lên đường
dọc của quyền lực và ngăn chặn các loại dây liên kết hàng ngang của các tổ
chức tự trị vốn là nền tảng của xă hội dân sự. Thứ đến, Trung Quốc thiếu các
định chế có khả năng làm kênh vận chuyển sự tham gia chính trị mà yêu cầu
mỗi ngày một tích cực hơn. Chính xác là v́ Đảng Cộng sản Trung Quốc quá hữu
hiệu trong việc bảo vệ độc quyền chính trị của nó và việc trấn áp thật sự
các tổ chức tự quản nên sự phản kháng của quần chúng có khuynh hướng leo
thang, và tới khi xảy ra th́ nó vượt quá tầm kiểm soát. Hễ lúc nào Đảng Cộng
sản Trung Quốc tỏ vẻ đang cân nhắc hoặc đang khích lệ cải cách chính trị th́
lúc đó, các biến cố xảy ra trầm trọng thêm từng ngày cho tới khi lănh đạo
Đảng cảm thấy bị thúc ép phải ra tay đàn áp các phong trào cá biệt của quần
chúng đang tạo sức ép đ̣i cải cách. Điều này rất đúng với thời kỳ Bức tường
Dân chủ năm 1978-79, với những thử nghiệm các cuộc bầu cử địa phương đầu
thập niên 1980, với những cuộc biểu t́nh của sinh viên năm 1986-87, và thêm
lần nữa, với thời kỳ có những cuộc biểu t́nh tại Quảng trường Thiên An Môn
và những nơi khác năm 1989. Ngày nay, bất chấp thực tế đang diễn ra sự giải
phóng, các nhà lănh đạo Trung Quốc miễn cưỡng thảo luận công khai về khả
năng có sự cải tổ chính trị được bảo trợ một cách chính thức v́ họ sợ ḿnh
sẽ thêm lần nữa mở chiếc cửa ngăn không cho lũ lụt tràn vào.
Như thế, Đảng Cộng sản
Trung Quốc bị thúc ép bởi các hành động của nó trong quá khứ và đặc biệt bởi
các quyết định của nó nhằm trấn áp sự phản kháng chính trị có tổ chức và
nhằm ngăn chặn sự h́nh thành các tổ chức tự quản. Lănh đạo Đảng biết điều
đó, và họ cẩn thận phối trí những chuẩn bị việc kế thừa, thiết kế các sách
lược về chủ nghĩa liên hiệp có giới hạn và về bổ dụng để làm nản ḷng những
ai đang nuôi hy vọng rằng có khả năng sớm xảy ra một cuộc cải tổ chính trị
nào đó. Một số nhà lănh đạo toàn trị, bằng những thiết kế khác, đă đánh giá
quá cao sự ủng hộ của quần chúng, với niềm tin rằng ḿnh sẽ sống sót và khởi
sắc. [15] Nhưng không có vẻ như giới lănh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc
sẽ có một quyết định sai lầm chiến thuật như thế.
Hệ quả là các viễn ảnh
về một nền dân chủ tại Trung Quốc th́ liên quan trực tiếp tới chính số phận
của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Có vẻ như Trung Quốc không kinh qua sự dân chủ
hóa cùng với sự liên tục của chế độ như Đài Loan và Mexico đă làm. [16]
Nghĩa là, cho dù Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể sống sót dưới một h́nh thức
nào đó sau cuộc chuyển tiếp, và cho dù nhiều quan chức của Đảng có thể ở lại
một cách tích cực trong một chế độ hậu cộng sản - như trường hợp nhiều chính
phủ ở Đông Âu và cựu Liên Xô - nếu đất nước Trung Quốc có trở thành dân chủ
th́ cốt yếu nằm ở chỗ Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chi trả phí tổn cho cuộc
chuyển tiếp đó. Chỉ sự suy thoái của Đảng Cộng sản Trung Quốc mà thôi th́
không đặt được quá tŕnh tiến tới dân chủ cho bất cứ tương lai hậu cộng sản
nào. Nhiều nơi ở châu Á đang có “nền dân chủ hẹp ḥi,” và một nền dân chủ
được củng cố đầy đủ th́ hầu như không là tiêu chuẩn trong phần c̣n lại của
thế giới hậu cộng sản. [17] Như hết thảy chúng ta đều thấy trong nhiều
trường hợp, sự kết liễu của chủ nghĩa cộng sản không bảo đảm cho sự bắt đầu
một chế độ dân chủ.
Bruce J. Dickson là
phó giáo sư môn khoa học chính trị và các sự vụ quốc tế tại Đại học George
Washington. Ông là tác giả bảy cuốn sách về Trung Quốc, trong đó đặc biệt có
Red Capitalism in China: The Party, Private Entrepreneurs, and Prospect for
Political Changes (Chủ nghĩa tư bản đỏ tại Trung Quốc: Đảng, các doanh gia
và viễn ảnh thay đổi chính trị, 2003) và Democratization in China and
Taiwan: The Adapbility of Leninist Parties (Dân chủ hóa tại Trung Quốc và
Đài Loan: khả năng thích nghi của các đảng Lênin-nít, 1997), và là biên tập
viên cộng tác của tạp chí Problems of Post-Communism (Các vấn đề thời hậu
cộng sản).
Bản tiếng Việt (C)
2006 talawas
_____________________________________________________
30-01-2006
Tuần báo VIET TIDE
thực hiện
Vũ Thư Hiên
VIET TIDE:
Chào ông Vũ Thư Hiên. Với tư cách nhà văn, ông có thể chia sẻ cái nh́n theo
cách nhà văn của ông với độc giả Việt Tide về Năm Mới 2006? Một nét tổng
quan chẳng hạn.
VŨ THƯ HIÊN:
Tôi không phải là thầy số, c̣n tệ hơn, tôi là một người lạc quan thâm căn cố
đế, tôi dễ sai lầm trong sự dự báo lắm, xin thú nhận ngay như vậy cho tiện.
Nhưng chia sẻ cái nh́n của ḿnh với độc giả th́ tại sao lại không chia sẻ?
Với năm 2006, tôi vui. Tôi nh́n thấy nó trong màu hồng.
VIET TIDE:
Một dự cảm thuần tuư siêu h́nh, hay dựa vào một sở cứ nào đó, cho dù c̣n mơ
hồ?
VŨ THƯ HIÊN: Có
sở cứ đấy. Vừa bước vào năm 2006, trên 30.000 thợ ở Sài G̣n và vùng phụ cận
đồng loạt đ́nh công. Có người c̣n nói đến trên 50.000 cơ, nhưng tôi chưa
biết đó là dựa vào nguồn tin nào. Đúng là một chuyện long trời lở đất, chưa
từng có trong lịch sử Việt Nam.
VIET TIDE:
Cuộc đ́nh công cho ta thấy điều ǵ, theo ông?
VŨ THƯ HIÊN: Nó
nói lên nhiều lắm.
Một là, giai cấp công
nhân mà đảng cộng sản tự xưng là đại diện, đến hôm nay đă thấy được, và thấy
rất rơ ràng, như một cộng với một là hai, rằng đảng cộng sản tự xưng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân nọ không hề đấu tranh cho quyền lợi của
họ. Chưa bao giờ có chuyện một đảng gọi là cộng sản mà lại công nhiên và
trắng trợn đứng ra bảo vệ quyền lợi của giới chủ. Cháy nhà ra mặt chuột, nhờ
đó mà công nhân và các tầng lớp khác mới thấy cái đảng đang cai trị đất nước
này là của ai, quyền lợi của cái đảng đó nằm ở đâu. C̣n đến khi chính đảng
xua công an đi bắt cả trăm người mà nó buộc tội là khởi xướng đ́nh công th́
chẳng c̣n cái mo nào có thể che nổi cái bộ mặt của đảng nữa. Thấy được như
thế là tốt lắm đấy. Đám cháy này báo hiệu một điềm xấu, rất xấu, cho chế độ
độc tài.
Hai là, những người
lao động Việt Nam đă vượt qua thói quen nghĩ trên quyền công dân, mà nghĩ
trên quyền con người, một bậc cao hơn hẳn trong tư duy thông thường của
người Việt sống trong ḷng chế độ cộng sản.
VIET TIDE:
Xin ông nói rơ hơn ư vừa rồi.
VŨ THƯ HIÊN:
Người công dân quen hành xử theo luật pháp mà quốc gia cho phép, chứ không
quen suy nghĩ theo quyền mà con người hiển nhiên có. Nếu nghe theo luật pháp
th́ những người công dân muốn đ́nh công phải chờ đợi từ vài tuần lễ đến mấy
tháng, tôi không nhớ rơ đích xác theo luật là bao nhiêu lâu, nhưng là thời
gian rất dài. Người ta đă không đợi, người ta cũng không sợ lệnh cấm tụ họp
đông người của ông thủ tướng Phan Văn Khải nhằm đối phó với những cuộc biểu
t́nh của những người dân oan ức, sợ nó rẽ sang ngả chính trị. Theo bà Cù Thị
Hậu, lănh tụ công đoàn, trong một cuộc trả lời phỏng vấn của VNExpress cách
đây vài ngày th́ những người đ́nh công đă bất chấp các điều khoản trong luật
đ́nh công, họ cứ đ́nh công. Cuộc đ́nh công lần này lan rất nhanh từ xí
nghiệp này đến xí nghiệp khác, và “những cuộc đ́nh công sẽ c̣n tiếp diễn…”,
cũng lại theo dự báo của bà Hậu, mặc dầu công đoàn ra sức “giải thích”,
chính quyền ra sức đe doạ, công an ra sức bắt bớ… Dường như bà Hậu nói hớ
cái ǵ đó, hoặc nhiều cái ǵ đó, nên bài phỏng vấn đă bị bóc đi ngay.
VIET TIDE:
Ông có nghĩ rằng những cuộc đ́nh công này sẽ ảnh hưởng lên tiến tŕnh dân
chủ hoá đất nước?
VŨ THƯ HIÊN:
Tôi nghĩ đúng như thế. Cái ǵ gây ra bất lợi cho độc tài th́ cái đó có lợi
cho dân chủ. Trường hợp này là đặc biệt bất lợi. Qua vụ đ́nh công này tôi
thấy việc làm của những người dân chủ đă có tác dụng làm người ta bớt sợ
hăi, rồi hết sợ hăi, kích thích người ta dũng cảm đứng lên bảo vệ quyền lợi
chính đáng của ḿnh. Có một sự liên quan như thế. Những hành động cụ thể
ngày một nhiều thêm, tạo ra một xu thế mới trong một yếu tố quan trọng trong
mọi cuộc đấu tranh là t́nh thế. T́nh thế bây giờ đă khác, tôi muốn nói t́nh
thế gôp chung – t́nh thế thế giới và t́nh thế trong nước. Độc tài đang bị
đẩy lùi, dân chủ đang tiến tới.
VIET TIDE:
Kể cả trong t́nh h́nh những nhà dân chủ đang căi nhau?
VŨ THƯ HIÊN:
Không phải những, mà chỉ vài người mà chúng ta thường nghe tên đang sa đà
vào những cuộc căi cọ mà thôi. Tôi không thể dùng chữ tranh luận, v́ ở đây
chẳng có ǵ là tranh luận cả. Người ta bôi bác nhau, họ chửi nhau thật sự.
Cũng chẳng có ǵ là lạ, trong một tập họp người càng đông càng phức tạp, có
người thế này, có người thế kia, cũng là chuyện thường t́nh thôi. Trong
phong trào dân chủ cũng vậy, không khác ǵ. Cả sự rơi rụng người này người
kia cũng là chuyện thường t́nh. Không phải cứ đi là rồi ai cũng đi tới đích.
Người trông vào mục đích và hiệu quả của cuộc đấu tranh mà đi th́ vẫn thản
nhiên tiếp tục con đường của họ. Người bận bịu với những cuộc căi vă vô bổ
cứ việc đứng lại mà căi nhau, xin mời, chẳng ai cấm. Chuyện ông này trịch
thượng, ông kia gia trưởng hiển nhiên không phải chuyện đấu tranh chống thể
chế độc tài, tôi không quan tâm. Ngay cả cái sự chỉ trích về tên gọi phong
trào dân chủ cũng chẳng có ư nghĩa tranh luận, thế mới tệ. Tranh luận ǵ mà
chưa đưa ra dẫn chứng nào đă chụp cho nhau những cái mũ to tướng, rất là ba
lăng nhăng. Phong trào, nếu hiểu theo nghĩa một vận động, trào lưu, một làn
sóng, mouvement theo tiếng Tây, chẳng do một ai dựng nên mà được, nó do nhu
cầu mà nảy sinh, mà tự h́nh thành. Khi ông Hoàng Minh Chính nói tới cái danh
xưng đó th́ ông ấy đâu có ư định nói tới một tổ chức, bởi v́ một tổ chức th́
phải có chính cương, điều lệ chứ, phải có ban bệ lănh đạo chứ. Hoàng Minh
Chính là người dày dạn kinh nghiệm chứ không phải gà mờ, ấy thế nhưng người
ta vẫn nói lấy được, do động cơ này hay động cơ khác tôi không rơ, ấy là
chưa kể đến chuyện có bàn tay công an nhúng vào. Kể ra ông Hoàng Minh Chính
khi nói tới phong trào dân chủ cũng có lỗi khi ông dùng từ ngữ trật, với hai
chữ đại diện chẳng hạn, nó mới thành ra cái cớ để người ta chĩa mũi dùi vào,
mới gây ra căi cọ. Giá gọi ông Khuê, ông Ngăi là “người giữ trách nhiệm liên
kết” th́ hơn, gọi như thế dài thật, nhưng không bị hiểu sai.
VIET TIDE:
Ông không cho rằng những cuộc căi vă đó ảnh hưởng xấu đến phong trào dân
chủ?
VŨ THƯ HIÊN: Có
ảnh hưởng xấu chứ, nhưng không nhiều. Phong trào dân chủ nảy sinh và lớn lên
do nhu cầu thay đổi chế độ xă hội, không phải do t́nh cảm của ông A đối với
ông B. Mấy người căi nhau có thể làm buồn ḷng những người mong chóng được
thấy thắng lợi của cuộc đấu tranh dân chủ, giá mấy ông đừng day tay mắm
miệng xỉa xói nhau th́ tốt hơn, ai chả nghĩ thế. Nhưng không thể v́ mấy ông
căi nhau mà phong trào xẹp hoặc không thể tồn tại. Ở trong nước những người
đấu tranh cho dân chủ bây giờ nhiều màu nhiều vẻ, nhiều nhóm, nhưng đại đa
số không hoan nghênh, không tiếp tay cho những cuộc căi vă ấy đâu. Việc
những cơ quan truyền thông hải ngoại không đăng tải những “tài liệu” về
những cuộc căi vă mặc dầu người trong cuộc liên tục gửi đến nhờ tán phát
chứng tỏ một tư duy đứng đắn về cuộc đấu tranh cho dân chủ tại quốc nội. Đó
là điều rất đáng mừng.
VIET TIDE:
Nói tóm lại, năm 2006 sẽ là năm tốt cho cuộc đấu tranh cho dân chủ, theo
ông?
VŨ THƯ HIÊN:
Thời gian ủng hộ chúng ta. Chế độ độc tài sẽ c̣n bị đẩy lùi thêm nữa cùng
với thời gian. Dân chủ đang lấn tới. Theo chỗ tôi được biết, từ những nguồn
đáng tin cậy, th́ chính những người đang cầm quyền cũng biết là họ sẽ không
c̣n cơ may ở lâu trên ghế của họ nữa. Dân chúng th́ khỏi nói, người ta thấy
rơ chế độ độc tài đă quá đát, đă mục ruỗng, đang chờ đến ngày sụp đổ. Câu
hỏi cửa miệng của dân chúng là: BAO GIỜ?
VIET TIDE:
Xin cảm ơn ông đă dành cho VIET TIDE cuộc phỏng vấn này.
_________________________________________________
RFA 2006/01/28 06:
30
Giới Thiệu:
Nhân dịp chào đón Xuân Bính Tuất, phái viên Ỷ Lan của ban Việt ngữ
chúng tôi đă được Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, viện trưởng viện Hóa Đạo
GHPGVNTN dành cho một cuộc phỏng vấn đặc biệt. Trước tiên mời quư vị nghe
lời chúc xuân của Ḥa Thượng.
Ṭa Soạn Đối Thoại:
Đối Thoại đă sao chép bài phỏng vấn từ các chương tŕnh phát thanh cuả
RFA. Trong mục đích gởi đến độc giả các bài phỏng vấn bằng dạng viết thật
nhanh, nếu có sự sơ sót, xin tác giả, độc giả và đài RFA thông cảm. Mời độc
giả nghe lại buổi phát thanh để hiệu đính các chỗ sai trước khi xử dụng.
HT Thích Quảng Độ:
Nhân dịp sang năm mới, truyền thống cũng như phong tục tập quán, văn hóa
của dân tộc Việt Nam. Sang năm mới là ai cũng mong có những ngày tháng sắp
tới được gặp mọi sự may mắn trong cuộc sống hàng ngày, bớt được những phiền
năo, những khổ đau chẳng hạn, ai cũng mong mỏi được hạnh phúc, sung sướng.
Đó là tâm lư nói chung cho không những dân tộc Việt Nam mà dân tộc nào trên
thế giới cũng thế, cũng mong mỏi đến năm mới có những thay đổi, có những dịp
may mắn đến với ḿnh.
Riêng với dân tộc Việt
Nam, trong t́nh trạng từ bao nhiêu năm nay, thật sự ra th́ chưa bao giờ có
được một năm mới như ư hết. Thành ra cái đó h́nh như người ta cũng đă chuẩn
bị tinh thần, chuẩn bị tâm lư sẵn sàng để năm mới đến th́ nó cũng chỉ thay
đổi gọi là năm này sang năm khác thôi chứ cuộc sống cũng như những vấn đề
của cá nhân, gia đ́nh, đất nước có lẽ nó cũng chỉ là nguyên trạng thế thôi.
Tuy nhiên người ta cũng phải cố gắng hy vọng, sống trong hy vọng thế thôi.
Nhưng tôi mong rằng
năm mới tới đây th́ cũng sẽ có một vài cái ǵ khác hơn mọi năm, ai cũng mong
thế, nhưng nó có đến hay không là chuyện khác.
Cho nên tôi chỉ có
kính chúc, mong mỏi ai cũng được yên vui, hạnh phúc. Đó là lời chúc tụng đầu
năm mới.
Ỷ Lan: Xin
Ḥa Thượng hoan hỉ cho biết tổng quát t́nh h́nh GHPGVNTN năm vừa qua và dự
trù năm mới của Giáo hội.
HT Thích Quảng Độ:
Thưa cô Ỷ Lan và thưa quư vị thính giả, như quư vị đă biết, trong năm
ngoái các công tác sự tuy cũng gặp rất nhiều khó khăn, trở lực đến từ mọi
phía nhưng giáo hội cũng đă cố gắng vượt qua và nỗ lực vận động thành lập
được 10 ban đại diện ở miền Trung cũng như miền Nam. Mặc dầu đă bị nhiều sức
ép, bắt buộc phải giải tán hay phải ngưng hoạt động, thế nhưng đến nay vẫn
vượt qua được và 10 ban đại diện vẫn c̣n đứng vững. Đó là những nỗ lực từ
năm ngoái.
Năm tới đây, nói chung
một cách tổng quát th́ cũng cứ tiếp tục để củng cố lại các ban đại diện,
củng cố cho vững chắc ban đại diện đă được thành lập và tiếp tục vận động
thành lập các ban đại diện mới, đó là chương tŕnh năm tới. Tuy nhiên trước
mắt th́ thấy những công việc của Giáo hội liên tục từ 30 năm qua cho đến bây
giờ và có lẽ cũng vẫn c̣n tiếp tục chịu đựng và cố gắng vượt qua những khó
khăn trước mắt mà có thể vẫn c̣n nhiều nếu t́nh h́nh nói chung không có ǵ
biến chuyển mới.
Nhưng tôi hy vọng rằng
ở đời th́ mọi sự đều vô thường, không có cái ǵ cứ đứng vững măi đâu, cuối
cùng cũng phải có thay đổi. Đó là mong mỏi của Hội đồng lưỡng viện. Có lẽ là
các Giáo hội hải ngoại cũng nhằm mục đích đó cho nên cứ phải tiếp tục chuẩn
bị sẵn sàng để đương đầu với những khó khăn trước mắt.
Nhân tiện dịp này,
liên quan đến giáo hội th́ tôi cũng có mấy lời chân thành để kêu gọi tăng ni
và đồng bào Phật tử trong và ngoài nước thông cảm cho và hết ḷng kết hợp
cho chặt chẽ để đối phó với mọi khó khăn trước mắt. Gần đây có một vài dư
luận mới tôi cũng cần phải nói để quư vị thông cảm, nhất là các vị tăng ni
Phật tử ở nước ngoài, sống tha hương cũng đă lâu cho nên không biết được hết
t́nh h́nh thực tế ở trong nước nó diễn biến như thế nào, có cái không được
hiểu rơ lắm. Sau biến cố Lương Sơn năm 2003, trước hết v́ sức ép của quốc
tế, rơ nét nhất là quốc hội Hoa Kỳ và quốc hội Âu Châu đă ủng hộ Giáo hội và
yêu cầu nhà nước CHXHCNVN cho Giáo hội sinh hoạt lại b́nh thường. Trên nền
tảng pháp lư th́ coi như thừa nhận pháp lư của Giáo hội. Như vậy là họ biết
rằng bây giờ vấn đề sinh hoạt pháp lư của Giáo hội nó thành vấn đề có dư
luận quốc tế quan tâm, do đó nhà nước nghĩ rằng kéo dài măi không có lợi
nhất là trong khi họ muốn ḥa nhập quốc tế được dễ dàng. Đặc biệt là tháng 9
năm 2004 th́ Việt Nam bị đặt vào danh sách các quốc gia cần đặc biệt quan
tâm, tức là CPC. Họ đưa ra một chiêu bài có thể nói rằng là làm yên ḷng
quốc tế để cho công việc dự định để họ gia nhập WTO được trôi chảy. Họ đưa
ra một chiêu bài như thế này, họ sẵn sàng cho GHPGVNTN được sinh hoạt b́nh
thường pháp lư với điều kiện là không có Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang và
tôi, Quảng Độ. Họ bắn tin như thế, và đây là các sư chứ không phải là người
ngoài. Tôi nghe th́ cũng biết như thế thôi.
Nhưng tôi nghĩ rằng
nếu thực hiện th́ nhà nước họ đẽ chữ thống nhất để có thể đánh lừa được quốc
tế là đấy, GHPGTN được sinh hoạt b́nh thường như các giáo phái khác. Nhưng
nếu không có Đức Tăng Thống và tôi th́ GHPGVNTN cũng chỉ là giáo hội số 2 để
thừa hành những ǵ nhà nước muốn ḿnh làm cho họ thôi, đó là dư luận thứ
nhất.
Sau đó th́ họ thấy
rằng phản ứng cũng không có lợi ǵ cho nên họ đưa ra một chiêu bài khác, lại
cũng một vị sư đến nói với tôi. Trực tiếp nói với tôi là đạo Phật là đạo tùy
duyên, mà h́nh như tôi cũng được biết ở hải ngoại cũng có, tuy không nhiều,
nhưng cũng có một vài vị tu sĩ cũng như chư tăng cũng hiểu thế, tức cho là
cho rằng giáo hội cứng ngắt quá thành ra ḿnh đă bỏ lỡ nhiều cơ hội, giờ
phải tùy thời, đạo Phật là đạo tùy duyên. Thế th́ thỏa hiệp với giáo hội của
nhà nước để ḿnh làm việc, cho được việc của ḿnh, phải lựa thời, thời đại
như thế th́ ḿnh phải thích ứng để dần dần ḿnh có năng lực để tự đứng vững
được, th́ ḿnh sẽ có thái độ khác chẳng hạn. Đại ư như thế. Nhưng tôi nghĩ
rằng nếu ḿnh từ chối th́ người ta cho ḿnh là cứng ngắt, không biết uyển
chuyển, cho nên tôi có trả lời rằng là chúng tôi cũng mong được như thế,
nhưng thật sự ḿnh phải nắm được cái ǵ cơ bản mà ḿnh vẫn tồn tại th́ ḿnh
mới có thể tùy duyên được. Chẳng hạn như bây giờ muốn làm như thế th́ có thể
giáo hội của nhà nước cũng phải được đặt ra ngoài Mặt trận tổ quốc mới được,
lúc đó ngồi lại nó mới dễ. Chứ c̣n nếu một đoàn thể trong Mặt trận làm về
chính trị, mà giáo hội th́ không làm chính trị… . Đó là một cách tôi trả lời
để xem thái đô họ thế nào. Nhưng tôi tin chắc rằng không bao giờ có chuyện
như thế.
Cho nên bây giờ đây ta
mới nói rằng Đức Tăng Thống và tôi là quá cứng ngắc mà làm thế th́ thiệt cho
giáo hội thôi. Tôi có trả lời rằng thực sự ra th́ bây giờ giáo hội chả có ǵ
cả, nhưng bây giờ làm thế nào, vấn đề quan trọng nhất đối với giáo hội là
làm thế nào để tồn tại đă. Vấn đề tồn tại được một cách độc lập, ḿnh có chủ
quyền của ḿnh th́ bấy giờ có mở ra trường học hay những cơ sở từ thiện xă
hội nếu nhà nước họ đồng ư cho làm th́ nó cũng có lợi. Nhưng nếu ḿnh không
có chủ quyền, ḿnh không độc lập được th́ cũng làm theo ư muốn người ta th́
nó cũng chẳng có cái lợi ǵ cho Phật pháp hay cho giáo hội.
Bây giờ quan trọng
nhất là làm thế nào để tồn tại và giữ được chủ quyền cũa ḿnh. Đó là đường
lối trước mắt. Đă 30 năm nay, giáo hội đă cố gắng theo đuổi nó chứ không
phải là tôi cực đoan hay cứng ngắt, cũng muốn thích ứng đấy, thế nhưng nó
phải có cơ bản ǵ để ḿnh bảo đảm được sự thích ứng ấy nó có lợi thực sự cho
giáo hội, mà nói rộng ra nữa là có lợi cho đồng bào Phật tử nói riêng và của
dân tộc nói chung.
Cho nên rằng bây giờ
nhiều người cũng hiểu lầm. Tôi chỉ mong rằng ở ngoài, quư vị hiểu cho là
đường lối ở trong cũng chỉ nhằm đến làm sao ḿnh giữ được truyền thống, vừa
là tôn giáo, vừa là văn hóa, vừa là phong tục tập quán của đất nước chứ
không có ǵ mà đi ngược lại cái đó để gây khó khăn cho việc thích ứng, ḥa
đồng với xă hộiđâu.
Nhân dịp này, đầu năm
mới th́ tôi cũng xin nói thanh (?) để quư vị rơ ở ngoài đó, và cũng nhờ
pḥng thông tin Phật Giáo Quốc Tế, lănh đạo, giám đốc nếu có dịp nói được ư
kiến của tôi rộng ra cho mọi người hiểu như thế để đừng hiểu lằm rằng là vừa
rồi có sự thay đổi. Thay đổi ǵ cũng nhằm mục đích đó mà thôi, chứ không có
mục đích nào khác.
Hôm nay nhân tiện cũng
sắp bước sang năm mới, đến năm mới này th́ tôi cũng mong rằng trong hay
ngoài đều nhất trí kết hợp với nhau cho chặt chẻ. Một đường th́ nhà nước
nhằm phá được sự đoàn kết chặt chẻ của ḿnh để lái giáo hội đi một hướng
khác, có lợi cho nhà nước mà chẳng có lợi cho Phật tử tăng ni, nói về lâu về
dài.
Nhân tiện năm mới th́
tôi cũng cầu chúc toàn thể tăng ni, Phật tử trong cũng như ngoài nước luôn
luôn được an lạc, vui vẻ và được mọi sự như ư và góp phần vào công việc của
cả giáo hội và dân tộc. Muốn đạt được cái như tôi vừa nói, giáo hội hết mọi
hoạn nạn và được b́nh an th́ vấn đề tiên quyết là phải có dân chủ nhân quyền
ở Việt Nam phải được tôn trọng và được thực hiện, lúc đó Giáo hội mới thật
sự hết nạn, nếu không th́ khi nào mà đất nước chưa thỏa măn về vấn đề tự do
dân chủ th́ giáo hội c̣n gặp nạn. Cái đó ḿnh c̣n phải đương đầu.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Ỷ Lan: Xin
cảm ơn Ḥa Thượng.
Ỷ Lan -
Phóng viên đài ACTD tại Paris.
________________________________________________