BẠCH   LIÊN

 

 

TÔI   HỌC           

DƯỚI  CHÂN  THẦY

 

 

 

 

 

Nhóm Hội Viên Thông Thiên Học Hải Ngoại

hiệu đính và xuất bản tại Hoa Kỳ.

2004


 

1- Tạo một t́nh Huynh Đệ Đại Đồng không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, nam nữ, giai cấp hay màu da.

2- Khuyến khích việc học hỏi và đối chiếu Tôn Giáo, Triết Lư và Khoa Học.

3- Nghiên cứu những định luật thiên nhiên chưa giải thích được và những quyền năng ẩn tàng trong con người.

 

          Muốn gia nhập Hội, bạn chỉ cần thừa nhận mục đích 1 và xin liên lạc với Hội nơi Quốc Gia bạn cư ngụ; hay với một bạn Hội Viên nào bạn biết.

 

HỘI THÔNG THIÊN HỌC CÓ BA MỤC ĐÍCH.
MỤC LỤC
VÀI LỜI NÓI ĐẦU
GỞI BẠN
ĐỀ THI
CẢM THUẬT
VÀI LỜI VỀ TIỂU SỬ KRISHNAMURTI
ĐỜI NIÊN THIẾU CỦA KRISHNAMURTI
KRISNAMURTI BỊ THẦY DẠY HỌC ĐÁNH ĐẬP TÀN NHẪN
KRISHNAMURTI NÓI CHUYỆN VỚI HỒN MA
KRISHNAMURTI THEO ĐỨC BÀ A. BESANT
CÁCH GIÁO DỤC KRISHNAMURTI
KRISHNAMURTI THUYẾT PHÁP
CÂU TRẢ LỜI CỦA KRISHNAMURTI KHI NGƯỜI TA HỎI: “NGÀI CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CHRIST LÂM PHÀM KHÔNG ?”
TIỀN KIẾP CỦA KRISHNAMURTI
2.500 NĂM TRƯỚC KRISHNAMURTI LÀ ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC THÍCH CA
THUYẾT PHÁP VỀ LỬA CHÁY- 1 -
THUYẾT PHÁP VỀ LỬA CHÁY TRÊN NÚI GAYA CHO MỘT NGÀN NGƯỜI DJATILA NGHE. - 2 -
DƯỚI CHÂN THẦY
LỜI TỰA
ĐIỂM ĐẠO LÀ G̀ ?
4 GIAI ĐOẠN GIỮA 2 KỲ ĐIỂM ĐẠO
ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ BA
ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ TƯ
TRẠNG THÁI A TỲ
NHỮNG VỊ ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ TƯ
AI ĐIỂM ĐẠO ?
7 ĐƯỜNG TIẾN HOÁ TRƯỚC MẶT CÁC VỊ SIÊU PHÀM
ALCYONE VIẾT QUYỂN “DƯỚI CHÂN THẦY” CÁCH NÀO ?
ĐỨC LEADBEATER ĐEM BẢN THẢO LÊN NHÀ CHƠN SƯ CÁCH NÀO ?
TẠI SAO ĐỨC ĐẾ QUÂN K.H. LẠI RA CÔNG DẠY ALCYONE ?
V̀ LẼ NÀO TIÊN TRƯỞNG BIẾT ĐƯỢC TR̀NH ĐỘ TIẾN HOÁ CỦA CÁC LOÀI TRONG ĐỊA PHẬN CỦA NGÀI CAI QUẢN ?
VỀ THIÊN LƯ
YAMA : GIỚI CẤM
NIYAMA : QUI LUẬT
TẠI SAO CỬA ĐẠO LẠI ĐÓNG CHẶT ?
BA CÂU CẦU NGUYỆN.
LỜI NÓI ĐẦU.
SỰ KINH NGHIỆM CỦA ĐỨC LEADBEATER.
BỐN CON ĐƯỜNG DỰ BỊ.
SỰ ÍCH LỢI KHI Ở GẦN VỊ ĐẠO SƯ
I - HẠNH PHÂN BIỆN
NHỮNG THÁI DƯƠNG HỆ TRÊN KHÔNG GIAN
NHỮNG THÁI DƯƠNG HỆ LỚN HƠN THÁI DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA
ĐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ CỦA CHÚNG TA
KHOA CÔNG TRUYỀN HAY LÀ HIỂN
KHOA BÍ TRUYỀN HAY LÀ MẬT
VỀ SỰ GIÀU SANG VÀ DANH VỌNG
VỀ SẮC DA VÀ TÍN NGƯỠNG
VỀ NHỮNG TÔN GIÁO
SỰ TIẾN HOÁ Ở TRƯỚC MẶT TA
BA SỰ TIẾN HOÁ
1- TIẾN HOÁ VỀ VẬT CHẤT VÀ H̀NH DẠNG
2- TIẾN HOÁ VỀ TRÍ THỨC
3- TIẾN HOÁ VỀ TINH THẦN HAY LÀ TÂM THỨC
CÁC TÔN GIÁO ĐỀU CÓ DẠY CƠ TIẾN HOÁ
ẤN GIÁO
9 HOÁ THÂN CỦA THƯỢNG ĐẾ VISHNOU
GIAI ĐOẠN THỨ NHỨT
GIAI ĐOẠN THỨ NH̀
GIAI ĐOẠN THỨ BA NHỮNG VỊ SIÊU PHÀM
ĐỜI MẠT KIẾP LÀ G̀ ?
ĐỜI MẠT KIẾP
THỜI ĐẠI MẠT KIẾP KHỞI SỰ HỒI NÀO ?
MỘT ĐẠI KIẾP
NHIỀU CHU KỲ NHỎ CỦA ĐỜI MẠT KIẾP
4 THỜI ĐẠI GIỐNG NHƯ 4 MÙA
TẠI SAO CHƠN THẦN PHẢI ĐẦU THAI LÀM THÚ VẬT TRƯỚC KHI LÀM NGƯỜI ?.
PHẬT GIÁO
KINH PHẬT DẠY LINH HỒN ĐI ĐẦU THAI TỪ LOÀI NẦY QUA LOÀI KIA
THIÊN CHÚA GIÁO
HỒI GIÁO
BA PHÁP MÔN
VẠN VẬT NHẤT THỂ
MUÔN VẬT MỘT THỂ
ĐI SÂU VÀO NỘI TÂM LÀ NGHĨA G̀ ?
CHƠN THẦN Ở TRONG M̀NH TA
SỰ CẤU TẠO 7 THỂ CỦA CON NGƯỜI
NHỮNG THỰC PHẨM TINH KHIẾT
THỰC PHẨM NÀO TINH KHIẾT ?
MỘT CÁCH NẤU GẠO LỨT RẤT DỄ
PHẢI ĂN CHAY
CHAY L̉NG VÀ CHAY MIỆNG
SỰ ÍCH LỢI CỦA THỰC PHẨM TINH KHIẾT
PHẢI CÓ TIẾT ĐỘ
KHÔNG NÊN HÚT THUỐC VÀ UỐNG RƯỢU
XÁC THÂN LÀ THỂ RẤT KHÓ ĐIỀU KHIỂN
TIẾNG NÓI CỦA CÁI VÍA VÀ CÁI TRÍ
TẠI SAO CON NGƯỜI ĐỒNG HOÁ VỚI CÁI VÍA ?
TÁNH CON NGƯỜI
CÁCH TINH LUYỆN CÁI VÍA
PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP
THỰC HÀNH
SỰ CẢM XÚC Ở TRONG CÁI VÍA CHỚ KHÔNG PHẢI Ở TRONG XÁC THÂN
NHỮNG THÍ NGHIỆM CỦA ÔNG HECTOR DURVILLE VỀ NGŨ QUAN
1- VỀ XÚC GIÁC (SỰ ĐỘNG DẠNG)
2- THỊ GIÁC (SỰ THẤY)
3- THÍNH GIÁC (SỰ NGHE)
4- KHỨU GIÁC (SỰ NGỬI)
5- VỊ GIÁC (SỰ NẾM)
TẠI SAO NGÀY NAY KHÔNG AI LẶP LẠI NHỮNG THÍ NGHIỆM NẦY ?
MỘT CÁCH ĐỊNH TRÍ DỄ DÀNG
NÊN BIẾT NHỮNG PHẢN ỨNG CỦA CÁI TRÍ
8 GIAI ĐOẠN CỦA RAJA YOGA
MUỐN GIÚP CƠ TẠO HOÁ CẦN PHẢI ĐÀO TẠO THANH NIÊN LÚC C̉N BÉ THƠ
ĐIỂM THỨ NHỨT
ĐIỂM THỨ NH̀
CỘI RỄ DANH TỪ TAM ĐỘC : THAM, SÂN, SI
THAM THIỀN ĐĂ CÓ TỪ THUỞ KHAI THIÊN TỊCH ĐỊA
NHỮNG LUẬT TRỜI C̉N ẨN TÀNG
CHÁNH KIẾN
ĐỨC LEADBEATER BỊ NGHI OAN
SỰ NGỜ VỰC Ở NGOÀI ĐƯỜNG
SỰ NÓNG GIẬN LÀ SỰ ĐIÊN CUỒNG
1- ĐỆ TỬ NHẬP MÔN
2- ĐỆ TỬ CHÁNH THỨC
3- CON CỦA THẦY
TẠI SAO CHƠN SƯ THÔNG HIỂU HẾT MỌI VIỆC ?
PHẬT DẠY ĐỆ TỬ LỜI NÓI PHẢI CHÂN CHÁNH. “TÔI NGHE NHƯ VẦY.”
NHỮNG ĐIỀU HỮU ÍCH CỦA SỰ CHÂN THẬT
II- LỜI NÓI CHÂN CHÁNH
A- CÓ CẦN THIẾT KHÔNG ?
B- CÓ ĐÚNG SỰ THẬT KHÔNG ?
NHỮNG TẤM MÀN CHE MẮT GIĂNG KHẮP MỌI NƠI
C- CÓ TỪ THIỆN KHÔNG ?
CHỚ NÊN HIỂU LẦM SỰ NÓI THẬT ĐÚNG
VIỆC LÀM CHÂN CHÁNH
CÁC TÔN GIÁO ĐỀU TRỌNG TÁNH CHÂN THẬT
1- ẤN GIÁO
2- BÁI HOẢ GIÁO (ZOROASTRISME) BA TƯ GIÁO
3- DO THÁI GIÁO (JUDAISME)
4- PHẬT GIÁO
5- THIÊN CHÚA GIÁO
6- HỒI GIÁO
CÂU CHUYỆN ÔNG OUDDALAKA DẠY CON HAY LÀ ĐÂU ĐÂU CŨNG CÓ ĐỨC THƯỢNG ĐẾ
3 ĐIỂM CHÁNH TRONG CON NGƯỜI VÀ CÁC LOÀI VẬT
SAO LÀ THỨC TỈNH SỰ SỐNG THIÊNG LIÊNG ?
CON NGƯỜI PHẢI TỰ BIẾT M̀NH LÀ CHƠN THẦN
1- CHƠN THẦN
2- CHƠN NHƠN
3- PHÀM NHƠN
PHÀM NHƠN RA SAO ?
SỰ LIÊN LẠC GIỮA 3 NGÔI: CHƠN THẦN, CHƠN NHƠN VÀ PHÀM NHƠN
TẠI SAO CHƠN SƯ BẢO ALCYONE PHẢI ĐI SÂU VÀO NỘI TÂM ĐỂ T̀M ĐỨC THƯỢNG ĐẾ VÀ NGHE LỜI NGÀI ?
MUỐN THỨC TỈNH NGƯỜI, M̀NH PHẢI TỰ THỨC TỈNH M̀NH TRƯỚC
PHƯƠNG PHÁP TỰ THỨC TỈNH
CÁCH THỨC TỈNH SỰ SỐNG THIÊNG LIÊNG
II - HẠNH KHÔNG HAM MUỐN
CƠI TRẦN, CƠI TIÊN
TỰ LỰC
THA LỰC
KHOA LUYỆN PHÉP TẮC
VÀI PHÉP THẦN THÔNG
CHUYỆN ĐẠO SĨ SIM BANDAI LÀM RA SẤM SÉT
LÀM MƯA
CHUYỆN MỘT NHÀ PHÙ THUỶ Ư SIGNOR B. LÀM MƯA
BÁN GIÓ
PHÉP CẦM MÁU
MÁU TUÂN THEO Ư MUỐN CỦA ÔNG
CHUYỆN NGƯỜI HOÁ SÓI
CHUYỆN THỨ NHỨT
CHUYỆN THỨ NH̀
MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ HOÁ RA CHÓ SÓI
NHỮNG CHUYỆN NGƯỜI HOÁ SÓI CÓ THẬT KHÔNG ?
CÓ PHẢI XÁC THÂN CON NGƯỜI HOÁ RA THÚ VẬT HAY KHÔNG ?
NHỮNG BẰNG CỚ KHÁC ĐỂ CHỨNG MINH CÁI VÍA BỊ BỆNH CHỖ NÀO TH̀ XÁC THỊT BỊ BỆNH Ở CHỖ ĐÓ
TRƯỜNG HỢP ĐÁNH CÁI VÍA MÀ XÁC THÂN KHÔNG BỊ BỆNH
DỤNG Ư CỦA TÔI LÀ CHO BIẾT NHỮNG TAI HẠI CỦA SỰ XUẤT VÍA
TẠI SAO CHƠN SƯ LẠI NÓI NGÀY GIỜ VÀ SỨC LỰC ĐỂ LUYỆN TẬP MẤY PHÉP ĐÓ NÊN ĐỂ GIÚP ĐỜI C̉N HAY HƠN ?
PHẬT CẤM DÙNG NHỮNG PHÉP THẦN THÔNG
1 - PHẬT CẤM DÙNG THẦN NHĂN XEM NƯỚC UỐNG
2 – CÁI BÁT BẰNG BẠCH ĐÀN
TA THẤY NHỮNG PHÉP THẦN THÔNG MỖI NGÀY TRƯỚC MẮT TA
SỰ NGUY HẠI CỦA VIỆC CÓ THẦN NHĂN
BA LỜI NGUYỆN
CHUYỆN MỘT ÔNG PHẬT GIẢ
VỀ TÁNH KIÊU CĂNG
ĐỨC KHIÊM TỐN
PHƯƠNG PHÁP TẬP LUYỆN
PHƯƠNG PHÁP KHẮC KỶ
III - HẠNH KIỂM TỐT
THỜI KỲ CHUẨN BỊ ĐỂ ĐƯỢC ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ NHỨT
PHƯƠNG PHÁP THỨ NHỨT
PHƯƠNG PHÁP THỨ NH̀
TRỞ NÊN NHẠY CẢM
HAI ĐIỀU TRÁI NGƯỢC NHAU
- I -
- II - NHỮNG CHUYỆN SẦU NĂO, KHÓ KHĂN, BỆNH TẬT, HAO TỐN, MẤT MÁT DO KIẾP NẦY GÂY RA
NHỮNG VIỆC ĐẢM ĐƯƠNG
CHUYỆN SOCRATE THÂU XÉNOPHON LÀM ĐỆ TỬ
NHỮNG LUẬT HẠNH KIỂM
TẠI SAO KHÔNG NÊN LĂNH NHỮNG NGHĨA VỤ MỚI
1- PHẢI NHÂN TỪ
TẠI SAO SỰ TIẾN HOÁ LẠI BẤT ĐỒNG ?
7 LOÀI TRÊN DĂY ĐỊA CẦU
SỰ THAY H̀NH ĐỔI DẠNG
THOÁT KIẾP THÚ TRƯỚC CHÚNG BẠN
KHOAN DUNG NHỮNG TÍN NGƯỠNG
GHÉT NHAU V̀ TÍN NGƯỠNG BẤT ĐỒNG
TẠI SAO PHẬT GIÁO KHÔNG TIN CÓ THƯỢNG ĐẾ ?
1- PHẬT KHÔNG CÓ DẠY VỀ THƯỢNG ĐẾ
2- KINH SÁCH PHẬT NÓI KHÔNG CÓ THƯỢNG ĐẾ
V̀ CỚ NÀO PHẬT GIÁO KHÔNG NH̀N NHẬN CÓ THƯỢNG ĐẾ ?
TÔI TIN ĐỨC PHẬT CÓ DẠY VỀ ĐỨC THƯỢNG ĐẾ
TỨ THÁNH
TẤT CẢ NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐỀU DẮT ĐẾN THƯỢNG ĐẾ
1- CON ĐƯỜNG HÀNH ĐỘNG
ĐỨC KRISHNA NÓI VỀ SỰ HÀNH ĐỘNG
TỪ KHƯỚC KẾT QUẢ CỦA SỰ HÀNH ĐỘNG
HIẾN DÂNG
2- CON ĐƯỜNG MINH TRIẾT (Jnana Yoga)
NHỮNG ĐIỀU NGUY HIỂM PHẢI TRÁNH
SỰ VUI THÍCH CỦA HÀNH GIẢ CHÂN CHÍNH
AI THEO CON ĐƯỜNG MINH TRIẾT ?
3- CON ĐƯỜNG SÙNG TÍN (Bhakti Yoga)
HAI MẪU NGƯỜI SÙNG TÍN
1- MẪU NGƯỜI SÙNG TÍN THỤ ĐỘNG
2- MẪU NGƯỜI SÙNG TÍN HOẠT ĐỘNG
CON ĐƯỜNG SÙNG TÍN ĐI ĐẾN ĐÂU ?
MỘT CÂU CHUYỆN TIN DỊ ĐOAN
TU SĨ SANNYASI
CUỘC HÀNH LỄ CỦA NGƯỜI BÀ LA MÔN
3 GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
7 GIAI ĐOẠN CHÁNH YẾU
SỰ HỮU ÍCH CỦA VÀI CUỘC LỄ BÁI
CÁCH CƯ XỬ VỚI TÍN ĐỒ CÁC TÔN GIÁO
L̉NG KHOAN DUNG ĐẠI ĐỘ CỦA THÁNH SAINT PAUL
MỘT CÂU CHUYỆN KHOAN DUNG RẤT LƯ THÚ
TINH THẦN AN PHẬN
SỰ AN PHẬN GIẢI NGHĨA THEO HUYỀN BÍ HỌC
PHẢI CẢI TẠO HOÀN CẢNH
TƯ TƯỞNG TẠO NÊN SẮC ĐẸP
1- TRƯỜNG HỢP CỦA CÔ RUTH J. WILD
2- TRƯỜNG HỢP CỦA CÔ VIRGINIA KNAPP
SỰ AN PHẬN CỦA CÁC SINH VIÊN HUYỀN BÍ HỌC
QUI LUẬT XII
SAO LÀ CUỘC TUẦN HOÀN ?
CÔNG VIỆC CỦA CÁC ĐẤNG CAO CẢ
CHƠN SƯ DẠY ALCYONE ĐỊNH TRÍ
MỘT PHƯƠNG PHÁP CẢM THÔNG ĐẾN CHƠN SƯ
VIỆC CHỌN LỰA VỊ CHƠN SƯ LÀM THẦY M̀NH
PHẢI TIN CẬY CHƠN SƯ
IV - HẠNH BÁC ÁI
ALCYONE CỨU ĐỨC BỒ TÁT
HAI CÁCH THOÁT KIẾP LUÂN HỒI
1- THOÁT KIẾP LUÂN HỒI TRONG MỘT THỜI GIAN: TRẠNG THÁI MOKSHA
2- THOÁT KIẾP LUÂN HỒI VĨNH VIỄN
CHƠN SƯ DẠY CHÚNG TA PHẢI CƯƠNG QUYẾT
TA HẠI TA TRƯỚC
TA THÊM SỰ KHỔ CHO ĐỜI
TA LÀM HẠI KẺ KHÁC
NHỮNG TỘI ÁC CỦA TÔN GIÁO GÂY RA
KINH THÁNH CORAN VÀ CÂY GƯƠM
THIÊN CHÚA GIÁO
NHỮNG NGƯỜI GIẢI PHẪU SINH THỂ
ĐÁNH ĐẬP HỌC TR̉
SĂN BẮN THÚ VẬT
SỰ HUNG ÁC TRONG LỜI NÓI
NHỮNG NGƯỜI THAM LAM, BỎN SẺN
ĐỪNG LÀM HƯ HOẠI THỂ XÁC CỦA KẺ KHÁC
3 TRẠNG THÁI ÂM VÀ DƯƠNG CỦA 3 NGÔI
NÊN PHÂN BIỆT HAI KALI
TRÊN THIÊN Đ̀NH KHÔNG CÓ SỰ SANH SẢN NHƯ Ở THẾ
TẠI SAO CÓ SỰ SANH ĐẺ NHƯ NGÀY NAY ?
SỰ SANH HOÁ GIỐNG DÂN THỨ NHỨT, THỨ NH̀ VÀ PHÂN NỬA ĐẦU TIÊN CỦA GIỐNG DÂN THỨ BA
GIỐNG DÂN THỨ NHỨT
GIỐNG DÂN THỨ NH̀
GIỐNG DÂN THỨ BA
GIAI ĐOẠN THỨ NHỨT NOĂN SANH
GIAI ĐOẠN THỨ NH̀
GIAI ĐOẠN THỨ BA THAI SANH
LINH HỒN QUA BẦU HÀNH TINH NÀO TH̀ THÂN H̀NH ĐƯỢC LÀM RA BẰNG CHẤT KHÍ ĐĂ CẤU TẠO HÀNH TINH ĐÓ
ĐỨC PHẬT VÀ ĐỨC SANKARACHARYA DIỆT TRỪ THÓI MÊ TÍN GIẾT THÚ VẬT ĐỂ CÚNG TẾ
ĐỨC SRI SANKARACHARYA
KHÔNG PHẢI ĂN THỊT MỚI SỐNG
THUỞ XƯA
ĐỜI NAY
NHỮNG THÚ ĂN CỎ VÀ TRÁI CÂY
OAI LỰC CỦA L̉NG TỪ BI
CHUYỆN THỨ NHỨT : VUỐT VE RẮN HỔ MANG
CHUYỆN THỨ NH̀ : MỘT CHUYỆN PHI THƯỜNG
TẤM GƯƠNG TRONG SẠCH CHUYỆN HAI VỊ TU SĨ TRẺ TUỔI Ở ALEXANDRIE
TRƯỜNG HỢP CỦA ANH THỨ NHỨT
TRƯỜNG HỢP CỦA ANH THỨ NH̀
THANH BẦN
TRINH KHIẾT
VÂNG LỜI
TRẠNG THÁI CỦA ĐỨC THƯỢNG ĐẾ THEO KINH SÁCH ẤN
HAI TRẠNG THÁI CỦA CUNG THỨ NH̀
BÀI PHỤNG SỰ THỨ NHỨT
LỜI CẦU CHÚC CỦA BÀ ANNIE BESANT
BÀI PHỤNG SỰ THỨ NH̀
TOÁT YẾU DƯỚI CHÂN THẦY
DƯỚI CHÂN THẦY DẠY ĐẠI ĐỊNH VÀ SỐNG THIỀN
TOÁT YẾU VỀ 4 ĐỨC TÁNH
4 ĐỨC TÁNH : HẠNH PHÂN BIỆN, HẠNH KHÔNG HAM MUỐN, HẠNH KIỂM TỐT VÀ HẠNH BÁC ÁI ĐỀU LIÊN QUAN MẬT THIẾT VỚI NHAU
1- VỀ HẠNH PHÂN BIỆN
2- VỀ HẠNH KHÔNG HAM MUỐN
3- VỀ HẠNH KIỂM TỐT
4- VỀ HẠNH BÁC ÁI
NÓI TÓM LẠI
NHỮNG ĐIỂM CHÁNH TRONG QUYỂN “DƯỚI CHÂN THẦY”
LỜI TỰA CỦA ĐỨC BÀ A. BESANT
KÍNH TẶNG NHỮNG AI GƠ CỬA
BA CÂU CẦU NGUYỆN
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ALCYONE
4 ĐỨC TÁNH
1- HẠNH PHÂN BIỆN
XÁC THÂN
CÁI VÍA
CÁI TRÍ
2- HẠNH KHÔNG HAM MUỐN
3- HẠNH KIỂM TỐT
4- HẠNH BÁC ÁI
TIỆN ĐÂY TÔI CÓ VÀI LỜI NGỎ CÙNG QUÍ BẠN ĐỘC GIẢ
PHỤ TRƯƠNG
TẠI SAO TÔI VIẾT PHỤ TRƯƠNG NẦY ?
CHƯƠNG TR̀NH HỌC TẬP ĐỂ TỰ GIÁC
1- PHẦN LƯ THUYẾT
TẠI SAO PHẢI HỌC TRỜI TRƯỚC ?
2- PHẦN THỰC HÀNH
TOÁT YẾU VỀ SỰ LUYỆN TẬP 3 THỂ
1- VỀ XÁC THÂN
PHẢI HẾT SỨC SẠCH SẼ
TẬP THỂ DỤC
TẬP YOGA
PHẢI ĐỀ PH̉NG
2- VỀ CÁI VÍA
3- VỀ CÁI TRÍ
SỰ THAY ĐỔI CHẤT KHÍ TRONG HAI THỂ VÍA VÀ THỂ TRÍ
TỰ THẮNG M̀NH LÀ MỘT VIỆC CỰC KỲ KHÓ KHĂN
PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN TÁNH T̀NH THEO LỜI DẠY CỦA ĐỨC BÀ A. BESANT
HỌC GIÁN TIẾP VÀ HỌC TRỰC TIẾP
PHẦN LƯ THUYẾT
HỌC GIÁN TIẾP
PHẦN THỰC HÀNH
HỌC TRỰC TIẾP
LỜI CẦU CHÚC CỦA TÔI
CHÂN THÀNH TRI ÂN

 

Tự giác nhi giác tha

  

Lời dạy của Chơn Sư:

          “Tại sao lại có tánh ích kỷ? Nếu có những điều có thể học được, thấy được và cần ích cho tương lai của con người, tại sao không cho kẻ khác có dịp may như con?”

Chơn Sư M.

  

          Rất dễ nói: “Tôi không muốn có ḷng tham vọng, nhưng không phải dễ nói: Khi Đức Chơn Sư nh́n vô ḷng tôi, Ngài thấy nó hoàn toàn trong sạch.”

Ánh Sáng Trên Đường Đạo

 

VÀI  LỜI   NÓI  ĐẦU

 

          Hiện giờ khắp hoàn cầu có 3 quyển sách nhỏ quí báu nhất giúp chuẩn bị sinh viên bước vào Cửa Đạo một cách mau chóng.

          Ba quyển đó là:

          1- Dưới Chân Thầy.

          2- Tiếng Nói Vô Thinh, cũng gọi là: Tiếng Nói Của Tâm Hồn.

          3- Ánh Sáng Trên Đường Đạo.[1]

          Hai vị Cao Đồ của Chơn Sư là Đại Đức A. Besant và Leadbeater có giảng lư 3 quyển nầy. Nhưng phải nói trắng ra: Trước kia, hai Ngài giải cho những vị Đệ Tử và những kẻ chí nguyện nghe, sau nầy mới được phép đem ra phổ biến. V́ thế những lời giải thích cao hơn nhiều lắm sánh với tŕnh độ của những người thường. Trừ ra một số rất ít người, có lư tưởng, mới hiểu được đôi chút, bao nhiêu người c̣n lại không lănh hội trọn được ư nghĩa cao thâm của 3 quyển sách nầy.

          Không hiểu được, tự  nhiên không thực hành được những điều đă học hỏi.

          Trong 3 quyển ấy quyển “Dưới Chân Thầy” là cần thiết nhất, v́ nó nêu rơ những điều kiện Luật Trời đă qui định và bắt buộc sinh viên phải có đủ mới được bước vào Cửa Đạo, nói một cách khác, là được Điểm Đạo lần thứ nhứt. Nhưng tôi thường nói với các bạn thân: Quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” khó lắm. Cần giảng thêm quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy,” may ra các bạn Đạo có thể đem áp dụng phần nào lời dạy của Chơn Sư trong đời sống hằng ngày.

          Tôi cũng thường khuyên các bạn Thông Thiên Học phải cố gắng sống đúng như những lời dạy trong quyển “Dưới Chân Thầy,” được bao nhiêu hay bấy nhiêu, bởi v́ Học Rất Dễ, mà Hành Rất Khó.

          Học Đạo chỉ để Thuyết Đạo, chớ không Hành Đạo ắt không bao giờ Đắc Đạo.

          Sanh ra ở Cơi Trần con người chỉ có một mục đích là cố gắng tiến hoá để trở nên Trọn Sáng, Trọn Lành, trở thành một Vị Siêu Phàm như Thiên Cơ đă định, khi giờ khắc điểm.

          Muốn đạt mục đích nầy sớm hơn, cần phải luyện tập theo  phương pháp Yoga. Đại Sư Patanjali định nghĩa Yoga như sau đây:

          1- Yoga là việc đ́nh chỉ sự Biến Thiên của Cái Trí.

          2- Yoga là sự kiểm soát những tư tưởng trong Trí.

          Cũng một câu chữ Phạn mà dịch hai cách, tuy khác danh từ song cũng đồng nghĩa.

          Thiết tưởng hiện nay, đứng đầu những sách giải về Yoga thực tập là quyển “Dưới Chân Thầy”, v́ nó gồm một lượt đủ 3 Pháp Môn hay là Yoga của 3 Con Đường: Minh Triết, Sùng Tín và Hành Động, một lượt.

          1- Về Con Đường Minh Triết: Con Người phải tự biết ḿnh là Chơn Thần và phải tự chủ. Ba Thể: Thân, Vía, Trí phải ở dưới quyền điều khiển của Con Người.

          2- Về Con Đường Sùng Tín: Con Người cần hợp nhất với Đức Thượng Đế và ban rải Đức Từ Bi của Ngài chan chứa ở trong ḷng ḿnh.

          3- Về Con Đường Hành Động: Lánh dữ, làm lành. Phụng sự và không bao giờ nghĩ tới tư lợi nào cả.

          Nhưng cần nhấn mạnh về Con Đường Hành Động hơn hai Con Đường kia, bởi v́ trong thời đại nầy hành động tỏ ra cần thiết và quan trọng hơn việc ngồi Thiền như thuở xưa.

          Phương pháp thực hành là: Kriya Yoga tức là Yoga của đời sống hằng ngày.

          Kriya Yoga thuộc về Qui Tắc thứ nhứt của Chương II trong quyển “Những cách ngôn về Yoga của Patanjali.”

          Kriya Yoga gồm 3 giai đoạn:

          1- Tapas: Có nhiều nghĩa như: Nhiệt lực, hăng hái, đốt cháy .  .  .  Ở đây có nghĩa là: Chuẩn bị Thể Xác.

          2- Swadhyaya: Sự học hỏi Bản Ngă, khác hơn sự học hỏi ngoại giới.

          3- Isvara Pranidhana: Tập trung tư tưởng về Đức Thượng Đế. Chiêm Ngưỡng Ngài.

          Ba giai đoạn nầy trong quyển “Dưới Chân Thầy” tóm tắt như sau đây:

          1- Tapas: Chuẩn bị Xác Thân.

          “Cách sinh hoạt của 3 Thể.

          Không có một xác thân tinh khiết và tráng kiện th́ không thế nào con thực hành được những công việc khó khăn trong lúc tập luyện để bước vào Đường Đạo, con không thể chịu đựng nổi những nỗ lực cần thiết và tái diễn măi.”

          2- Swadhyaya: Sự  học hỏi về Bản Ngă.

          “Con là Thượng Đế, con chỉ muốn điều nào Thượng Đế  muốn mà thôi. Nhưng con phải đi sâu vào nội tâm của con để t́m Đức Thượng Đế ở trong người con và nghe lời Ngài. Lời Ngài tức là lời của con vậy.

          Đức Thượng Đế vốn Minh Triết và cũng là Từ Bi. Con được Minh Triết nhiều chừng nào th́ Ngài càng dễ hiện ra nhiều chừng nấy.

          Phải tập nh́n thấy Đức Thượng Đế ẩn ḿnh bên trong các loài, các vật, dầu chúng nó thật xấu xa, hay là dường như xấu xa.

          Hăy học hỏi cách thức tỉnh Sự Sống Thiêng Liêng trong thân nó.

          Tôi là Con Người mà cũng là Thượng Đế ở trong ḿnh Con Người nữa.”

          3- Isvara Pranidhana: Tập trung tư tưởng về Đức Thượng Đế. Chiêm Ngưỡng Ngài.

          “Quyết chí hợp nhất với Đức Thượng Đế không phải để thoát khỏi sự mệt nhọc và khổ năo, nhưng để có thể hành động với Ngài và giống như Ngài vậy.

          Khát khao hợp nhất với Đức Thượng Đế chẳng phải để con được hưởng phần con, mà là để thành một vận hà đem Đức Từ Bi của Ngài ban rải cho đồng bào của con.

          Nó là ng̣i bút ở trong tay Đức Thượng Đế, nhờ vậy tư tưởng của Ngài có thể tuôn xuống Phàm Trần và nếu không có phần trung gian ấy th́ không phô diễn ra được.”

          Về 3 giai đoạn nầy, Chơn Sư chỉ nói phớt qua, v́ Alcyone c̣n nhỏ tuổi, không tiện giải thích nhiều hơn. Một lẽ khác nữa: Alcyone đương ngủ, Huynh ở trong Cái Vía, chớ không phải thức và ở trong Xác Thân như chúng ta để dễ nhớ.

          Tôi tưởng cũng nên nói đôi lời về nếp sống của vài vị Cao Đồ của Chơn Sư như: Đức Bà A. Besant.

          4 giờ sáng Đức Bà A. Besant đă thức dậy, tham thiền trong ṿng nửa giờ rồi bắt đầu viết bài và trả lời các thơ tín hay là giải quyết những công chuyện phải lo. Bà làm việc tới 11 giờ khuya mới đi ngủ.

          C̣n Đức Leadbeater thức dậy hồi 5 giờ sáng, làm việc cho tới 12 giờ khuya.

          Hai Ngài ăn rất ít và chỉ nghỉ có vài mươi phút sau khi dùng bữa.

          Các vị Cao Đồ khác như: Đại Đức Jinarajadasa, Arundale, Rukmini, Sri Ram, Hodson lần lượt đi chu du khắp hoàn cầu. Các Ngài thường đến những nước lớn bên Âu Mỹ thuyết giáo hầu ban rải ánh sáng Chân Lư cho đời.

          Nối gót các vị Tiền Bối, lúc sau nầy là Huynh John Coats,[2] Chánh Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Quốc Tế cũng đi thuyết Đạo nhiều nơi. Năm 1972 Huynh có qua Saigon và diễn thuyết tại Hội Quán Thông Thiên Học Việt Nam ở Phú Nhuận.

          Bà Radha Burnier đắc cử Chánh Hội Trưởng năm 1980 cũng đi diễn thuyết khắp xứ.

          Gương hy sinh cao cả của các Ngài để cho chúng ta, là những người hội viên Thông Thiên Học và đoàn hậu tấn soi chung hầu tiến lên.

          Thuở xưa, Sri Krishna là hoá thân của Đức Thượng Đế dạy Yoga cho Arjuna giữa băi chiến trường Kurukshetra, chớ không phải trong chốn rừng sâu, núi thẳm.

          Ngày nay, cơi đời không khác nào trận địa Kurukshetra, thiên hạ đau khổ rất nhiều v́ những tranh đua bất chánh. Muốn đem hạnh phúc cho nhân loại điều cần thiết và hay hơn hết là dạy con người hành động chơn chánh và lánh dữ, làm lành, chớ không c̣n th́ giờ ngồi trầm tư mặc tưởng như mấy thế kỷ trước đây. Phải tuỳ thời đại và hoàn cảnh mà dùng những phương tiện thích nghi.

          Quyển “Dưới Chân Thầy” ra đời rất đúng lúc.

          Bốn Đức Tánh: Phân Biện, Hạnh Không Ham Muốn, Hạnh Kiểm Tốt, Ḷng Từ Ái kể ra trong quyển “Dưới Chân Thầy” cần phải bàn rộng ra, mỗi độc giả cần suy nghĩ, t́m giải pháp thích nghi, tuỳ theo con đường ḿnh đă chọn lựa, hoặc Con Đường Trí Tuệ, hoặc Con Đường Sùng Tín (hay là T́nh Thương), hoặc Con Đường Hành Động.

          Tôi xin hiến quí bạn những điều tôi đă  học hỏi về 4 Đức Tánh nầy hầu giúp quí bạn thêm vài ư kiến mới.

          Nếu quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” của hai vị Đại Đức A. Besant và Leadbeater là ngọn đèn pha làm choá mắt khách lữ hành trong đêm tăm tối, tôi ước mong quyển “Tôi Học Dưới Chân Thầy” tôi soạn là một ngọn đèn dầu phộng chỉ soi sáng từng bước của những bạn đồng hành mà thôi.

          Tôi không có cái cuồng vọng mà cũng không ngu xuẩn đến nỗi cho rằng quyển sách của tôi viết có thể thay thế được quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” của hai vị Cao Đồ của Chơn Sư, mà cũng là Đại Sư Huynh của chúng tôi.

          Nó chỉ là những nấc thang bắt từ chỗ thấp để giúp quí bạn bước lần lên cao mà thôi.

          Nhưng tôi tin rằng sau khi đọc quyển nầy, quí bạn hiểu thêm được quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” đôi ba phần.

          C̣n hai điều mà tôi tưởng cũng nên nói ra:

          Một là: Trong nền Đạo Đức, từ xưa đến nay, luôn luôn có nhiều Đức Tánh cần phải lặp đi lặp lại, kẻ chí nguyện mới nhớ để thực hành. Cũng như trong quyển “Dưới Chân Thầy” Chơn Sư nhấn mạnh nhiều lần về Sự Lành, Sự Dữ cho Alcyone nghe.

          Trong quyển nầy có nhiều đoạn tôi chép lại những lời tôi đă giải ở mấy quyển sách tôi đă xuất bản trước đây, v́ chúng liên quan với những điểm mà Chơn Sư đă chỉ dạy Alcyone.

          Tôi muốn nhấn mạnh về mấy điểm sau đây:

          1- Chân Lư vẫn là một.

          2- Nhân loại là một khối duy nhất. Tư tưởng, lời nói và việc làm của một người đều có ảnh hưởng đến toàn thể.

          3- Quả thật Con Người  là Chơn Thần. Tuy nhiên kinh sách thường gọi: Con Người là Chơn Nhơn hay là Linh Hồn, cũng được vậy, bởi v́ Chơn Nhơn là một phân thân của Chơn Thần và đại diện cho Chơn Thần. Con Người sanh ra Cơi Trần để tiến hoá.

          4- Muôn vàn tội lỗi đều do tánh xấu của 3 Thể: Thân, Vía, Trí gây ra.

          5- Muốn tiến mau phải tinh thần hoá 3 Thể. Phải tự chủ, phải khắc kỷ mới mong dẹp được những chướng ngại mà hành giả sẽ gặp ở mỗi chặng đường.

          6- Nhất là phải học rành rẽ Luật Nhân Quả. Làm trái Luật Trời th́ sẽ có sự phản ứng lại, không trốn tránh đường nào cho khỏi. Người ta gọi là Nhân nào, Quả nấy.

          Phải lặp đi lặp lại những điều nầy nhiều lần, người chí nguyện mới ghi nhớ vào ḷng.

          Gặp mấy đoạn đó, xin quí bạn miễn nghị. Đây cũng là một dịp để ôn lại những điều đă học hỏi đặng thực hành khi có cơ hội đưa đến.

          Hai là: Thiên Đ́nh rất công b́nh. Bất cứ là ai, dầu cho tín đồ của Ấn Giáo, Phật Giáo, Công Giáo, Hồi Giáo, Nho Giáo, hoặc không giữ Đạo nào cả, mà lo tu đức trau ḿnh, ḷng nhân mở rộng, quên ḿnh hầu giúp đời tuỳ phương tiện, không quản nhọc nhằn, th́ khi trả xong một số lớn Quả Báo rồi, Chơn Sư sẽ thâu nhận anh làm Đệ Tử, như trường hợp người bạn của Đức Leadbeater mà tôi đă thuật trong nhiều quyển sách trước của tôi trong bài “Cách Chơn Sư chọn Đệ Tử.” Xin xem bài “Kinh nghiệm của Đức Leadbeater” trong quyển nầy.

          Quả thật Hội Thông Thiên Học do hai vị Chơn Sư lập ra và được phép đem phổ biến vài Thiên Đầu của Khoa Minh Triết Thiêng Liêng, cũng có thể gọi là Huyền Bí Học hay là Khoa Mật của các Đại Tôn Giáo, bắt đầu từ ngày 17 tháng 11 năm 1875.

          Nhưng không v́ lẽ đó mà Thiên Đ́nh chỉ thâu dụng những Hội Viên Thông Thiên Học và loại ra tín đồ của các Tôn Giáo khác. Không hề có việc đó bao giờ.

          Dầu cho là Hội Viên Thông Thiên Học trong ṿng 5, 60 năm đi nữa mà không sống đúng như những lời dạy của Tiên Thánh, không hội đủ những Đức Tánh Cần Thiết do Luật Trời qui định, sẽ vẫn khó gặp được Chơn Sư. Mà dầu có gặp Ngài đi nữa, cũng không được Ngài thâu nhận làm Đệ Tử. Gặp Chơn Sư là một việc, c̣n được vào hàng Đệ Tử Chơn Sư là một việc khác nữa. Trong Quần Tiên Hội không bao giờ có sự tư vị như ở Thế Gian.

          Các Đấng Cao Cả đưa cơ hội tốt đến cho chúng ta, nếu chúng ta không chụp lấy, để cho nó trôi qua th́ nó không trở lại lần thứ nh́ trong kiếp nầy.

          Nếu chúng ta chưa được hân hạnh đứng trước mặt Chơn Sư chúng ta hăy tự xét ḿnh c̣n thiếu sót những điều kiện nào, để lo bồi bổ chỗ khuyết điểm đó. Ngày nào chúng ta thành công, ngày đó chúng ta sẽ được toại nguyện.

          Luôn luôn Chơn Sư chờ đợi chúng ta. Ngài t́m kiếm những Đệ Tử trung kiên để chia sớt công việc nặng nhọc của Ngài ở Trần Thế, bởi v́ có hai thứ công việc:

          1- Một thứ là công việc ở Thiên Đ́nh, Chơn Sư thực hành được mà các Đệ Tử không thể làm.

          2- Một thứ nữa là công việc ở Cơi Trần, Chơn Sư phải nhờ Đệ Tử thực hành, v́ Ngài không rảnh rang và cũng không thể ở giữa Thế Tục măi như Đệ Tử. Xác Thân của Ngài tốt đẹp và mảnh mai không chịu được những sự rung động dữ dội và thô bạo của máy móc, xe cộ. Nhưng vị Đệ Tử cũng phải tỏ ra xứng đáng với nhiệm vụ của Ngài giao phó, tức là phải đủ Tài, đủ Đức, Khiêm Tốn và Phụng Sự Vô Tư Lợi.

Lành thay! Lành thay!

BẠCH  LIÊN


GỞI  BẠN

 

Làng Tiên chờ đợi bạn Tâm Giao,

Vượt bể Trần Ai, đến Động Đào.

Có thú vị, rồi thêm thú vị,

Cho thanh cao, mới được thanh cao.

Lộ vàng bước tới noi người trước,

Kiều Ngọc qua rồi dắt kẻ sau.

Hoa cỏ non Bồng xuân nhuận sắc,

Trăng soi cảnh tịnh rạng làu làu.

******************

Sẵn bạn Đào Nguyên chỉ dẫn đường,

Lo chi cuộc Thế mấy tang thương.

Mở ḷng Bác Ái yêu muôn vật,

Đem Đạo Từ Bi bủa bốn phương.

Biển khổ mênh mông c̣n có đáy,

Thuyền sen Bát Nhă vẫn không lườn.

Giúp đời chớ quản lời phi thị,

Trên có Cao Dày, Đấng Chủ Trương.

 

 

 

 

ĐỀ   THI

 

- I -

Không tham danh lợi khỏi ưu phiền,

Niệm chữ Từ Bi dứt nghiệp duyên.

Vớt kẻ trầm luân nơi khổ hải,

Noi theo Tôn Chỉ Hội Quần Tiên.

 

- II -

Phá đường mê tín vạch chông gai,

Khó nhọc dường bao dạ chẳng nài.

Đă nguyện thân phàm đem độ thế,

Bắt cầu cho kẻ đến Bồng Lai.

 

BẠCH  LIÊN

 

                       

 

           

         

         

         

CẢM   THUẬT

-         I -

Thương kẻ say Phàm trót bấy lâu,

Muốn d́u thoát tục phải lo âu.

     Rèn tâm từ ái từng lao khổ,

Đúc trí quang minh mặc dăi dầu.

Phú quí in như đèn dưới gió,

Công danh dường thể nước qua cầu.

Cơ Trời tiến hoá nên thay đổi,

Ta vẫn xem thường cuộc biển dâu.

 

-         II -

Ở giữa Trần Ai chớ nhiễm Trần,

Xem Kinh giồi Trí luyện Tâm Thần.

Ra công tu đức, trau ḿnh trước,

Đuốc huệ sau nầy rọi thế nhân.

 

VƯƠNG  CHÂU


VÀI  LỜI  VỀ  TIỂU  SỬ  KRISHNAMURTI

 

          Krishnamurti đă viết quyển “Dưới Chân Thầy”. Vậy trước khi đọc quyển nầy, thiết tưởng chúng ta nên biết chút ít về Tiểu Sử của Tác Giả.

          Krishnamurti vốn ḍng Bà La Môn, sanh ngày 11 tháng 05 năm 1895 tại Madanapalle là một làng nhỏ thuộc về tỉnh Madras, miền Nam Ấn Độ.

          Tên tộc của Ngài là Jiddu. Ngài lấy tên Thánh là Krishnamurti, bởi v́ theo phong tục miền Nam Ấn Độ, nếu đứa con thứ tám sanh ra là trai th́ phải đặt tên là Krishnamurti, đặng tỏ ḷng kính mến Đức Giáo Chủ Krishna. Ngài là con trai thứ tám.

          Murti hay (Mourti) có nghĩa là: Biểu hiện, trạng thái, dấu hiệu, mà cũng có nghĩa là: Một Mặt của Ba Mặt hay Ba Ngôi Trimourti của Thượng Đế (Shiva, Vishnou, Brahma).

          Krishnamurti có cả thảy 9 anh em. Em trai út tên là Nityananda. Krishnamurti mất mẹ hồi 5 tuổi. Cha của Krishnamurti làm việc ở Bộ Tài Chánh, tánh t́nh hung dữ, quạu quọ, mấy đứa trẻ thường bị đ̣n bọng hơn là được nuôi dưỡng tử tế.

 

ĐỜI  NIÊN  THIẾU  CỦA  KRISHNAMURTI

 

          Krishnamurti là một đứa nhỏ ốm yếu, theo tiếng Việt Nam là ốm ḷi xương sườn. C̣n Nityananda mạnh hơn Krishnamurti nhiều. Khi cha Krishnamurti mất sở, hai anh em thường bị đánh đập, quần áo rách rưới, có ngày đi lang thang đầu đường xó chợ, đói khát giống như những trẻ Phái Thủ Đà La, chớ không phải thuộc về ḍng quí phái Bà La Môn.

 

AI  GẶP  KRISHNAMURTI  TRƯỚC  HẾT ?

 

          Chính ông Ernest Wood, thư kư của Đức Leadbeater nói: “Tôi gặp Krishnamurti trước Đức Leadbeater.”

          Câu chuyện như sau đây:

          “Năm 1906-1907, thường ngày đúng 5 giờ chiều, chúng tôi ra tắm ngoài biển. Có một đám học tṛ nhỏ ra xem chúng tôi bơi lội. Một ngày kia ông Von Manen, Giám Đốc Thư Viện Adyar nói với Đức Leadbeater: “Huynh xem thử mấy đứa nhỏ đó coi có cái chi đặc biệt không?” Đức Leadbeater mở Huệ Nhăn xem sơ qua liền thấy một đứa có một tương lai rực rỡ, phi thường. Ấy là một Con Phụng đang chung lộn với một Bầy Gà. Đứa nhỏ đó là Krishnamurti. Nhưng Ngài ngưng lại, không quan sát thêm. Ngài chờ cha đứa nhỏ cho phép tiếp tục. 

 

KRISNAMURTI  BỊ  THẦY  DẠY  HỌC  ĐÁNH  ĐẬP  TÀN  NHẪN

 

          Vào trường học, Krishnamurti là một đứa tối dạ lại không chịu chăm chỉ nghe lời thầy giảng dạy. Gặp ông thầy hung dữ nên thường bị đánh đập một cách tàn nhẫn. Cha Krishnamurti bèn nói: “Nó không sống lâu đâu.” Ông liền hỏi Đức Leadbeater: “Phải làm sao bây giờ?” Đức Leadbeater nói: “Đừng cho nó học nữa, đem nó về nhà chờ tôi quyết định.”

          Lúc đó Đức Bà A. Besant ở Mỹ Châu. Đức Leadbeater gởi thư cho Bà. Bà chấp nhận làm người đỡ đầu cho hai đứa nhỏ. Bảy, tám vị dạy hai đứa trẻ mỗi ngày vài giờ để sau nầy chúng nó qua Anh tiếp tục đường học vấn. Thường ngày hai đứa nhỏ ở trong pḥng Đức Leadbeater hoặc ở một bên pḥng kế cận với Thầy chúng nó. Đức Leadbeater và Đức Jinarajadasa săn sóc hai trẻ. Chỉ một việc ở gần Đức Leadbeater cũng đủ để giúp phát triển mau lẹ. Đức Leadbeater cho chúng nó uống sữa và ăn trái cây, tuy Krishnamurti không thích ăn trái cây và uống sữa, nhưng cũng phải vâng lời. Đức Leadbeater dạy chúng bơi lội, tập thể dục và đánh Tennis mỗi buổi chiều. Chẳng bao lâu Krishnamurti trở thành một đứa trẻ rất khoẻ mạnh.

 

KRISHNAMURTI  NÓI  CHUYỆN  VỚI  HỒN  MA

 

          Ông Ernest Wood thuật lại rằng ông có chứng kiến Krishnamurti nói chuyện với hồn ma.

          Số là hai vợ chồng người kia có một đứa con mới chết. Hai ông bà tới xin Đức Leadbeater xem coi số phần đứa con trai của ḿnh ra thể nào? Đức Leadbeater t́m được đứa nhỏ, liền cho hai ông bà biết hoàn cảnh của nó. Nhưng hai ông bà muốn nói chuyện với đứa con bằng tiếng Télugu. Đức Leadbeater không biết thứ tiếng đó mà Krishnamurti lại biết. Ngài yêu cầu Krishnamurti làm thông ngôn giữa cha mẹ đứa nhỏ và nó.

          Hai ông bà ngồi trên ghế dựa gần một bên Krishnamurti. Krishnamurti cho đứa nhỏ biết ư muốn của cha mẹ nó. Nó trả lời hay nói cái chi th́ Krishnamurti thuật lại cho cha mẹ biết. Cuộc đàm thoại kéo dài trong nửa giờ và chấm dứt. Kiếp trước Krishnamurti đă khai mở được quyền năng nầy, nên kiếp nầy sử dụng nó rất dễ dàng.

 

KRISHNAMURTI  THEO  ĐỨC    A. BESANT

 

          Sau khi Đức Bà A. Besant từ giă Mỹ Quốc trở về Adyar, đi đâu Bà cũng dắt hai anh em Krishnamurti theo.

          Chính là khi ở Bénarès (Ba La Nại), Krishnamurti bắt đầu viết quyển “Dưới Chân Thầy.”

          Được 16 tuổi Krishnamurti và Nityananda sang Âu Châu, ở ngoại ô Paris rồi sang Anh Quốc.

          Năm 1922 Krishnamurti cùng Nityananda đến California với hy vọng khí hậu tốt tại đây giúp cho Nityananda mau phục hồi sức khoẻ. Nhưng chẳng may năm 1925 Nityananda từ trần. Krishnamurti buồn rầu vô hạn.

          Quí bạn muốn rơ thêm, xin đọc quyển “Krishnamurti, nhà Tâm Lư Học của Thời Đại mới” của tác giả Robert Linsson.

 

CÁCH  GIÁO  DỤC  KRISHNAMURTI

 

          Tương truyền rằng: Đức Bồ Tát bảo Đức Bà A. Besant dạy Krishnamurti học giáo lư Thông Thiên Học, nhưng Krishnamurti không chịu. Đức Bà liền để cho Krishnamurti được tự do để ông tự phát triển lấy, chớ không bắt buộc phải theo một đường lối nào.

          Năm 1933 Đức Bà A. Besant từ trần. Krishnamurti nói về Đức Bà như vầy:

          “Tiến Sĩ A. Besant là mẹ của chúng tôi. Bà chăm nom chúng tôi, lo lắng cho chúng tôi hết ḷng. Có một điều Bà không làm, là Bà không bao giờ bảo chúng tôi: “Hăy làm cái nầy. Đừng làm cái kia.” Bà để cho chúng tôi ở yên một ḿnh. Thái độ ấy khiến tôi hết ḷng kính mến Bà.”

          Thiết tưởng ta cũng nên hiểu tại sao Đức Bà A. Besant không ép buộc Krishnamurti học Thông Thiên Học, ấy v́ trong Thế Giới Huyền Bí nếu ḿnh đưa ra một đề nghị nào mà người ta không ưng thuận th́ chẳng nên ép buộc người phải tuân theo. Một việc làm v́ bị cưỡng bách th́ không có giá trị về đường Tinh Thần. Sự tự do rất hữu ích, đáng quí trọng, song nó phải có giới hạn và có một giá trị tương đối chớ không tuyệt đối.

 

KRISHNAMURTI  THUYẾT  PHÁP

 

          Từ năm 1925 Krishnamurti chu du khắp hoàn cầu để giảng Đạo. Những bài thuyết pháp của Huynh ở Château d’Erie, Camp d’Ommen, Na Uy, Adyar, Auckland (Tân Tây Lan), Madras, Bénarès, Paris, v.v… đều được in ra thành sách và dịch ra nhiều thứ tiếng.

 

CÂU  TRẢ  LỜI  CỦA  KRISHNAMURTI  KHI  NGƯỜI  TA  HỎI:  “NGÀI     PHẢI    ĐẤNG  CHRIST LÂM  PHÀM  KHÔNG ?”

 

          Một người kia đến nghe Krishnamurti nói chuyện rồi hỏi: “Thưa Ngài, Ngài có phải là Đấng Christ lâm phàm không?”

          Krishnamurti trả lời như sau đây: “Hỡi bạn! Bạn nghĩ tôi là ai? Nếu tôi nói tôi là Đấng Christ, bạn lại tạo ra một uy quyền. Nếu tôi nói tôi không phải là Đấng Christ th́ bạn tạo ra một uy quyền khác nữa. Bạn có nghĩ rằng: Chân Lư không có thay đổi ǵ khi bạn đến với tôi, khi bạn hỏi tôi là ai? Bạn không nghĩ đến Chân Lư mà bạn nghĩ đến cái b́nh chứa đựng Chân Lư. Bạn không uống nước trong b́nh mà bạn muốn t́m hiểu cái ǵ đă làm ra cái b́nh đựng nước. Hỡi bạn! Nếu tôi nói tôi là Đấng Christ, c̣n người khác nói tôi không phải là Đấng Christ th́ bạn sẽ nghĩ thế nào? Hăy để nhăn hiệu qua một bên, v́ nó không có giá trị ǵ cả. Hăy uống nước, nếu nước thật tinh khiết. Tôi nói với bạn tôi có nước tinh khiết đó. Tôi có thuốc làm cho nước trở nên tinh khiết, chữa lành bệnh rất tài t́nh. Bạn hỏi tôi là ai? Tôi là vạn vật, tôi là sự sống.” (Thông Thiên Học Hiện Đại).

 

TIỀN  KIẾP  CỦA  KRISHNAMURTI

 

     2.500  NĂM  TRƯỚC  KRISHNAMURTI    ĐỆ  TỬ  CỦA  ĐỨC  THÍCH  CA

 

          Đức Leadbeater mở Huệ Nhăn truy ra 30 kiếp của Krishnamurti. Ngài có viết thành sách. Tôi xin tóm tắt đại ư của Ngài trong kiếp thứ 29 của Krishnamurti:

          “Krishnamurti có tên là Alcyone trong một kiếp trước.

          Năm 620, trước Tây Lịch kỷ nguyên, Alcyone đầu thai tại Ấn Độ.

          Năm 588, trước Thiên Chúa Giáng Sinh, Đức Phật tới thuyết pháp tại chỗ Alcyone ở. Đức Phật giảng về Sự Khổ và Nhân Quả. Alcyone nghe qua rất xúc động, v́ nó trúng vào trường hợp của ḿnh. Lần sau Alcyone tới nghe Phật giải về những Đức Tánh Cần Thiết phải có để bước vào Đường Đạo. Trở về nhà Alcyone thực hành liền những lời của Phật dạy. Trong đời sống hằng ngày Alcyone tỏ ra có nhiều đức tánh cao thượng. Alcyone khuyên người anh em cô cậu là Mizar (Ngày nay đầu thai là Nityananda) tới nghe Phật. Bữa đó Phật thuyết pháp về “Lửa Cháy.” Ngài chỉ một đống lửa đang cháy gần đó và nói: “Ai đụng tới lửa th́ bị lửa đốt. Dục t́nh và các sự ham muốn giống như lửa đó, nó thiêu huỷ tâm can con người. Đối với chúng nó không thể dùng những biện pháp lưng chừng được. Muốn cho một tàn lửa đừng thành ra đám hoả hoạn thiêu huỷ nhà cửa làm cho cảnh vật điêu tàn th́ phải dập tắt nó ngay khi đó. Cũng thế, người ta phải diệt trừ những nết hư tật xấu ở trong ḷng ḿnh. Tới chừng đó tâm con người mới trở nên thanh tịnh và con người mới vững bước trên Đường Đạo.”

          Bài thuyết pháp nầy cảm hoá Alcyone và Mizar vô hạn. Cả hai quyết định ĺa gia đ́nh, bỏ sự nghiệp để theo Phật tu hành, tới thuật cho Phật nghe đời sống của ḿnh và xin nhập môn.

          Phật bèn hỏi: “Hai con dám chắc chắn rằng trong ḷng hai con không c̣n chứa một mảy may giận hờn và oán ghét chăng? Hai con dám chắc chắn rằng hai con rộng ḷng tha thứ cho những kẻ làm cho hai con đau khổ và hai con cũng tha thứ nữa cho kẻ giết chết đứa con yêu quí của hai con chăng? Hai con dám chắc chắn rằng trong ḷng hai con chỉ có sự xót thương tất cả các loài cho tới những kẻ đă hăm hại hai con nữa chăng?”

          Alcyone bèn thưa: “Bạch Phật ! Ḷng con như thế, vợ của anh em cô cậu của con làm hại con mà con đă tha thứ. Con cho anh con tất cả sản nghiệp của con, con không cần dùng nó nữa. Ngày nay con chỉ có một nguyện vọng, dầu cho nó đ̣i hỏi nhiều kiếp. Con qú trước mặt Phật thề rằng: “Con sẽ cố gắng thực hiện nguyện vọng đó. Con muốn theo Phật, con muốn xả thân như Phật để cứu độ nhân loại đang rên siếc, thở than. Phật đă giải thoát cho con khỏi sự đau khổ và dắt con đến cơi an tĩnh đời đời. Con muốn dắt nhân loại đến cơi đó và con xin đem hết những kiếp lai sinh của con lo lắng cho việc nầy cho tới khi nào con thành một Đấng Cứu Thế như Phật vậy.”

          Phật gật đầu tỏ ư bằng ḷng và nói rằng: “Con sẽ được toại nguyện. Ta là Phật, ta chứng minh lời nguyện nầy và từ đây không có cái chi cản trở nó được và nó sẽ thành tựu trong một kiếp tương lai.”

          Nói xong Ngài giơ tay ban ân huệ cho Alcyone, đoạn Ngài xoay lại nói với Mizar: “C̣n con, ngày sau con sẽ theo Ta. Hiện giờ con c̣n nhiều việc phải làm. Hăy lănh sản nghiệp của Alcyone, nó đă thành một vị Đệ Tử mới của Ta. Hăy nhận những cái ǵ nó đă cho con, v́ nó không cần dùng nữa. Những kẻ nào giàu có trong Luật Pháp rồi th́ không cần những của cải ở ngoài. Hăy ăn ở ngay thẳng, nhân từ và đừng quên rằng một ngày kia ngày giờ của con sẽ điểm, phần con sẽ tới.”

          Mizar trở về lo lắng công việc gia đ́nh. Anh ra công khó nhọc tập rèn tánh nết. Từ giàu có anh trở thành nghèo nàn. Anh mất của cải vật chất, nhưng thâu nhận được gia tài thiêng liêng là những đức tánh, chúng chuẩn bị cho anh để sau nầy thành người Phụng Sự nhân loại.

          C̣n Alcyone theo Phật lấy tên là Maitribaladasa nghĩa là Người Phụng Sự Đấng Từ Bi.[3]

          Đức Phật nói: “Con khéo lựa chọn. Tên nầy tốt lắm. Nó tiên tri số phần của con sau nầy.”

          Alcyone nhờ một vị Cao Đồ của Đức Phật là Uranus dạy dỗ. Đức Uranus kiếp sau là Đức Aryasanga. Tàu gọi là Vô Trước. Ngày nay Ngài là Đức Tiên Trưởng Djwal Kul.

          Alcyone từ trần 16 năm trước Đức Phật.”

 

THUYẾT  PHÁP  VỀ  LỬA  CHÁY

 

          Trong kinh sách Phật tôi thấy có ghi hai bài “Thuyết Pháp Về Lửa Cháy.”

          Bài của Đức Phật thuyết pháp cho một ngàn người Djatila, Tín Đồ Thờ Lửa, cầm đầu là Đức Maha Kacyapa (Ma Ha Ca Diếp).

          Một bài Đức Phật thuyết pháp chung cho các Đệ Tử nghe.

 

- 1 -

THUYẾT  PHÁP  VỀ  LỬA  CHÁY  TRÊN  NÚI  GAYA  CHO  MỘT  NGÀN  NGƯỜI  DJATILA  NGHE

(Đại Ư)

 

          Da Ti La các ngươi ơi! Mọi vật đều nóng như lửa. Con mắt cũng nóng như lửa, tư tưởng cũng nóng như lửa, các giác quan cũng nóng như lửa, t́nh dục cũng nóng như lửa.

          Đây là sự giận hờn, đó là sự mê muội, kia là sự ghen ghét. Ngày nào lửa c̣n gặp đồ bổi ngày đó nó c̣n cháy. Như vậy vẫn c̣n măi sự sanh, tử, già yếu, khổ năo, rên siếc, than van, đau đớn, thất vọng và buồn bực. Khi xem xét mấy điều ấy rồi người mến chân lư thấy rơ Tứ Diệu Đế và noi theo Đạo Bát Chánh mà đi. Người ấy không tin con mắt của y, không tin tư tưởng của y, mà cũng không tin cảm giác của y nữa. Y diệt hết các dục t́nh, và sẽ hưởng thảnh thơi. Y trừ được tánh ích kỷ, và đắc Đạo thành Chánh Quả lên Cơi Niết Bàn.”

-         2  -

 

          Bài dưới đây cũng gọi là “Thuyết Pháp Về Lửa Cháy,” nhưng Phật thuyết pháp chung cho các Đệ Tử nghe.

          “Chỗ nào có nóng, tức nhiên chỗ đó có mát. Chỗ nào có ba ngọn lửa dữ dội: Lửa t́nh, lửa oán, lửa mê muội[4] th́ con người phải t́m chỗ đó cách dập tắt lửa đi.

          Các con ơi! Mọi vật đều cháy và cái chi bị cháy đỏ vậy? Ấy là ngũ quan: Tai, mắt, mũi, miệng và tứ chi. Mà thứ lửa nào cháy ngũ quan đó? Ấy là lửa t́nh, lửa oán, lửa mê muội; ấy là sự sanh, sự tử, sự già yếu, bệnh hoạn, khổ năo, than van, rầu rĩ, đau đớn và thất vọng.

          Cơi Trần đang bị lửa cháy, Cơi Trần bị khói lửa bao phủ, Cơi Trần bị lửa đốt tiêu, Cơi Trần đang rung rinh.”


DƯỚI  CHÂN  THẦY

         

          Bây giờ xin bàn qua những điều tôi hiểu biết về quyển “Dưới Chân Thầy.”

LỜI   TỰA

          Với tư cách là một người lớn, tôi được vinh dự viết vài lời giới thiệu cho quyển sách nhỏ nầy, quyển sách đầu tiên của một em trai nhỏ. Kỳ thật xác phàm của em c̣n nhỏ, nhưng Linh Hồn em không nhỏ.

          Đây là một điểm quan trọng.

          Người đời chỉ biết Cơi Trần và kiếp sống nầy, cho nên luôn luôn dựa theo tuổi tác của xác thân mà xét đoán. Trái lại, trong Đạo Đức người ta quư trọng tuổi tác của Linh Hồn, bởi v́ có những Linh Hồn đi đầu thai trước chúng bạn cả trăm, cả chục triệu năm, cho nên có thể nói rằng: “Có những Linh Hồn đă trưởng thành, những Linh Hồn đă già và có những Linh Hồn c̣n trẻ trung, c̣n thơ ấu.”

          Tự nhiên những Linh Hồn đă trưởng thành phải khôn ngoan và sáng suốt hơn những Linh Hồn c̣n bé nhỏ, v́ đă giàu học hỏi và kinh nghiệm. Xin đọc quyển “Chơn Nhơn và Phàm Nhơn” của Đức Leadbeater.

          Hiện nay, ta thấy nhiều đứa trẻ tỏ ra thông minh và tánh t́nh rất tốt hơn chúng bạn nhiều. Điểm đó không có chi lạ, bởi v́ chúng do Luật Nhân Quả tạo ra, chớ không phải ư Trời muốn đứa nhỏ nầy khôn ngoan, đứa nhỏ kia khờ dại; đứa nầy đầu thai làm con nhà giàu, trướng phủ, màn che; đứa khác sanh vào nhà tranh vách lá, cơm không đủ no, áo không đủ mặc.

          Trời không tạo những chuyện bất công như thế đâu.

          Bà Annie Besant là mẹ nuôi của Alcyone, nhưng Bà chỉ gọi ḿnh là chị cả, v́ các Linh Hồn đều là con chung của Đức Thượng Đế, cả thảy đều là anh em với nhau. Những lời Thầy dạy dỗ, Alcyone đem thực hành liền, nội trong 5 tháng anh được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử Chánh Thức và chẳng bao lâu anh được Điểm Đạo lần thứ nhứt. Nếu người khác, phải mất mấy chục năm công phu luyện tập, v́ muốn giữ vẹn những giới răn cần phải sửa đổi hết tánh t́nh từ trước đến nay.

          Phải tập làm chủ ba Thể: Thân, Vía, Trí. Phải khắc kỷ từ giờ, từ phút. Đây không phải là việc dễ làm.

          Những lời giáo huấn trong quyển sách nầy vốn của Thầy em dạy cho em để chuẩn bị em được Điểm Đạo.

          Sư Phụ của Alcyone là Đức Đế Quân K.H. Chưởng Quản Cung Thứ Nh́, tức là Cung Đạo Đức và Giáo Dục.

 

ĐIỂM  ĐẠO    G̀ ?

 

          Nói cho dễ hiểu, Điểm Đạo theo nghĩa bóng là giao ch́a khoá của sự hiểu biết để mở cửa các Cơi Trời tuỳ theo cấp bậc, do Máy Huyền Vi tác động.

          Một nghĩa khác nữa, Điểm Đạo là khởi sự một đời sống mới, trong đó Phàm Nhơn là phản ảnh của Chơn Nhơn và Chơn Nhơn bắt đầu vận dụng quyền năng của Chơn Thần.

          Xin Điểm Đạo là xin dự vào một cuộc thi. Thi đậu mới được Điểm Đạo.

          Muốn vào cấp bậc nào, thí sinh phải tỏ ra ḿnh đủ đức và đủ tài do Luật Trời qui định về cấp bậc đó.

          Đức đây là những tánh tốt.

          C̣n tài là khả năng thực hành công việc của Thiên Đ́nh sẽ giao phó cho ḿnh trong tương lai thuộc về cấp bậc của ḿnh và cũng phải tỏ ra ḿnh hiểu biết rành rẽ về Cơi mà ḿnh đương hoạt động.

          Dầu tài có kém đôi chút mà đức hạnh lại khá cao vẫn được Quần Tiên Hội thâu nhận, v́ Thiên Đ́nh trọng Đức hơn Tài.

          Điểm Đạo đây là Điểm Đạo lần thứ nhứt.

          Trong chu kỳ nầy có 5 lần Điểm Đạo:

          1- Điểm Đạo lần thứ nhứt tại Cơi Trung Giới (Plan Astral), vị Đệ Tử ở trong Cái Vía.

          2- Điểm Đạo lần thứ nh́ tại Cơi Hạ Thiên (Plan Mental Inférieur), 4 Cảnh thấp của Cơi Thượng Giới hay là Cơi Trí Tuệ. Vị Đệ Tử ở trong Hạ Trí.

          3- Điểm Đạo lần thứ ba tại Cơi Thượng Thiên (Plan Mental Supérieur), 3 Cảnh cao của Cơi Thượng Giới hay là Cơi Trí Tuệ. Vị Đệ Tử ở trong Thượng Trí.

          4- Điểm Đạo lần thứ tư tại Cơi Bồ Đề (Plan Bouddhique). Vị Đệ Tử ở trong Thể Bồ Đề hay là Kim Thân.

          5- Điểm Đạo lần thứ năm tại Cơi Niết Bàn (Plan Nirvanique ou Nirvana). Vị Đệ Tử ở trong Tiên Thể hay là Thể Thiêng Liêng.

          a- Người được Điểm Đạo lần thứ nhứt Ấn Giáo gọi là Parivrajaka là Người Đi Ta Bà, có nghĩa là Chơn Sư sai đi đâu th́ đi ngay tới đó để làm việc liền. Phật Giáo gọi là Sowani hay là Sotapanna hoặc là Sohan, Tàu dịch là Tu Đà Huờn.

          Sowani có nghĩa là Người Đă Nhập Lưu (nói bóng dáng). Người Nhập Lưu vào ḍng tiến hoá của các hạng Siêu Phàm. Sang tới bờ bên kia là Đắc Đạo thành Chánh Quả, thoát đoạ Luân Hồi.

          Vị Tu Đà Huờn phải chặt đứt 3 chướng ngại sau đây để được Điểm Đạo lần thứ nh́:

          1- Sakayadithi: Phàm Nhơn là mộng ảo.

          2- Vichikichcha: Sự hoài nghi, không chắc ư, tức là không tin có Luân Hồi, Nhân Quả.

          3- Silabhataparamasa: Mê tín, tin tưởng dị đoan.

          b- Vị Đệ Tử được Điểm Đạo lần thứ nh́ Ấn Giáo gọi là Koutichaka: Người dựng được một túp lều, người đi tới chỗ yên tịnh. Phật Giáo gọi là Sakridagamin: Tư Đà Hàm hay là Nhứt Lai, danh từ nầy ám chỉ vị Tư Đà Hàm chỉ cần đầu thai một kiếp nữa là tới bậc La Hán. Vị La Hán được quyền ở lại Cơi Bồ Đề tu luyện để lên tới bậc A- Sơ- Ca (Aseka), gọi là Chơn Tiên. Vị A- Sơ- Ca thành Chánh Quả, không c̣n bị bắt buộc đi đầu thai nữa.

          Vị Tư Đà Hàm không có chướng ngại nào để chặt đứt. Nhưng  phải lo luyện tập tánh t́nh càng ngày càng thêm tốt đẹp. Thời kỳ nầy nguy hiểm hơn hết. Vị Tư Đà Hàm trí hoá mở mang mau lẹ, rộng sâu và dùng được nhiều quyền năng siêu việt. Nếu trổ tánh kiêu căng và lạm dụng những phép thần thông ắt sẽ bị trả quả nặng và đầu thai nhiều kiếp mà không tiến hoá, nghĩa là không được Điểm Đạo lần thứ ba.

         

4  GIAI  ĐOẠN  GIỮA  2  KỲ  ĐIỂM  ĐẠO

 

          Luật Trời qui định rằng: Giữa hai kỳ Điểm Đạo những kết quả của việc làm phải hiện ra rơ rệt; điều nầy chứng tỏ có sự thay đổi trong Tâm Hồn.

          Đặc tính của người được Điểm Đạo là phải Hoàn Thành Công Việc ḿnh đang thực hành, chớ không được bỏ dở nửa chừng.

          Có 4 giai đoạn giữa 2 kỳ Điểm Đạo:

          Giai đoạn thứ nhứt gọi là Maggo (Mac- Go). Trong giai đoạn nầy vị Đệ Tử cố gắng đương đầu với những thử thách đưa tới và mở mang những đức tánh cần thiết.

          Giai đoạn thứ nh́ gọi là Pha La (Phala: Fruit), nghĩa là Quả,  Trái. Ở giai đoạn nầy vị Đệ Tử thấy kết quả sự luyện tập của ḿnh hiện ra rơ ràng, đă làm việc đắc lực và đứng vững tại vị trí của ḿnh.

          Giai đoạn thứ ba là Bhavagga (Ba- Hoắc- Ga). Đến đây kết quả đă đến mức tột bực cao.

          Giai đoạn thứ tư là Gotrabhou (Gô- Tra- Bu). Tới giai đoạn chót nầy vị Đệ Tử xứng đáng được Điểm Đạo lần kế đó. Luôn luôn vị Đệ Tử phải được Chơn Sư dẫn tới tŕnh diện với Quần Tiên Hội để xin Điểm Đạo.

          Nên biết rằng Đường Đạo gay go, hiểm trở, ở mỗi chặng đều có chướng ngại dựng lên. Nếu không vượt qua khỏi th́ bị chận đứng, không tiến tới được nữa. Thế nên người Đệ Tử phải nắm nắm nớp nớp, khi đứng trước vực sâu, giá mỏng. Nếu buông lung, sẽ thất bại.

          Tôi tưởng cũng cần nói rằng: Thiên Đ́nh chấm điểm ta không do sự thành công hay thất bại của ta, mà lại xét đoán cách ta làm việc và cách ta phản ứng với sự việc đưa tới. Việc làm trọng hệ hay không trọng hệ chẳng cần thiết.

 

ĐIỂM  ĐẠO  LẦN  THỨ  BA

 

          Vị Đệ Tử được 3 lần Điểm Đạo Ấn Giáo gọi là Hamsa: Thiên Hạc. Tục truyền rằng: Con Hạc đứng trước chậu đựng sữa pha nước, nó phân biệt được cái nào sữa, cái nào nước. Nghĩa là bậc Hiền Triết đánh đúng giá trị của người và vật không sai lầm.

          Hamsa cũng được coi như một h́nh thức của chữ So Ham, nghĩa là “Tôi là Ngài” (Je suis Cela).

          Phật Giáo gọi vị được Điểm Đạo lần thứ ba là Anagamin: A-Na-Hàm hay là Bất Lai; bởi v́ nội trong kiếp nầy vị A-Na-Hàm sẽ lên tới bực La-Hán. Và như vừa nói trên đây, vị La-Hán được miễn khỏi phải đầu thai ở Cơi Trần nữa.

 

ĐIỂM  ĐẠO  LẦN  THỨ 

 

          Vị A-Na-Hàm phải trừ tuyệt 2 chướng ngại thứ tư và thứ năm:

          4- Kamaraga: Dục t́nh do giác quan sanh ra.

          5- Patigha: Giận hờn, thù oán.

          Tới bậc nầy rồi đâu c̣n say hoa đắm nguyệt hay là nổi nóng, múa tay, trợn mắt, vỗ bàn, đập ghế như kẻ thường nhân. Tuy nhiên, vật chất có quyền năng quyến rủ phi thường. Nó trổi những khúc nhạc du dương làm mê loạn tâm thần, chớ nên để lọt vào tai, gọi là ái t́nh muôn mặt. Nếu không đề pḥng th́ e hồ thu nổi sóng, con thuyền trôi giạt phương xa; phải mất th́ giờ và vất vả lắm mới ghé được vào bến cũ. Một phút yếu ḷng, ngàn năm ân hận. Những Vị đă sang tới Bờ Giác đều cảnh giác chúng ta phải cẩn thận từng li từng tí, kẻo sa vào cạm bẫy của kẻ nghịch đă dàn sẵn ở mỗi chặng đường. Có nhiều kinh nghiệm chừng nào càng sợ nhiều chừng nấy.

 

 

 

TRẠNG  THÁI  A  TỲ

 

          Ngoài ra, thí sinh phải vào một trạng thái gọi là Avitchi: A-Tỳ, nghĩa là không có sự rung động. Thí sinh cảm thấy anh bị loại ra khỏi ṿng Trời Đất, trơ trọi một ḿnh, không thầy, không bạn, không không gian, không thời gian. Ở trong trạng thái ấy một phút dài bằng một ngàn hay là một muôn năm ở ngoài Thế Gian.

          Nếu thí sinh chịu không nổi, bước ra ngoài th́ chịu rớt. Kỳ sau phải thi lại.

          Đức Leadbeater có nói: “Sự kinh nghiệm nầy ghê tởm hơn hết trong những kinh nghiệm mà con người phải trải qua. Chịu đựng được, có hai điều hay:

          Một là mở rộng ḷng từ bi, chia sớt số phần của những anh Bàng Môn Tả Đạo bị đày vào chốn nầy, v́ tội ác của mấy ảnh đă làm trong những kiếp quá khứ mà không biết ăn năn chừa cải.

          Hai là sự kinh nghiệm nầy dạy con người phải thật gan dạ, phải tự tín, phải đứng vững một ḿnh, đừng trông cậy vào sự giúp đỡ của ngoại nhân, phải chắc chắn ḿnh với Thượng Đế là Một, đâu đâu cũng có Ngài. Cảm thấy ḿnh lẻ loi là mộng ảo.

 

NHỮNG  VỊ  ĐƯỢC  ĐIỂM  ĐẠO  LẦN  THỨ 

 

          Những vị được Điểm Đạo lần thứ tư Ấn Giáo gọi là Parahamsa, nghĩa là Con Hạc Lớn: Đại Thiên Hạc.

          Phật Giáo gọi là Arhat: La-Hán.

          Arhat có nghĩa là Đại Đức, Tôn Giả. Vị La-Hán mới đi phân nửa Đường Đạo. Ngài phải phá tan 5 chướng ngại chót mới được hoàn toàn giải thoát.

          Năm chướng ngại đó là:

          6- Rouparaga: Muốn sống trong Cơi có h́nh dạng.

          7- Arouparaga: Muốn sống trong Cơi vô h́nh, không có h́nh dạng. Phật Giáo gọi Cơi nầy là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, tức là Cơi Thiên Đường.

          8- Mano: Kiêu hănh.

          9- Ouddhachcha: Cái Trí c̣n xao động, Tâm chưa yên tịnh.

          10- Avidya: Vô minh.

          Mười chướng ngại nầy Phật Giáo gọi là Samyojanas, nghĩa là xiềng xích buộc trói con người vào bánh xe Luân Hồi.

          Bốn bậc Đệ Tử được Điểm Đạo là bốn quả vị đầu tiên của Quần Tiên Hội hay là Thiên Đ́nh. Phật Giáo gọi là Tứ Thánh. Thường thường vị Tu-Đà-Huờn phải tu trong 7 kiếp mới tới bậc La-Hán. C̣n La-Hán phải tu thêm 7 kiếp nữa mới được làm một vị Chơn Tiên (Aseka). Tất cả là 14 kiếp. Tuy nhiên thời gian nầy có thể rút ngắn lại.

          Sau khi chặt đứt được chướng ngại chót là Vô Minh, vị La-Hán đă hoàn toàn sáng suốt. Ngài được 5 lần Điểm Đạo. Ấn Giáo gọi Ngài là Jivanmoukta hay là Atila, Linh Hồn đă được hoàn toàn giải thoát. Phật Giáo gọi là Aseka (A-Sơ-Ca), có nghĩa là không c̣n làm Đệ Tử, không c̣n học hỏi cái chi trong Dăy Địa Cầu nầy nữa. Đối với người đời th́ Ngài toàn năng, toàn thiện, toàn giác.

          Ngài liên lạc mật thiết với Ngôi Thứ Ba của Đức Thái Dương Thượng Đế. Nhờ vậy Ngài mới được phép thâu Đệ Tử. Ngài ghé mắt vào vấn đề nào th́ biết trọn vẹn về vấn đề đó, không sót một chi tiết nhỏ nhặt nào cả. Ngài đă đạt được mục đích đă định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ nầy. Ngài đă vào Hạng Siêu Phàm. Người ta gọi Ngài là Chơn Tiên.

 

AI  ĐIỂM  ĐẠO ?

 

          Tại Quả Địa Cầu nầy chỉ có một Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền Điểm Đạo mà thôi. Ấy là Đức Ngọc Đế. Ngài là Chủ Tể của Quần Tiên Hội.

          Ngài thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế cai trị Quả Địa Cầu nầy và chăm sóc sự sanh hoá, tiến hoá các loài vật, từ ba Loài Tinh Chất cho tới Loài Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú, Người, các Hạng Thiên Thần và các Loài mà con người không biết, mà cũng không bao giờ tiếp xúc được.

          Không có sự ưng thuận của Ngài th́ không ai được nhận vào Quần Tiên Hội.

          Trong hai kỳ Điểm Đạo đầu tiên, Lần Thứ Nhứt do Đức Bồ Tát hay Đức Đế Quân chưởng quản Cung Thứ Nhứt hay Cung Thứ Nh́ thay mặt Ngài và nhân danh Ngài để Điểm Đạo. Ở Lần Thứ Nh́ là Đức Bồ Tát. Đến Lần Thứ Ba, Thứ Tư th́ Ngài Điểm Đạo hay là Ngài nhờ một trong ba Vị Độc Giác Phật, Đệ Tử của Ngài Điểm Đạo.

 

7  ĐƯỜNG  TIẾN  HOÁ  TRƯỚC  MẶT   CÁC  VỊ  SIÊU  PHÀM

                                                               

          Đường Đạo hay là Đường Tiến Hoá có phải chấm dứt tại chỗ 5 lần Điểm Đạo nầy hay không?

          Không. Nó vốn vô tận vô biên. Trước mặt các Vị Siêu Phàm có 7 Đường Tiến Hoá khác nhau, các Ngài có quyền lựa chọn Con Đường hạp với ḿnh để đi theo.

          1- Hoặc nhập vào Niết Bàn tu hành thêm và không biết bao nhiêu tỷ năm sau sẽ thành một Vị Avatar hay là Hoá Thân của Đức Thượng Đế trong một Vũ Trụ khác. Người ta gọi là Mặc Áo Dharmakaya (Đạt-ma-cai-da), Tàu dịch là Pháp Thân.

          2- Hoặc nhập vào Cơi Niết Bàn trong một Trạng Thái Thiêng Liêng, gọi là Sambhogakaya (Sam-bô-ga-cai-da), không biết nghĩa là chi, v́ có nhiều nghĩa.

          3- Hoặc nhập vào Hạng những Vị Nirmanakaya (Niệt-ma-na-cai-da) sanh Thần Lực để cho Nhân Viên của Quần Tiên Hội dùng độ đời. Nhiều vị Đệ Tử của Đức Phật khi xưa theo con đường nầy.

          4- Hoặc theo đường tiến hoá của các vị Đại Thiên Thần.

          5- Hoặc dự vào việc tạo lập Dăy Hành Tinh Thứ Năm, sau thế cho Dăy Địa Cầu của chúng ta là Dăy Thứ Tư.

          6- Hoặc nhập vào Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế.

          7- Hoặc giữ Xác Phàm, lănh một chức vụ trong Quần Tiên Hội để lo cho sự tiến hoá của các loài vật trên Địa Cầu.

          Em đă nhớ lại để viết ra - một cách chậm chạp và khó nhọc, v́ năm ngoái tiếng Anh của em chưa được giỏi như bây giờ.

          Phần lớn quyển sách nầy chính là lời của Thầy em, c̣n những lời nào không phải là lời của Ngài th́ cũng là ư tưởng của Ngài được gói ghém trong lời học tṛ của Ngài. Có hai câu bị bỏ sót, Ngài đă viết thêm vào. Ở hai chỗ khác, thiếu một chữ, Ngài đă điền thêm. C̣n ngoài ra th́ quyển sách nầy hoàn toàn là tác phẩm của Alcyone,[5] món quà đầu tiên của em biếu cho đời.

          Đức Bà A. Besant viết bài tựa nầy tháng chạp năm 1910, thế th́ năm ngoái tức là năm 1909.

 

ALCYONE  VIẾT  QUYỂN “DƯỚI  CHÂN  THẦY” CÁCH  NÀO ?

 

          Đức Leadbeater thuật chuyện nầy trong quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo,” tóm tắt như sau đây:

          “Tôi được lịnh mỗi đêm đem Alcyone đến nhà Chơn Sư, mỗi lần Chơn Sư giảng dạy Alcyone lối 15 phút, xong rồi Ngài tóm tắt những điểm chánh trong một vài câu để Alcyone sáng nhớ lại, viết ra, và học thuộc ḷng. Lúc đó Alcyone chưa giỏi tiếng Anh như bây giờ.

          Khi Alcyone đi theo Đức Bà A. Besant đến Bénarès em viết thơ về Adyar cho tôi, xin tôi gởi hết những toát yếu đó cho em.

          Tôi tom góp lại và đánh máy. Khi xem lại tôi thấy một phần lớn chính là lời của Chơn Sư. Muốn chắc ư không lầm lạc trong sự chép, tôi đem bản thảo lên Đức Thầy Kuthumi và xin Ngài đọc lại. Chơn Sư xem qua, đổi một, hai chữ ở chỗ nầy, chỗ kia, thêm vài câu mà tôi nhớ có nghe Chơn Sư nói và Alcyone lại quên đi, Ngài cũng có thêm vài chữ để liên kết và giải nghĩa.

          Xong rồi Ngài nói: “Cái nầy đúng, có thể dùng được. Nhưng chúng ta cần đem tŕnh cho Đức Bồ Tát Di Lạc xem.”

          Đức Bồ Tát đọc xong, Ngài chấp thuận và nói: “Hai Vị nên làm một quyển sách nhỏ xinh đẹp để giới thiệu Alcyone cho người đời biết.”

          Thật ra Chơn Sư và tôi không có ư định giới thiệu Alcyone với Thế Tục, chúng tôi tưởng không nên để cho những luồng tư tưởng tập trung vào một đứa bé mới 13 tuổi c̣n kém giáo dục và đức dục. Nhưng trong Thế Giới Huyền Bí chúng tôi thi hành mạng lịnh của Bề Trên, v́ thế sáng ra bữa sau quyển “Dưới Chân Thầy” được giao liền cho nhà in.”

 

ĐỨC  LEADBEATER  ĐEM  BẢN  THẢO  LÊN  NHÀ  CHƠN    CÁCH  NÀO ?

 

          Đức Leadbeater và Alcyone ở tại Adyar (Madras), Vị Chơn Sư ở Tây Tạng, cách xa muôn vạn dậm. Ngài và Alcyone mỗi đêm Xuất Vía đến nhà Chơn Sư.

          Việc Ngài đem bản thảo đến Chơn Sư không biết rơ là Ngài dùng cách nào.

          Có ba phương pháp thông thường:

          1- Làm cho bản thảo mất sức nặng, rồi dùng tư tưởng đưa nó đi tới đâu cũng được.

          Phương pháp nầy 80 ngàn năm trước các vị Đạo Sư đă dùng để đem những tảng đá nặng mấy chục tấn lên cao trên trăm thước để xây Kim Tự Tháp Khéops.

          Chính là năm 1860 ông Kỹ Sư Keely người Mỹ đă chế được một cái máy gọi là máy Phân Tán (Appareil désintégrateur). Ông lấy một sợi dây quấn vào một ống sắt dài nặng mấy ngàn kư. Ông cho cái máy nầy chạy và truyền qua ống một thứ lực làm cho cái ống nầy nhẹ như cái nút ve, lấy một ngón tay đưa nó đi tới đâu cũng được. Lực nầy không biết phải đặt tên chi cho đúng, tạm gọi là Lực Dĩ Thái (Force inter éthérique).

          2- Làm một cánh tay giả bằng Chất Dĩ Thái rồi cầm quyển sách đem đi, cũng như ta thấy một cái đèn th́nh ĺnh đi dạo chung quanh pḥng rồi trở về chỗ cũ. Chính là Hồn Ma phải làm bàn tay giả bằng Chất Dĩ Thái cầm đèn đi.

          Trong khi Cầu Cơ gọi là Cầu Tiên người ta thấy cây viết tự viết ra chữ. Kỳ thật là người khuất mặt làm bàn tay giả bằng Chất Dĩ Thái cầm cây viết để viết.

          3- Đem quyển sách theo Bề đo Thứ Tư, Đệ Tứ Thứ Nguyên Không Gian (4è Dimension) tới đâu cũng được.

          Những vật ở trung tâm mặt trời theo Bề đo Thứ Tư nầy xuống ngay trung tâm Trái Đất, không xuyên qua mặt đất.

          Theo Bề đo Thứ Tư các Hành Tinh đều liên lạc mật thiết và gần nhau, chớ không phải xa nhau như mắt phàm ta thấy.

 

TẠI  SAO  ĐỨC  ĐẾ  QUÂN  K.H.  LẠI  RA  CÔNG  DẠY  ALCYONE ?

 

          Thiết tưởng nên biết rằng: Quả Địa Cầu chia ra nhiều Khu Vực, mỗi Khu Vực gồm cả chục triệu Sanh Linh, từ các Hạng Thiên Thần, Con Người, Thú Vật, Thảo Mộc, Kim Thạch cho tới các Loài mà Con Người không bao giờ thấy.

          Một Đấng Cao Cả cai quản một Khu Vực và chịu trách nhiệm sự tiến hoá của những Nhân Vật ở trong Địa Phận của ḿnh. Mỗi Vị cần làm sao trong một thời gian nào đó, các Loài Vật ở trong Địa Phận của ḿnh cai quản phải đi tới mức độ tiến hoá đă ghi sẵn trong Thiên Cơ. Các Ngài hiểu rơ phong tục tập quán và tŕnh độ hiểu biết của dân chúng ở trong Khu Vực của các Ngài. Các Ngài thấy những sự hành động của chúng ta như một cuốn sách vạch sẵn. Các Ngài làm việc không nghỉ, không ngừng, có khi phải tập trung tư tưởng cả ngày lẫn đêm vào việc đang làm. Các Ngài không rảnh rang, trừ ra vài Vị thâu nhận Đệ Tử để giáo hoá, ta gọi là Chơn Sư. Nếu các Ngài ra công dạy dỗ như trường hợp của Đức Đế Quân K.H. đối với Alcyone chẳng hạn, ấy v́ các Ngài thấy công dạy dỗ nầy không uổng công. Vị Đệ Tử giúp đời, đem ánh sáng Chơn Lư cho muôn vạn người khác và bù lại được thời gian các Ngài bỏ ra để đào tạo y. Không vậy th́ không khi nào các Ngài phí sức để huấn luyện y. Công việc của các Ngài nặng nhọc và lớn lao vô cùng. Ngoài ra các Ngài c̣n phải học hỏi và luyện ḿnh để tiến đến những cấp bậc cao siêu hơn.

          Trước đây, tôi có thuật chuyện Alcyone 2.500 năm trước đă qui y với Phật và dày công tu luyện, cho nên kiếp nầy Đức K.H. mới d́u dắt Alcyone. Tưởng cũng phải nói thêm rằng: Cả trăm ngàn năm trước, hồi c̣n ở tại Châu Atlantide, Alcyone đă được các Đấng Cao Cả chăm nom rồi, v́ những Quả Lành của Alcyone đă tạo ra lúc Alcyone c̣n ở Dăy Hành Tinh Thứ Ba là Dăy Nguyệt Cầu, kể ra đă mấy trăm triệu năm trước.

          Nhưng các Ngài chờ tới kiếp nầy Alcyone hội đủ các Đức Tánh nên mới cho bước vào Cửa Đạo.

          Đây là Luật Nhân Quả, chớ trên Thiên Đ́nh không hề có một mảy may tư vị.

          Thiết tưởng người học Đạo nên biết thêm điều nầy nữa. Thí dụ một vị Đệ Tử kia kiếp trước đă được Điểm Đạo lần thứ nhứt, kiếp nầy đầu thai lại có phải là anh được Điểm Đạo lần thứ nh́ không? Không, không  phải như thế. Kiếp nầy anh có ba Thể: Xác Thân, Vía, Trí mới. Thường thường chúng nó bị cách nuôi dưỡng của cha mẹ và hoàn cảnh biến đổi, lănh cái xấu th́ nhiều, c̣n cái tốt th́ ít. Anh phải khắc kỷ và ra công luyện tập ngày đêm. Trước hết anh phải vào Hạng Đệ Tử Nhập Môn, Đệ Tử Chánh Thức, Con Của Thầy, rồi sau mới được Điểm Đạo lần thứ nhứt trở lại. Bốn bậc Đệ Tử đều phải tuân theo luật lệ nầy, trừ ra Chơn Sư, nghĩa là mỗi kiếp vị Đệ Tử đều phải được Điểm Đạo trở lại, bởi v́ ba Thể: Xác Thân, Vía, Trí đều mới.

          Cũng như Alcyone, lúc c̣n nhỏ bị ông thầy hung dữ và người cha lỗ măng, cộc cằn thường ngày đánh đập, chưởi mắng, bỏ đói, nên ba Thể: Thân, Vía, Trí bị hư rất nhiều, v́ Alcyone là một đứa trẻ dễ xúc động.

          Nhờ căn lành nên Alcyone gặp Đức Leadbeater, Ngài đào luyện anh theo phương pháp Bí Truyền, ba Thể của anh trở lại tốt, nhưng không được hoàn toàn đẹp đẽ như ư muốn của các Đấng Cao Cả. Đây là điều vô cùng đáng tiếc.

 

  LẼ  NÀO  TIÊN  TRƯỞNG  BIẾT  ĐƯỢC  TR̀NH  ĐỘ  TIẾN  HOÁ  CỦA  CÁC  LOÀI  TRONG  ĐỊA  PHẬN  CỦA  NGÀI  CAI  QUẢN ?

 

          Điểm nầy tôi tưởng cũng cần giải nghĩa ra. Chúng ta không quan niệm được tại sao Tiên Thánh lại biết được điều lành hay điều dữ của ta đă gây ra.

          Thật sự tư tưởng, ư muốn, lời nói, việc làm của ta đều có h́nh dạng. Chẳng những chúng nó mà thân h́nh và y phục của chúng ta đều có ghi h́nh ảnh trên chất Tiên Thiên Khí Akasa (A-Ca-Sa). Những h́nh ảnh nầy, Pháp Môn gọi là Clichés Akasiques, vẫn c̣n cho tới chừng nào Thái Dương Hệ nầy tan ră chúng nó mới tiêu mất. Người có mắt Thánh nh́n vào Tiên Thiên Kư Ảnh sẽ biết được những kiếp trước của ta, những điều của ta làm, từ thiện hay độc ác.

          Hăy coi! Con nhện bủa lưới bao phủ ḿnh nó như thế nào th́ con người gây ra Nhân Quả và dính mắc với chúng nó như thế ấy.

          Những hiện tượng xảy ra từ Khai Thiên, Tịch Địa hay là lúc sanh hoá Thái Dương Hệ nầy đều được ghi trên Tiên Thiên Khí. Vị nào mở được Huệ Nhăn sẽ thấy rơ ràng.

          Các vị Thánh Hiền thuở xưa đều biết điều nầy, song v́ các Ngài không biết làm sao giải thích cho thiên hạ thời đó hiểu, nên chỉ dạy họ phải sợ Trời mà thôi.

          Trong Minh Tâm Bửu Giám có mấy câu sau đây:

          1- Tử viết: “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phước. Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ  hoạ.”

           Đức Khổng Tử dạy rằng: “Làm Lành, Trời lấy cái Phước trả lại. Làm không Lành, Trời lấy cái Hoạ trả lại.”        

          2- Từ Thần Ông: “Thiện hữu, thiện báo; ác hữu, ác báo; nhược hoài bất báo thị thần vị đáo.”

          Làm Lành th́ có Lành trả lại; làm ác th́ có ác trả lại; nếu chưa báo ứng th́ do chưa tới ngày giờ.”

          Hai câu nầy diễn tả rơ ràng về cách Luật Nhân Quả  báo ứng.

 

VỀ  THIÊN 

 

          Huyền Đế thuỳ huấn: “Nhân gian từ ngữ, Thiên văn như lôi, Ám thất khuy tâm, Thần mục như điện.”

          Lời Huyền Đế dạy răn đời: “Ở Thế Gian lời nói riêng tư, Trời nghe như sấm. Ở trong nhà tối, ḷng xấu tưởng quấy, mắt Thần thấy rơ như chớp.”

          Lời nói riêng tư rất nhỏ mà tại sao Trời lại nghe như sấm?

          Cần phải mở Huệ Nhăn và Huệ Nhĩ mới biết câu nầy đúng với sự thật.

          Thuở xưa, không ai tin lời của ông Huyền Đế đă dạy, nhưng ngày  nay có thể chứng minh được điều nầy. Ta chỉ vặn máy thu thanh đúng với làn sóng điện phát ra từ đài nào ở ngoại quốc th́ ta nghe được tin tức loan đi. Muốn nghe nhỏ cũng được, hay nghe lớn cũng được, không khó khăn chút nào. Người ta nói: “Đây là nhờ điện chuyển di lời nói,” nhưng người ta đă quên rằng: Điện Trời c̣n mạnh hơn không biết mấy trăm ngàn lần điện của con người làm ra.

          Lời nói ghi trên Tiên Thiên Khí A-Ca-Sa không khác nào tiếng ca được thâu vào dĩa hát. Dầu cho lời nói thốt ra từ đời Tối Thượng Cổ đi nữa, nếu biết phương pháp sẽ nghe lại rơ ràng. Điều nầy không thể giải thích cho người thường hiểu. Phải tu hành tới bậc Tư-Đà- Hàm sắp lên mới dùng được quyền năng nầy.

          Câu thứ nh́: Tại sao trong nhà tối, mắt Thần thấy ḷng dạ xấu của ta như điện?

          Phải hiểu như vầy: Đừng nói ở trong tối không ai thấy, không ai biết ḿnh đang tính toán việc sai quấy trong ḷng. Thần Thánh thấy rơ điều đó sáng rơ như chớp nháng.

          Đúng vậy, tư tưởng và ư muốn có h́nh dạng, và màu sắc. Người có Huệ Nhăn thấy rơ như ban ngày các điều ấy.

          Con người giấu giếm với nhau được, chớ giấu giếm Trời Đất, Quỉ Thần được sao?

          V́ lẽ nầy mà các Đạo Sư khuyên con người, nhất là những người chí nguyện phải Hết Sức Chơn Chánh, Ngay Thật. Không ai chỉ mối Đạo cho kẻ giả dối.

          Chúng ta có thể khoe ḿnh, dối người, nhưng có thể dối lương tâm ḿnh và dối Quỉ Thần được hay không? Nói chi là dối Trời Đất, Tiên Thánh. Cũng v́ lư do nầy cho nên trên ngưỡng cửa Thánh Điện Delphes có khắc câu châm ngôn: “Ngươi hăy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế.”

          Chúng ta c̣n vô minh, nên c̣n phạm nhiều tội lỗi mà không ngờ. Hăy phục thiện, có lỗi nên lo nhận lỗi, kế đó lo sửa đổi cái dở ra cái hay, cái xấu ra cái tốt, cái dữ ra cái hiền. Như thế trong một thời gian sau, tâm trí sẽ mở mang, và ánh sáng Chân Lư sẽ lần lần hiện ra cho chúng ta thấy.

          Cầu xin quyển sách nầy giúp ích cho kẻ khác cũng như giáo lư được học trực tiếp với Thầy đă giúp ích cho Alcyone vậy; đó chính là ước vọng của em khi em cho ra quyển sách nầy. Nhưng những lời giáo huấn ấy chỉ có kết quả khi ta phải thực sự ăn ở như vậy, cũng như Alcyone vẫn hằng tuân theo từ khi Thầy bắt đầu dạy em. Nếu noi theo gương nầy cũng như noi theo lời giới răn th́ Cửa Đạo sẽ mở rộng, và độc giả, cũng như tác giả, sẽ được đặt chân trên Đường Đạo.

          Đây là lời cầu chúc của Đức Bà A. Besant, nhưng chúng ta nên để ư tới những danh từ: “Vẫn hằng tuân theo, noi theo gương nầy, noi theo lời giới răn, v.v…”

          Tại sao vậy? Bởi v́ thường Tín Đồ các Tôn Giáo chỉ giữ những giới răn cho có lệ.

          Thử hỏi: Ngũ Thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, được bao nhiêu nhà Nho tuân theo triệt để, hay là học sách Thánh Hiền chỉ để nói chuyện trong mấy đám tiệc tùng, tỏ ra ḿnh hiểu xa biết rộng. Biết là một việc, hành là một việc khác nữa.

          Ngũ Giới và Bát Chánh Đạo của Phật dạy đă 2.500 năm nay, trong 600 triệu Phật Tử hầu hết thích tụng kinh, đọc kệ, chớ không ra công luyện tập để trau giồi Tâm Tánh cho thật tốt hầu học được Chân Truyền. Chẳng riêng ǵ Nho Giáo, Phật Giáo cho đến Ấn Giáo, Bà La Môn Giáo, Công Giáo, Hồi Giáo, v.v…, cũng không tránh khỏi điều nầy được.

          Về Yoga cũng vậy. Muốn học loại Yoga nào cũng phải giữ vẹn hai điều kiện đầu tiên: Yama và Niyama là Giới Cấm và Qui Luật.

 

YAMA :  GIỚI  CẤM

 

          Yama gồm 5 Cấm:

          1- Không làm hại người và vật, không hung bạo từ trong tư tưởng, ư muốn, cho tới lời nói và việc làm.

          2- Ngay thật, không nói dối bất cứ dưới h́nh thức nào.

          3- Không trộm cắp, phải chân chánh, ngay thẳng.

          4- Tinh khiết, tuyệt dục từ trong tư tưởng.

          5- Thanh bần, không v́ tư lợi.

 

NIYAMA :  QUI  LUẬT

 

          Niyama gồm 5 điều:

          1- Trong sạch từ trong thâm tâm cho tới bên ngoài: Thân thể, y phục.

          2- An phận.

          3- Khổ hạnh.

          4- Chủ trị Bản Ngă (Có chỗ để: Kỷ luật tư tưởng, làm chủ Cái Trí).

          5- Chiêm ngưỡng Thượng Đế, Cung hiến.

          Tại sao điều kiện quá gắt gao? Bởi v́ Yoga nguy hiểm lắm. Nó có thể biến đổi Con Người thành một Vị Tiểu Thượng Đế hay là một vị Đại Quỷ Vương, tuỳ theo cách sử dụng những Định Luật siêu nhiên đă khám phá ra.

          Dầu ở Cơi Trần hay trên Thiên Đ́nh, đâu đâu cũng quí trọng Đức Hạnh hơn các phép lạ.

          Đức Hạnh là Gia Tài Thiêng Liêng của ta, nó theo ta măi, từ đời nầy qua đời kia, và sửa đổi số phần của ta ra tốt đẹp.

          Những phép thần thông chỉ dùng được trong một thời gian. Nếu sử dụng sái quấy sẽ gây ra Nghiệp Quả nặng nề hơn cả trăm cả ngàn lần Nghiệp Quả của người thường. Phép lạ là cây gươm hai lưỡi, nó chém người được nhưng cũng trở lại chém ḿnh nữa.

          Kính tặng những ai gơ cửa.

          Đấng Christ đă nói: “Hăy t́m th́ ngươi sẽ gặp. Hăy gơ cửa, người ta sẽ mở.” (Saint Matthieu VII,7)

          T́m kiếm đây là t́m kiếm Đường Đạo, c̣n gơ cửa là gơ Cửa Thánh Điện.

          Nhưng phải t́m Đường Đạo với tấm ḷng trong sạch, chớ không phải v́ ích kỷ mong thành Tiên, thành Phật hầu ngồi trên toà sen cho cả trăm, cả ngàn người qú lạy trước h́nh tượng.

          Học Đạo để sau nầy cứu vớt quần sanh ra khỏi chốn trầm luân khổ hải và phát đuốc huệ soi sáng bước đường cho những kẻ c̣n ở trong chốn tối tăm.

          Tôi xin thuật chuyện “Gơ cửa Thánh Điện” cho quí bạn nghe:

          “Một người kia tới gơ cửa Thánh Điện. Ở trong có tiếng vọng ra hỏi: “Ai đó?” Anh bèn trả lời: “Tôi.” Tức th́ anh nghe đáp lại: “Tại đây không có chỗ để cho Anh hay là Tôi đâu.” Cửa đóng vẫn chặt.
Anh tức ḿnh bèn ra sa mạc tham thiền.

          Một năm sau, anh trở lại Thánh Điện gơ cửa. Cũng câu hỏi như khi trước: “Ai đó?” Anh bèn trả lời: “Anh.” Tức th́ cửa mở, anh bước vô.”    (Ngụ ngôn Ba Tư)

          Ư nghĩa bài nầy rất sâu xa. Khi anh trả lời: “Tôi” tức là anh c̣n có ư nghĩ chia rẽ “Anh” và “Tôi.” Cửa đóng chặt. Đến khi anh trả lời: “Anh” th́ không c̣n sự khác biệt nữa, “Anh là Tôi,” “Tôi là Anh.” Người ta bèn cho anh bước vào.

          Trong Thánh Điện tất cả là một. Không có Anh mà cũng không có Tôi. Chỉ có “Chúng Ta” mà thôi. Không c̣n Bản Ngă Riêng Tư nữa, tức là Vô Ngă.

 

TẠI  SAO  CỬA  ĐẠO  LẠI  ĐÓNG  CHẶT ?

 

          Người ta thường than phiền tại sao Cửa Đạo lại đóng chặt? Ấy v́ người ta quên rằng: Một chướng ngại cản trở các Đạo Sư là: Không có học tṛ đủ khả năng để học hỏi; nếu không có học tṛ, lấy chi ông Thầy dạy. Các lớp vẫn để trống. Cửa Đạo luôn luôn sẵn sàng mở rộng cho những ai có đủ tư cách và chỉ biết Phụng Sự với tấm ḷng vị tha, không màng tư lợi, v.v… hầu xứng đáng với nhiệm vụ cao cả và khó khăn sau nầy.

 

BA  CÂU  CẦU  NGUYỆN.

          Xin dắt tôi từ cơi giả đến cơi Chân,

          Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi Ánh Sáng,

          Xin dắt tôi từ cơi chết đến nơi Sống Đời Đời.

 

          Ba câu nầy vốn ở trong Kinh Brihad Aranyaka Upanishad và viết bằng chữ Bắc Phạn (Sanscrit).

          1- Xin dắt tôi từ Cơi Giả đến Cơi Chân.

          Giả và Chân vẫn tương đối, chớ không phải là tuyệt đối.

          Giả đây có nghĩa: Có thật, nhưng dùng trong một thời gian ngắn ngủi, chớ không phải là không có.

          Chân là cái được lâu dài hơn.

          Như Xác Thân ta đây, đối với 3 Thể cao: Thượng Trí, Kim Thân (Thể Bồ Đề ) và Tiên Thể th́ nó là giả, v́ chỉ dùng trong một đời mà thôi. C̣n 3 Thể kia sống tới cả triệu triệu năm.

          Khi ta Xuất Vía qua Cơi Trung Giới, Cơi Trần biến mất. Ta chỉ thấy Cơi mới lạ nầy. Vậy đối với ta lúc ấy Cơi Trần là giả, Trung Giới là thật. Tới khi trở về nhập Xác ta thức dậy th́ Cơi Trần hiện ra trước mắt, chừng đó nó là thật, c̣n Cơi Trung Giới là giả.

          Nói cho đúng, tất cả những hiện tượng đều vô thường, đều là giả. Bởi v́ tới một lúc kia, khi đúng ngày giờ th́ Thái Dương Hệ nầy cũng sẽ tan ră ra Hỗn Nguơn Nhứt Khí như trước.

          Đây là nói về H́nh Thức, c̣n các Linh Hồn là Tinh Thần đều nhập vào Tâm Đức Thái Dương Thượng Đế. Đă đến thời kỳ nghỉ ngơi, tiếng Phạn gọi là Pralaya. Hết lúc nghỉ ngơi th́ sanh hoá trở lại. Nhân vật đều tiến lên một bậc cao hơn trước. Tinh Thần và Vật Chất đều nương tựa lẫn nhau.

          Cũng như đem phân tách một nguyên tử ta thấy đó là một Thái Dương Hệ nhỏ. Nó gồm 2 phần:

          1- Chính giữa là một cái Hột (Nhân: Noyau).

          2- Chung quanh Nhân là những hột Điển Âm (Électrons) xoay tṛn không khác nào những hành tinh xoay chung quanh hột nhân.

          Nhân cũng gồm hai phần:

          a- Những Trung Hoà Tử không chứa thứ điện nào cả.

          b- Và những Dương Điện Tử (Protons) chứa điện Dương.

          Mà điện là ǵ? Ấy là một thứ rung động.

          Rơ ràng khi phân tích ra là giả, c̣n khi tổng hợp lại là chân. Thật là cực kỳ khó khăn.

          Vậy bây giờ ta nên cải thiện đời sống của ta là điều hay nhất, chớ kéo dài lư luận chân và giả, không biết tới đâu mới chấm dứt, mà cũng không ích chi cho thực tế.

          2- Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi Ánh Sáng.

          Chỗ tối tăm đây là sự vô minh, sự dốt nát mê muội; c̣n chỗ Ánh Sáng tức là sự hiểu biết Thiên Lư.

          Nói cho đúng, nếu không biết Thiên Lư, không biết Cơ Tiến Hoá dầu cho tài cao học rộng tới đâu cũng c̣n vô minh, vẫn c̣n ở trong chốn tối tăm; bởi v́ nếu không biết Luật Trời, làm nghịch Thiên Ư sẽ gây ra nhiều đau khổ cho đời, làm mất sự quân b́nh, sẽ bị Nhân Quả trả lại. Chúng ta phải chịu những tai nạn tương xứng với những điều ác của chúng ta đă làm, chạy trốn đi đâu cũng không khỏi.

          Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi Ánh Sáng cũng có nghĩa là xin Chơn Sư dắt con từ Cơi Trần lên mấy Cơi cao.

          Quả thật Cơi Trần là chốn tối tăm, nếu không có Mặt Trời soi sáng chúng ta vẫn ở trong thầm tối, chớ không có ban ngày.

          Trái lại ở các Cơi trên, không có ban đêm, ban ngày như tại Thế Gian, bởi v́ Chất Khí làm các Cơi đó chói sáng rực rỡ, càng lên Cảnh cao th́ càng thêm tốt đẹp.

          Nếu đem ánh sáng của Cơi Trung Giới so sánh với ánh sáng của Cơi Thượng Giới và ánh sáng của Cơi Bồ Đề th́ ta có thể nói:

          Ánh sáng của Cơi Trung Giới là lúc rạng đông.

          Ánh sáng của Cơi Thượng Giới là lúc Mặt Trời mọc ba sào.

          C̣n ánh sáng của Cơi Bồ Đề là lúc Mặt Trời gần đúng ngọ.

          Cũng nên biết trên Cơi Bồ Đề c̣n có Cơi Niết Bàn, Đại Niết Bàn, Tối Đại Niết Bàn,[6] ngoài ra c̣n có những Cảnh Giới cao siêu của Hư Không[7] nữa. Thật là vô tận vô biên, không thể nào dùng cây viết phàm mà tả nổi, v́ không có danh từ thích nghi.

          V́ vậy mới có câu cầu nguyện: “Xin dắt tôi từ Cơi giả đến Cơi Chân, từ chỗ tối tăm đến nơi Ánh Sáng.”

          3- Xin dắt tôi từ Cơi chết đến Nơi Sống Đời Đời.

          Cơi chết là Cơi Trần đây.

          Chúng ta c̣n ở trong Cơi Trần, tránh không khỏi 4 cái ṿng lẩn quẩn: Sanh, bệnh, lăo, tử.

          Thật ra xác thân chỉ là một cái áo để cho chúng ta mặc trong một thời gian. Tới một ngày kia khi nó rách nát hay là hư mục th́ cần cởi bỏ nó để mặc áo mới khác và tiếp tục cuộc hành hương.

          Người thật biết Đạo không sợ chết, nhưng không phải v́ lẽ đó mà không nuôi dưỡng xác thân và chăm nom nó thật kỹ lưỡng. Phải giữ ǵn nó để học hỏi Đạo Lư và kinh nghiệm hầu đạt được mục đích đă định sẵn cho Con Người trong Thái Dương Hệ nầy, là trở nên Trọn Sáng, Trọn Lành, làm một vị Siêu Phàm, nhập vào Cơi Niết Bàn thoát đoạ Luân Hồi.

          Cơi Niết Bàn mới thật là Nơi Sống Đời Đời.

          Câu cầu nguyện nầy có nghĩa là: Cầu xin Chơn Sư chỉ bảo phương  pháp tu luyện để tiến mau trong 14, 15 kiếp th́ sang tới Bờ Giác, Đắc Đạo thành Chánh Quả được Trường Sanh Bất Tử. Trong truyện Phong Thần có hai câu thơ nầy (không nhớ tên tác giả):

                   Luyện đặng Trường Sanh quên Giáp Tư,

                   Chân Trời mặt nước thú vui riêng.

          Trường Sanh đây là sống lâu. Có phương  pháp giữ xác thân đến ngàn năm, nhưng chung cuộc cũng phải bỏ nó để lấy một xác mới.

          Trường Sanh chớ không phải Bất Tử. Chỉ khi làm một vị Chơn Tiên mới không c̣n bị bắt buộc trở lại Thế Gian đầu thai nữa. Đây mới thật là Trường Sanh Bất Tử.

          Trước đây tôi có nói: Trước mặt Chơn Tiên có 7 đường tiến hoá khác nhau. Chơn Tiên có quyền theo đuổi một trong 7 đường đó theo ư Ngài muốn. Chỉ có một con đường là ở lại Cơi Trần giữ Xác Phàm, lănh một Chức Vụ tại Thiên Đ́nh để giúp đỡ nhân loại. Trong các Vị đó có những Vị mà ta gọi là Chơn Sư.

 

LỜI  NÓI  ĐẦU.

          Đây không phải là lời của tôi mà là lời của Thầy dạy tôi. Nếu không có Ngài tôi đă không làm được ǵ cả; nhưng nhờ Ngài giúp tôi đă được đặt chân lên Đường Đạo.

          Alcyone cho rằng sự tiến bộ của Huynh là nhờ ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Chơn Sư.

          Bởi v́ những lời trong quyển “Dưới Chân Thầy” vốn của Chơn Sư, vậy khi ta đọc quyển nầy tức là ta nghe được những lời của Ngài dạy, mặc dầu là một cách gián tiếp.

          Bạn cũng thế, muốn bước vào Đường Đạo th́ những lời Ngài dạy tôi cũng sẽ giúp ích cho bạn, nếu bạn tuân theo. Nói rằng những lời dạy đó chân chính và tốt đẹp th́ chưa đủ. Ai muốn thành công phải thực hành thật đúng như lời chỉ giáo. Một người đang đói nh́n vào thức ăn rồi nói ngon quá th́ chẳng có ích ǵ cho y cả; y phải tḥ tay lấy ăn. Cũng thế, chỉ nghe suông lời Thầy chưa đủ, bạn phải thực hành lời Thầy dạy, chăm chú từng chữ, bắt lấy từng ẩn ư.

          Có người  nói: Tôi sẽ làm theo những điều viết trong quyển sách nhỏ nầy. Lời hứa tốt lắm, nhưng nếu không đem ra thực hành th́ không có hiệu quả ǵ hết.

          Cái bệnh thông thường của người đời là học Đạo để Thuyết, chớ không phải để Hành. Nếu không Hành Đạo th́ không bao giờ Đắc Đạo. Có người thấy ḿnh hiểu được nghĩa vài quyển Kinh – mà chưa ắt hiểu thật trúng – tưởng ḿnh đă thành một vị Bồ Tát. Sự thật là đâu có việc dễ dàng như thế.

          Chỉ đọc hai quyển: “Trước Thềm Thánh Điện và Con Đường Của Người Đệ Tử,” ta cũng thấy những điều kiện phải hội đủ để bước vào Cửa Đạo rất khó khăn, không phải người mộ Đạo nào cũng thực hành được.

          Nhưng không phải v́ lẽ đó mà ngă ḷng. Chúng ta phải cố gắng măi, mỗi kiếp phải tiến lên, phải giữ đúng qui luật, dầu cho những việc làm bất nghĩa đem đến cho ta sự vinh hoa, phú quí cũng phải từ chối, đừng để ḷng ta bị nhơ bợn và sẽ mắc tội với Trời. Ta phải trả Quả trong một thời gian sau, và con cháu ta cũng phải chia sớt tội ác của ta đă làm nữa.

          Nếu ta bắt đầu tu kiếp nầy có lẽ 8, 9 kiếp sau ta được làm Đệ Tử Chơn Sư. Có bạn sẽ hỏi:

          Tại sao 8, 9 kiếp lâu quá vậy?

          Tôi tưởng 8, 9 kiếp là mau lắm đó.

          Các bạn nên nhớ rằng: Kiếp nầy ta khởi sự học Đạo, việc làm chủ ba Thể không phải là việc dễ dàng đầu hôm sớm mai mà thành công. Phải luyện tập từ kiếp nầy qua kiếp kia. Hơn nữa kiếp sau chưa chắc ta giữ được chủ nghĩa độc thân và vào hàng Tu Tŕ. Nếu mỗi kiếp ta gây ra oan trái, ta đều có gia đ́nh th́ e cho hết 9/10 thời giờ để lo cho sự sanh sống. Ta chỉ c̣n có 1/10 thời giờ để lo cho sự luyện tập mà thôi.

          Thí dụ: Mỗi ngày ta công phu trong một giờ, chắc chắn chỉ tồn c̣n có 10 hay 15 phút là giỏi lắm, c̣n 50 hay 45 phút kia th́ Cái Trí đă xao lảng. Nếu công phu trọn vẹn được nửa giờ, trong một năm chỉ được có 183 giờ thôi.

          10 năm không ngừng nghỉ th́ được: 183 x 10 = 1.830 giờ.

          Một đứa trẻ cặp sách vô trường học mỗi ngày bực trung b́nh 5 giờ. Mỗi năm nếu tính trung b́nh 245 ngày học, vậy một năm được: 5 x 245 = 1.225 giờ.

          Trong 2 năm được: 2.450 giờ.

          Chúng ta công phu trong 10 năm không bằng một đứa trẻ đi học trong 2 năm. Ta bắt đầu học Đạo không khác ǵ một đứa trẻ vô ngồi lớp Một, rồi qua lớp Hai. Thử hỏi một đứa trẻ mới đọc chữ vừa chạy, chưa được suôn sẻ, th́ kiến thức nó được bao nhiêu?

          C̣n chúng ta, nếu cố gắng th́ mới hiểu được chút ít Chân Lư; c̣n không biết bao nhiêu sự bí mật của Tạo Công mà người học Đạo cần phải t́m hiểu. Tu trong 10 kiếp mà được làm Đệ Tử Chơn Sư, tưởng cũng là mau lắm rồi.

          Như trường hợp của Alcyone, không nói tới hồi c̣n ở Dăy Hành Tinh thứ ba là Dăy Nguyệt Cầu (Dăy Mặt Trăng), cả trăm triệu năm trước Alcyone đă tạo dây liên lạc với các Đấng Cao Cả ngày nay là Đức Phật, Đức Bồ Tát, các Vị Đế Quân và Chơn Sư rồi. Tại Dăy Địa Cầu chúng ta, 130 kiếp trước, hồi c̣n ở Châu Atlantide, Alcyone đă được các Đấng Cao Cả chăm nom mà tới kiếp nầy Alcyone mới bước vào Cửa Đạo. Phải đọc những tiền kiếp của Alcyone mới thấy các Đấng Cao Cả săn sóc những người thành tâm mộ Đạo như thế nào.

          Tôi xin đem sự kinh nghiệm của Đức Leadbeater để chứng minh.

 

SỰ  KINH  NGHIỆM  CỦA  ĐỨC  LEADBEATER.

 

          Đức Leadbeater có thuật sự kinh nghiệm của Ngài hồi Ngài vừa được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử.

          Tôi xin tóm tắt câu chuyện đó để chứng minh rằng: Chơn Sư biết rơ chúng ta trước khi chúng ta biết Ngài.

          Đức Leadbeater nói: “Tôi nhớ lại một việc đă xảy ra 25 năm trước, khi tôi được Chơn Sư thâu nhận.

          Tôi có quen biết với một người, học lực uyên thâm, một nhà Bác Học tánh t́nh cao thượng, đời sống trong sạch và rất tin tưởng Chơn Sư.

          Mục đích của anh là chuẩn bị phụng sự các Ngài. Dường như về nhiều phương diện, anh hơn tôi rất xa. Anh rất xứng đáng được làm Đệ Tử. Tôi lấy làm lạ tại sao giá trị của anh chưa được nh́n nhận.

          V́ c̣n mới và chưa biết cách thức làm việc trong Huyền Bí Học nên khi có dịp đưa đến, tôi kính cẩn xin Chơn Sư cho phép tôi nêu tên anh và ngỏ ư rằng: Anh sẽ thành một khí cụ rất tốt.

          Chơn Sư mỉm cười vui vẻ và trả lời: “Con đừng sợ Ta quên người bạn của con. Không có ai bị  bỏ rơi. Nhưng trường hợp người bạn của con, y c̣n phải trả một thứ Quả nữa, nên Thầy không thâu nhận y bây giờ được. Chẳng bao lâu nữa y sẽ từ giă Cơi Trần và trong một thời gian sau y sẽ đầu thai lại. Tới chừng đó, nợ cũ y đă trả xong, những điều con muốn cho y sẽ được thực hiện.”

          Nói xong với ḷng từ bi luôn luôn sẵn sàng biểu lộ, Ngài cho tâm tôi nhập vô tâm Ngài một cách mật thiết hơn nữa và đem nó lên một Cơi cao hơn rất nhiều Cơi mà tôi vừa đi đến. Ở nơi đó, Ngài chỉ cho tôi biết bằng cách nào các Đấng Cao Cả quan sát Cơi Trần.

          Quả Địa Cầu hiện ra trọn vẹn dưới mắt chúng tôi với cả ngàn triệu Linh Hồn. Phần đông chưa tiến hoá nên có vẻ mờ mờ; nếu trong đám đông nầy có một Linh Hồn nào gần tới mức có thể dùng được, dầu cho việc đó c̣n xa vời đi nữa Linh Hồn ấy vẫn phân biệt với những Linh Hồn khác như ánh sáng đèn pha trong đêm tăm tối.

          Chơn Sư bèn nói: “Bây giờ con có thấy chưa? Làm sao quên được một người nào dầu c̣n lâu lắm y mới được vào hàng Đệ Tử Nhập Môn”.”

          Thế nên chúng ta chớ sợ Tiên Thánh không biết chúng ta, chỉ e cho chúng ta chưa thật ḷng chuẩn bị để xứng đáng làm Đệ Tử của các Ngài mà thôi.

          Nh́n gương Alcyone chúng ta nên phấn chí tu hành. Không tu kiếp nầy, kiếp sau hay kiếp sau nữa cũng phải tu, v́ Luật Tiến Hoá và Luật Nhân Quả thúc đẩy con người đi tới măi, không một ai đứng lại một chỗ lâu được. Chớ vi phạm Luật Trời.

          Người học Đạo khi được làm Đệ Tử Chơn Sư rồi, mỗi công việc phải lo thực hành tận tâm và chăm chỉ xem từ nét, từ dấu để hiểu biết mạng lịnh và ư muốn của Ngài.

          Nếu bỏ sót một chữ hay một ẩn ư nào, nó sẽ bị mất hẳn luôn; v́ Thầy không nói hai lần.

          Người học Đạo mới nghe qua lấy làm lạ tại sao Chơn Sư không nói hai lần?

          Bởi v́ Chơn Sư không có ngày giờ dư như chúng ta. Hơn nữa, nếu chúng ta không sẵn sàng thi hành mạng lịnh, chúng ta mất cơ hội giúp đời và một người bạn khác sẽ xuất hiện thay thế chúng ta làm công việc đó.

          Ở Cơi Trần, chúng ta phải lặp đi lặp lại măi, có khi vài chục lần, mà đâu cũng c̣n đó, hay là chỉ thấy nhúc nhích một chút mà thôi.

          Những đức tánh cần thiết phải có để bước vào Cửa Đạo, các vị Giáo Chủ đă lặp đi lặp lại cả trăm ngàn năm, nhưng có được bao nhiêu người triệt để tuân theo? Trường hợp Đạo Bát Chánh của Đức Phật chẳng hạn.

          Trong Huyền Bí Học, khác hẳn ngoài đời và xin nhớ quyển “Dưới Chân Thầy” thuộc về Huyền Bí Học, nếu một nét, một dấu bị bỏ qua không để ư th́ nó mất luôn.

          Tưởng cũng nên biết cách các Chơn Sư đào tạo các Đệ Tử. Ít khi Ngài cho những mạng lịnh trực tiếp. Đức Leadbeater thuật lại rằng: Lúc Ngài mới được vào hàng Đệ Tử Nhập Môn, Ngài có hỏi Chơn Sư:

          “Bạch Sư Phụ, con phải làm điều chi?”

          Chơn Sư trả lời:

          “Con phải tự t́m kiếm lấy. Ta biết rằng: Nếu Ta ra lịnh cho con làm cái chi đó, con sẽ thi hành liền, nhưng như vậy Quả tốt của sự vâng lời và công việc làm sẽ thuộc về phần của Thầy nhiều hơn của con. Thầy muốn con có công đức, Thầy muốn con tự làm những việc lành để con hưởng Quả tốt. Ư kiến phải do con chớ không phải do Thầy v.v….”

          Mỗi vị Chơn Sư đều có cách riêng đào tạo Đệ Tử, tuỳ theo Cung và trách nhiệm của họ sẽ lănh sau nầy. Như Đức Chơn Sư K.H. là Đức Đế Quân chưởng quản Cung thứ Nh́ là Cung Đạo Đức và Giáo Dục, Ngài ít khi rầy Đệ Tử; Đệ Tử của Ngài chỉ xem qua cách Ngài nh́n liền biết Ngài bằng ḷng hay không bằng ḷng rồi. V́ vậy Đệ Tử của Ngài luôn luôn rất cẩn thận.

          C̣n Đức Chơn Sư M. trong kiếp nầy, hồi c̣n ở ngoài đời, Ngài là Hoàng Đế xứ Radjapoutana. Ngài tu hành đắc Đạo lên tới bậc Đế Quân. Ngài chưởng quản Cung thứ Nhứt là Cung Hành Chánh, Uy Quyền; Ngài ra lịnh hẳn ḥi. Nếu Đệ Tử phạm lỗi, Ngài liền vạch ra một cách nghiêm khắc, nhưng Ngài vẫn tha thứ, v́ biết rằng thường thường Đệ Tử hăy c̣n yếu đuối và vô tâm. Ngài muốn Đệ Tử biết chỗ quấy của ḿnh để đừng tái phạm.

          Xin nhắc lại: Chơn Sư không hề bắt buộc Đệ Tử phải thành công trong mọi việc. Thành công hay thất bại, điều đó không quan trọng. Điều cần thiết là cách làm việc và sự tận tâm, mà thôi.

 

          Có bốn Hạnh dành cho con đường chật hẹp nầy:

          - Hạnh Phân Biện.

          - Hạnh Không Ham Muốn.

          - Hạnh Kiểm Tốt.

          - Hạnh Bác Ái.     

          Tôi sẽ cố gắng nói cho bạn nghe những ǵ Thầy đă dạy tôi về mỗi một trong những Hạnh trên. 

 

          Những đức tánh mà người chí nguyện phải có đủ để bước vào Đường Đạo, các Tôn Giáo lớn đều có chỉ dạy, tuy với những tên khác nhau, nhưng vẫn một ư nghĩa.

          Trong quyển “Dưới Chân Thầy” có ghi:

          1- Hạnh Phân Biện.

          2- Hạnh Không Ham Muốn.

          3- Hạnh Kiểm Tốt.

          4- Hạnh Bác Ái.

          Về Đức tánh thứ ba: Hạnh Kiểm Tốt gồm:

          1- Tự Kiểm Soát Thể Trí.

          2- Tự Kiểm Soát trong Hành Động.

          3- Đức Khoan Dung.

          4- Hạnh Vui Vẻ.

          5- Hạnh Quyết Chí.

          6- Ḷng Tin Cậy.

          Về Ấn Giáo và Phật Giáo xin xem Thiên Thứ Ba: Hạnh Kiểm Tốt.

          Bây giờ xin nói vài lời tại sao bên Chánh Đạo luôn luôn chú trọng về Hạnh Kiểm và cho là: Nền tảng của Đạo là Đức Hạnh.

          Trước nhất, bởi v́ sau một thời gian luyện tập, sinh viên Huyền Bí Học sẽ có một vài quyền năng, người đời gọi là siêu việt và điều quan trọng hơn hết là việc sử dụng chúng vào việc cứu người hay là hại người.

          Một lẽ khác nữa, dầu ở ngoài đường đời hay ở trong Cửa Đạo, đều có những sự thử thách đưa tới cho những người tu hành, như: Danh vọng, tiền tài, sắc đẹp, uy quyền cám dỗ. Nếu không rơ mặt thiệt của chúng, không có gan vàng dạ sắt, không có một ư chí cương quyết, cứng cỏi như thép đă trui để đương đầu với những chướng ngại vật dựng lên cản trở bước đường, người sinh viên sẽ vấp ngă. Kết quả: Hoặc đứng lại một chỗ, không đi tới được, hoặc bước sang rất dễ dàng con đường Bàng Môn Tả Đạo. Nhiều gương đáng tiếc đă xảy ra.

          Lấy việc trước mắt mà nói: Một toà lầu đài làm bằng bê tông cốt sắt sẽ chịu đựng nổi những trận băo bùng, c̣n những nhà tre vách lá chắc chắn phải sụp đổ tan tành.

          Có thể nói toà lầu đài bằng bê tông cốt sắt tượng trưng những đức tánh cao thượng của con người, c̣n những nhà tre vách lá là tâm địa của người tầm thường.

          Những trận dông tố là những dục vọng sôi nổi trong ḷng con người. Phải sợ những trận Băo Ḷng. Chúng nó c̣n ghê gớm và dữ tợn hơn cả muôn, cả triệu lần những trận cuồng phong ngoài đời, bởi v́ hậu quả của chúng nó c̣n kéo dài trong nhiều kiếp sau nữa, chớ không phải chỉ nội trong kiếp nầy mà thôi.

          Nguồn cội của chúng nó là Những Sự Ham Muốn Không Được Toại Nguyện. Mà Những Sự Ham Muốn vốn do Cái Vía cấu kết với Cái Trí sinh ra.

          V́ thế Những Sự Sa Ngă từ xưa đến nay đều do Cái Vía và Cái Trí không tinh khiết, nên chưa thanh lọc được Những Tư Tưởng và Ư Muốn Thấp Hèn, Ô Trược.

          Thấu rơ những lẽ nầy, các vị Đạo Sư đều dạy sinh viên phải Tự Chủ, phải Khắc Kỷ, phải Chế Ngự 3 Thể: Thân, Vía, Trí. Cần Bắt Buộc chúng nó tuân theo mạng lịnh của con người sai khiến và hướng dẫn chúng nó vào con đường Sáng Suốt, Chân Chánh, Thánh Thiện.

          Làm chủ được 3 Thể, tức là san bằng phân nửa những sự khó khăn sẽ gặp trên Đường Đạo.

          Tới đây chắc chắn quí bạn đă thấy Đức Tánh Tốt cần thiết là dường nào cho sự thành công trên đường đời cũng như trong Đường Đạo, tức là Sự Tiến Hoá Thật Sự của Con Người.

          Tôi không phủ nhận sự mở mang Trí Tuệ, tôi biết điều nầy cũng cần thiết, và cũng có sự hữu ích riêng của nó. Nhưng muốn thành một người hoàn toàn th́ Tài và Đức phải đi đôi với nhau. Nếu có Tài mà không có Đức th́ không khác nào đứng trên mé vực sâu, hố thẳm. Không đề pḥng sẽ té xuống đó không biết giờ phút nào.

          Quí bạn hăy xem xét lại cuộc đời rồi suy nghĩ sâu xa để coi những điều nói trên đây có đúng với sự thật không?

          Nên Ôn Cố Tri Tân.

 

BỐN  CON  ĐƯỜNG  DỰ  BỊ.

 

          Kinh sách Đông Phương dạy rằng: Có bốn Con Đường Dự Bị dắt con người vào hàng Đệ Tử Nhập Môn.

          1- Con Đường Thứ Nhứt: Việc lân la hay là giao thiệp với những người đă được Điểm Đạo, nhất là Đệ Tử Chơn Sư. Lẽ tự nhiên: Nhờ sự giải thích những đức tánh cần thiết cho kẻ chí nguyện mà người học Đạo, nếu cố gắng trau giồi tâm tánh và noi gương của Người Đệ Tử, th́ kiếp nầy hay kiếp sau sẽ được Chơn Sư thâu nhận.

          2- Con Đường Thứ Nh́: Đọc những sách nói về Con Đường Đạo. Dầu ở Tây Phương hay ở Đông Phương, nhất là ở Trung Hoa, Ấn Độ đều có những Kinh Sách nói bóng dáng về Quần Tiên Hội và cách những Vị Mộ Đạo đi t́m Chơn Sư. Chúng ta từng đọc những Tiểu Thuyết Tàu như Tây Du, Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Đông Du Bát Tiên, v.v… Chúng ta rất thích những phép tắc cao cường của Đức Phật, của Thái Thượng Lăo Quân, Nguyên Thỉ Thiên Tôn, Thông Thiên Giáo Chủ, Hải Triều, Nam Cực, Tôn Tẩn, hầu hết các độc giả đều muốn có quyền năng như thế, nhưng quên rằng: Phải dứt ḷng Trần Tục, ra công tu tâm dưỡng tánh từ kiếp nầy qua kiếp kia.

          Hiện nay, chỉ có những sách Thông Thiên Học mô tả rành rẽ 4 bậc được Điểm Đạo gọi là Tứ Thánh và con đường dắt đến Cơi Trường Sanh Bất Tử, như những quyển: “Dưới Chân Thầy, Tiếng Nói Vô Thinh, Ánh Sáng Trên Đường Đạo, Trước Thềm Thánh Điện, Con Đường Của Người Đệ Tử, Chơn Sư và Thánh Đạo v.v…”

          3- Con Đường Thứ Ba: Mở Trí. Người trí độ thông minh th́ tin rằng: Phải có những bậc tiến hoá cao mới xây dựng được những nền tảng Văn Minh tốt đẹp của Cổ Ai Cập, Cổ Ấn Độ, Cổ Trung Hoa, Cổ Hi Lạp, Cổ Ba Tư và nhất là Đại Kim Tự Tháp. Nhờ vậy mới ra công t́m hiểu v́ lư do nào nền Văn Minh đó hiện đến, rồi v́ duyên cớ nào lại bị sụp đổ tan tành.Nhờ sự t́m kiếm nầy mà con người sẽ gặp những Kinh Sách nói về Cách Tu Luyện Bản Thân để trở nên sáng suốt và học được chân truyền.

          Tuy nhiên con đường nầy rất nguy hiểm, v́ càng mở Trí mà không biết kềm chế nó th́ nó giục con người trở nên kiêu căng tự phụ, gây ra nhiều tội lỗi hơn là lo việc tu hành. Từ xưa đến nay ít ai dùng phương pháp nầy.

          4- Con Đường Thứ Tư: Ăn ở nhân từ đức hạnh trong nhiều kiếp. Tâm trí càng ngày càng trở nên sáng suốt ắt sẽ có người tới chỉ dẫn cách t́m Cửa Đạo. Người có đức hạnh đáng quí trọng, nhưng chỉ có bao nhiêu đó chưa đủ, v́ phải lo tiến hoá luyện tập trí óc để trở nên một dụng cụ tốt lành trong tay của những Đấng Cứu Thế hầu phụng sự nhân loại và Thiên Cơ một cách đắc lực.

 

SỰ  ÍCH  LỢI  KHI    GẦN  VỊ  ĐẠO 

 

          Ở Ấn Độ có nhiều Vị Đạo Sư gọi là Gu-ru (Gourou). Có Vị ở một chỗ trong rừng núi, các vị Đệ Tử cất lều ở chung quanh. Có Vị thường đi ta bà, đi tới đâu th́ Học Tṛ theo tới đó.

          Học Tṛ được ở gần Thầy th́ mau phát triển về đường Tinh Thần v́ lư do sau đây:

          Ta ở một ḿnh th́ phải ra sức luyện tập để mở mang vài tánh tốt và diệt trừ vài tật xấu. Công việc nầy rất khó khăn và cực nhọc. Phải bền chí và cố gắng ngày nầy qua ngày kia, tuy nhiên chưa ắt có hiệu quả được như ư muốn. Nhưng khi được ở gần Vị Đạo Sư đă rửa sạch Phàm Tâm th́ trong lúc ngủ cũng như trong lúc thức, các vị Đệ Tử ở trong ṿng hào quang của Ngài. Những sự rung động cao siêu do Hào Quang của Ngài bắt buộc mấy Thể của Đệ Tử lần lần rung động đồng nhịp với chúng nó. Nhờ vậy các Đệ Tử trừ được các tật xấu và mở mang những tánh tốt một cách dễ dàng, mau lẹ. Trong Vật Lư Học ta thấy rơ hiện tượng nầy: Khi hai cái đồng hồ treo gần nhau, mà sự chuyển động của hai quả lắc không đồng đều, th́ quả lắc nào mạnh bắt buộc quả lắc yếu hơn phải lần lần hoà nhịp với nó, bằng không th́ phải đứng lại.

          Hiểu mấy lẽ trên đây, sẽ thấy một khi ta được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử Chánh Thức th́ hào quang của Ngài bao bọc ta ngày đêm không ngớt. Ta sẽ thay đổi về tâm tánh và mở mang trí hoá một cách mau chóng, bất ngờ. Tục gọi rằng: “Nhờ Đức của Thầy ḿnh.”


I -  HẠNH  PHÂN  BIỆN

(Discrimination)


 

          Đức tánh đầu tiên trong bốn đức tánh là Phân Biện; thường th́ người ta hiểu đức tánh này như là sự phân biện giữa cái chân và cái giả và nó đưa con người vào Đường Đạo. Hiểu như thế th́ đúng, nhưng  phải hiểu hơn thế nữa. Hạnh  Phân Biện phải được thực hành, không phải chỉ lúc mới bước vào Đường Đạo mà thôi, mà ở mỗi bước đi trên đó, mỗi ngày cho đến hết con Đường Đạo.

          Đức Phật để Chánh Kiến đứng đầu Bát Chánh Đạo. Chánh Kiến đây tức là Tánh Phân Biện lẽ tà chánh.

          Nhưng không phải dễ Phân Biện đâu. Phải mở trí khôn, phải nhiều kinh nghiệm mới có thể nói rằng: Biết Phân Biện được. Tuy vậy, có nhiều điều xảy đến mà ta phân vân, cũng như đứng trước ngả ba đường cái, không biết phải theo lối nào cho đúng, bởi v́ ta chưa thông thạo về những điều đó.

          Duy có một điều không thể sai lầm là khi đă mở Trực Giác. Nói cho đúng Trực Giác vốn thuộc về Kim Thân hay là Thể Bồ Đề, nhưng Trực Giác cũng có thể từ Thượng Trí hiện xuống, nếu ta sống một đời trong sạch và chân thật.

          Ở đây, Chơn Sư dạy Alcyone phải phân biện thế nào là Chân và thế nào là Giả. Biết được rồi mới theo cái Chân để bước vào Cửa Đạo. Mà vào Đường Đạo rồi cũng phải phân biện mỗi ngày, mỗi bước cho tới khi đi dứt Đường Đạo, tức là Đắc Đạo thành Chánh Quả làm một Vị Siêu Phàm.

          Tại sao phải luôn luôn giữ ḿnh và đề pḥng? Ấy v́ kẻ nghịch là mấy anh trong bóng tối, gọi là Bàng Môn Tả Đạo, chực hờ xô ngă chúng ta. Chúng dựng lên nhiều cạm bẫy, nếu thờ ơ sẽ mắc vào đó và sẽ đau khổ suốt đời. Chúng rất khôn quỉ, thấy ta, biết ta mà ta không thấy, không biết chúng. Cái nguy cơ ở nơi đó. Những sự cám dỗ, những sự quyến rủ thật là tế nhị, nên thấy được ta sẽ hoàn toàn hạnh phúc. Nhưng than ôi! Chúng nó là nhng cục than đỏ, đụng tới  th́ cháy tay, buông ra không kịp. Những sự thử thách không phải chỉ có một loại hay là một thứ đâu. Chúng nó có muôn mặt khác nhau, chúng hiện ra bất ngờ; nhưng cái nào tới cho ta mà ta biết đó là một thử thách sẽ không c̣n là sự thử thách đối với ta nữa.

          Nhưng, ta phải coi những thử thách là điều cần thiết rất hữu ích, v́ nhờ chúng nó mà ta biết được những nhược điểm của ta ở chỗ nào để bồi bổ. Không vậy, không biết chừng nào ta mới trở nên khôn ngoan, sáng suốt. Có lửa đỏ mới biết tuổi vàng.

          Vậy chớ nên cười những người vấp ngă, hăy thương họ. Hăy nhớ rằng: Cười người tháng trước, tháng sau người cười. Chạy đi đâu cho khỏi Luật Nhân Quả báo ứng.

          Những người ngày nay vững bước là nhờ trước kia, không biết bao nhiêu kiếp rồi, đă có nhiều kinh nghiệm đau khổ, cho nên học được những bài học hay, thấy lửa liền tránh xa, không như anh Tất Đạt trong quyển “Câu Chuyện Của Ḍng Sông” biết lửa đốt cháy mà vẫn thử lửa coi nó có thật nóng hay không?[8]

          Người Hành Đạo không dám chê ai cả, v́ quá khứ của ḿnh không tốt đẹp hơn ai.

          Điều hay hơn hết là lo nâng đỡ, khuyến khích, d́u dắt.

          Nên nhớ rằng: Dầu tới bậc La Hán cũng c̣n có thể bị lầm lạc, nói chi chúng ta đây là những kẻ chưa được sáng mắt, làm sao tránh khỏi việc té lên, té xuống cả trăm lần. Nhưng tránh đừng ngă ḷng, cứ đi tới, ta sẽ thành công.

          Trong quyển “Dưới Chân Thầy” câu “…Bước vào Đường Đạo”  là vào hàng Tu Đà Huờn, vừa được Điểm Đạo Lần Thứ Nhứt. Vị Tu Đà Huờn phải Phân Biện mỗi việc từng li, từng tí, phải suy nghĩ chín chắn, phải cẩn thận, kỹ lưỡng từ chút; bởi v́ trước khi làm một Vị Siêu Phàm được 5 lần Điểm Đạo th́ sự vấp ngă có thể xảy ra bất cứ lúc nào, mà đáng sợ nhất là sau 2 lần Điểm Đạo, có phép tắc cao cường.

          Con bước vào Đường Đạo v́ con được biết rằng chỉ có trên đó con mới t́m được những điều đáng thâu thập. Người không hiểu biết th́ làm lụng để được giàu sang và quyền thế, nhưng những sự giàu sang và quyền thế nầy chỉ kéo dài lâu lắm là một đời mà thôi, bởi thế chúng không thật. Có nhiều sự việc lớn lao hơn những sự giàu sang và quyền thế nầy, những sự việc đó có thật và lâu bền; một khi con đă thấy những sự việc này, con sẽ không c̣n ham muốn những cái kia nữa.

          Tại sao chỉ trong Đường Đạo mới t́m được những điều đáng thâu thập mà thôi?

          Bởi v́ trong Đường Đạo mới dạy đúng sự thật, cách sinh hoá Thái Dương Hệ nầy và lư do sinh sản các loài vật và con người.

          Có Học Đạo con người mới biết được Bản Tánh Thiêng Liêng của ḿnh, những Luật Luân Hồi, Nhân Quả và Phương Pháp Luyện Tập trong một thời gian ngắn ngủi để trở nên hoàn toàn sáng suốt, thay v́ phải trải qua mấy muôn kiếp Luân Hồi mà chưa chắc thoát khỏi Ṿng Sanh Tử dưới Phàm Gian.

          Có bạn sẽ hỏi: Làm sao con người biết được sự sinh hoá một Thái Dương Hệ? Giải ra th́ dài lắm, tôi xin tóm tắt lại vài đoạn thôi. Xin nói rằng: Đây là tôi tŕnh bày theo Huyền Bí Học, khác hẳn với Khoa Thiên Văn Học hiện đại, xin quí bạn miễn nghị.

 

 

NHỮNG  THÁI  DƯƠNG  HỆ  TRÊN  KHÔNG  GIAN

 

          Thái Dương Hệ gồm có một Ngôi Mặt Trời ở chính giữa và những Hành Tinh xoay chung quanh.

          Mỗi Thái Dương Hệ đều do một Đấng Chí Tôn tạo ra, xin gọi là Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos d’un Système Solaire).

          Không biết có bao nhiêu Thái Dương Hệ trên Không Gian, tuy nhiên, người Học Đạo nên biết rằng: Tất cả những Thái Dương Hệ đều sắp theo Hệ Thống Cung và Chi. Có 7 Cung. Mỗi Cung chia ra 7 Chi. V́ vậy có thể nói rằng: Sự tiến hoá của các Thái Dương Hệ đều không giống nhau.

          Mỗi Cung và mỗi Chi gồm không biết bao nhiêu Thái Dương Hệ, lớn và nhỏ.

          Những Thái Dương Hệ lớn lại điều khiển những Thái Dương Hệ nhỏ đồng chung một Cung, một Chi.

 

NHỮNG  THÁI  DƯƠNG  HỆ  LỚN  HƠN  THÁI  DƯƠNG  HỆ  CỦA  CHÚNG  TA

                          

          Ngày nay người ta biết rằng: Có những Ngôi Mặt Trời lớn hơn Ngôi Mặt Trời của chúng ta từ 400, 500 lần cho tới cả triệu lần như Canopus chẳng hạn.

 

ĐỨC  THÁI  DƯƠNG  THƯỢNG  ĐẾ  CỦA  CHÚNG  TA.

 

          Ngài vốn từ một Thái Dương Hệ khác đến. Thái Dương Hệ đó ra sao? Chúng ta không biết. Nhưng có một điều chắc chắn là nó lớn hơn và sanh trước Thái Dương Hệ của chúng ta lối 50, 60 tỷ năm.

          Trước khi sanh hoá, Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta chọn một chỗ trên Không Gian làm vị trí Tiểu Vũ Trụ của Ngài. Hào quang của Ngài dứt chiếu tới đâu th́ chỗ đó là giới hạn giang sơn của Ngài.

          Ngài có nhiều Vị Phụ Tá, như: Các Vị Hành Tinh Thượng Đế (Logos Planétaire), các Vị Bàn Cổ Mầm Giống (Manou Semence), các Vị Bàn Cổ Cội Rễ (Manou Racine), những Vị Ngọc Đế, những Vị Phật, những Vị Đại Thánh, những Vị Đế Quân, những Vị Tiên Thánh, những Vị Đại Thiên Thần, những Vị Thiên Thần, v.v…

          Các Đấng Cao Cả nầy lập ra Thiên Đ́nh hay là Quần Tiên Hội trên mỗi Bầu Hành Tinh để coi sóc sự sanh hoá và sự tiến hoá của các Loài Vật tại đây.

          Các Ngài đào tạo những Đệ Tử về sau Đắc Đạo thành Tiên, thành Phật, mỗi Vị lănh một nhiệm vụ trên Thiên Đ́nh. Mối Đạo cứ tiếp tục truyền bá như thế từ thế kỷ nầy qua thế kỷ kia, cho tới ngày nay và mai sau nữa, không bao giờ dứt.

          Hiện nay, tại Quả Địa Cầu chúng ta, Cung Thứ Nh́ là Cung Đạo Đức và Giáo Dục do một Đấng Chí Tôn gọi là Đức Bồ Tát (Bodhisatva) đại diện cho Đức Phật chưởng quản.

          Thuở xưa, Ấn Giáo, Ai Cập Giáo, Ba Tư Giáo hay Hoả Bái Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Lăo Giáo, v.v… đều có hai Khoa Giáo Dục: Một Khoa gọi là Công Truyền hay là Hiển và một Khoa gọi là Bí Truyền hay là Mật để đào tạo các tín đồ.

 

KHOA  CÔNG  TRUYỀN  HAY    HIỂN

 

          Khoa Công Truyền dạy quần chúng biết bổn phận làm người. Nó nhấn mạnh về Khoa Luân Lư, tức là cách xử thế; nó chỉ bảo sự thờ phượng và cúng tế Thần Linh, cách cầu nguyện, dâng hương, tụng kinh, đọc kệ, niệm Phật, lần chuỗi, nhưng cần thật hiểu cho đúng ư nghĩa của những việc làm nầy mới khỏi mắc hoạ mê tín và tin dị đoan.

          Quả thật mỗi việc trên đây đều có sự hữu ích riêng của nó, nhưng đừng quá chú trọng về những phụ thuộc là h́nh thức bên ngoài mà bỏ phần chánh cực kỳ quan trọng ở bên trong là Phần Hồn, Phần Tinh Thần. V́ vậy, Chơn Sư bảo: “Chúng nó giống như những hàng đôi giúp con thuở nhỏ viết cho đều đặn và ngay thẳng cho tới chừng nào con viết tốt và đều đặn rồi, con không c̣n nhờ chúng nó giúp nữa.”

          Khoa Công Truyền giải một cách sơ lược sự hành động của Luật Luân Hồi, Nhân Quả, tức là có ư dạy con người phải tu đức trau ḿnh. Tất cả những Kinh Sách của tín đồ các Tôn Giáo đang dùng hiện nay đều thuộc về Khoa Công Truyền.

          Những bí mật của Tạo Công đều được nói một cách bóng dáng hay tượng trưng, không có giải đáp hoặc không có người chỉ bảo th́ chẳng bao giờ hiểu nổi.

 

 

 

KHOA    TRUYỀN  HAY    MẬT [9]

 

          Giáo lư Thông Thiên Học giúp ta giải nghĩa tất cả những lời dạy của các Tôn Giáo và các Thánh Kinh.

          Quả thật, Sách Thông Thiên Học dạy nhiều điều khác hẳn Kinh Sách của các Tôn Giáo khiến cho nhiều bạn quen với Khoa Công Truyền bỡ ngỡ, ngạc nhiên.

          Nhưng xin quí bạn hăy kinh nghiệm một ít lâu rồi sẽ biết đâu là Chân Lư.

          Khoa Bí Truyền, cũng gọi là Mật, dạy sự Sanh Hoá Một Thái Dương Hệ. Nó giúp đào tạo những Vị Tiên Thánh, và biến đổi con người thành một Vị Siêu Phàm. Phương Pháp của các Đấng Cao Cả dùng không hề tiết lộ ra.

          Người ta chỉ biết Khoa Mật vốn Khẩu Khẩu Tương Truyền và Không Bao Giờ Viết Ra Thành Sách.

          Muốn Học Khoa nầy, kẻ chí nguyện phải quyết tâm và bền chí, chịu muôn vàn khổ hạnh và thử thách, tŕ trai, giữ giới, tự tỉnh, khắc kỷ, tức là lo Lập Hạnh. Ngày nào anh hội đủ Những Điều Kiện do Luật Trời Qui Định, anh được phép bước vào Cửa Đạo, v́ anh xứng đáng thọ lănh Chân Truyền.

          Thiết tưởng cũng nên biết: Tại sao Tiên Thánh rất nghiêm khắc trong sự chọn lựa và thâu nhận Đệ Tử? Ấy v́ các Ngài biết rằng: Nếu Kẻ Chí Nguyện chưa rửa sạch Phàm Tâm thế nào cũng dùng những Phép Thần Thông để thoả thích những sự ham muốn nhỏ nhen, đê tiện của y. Y sẽ hại đời rất nhiều, mà y cũng tự hại y nữa, v́ Luật Báo Ứng  Tuần Hoàn sẽ trả lại cho y những ǵ y đă làm cho kẻ khác.

          Tiên Thánh là những Vị Phụ Tá Thiên Cơ, cho nên biết rơ những việc quá khứ, vị lai và trường sanh bất tử.

          Những điều các Ngài chỉ dạy không bao giờ sai. Chúng ta c̣n mắc trong ṿng Luân Hồi, Nghiệp Chướng, cứ đầu thai đi đầu thai lại để học cho thật kỹ những bài mà chúng ta chưa thuộc làu, hoặc v́ bê trễ, hoặc v́ tối dạ nên không hiểu.

          Hơn nữa, con người chưa mở trọn vẹn Hạ Trí, cho nên từ thế hệ nầy qua thế hệ kia cứ đưa ra những Giả Thuyết mới thay thế những Giả Thuyết cũ. Như vậy, không biết mấy muôn hay mấy triệu năm nữa ta mới nghe được Tiếng Chót của Khoa Học.[10]

          Hiểu được sự thật, ta mới thấy lời của Chơn Sư nói: “Chỉ trong Cửa Đạo mới có những điều đáng thâu lănh mà thôi.” Thật là hết sức đúng.

VỀ  SỰ  GIÀU  SANG    DANH  VỌNG

 

          Về phương diện giàu sang và danh vọng: Các điều ấy không sai quấy. Chơn Sư đă nói: “Chúng nó dùng được lâu lắm là một đời mà thôi.” Thật vậy, có khi con người chưa từ trần, gia tài, sản nghiệp, chức tước, quyền thế đă về tay người khác, v́ Luật Nhân Quả. Đạo Đức gọi chúng là mộng ảo. Chúng có thật, nhưng không vĩnh viễn, trường tồn.

          Một lẽ khác nữa: Uy quyền, thế lực, giàu sang là những quyền năng rộng lớn và mạnh mẽ. Nắm chúng nó trong tay có thể làm mưa, làm gió, thế nào cũng được. Làm lợi rất dễ dàng, mà làm hại cũng không khó.

          Vậy hăy dùng uy quyền để làm những việc ích nước, lợi dân, tạo hạnh phúc cho quần chúng. Luôn luôn phải nhớ rằng: Luật Nhân Quả không dung tha những ai làm nghịch với Thiên Ư. Hễ gieo Nhân th́ gặt Quả. V́ vậy, giúp đỡ người, cứu độ người, tức là tự ḿnh giúp đỡ ḿnh, tự ḿnh cứu độ ḿnh. Trái lại, hăm hại người, hà hiếp người, tức là tự ḿnh hăm hại ḿnh, tự ḿnh hà hiếp ḿnh.

          V́ vậy lời xưa đă dạy:

          “Hữu thế bất khả ỷ tận.

          Hữu phước bất khả hưởng tận.”

          Ỷ tận và hưởng tận th́ tai hoạ sẽ đến cho ḿnh chẳng sai. Ta đă thấy nhiều gương trước mắt.

          Đừng quên rằng: Lạm dụng uy quyền và sự giàu sang làm những chuyện bất nhân, thất đức, tạo ra những khổ năo cho đời sẽ sanh ra những xáo trộn, những hỗn loạn chẳng nhỏ, e phải mất mấy chục năm sửa đổi mới mong tạo lập lại được quân b́nh. Cũng nên hiểu câu: “Làm việc để trở nên giàu sang và có quyền thế.”

          Ở Thế Gian cái nghèo là một tai hại lớn lao. Nếu chúng ta không làm lụng để có tiền nuôi ḿnh và gia quyến cùng là gây dựng tương lai cho con cái th́ sẽ bị đói khó, chẳng khác nào hai tay ta bị trói buộc không làm ǵ được cả.

          Nhưng thường thường v́ người ta thấy giàu sang và quyền thế đem lại nhiều sự lợi ích, cho nên con người đi quá mức trung b́nh v́ ḷng tham vọng. Chỉ t́m đủ cách làm ra cho nhiều tiền đặng tiêu pha và sung sướng tấm thân, chớ không c̣n biết nhân, nghĩa, bà con, họ hàng, bất chấp Luân Lư Cang Thường; chỉ biết có ḿnh mà không biết có người, ai chết, ai đói, ai rách, ai khổ, mặc ai; quên rằng: Tới một ngày kia, ai ai cũng phải nắm hai tay trắng mà xuống mồ.

          Các Vị Thánh Nhân, Hiền Triết đă có nhiều kinh nghiệm mới khuyên chúng ta giữ mực trung b́nh và t́m cái chi được vĩnh viễn, chẳng bị thời gian tàn phá. Cái đó là Bản Tánh Thiêng Liêng của Con Người. Sự hiểu biết Luật Luân Hồi, Nhân Quả, Luật Hy Sinh, Luật Tiến Hoá và phương pháp phát triển Tâm Thức để làm một Vị Siêu Phàm.

          Thật vậy, khi người ta biết được sự mầu nhiệm của Đạo rồi th́ không c̣n muốn cái chi khác nữa.

          Trên Thế Gian nầy chỉ có hai hạng người: Hạng hiểu biết và hạng không hiểu biết; và chính sự hiểu biết nầy mới là điều đáng kể.

          Chơn Sư phân biệt rơ rệt hai hạng người: Hạng hiểu biết và hạng không hiểu biết.

          Hiểu biết đây là hiểu biết Luật Trời.

          C̣n giỏi về các Khoa, các Môn tức là rành nghề, là sự thông minh của  Cái Trí, khác với sự hiểu biết Chân Lư, sự hiểu biết của Tâm Hồn.

          Sự hiểu biết của Thế Tục là sự hiểu biết của trí óc, nó rất hữu ích. Ngày nay nhờ trí hoá mở mang, con người sáng chế ra những phương thuốc hay chữa lành nhiều chứng bệnh mà xưa kia gọi là nan y; phát minh được nhiều máy móc tân kỳ, làm việc mau lẹ gấp trăm, ngàn nhân công, đỡ bớt sự mệt nhọc của Thể Xác và sản xuất những ǵ cần thiết cho đời sống hằng ngày. Những Phi Thuyền tung mây lướt gió, liên lạc năm Châu bốn Bể trong ṿng một, vài ngày, những tin tức loan đi trong một giờ khắp cả hoàn cầu đều nhận được, v.v… Hay biết bao! Lạ biết bao! Thật là khác hơn thuở xưa một Trời, một Vực.

          Nhưng nếu điều tiện lợi rất nhiều th́ điểm nguy hại cũng chẳng ít. Những khí giới tối tân, những bom nguyên tử, khinh khí, tia sáng tử thần có thể sát hại muôn vàn sanh linh trong nháy mắt.

          Đó là Tánh Ích Kỷ đáng sợ của Hạ Trí xúi biểu con người làm nhiều tội ác ghê gớm, nếu không được Tâm Từ Thiện kềm chế, và điều khiển nó.

          Trái lại, sự hiểu biết Chân Lư, tức là sự hiểu biết Cơ Tiến Hoá, sự hiểu biết Tinh Thần chẳng những đem t́nh thương, hạnh phúc và hoà b́nh cho Nhân Loại, và d́u dắt Con Người mau đến mức độ Siêu Phàm.

          V́ vậy, Chơn Sư bảo sự Hiểu Biết là quan trọng.

          Tôn Giáo và chủng tộc của một người không phải là điều quan trọng.

 

VỀ  SẮC  DA    TÍN  NGƯỠNG 

 

          Quả Địa Cầu có 7 Giống Dân Chánh (Race Mère).

          Mỗi Giống Dân Chánh chia ra 7 Giống Dân Phụ (Sous Race).

          Mỗi Giống Dân Phụ lại gồm 7 Nhánh (Branche de Sous Race).

          Mỗi Giống Dân đều có những bài học riêng biệt cho Linh Hồn. Mỗi Linh Hồn phải đầu thai từ 2 lần cho tới 3, 4 lần vào mỗi Giống Dân để học hỏi kinh nghiệm. Hết ở Giống Dân thứ nhứt, sang Giống Dân thứ nh́, thứ ba, thứ tư, tiếp tục cho tới Giống Dân thứ bảy.

          Hiện giờ:

           Giống Da Đen là cháu chắt của Giống Dân thứ ba là Giống Lemurien.

          Giống Da Vàng, Da Đỏ là cháu chắt của Giống Dân thứ tư là Giống Ắt Lăn (Atlantes).

          Giống Da Trắng bây giờ là con cháu của Giống Dân Phụ thứ tư và thứ năm của Giống Dân thứ năm là Giống Aryen.

          Hai Giống Dân thứ sáu và thứ bảy chưa sanh ra.

          Nói cho đúng, các Linh Hồn đều là Con của Đức Thượng Đế, vốn là anh em với nhau, và không có Giống Đực và Giống Cái. Chỉ ở Cơi Trần mới có Xác Thân Nam hay Nữ để sanh hoá mà thôi, nhưng người ta thường kiêu hănh về Sắc Da và Ṇi Giống của ḿnh.

          40 năm về trước, Người Da Trắng miệt thị Người Da Vàng và Người Da Đen, v́ coi hai Giống Dân nầy kém văn minh hơn họ. Trận Đại Thế Chiến thứ hai đă dạy cho họ một bài học chua cay. Ngày nay họ mới bỏ thói Kỳ Thị Chủng Tộc, bắt tay với Người Da Đen và ngồi chung một Bàn Hội Nghị.

          Biết rơ Luật Trời, cho nên trong Đạo Đức không cho Sắc Da, Ṇi Giống là việc quan trọng.

          Trong bức thư của Đức Văn Minh Đại Đế năm 1881 trang 4 có câu nầy:

          “Người Da Trắng phải khởi sự trước, đưa bàn tay thân mật cho những Dân Tộc Hắc Chủng và gọi Người “Da Đen” thường bị khinh miệt là “anh em.” Viễn cảnh nầy có thể không làm cho tất cả mọi người vui ḷng mỉm cười, nhưng không thể nào tự xưng là Nhà Thông Thiên Học mà không nh́n nhận nguyên tắc nầy.”

          93 năm sau, năm 1974, lời nói nầy đă thành sự thật. Đây là Cơ Tiến Hoá đă thúc đẩy con người, không ai cưỡng lại được.

 

VỀ  NHỮNG  TÔN  GIÁO

 

          Về những Tôn Giáo, các Nhà Đạo Học uyên thâm đều biết: Các Tôn Giáo vốn do một Gốc mà ra, Gốc đó là Thiên Đ́nh hay là Quần Tiên Hội.

          Khi một Giống Dân được sanh ra, Đức Bồ Tát là Đức Chưởng Giáo, Chủ Tể các Thần Tiên, lâm Phàm và lập một Tôn Giáo phù hạp với tánh t́nh, phong tục, tập quán và tŕnh độ tiến hoá của Giống Dân mới đó về phương diện Tinh Thần cũng như về phương diện Trí Thức.

          Khi Phong Hoá suy đồi, Cang Thường đảo ngược th́ Ngài sai một Vị Chơn Sư hay một Vị La Hán ra đời sửa sang giềng mối lại, hay là lập một Tôn Giáo mới, nếu việc đó tỏ ra cần thiết. Có khi Ngài cũng Giáng Trần.

          Lấy bề ngoài mà xét đoán quả thật Đạo nầy khác với Đạo kia, do những sự thờ phượng, lễ bái, những tín ngưỡng bất đồng. Nhưng so sánh những Giới Cấm, những Qui Luật sẽ thấy cả thảy đều giống nhau. Các Tôn Giáo đều dạy tín đồ phải tŕ trai, giữ giới, lánh dữ, làm lành.

          Xưa  nay Chân Lư vẫn là một.       

          Tôi xin đưa ra thí dụ như sau đây:

          Một cái lồng đèn có 4 mặt kiến: Xanh, đỏ, tím, vàng. Những người thấy tấm kiến xanh th́ cho ngọn đèn là xanh; những người thấy tấm kiến vàng th́ cho ngọn đèn là vàng; những người thấy tấm kiến đỏ, những người thấy tấm kiến tím th́ cho ngọn đèn là đỏ, là tím. Nếu những người nầy gặp nhau, hỏi ư kiến về ngọn đèn th́ cả thảy đều nói khác nhau và tin rằng: Chỗ thấy của ḿnh không lầm. Thật vậy, các người ấy nói rất đúng, v́ chỉ thấy bên ngoài. Khi mở cửa lồng đèn th́ chỉ thấy một ngọn đèn màu trắng mà thôi. Ánh sáng trắng rọi qua tấm kiến màu xanh thành màu xanh, rọi qua tấm kiến màu đỏ thành màu đỏ, rọi qua tấm kiến màu vàng thành màu vàng, rọi qua tấm kiến màu tím thành màu tím.

          Chân Lư là Ngọn Đèn, và những tấm kiến màu là Cái Trí của con người.

          Tất cả những Tôn Giáo đều là những Con Đường dắt đến Đức Thượng Đế. Ai đi theo Con Đường nào ḿnh thích cũng tới mục đích, chỉ có khác một điều là mau hay chậm, tuỳ theo khả năng của ḿnh. Thế nên Đạo của con người giữ không có chi là quan hệ. Không có Đạo nào cao hay Đạo nào thấp, mà chỉ có tŕnh độ hiểu biết hay không hiểu biết, thành tâm hay không thành tâm, khoan dung hay không khoan dung, điều nầy mới thật là đáng kể mà thôi.

          Điều thật quan trọng chính là sự hiểu biết nầy, sự hiểu biết về Cơ Trời đối với con người. V́ Thượng Đế có một Thiên Cơ, và Thiên Cơ đó là Sự Tiến Hoá. Khi người nào đă trông thấy Thiên Cơ và thật sự hiểu Nó, y không thể không làm việc cho Nó, hoà ḿnh làm một với Nó, v́ Nó vinh quang và đẹp đẽ vô cùng.

          Câu: “Thượng Đế có một Thiên Cơ, và Thiên Cơ đó là Sự Tiến Hoá.” Xin nhắc lại rằng: Tại Dăy Địa Cầu chúng ta, Linh Hồn phải đầu thai:

          a- Trước nhất vào 3 Loài Tinh Chất (Essence Elementale).

          b- Kế đó là: Qua Loài Kim Thạch, Thảo Mộc, Thú Vật.

          c- Rồi tới Con Người.

          d- Con Người sẽ vào Hàng Tiên Thánh.

          Đó là Cơ Tiến Hoá. Mục đích đă định sẵn cho Nhân Loại trong Thái Dương Hệ nầy là Con Người sẽ thành những Vị Siêu Phàm khi thời giờ điểm.

 

 

SỰ  TIẾN  HOÁ    TRƯỚC  MẶT  TA

 

          Có bạn sẽ hỏi: Làm sao chứng minh Sự Tiến Hoá cho người ta biết?

          Thật sự, Sự Tiến Hoá ở trước mặt ta, ta thấy nó mỗi ngày, nhưng tại ta không để ư tới.

 

BA  SỰ  TIẾN  HOÁ

 

          Có 3 Sự Tiến Hoá:

          1- Tiến Hoá về Vật Chất và H́nh Dạng.

          2- Tiến Hoá về Trí Thức.

          3- Tiến Hoá về Tinh Thần hay là Tâm Thức.

 

1- TIẾN  HOÁ  VỀ  VẬT  CHẤT    H̀NH  DẠNG

 

          Ta hăy xem một đứa trẻ, con trong nhà hay cháu từ 1 tới 21 tuổi.

          Trong thời gian nầy:

          Về phương diện H́nh Hài: Đứa trẻ ban đầu nhỏ, sau lớn, tác càng ngày càng cao, da thịt biến đổi mỗi năm. Lúc trọng tuổi rồi th́ tóc bạc, da mồi.

          Đây là Sự Tiến Hoá về Vật Chất.

 

2- TIẾN  HOÁ  VỀ  TRÍ  THỨC       

 

          Đứa nhỏ cặp sách đến Trường học, từ bậc Sơ Đẳng đến Trung Đẳng, tức là bậc Tú Tài, rồi tiến lên Cao Đẳng lấy cấp bằng Cử Nhân, Tiến Sĩ.

          Đây là Sự Tiến Hoá về phương diện Trí Thức.

 

3- TIẾN  HOÁ  VỀ  TINH  THẦN HAY    TÂM  THỨC

 

          Đứa nhỏ trau giồi Tánh Nết ngay thẳng, hiền hậu, vui vẻ, ôn hoà, nhân từ, sẵn sàng giúp đỡ, biết thương người nghèo khổ, cô thế, già cả, tật nguyền, kính Trời, thờ Phật, tŕ trai, giữ giới.

          Đây là Sự Tiến Hoá về phương diện Tinh Thần.

          Xin nhớ rằng: Sự Tiến Hoá của một đứa trẻ là h́nh ảnh nhỏ bé của một Giống Dân. Cả hai đều theo một Luật chung là Sự Thay H́nh Đổi Dạng và Sự Phát Triển Tâm Thức càng ngày càng gia tăng.

          Nếu cứ theo Thiên Nhiên th́ Sự Tiến Hoá rất chậm, phải mất vài trăm triệu năm mới đi tới mục đích đă định sẵn.

          Có một phương pháp thúc giục Sự Tiến Hoá nầy là làm cho sự phát triển Tâm Thức mau lẹ trong một thời gian ngắn. Phương pháp đó gọi là Yoga.

          Nhưng tôi xin nhắc lại một lần nữa là: Coi theo Sách, hay là học với ông Thầy Phàm th́ rất nguy hiểm. Làm sái cách th́ điên khùng, hoặc bỏ mạng. Tôi đă biết nhiều trường hợp rồi.

 

     CÁC  TÔN  GIÁO  ĐỀU    DẠY    TIẾN  HOÁ

 

          Các Tôn Giáo lớn như: Ấn Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo đều có dạy về Sự Tiến Hoá; nhưng một cách bóng dáng, tượng trưng. Tôi xin trích mấy đoạn đó ra cho quí bạn xem.

 

ẤN  GIÁO

9  HOÁ  THÂN  CỦA  THƯỢNG  ĐẾ  VISHNOU

 

          Theo Kinh Sách Ấn Giáo th́ Thượng Đế Vishnou có 9 Hoá Thân:

          1- Hoá Thân thứ nhứt là Con Cá.

          2- Hoá Thân thứ nh́ là Con Rùa.

          3- Hoá Thân thứ ba là Con Heo Rừng.

          4- Hoá Thân thứ tư là Người Sư Tử.

          5- Hoá Thân thứ năm là Người Lùn.

          6- Hoá Thân thứ sáu là Người Khổng Lồ phá hoại.

          7- Hoá Thân thứ bảy là Rama.

          8- Hoá Thân thứ tám là Krishna.

          9- Hoá Thân thứ chín là Kalki.

          Đức Thượng Đế Vishnou đi đầu thai làm con cá ư?

          Không phải. Nên biết nhiệm vụ của 3 Ngôi:

          Ngôi Thứ Ba, Phạn Vương, Brahma biến đổi Hỗn Nguơn Nhứt Khí (Mulaprakriti) ra những Nguyên Tử, rồi phối hợp những Nguyên Tử nầy lại để lập 7 Cơi Trời.

          Ngôi Thứ Nh́, Vishnou sanh ra các Loài Vật và cho chúng nó Sự Sống.

          Ngôi Thứ Nhứt, Shiva cho Chơn Thần nhập thế. Chơn Thần biến đổi Hồn Thú ra Thượng Trí và sanh ra Chơn Nhơn.

          Trong bài nầy, Vishnou là Sự Sống hay là Chơn Thần; Đức Thượng Đế, trước th́ đầu thai làm các Loài Vật, sau mới lấy h́nh Con Người.

          9 kiếp nầy chia ra làm 3 giai đoạn:

 

GIAI  ĐOẠN  THỨ  NHỨT

 

          Làm Thú ở dưới nước như Cá.

          Kế đó làm Thú có lưỡng tánh, ở dưới nước được, ở trên bờ được là con Rùa.

          Cuối cùng làm Thú ở trên bờ là Heo rừng.

 

GIAI  ĐOẠN  THỨ  NH̀

 

          Hết kiếp Thú, đầu thai làm Người.

          Đầu tiên là Người Sư Tử, tức là làm Người nhưng c̣n giữ thú tánh rất hung hăng.

          Kế đó là Người Lùn, Người Lùn không phải là Người có tác thấp, mà là Người chưa đủ trí khôn, như đứa con nít.

          Người Khổng Lồ là Người dùng sức mạnh khuấy rối kẻ khác.

          Rama là Người Lư Tưởng. Ấy là một vị Vua Ấn Độ lập ra Ḍng Nhật Hoàng (Dynastie Solaire).

 

GIAI  ĐOẠN  THỨ  BA

NHỮNG  VỊ  SIÊU  PHÀM

 

          Krishna là Hoá Thân của Thượng Đế Vishnou, Sư Phụ của Arjuna 5.000 năm trước.

          Kalki[11] là Đấng Cứu Thế. Ngài sẽ cỡi Con Ngựa Trắng mà đến. Ngài đem hạnh phúc khi hết Đời Mạt Kiếp.

 

ĐỜI  MẠT  KIẾP    G̀ ?

 

          Theo Lịch Ấn, cũng gọi là Thời Gian Biểu hay là Niên Biểu, con người phải trải qua 4 Thời Đại: 4 Duga (4 Yougas).

          1- Krita Youga, cũng gọi là Satya Youga: Thời Đại Hoàng Kim được 1.728.000 năm.

          2- Treta Youga: Thời Đại Bạch Ngân được 1.296.000 năm.

          3- Dvapara Youga: Thời Đại Hoàng Đông được 864.000 năm.

          4- Kalki Youga: Thời Đại Sắt Thép. Ấy là Thời Đại Hắc Ám, Đen Tối, cũng gọi là Đời Mạt Kiếp, được 432.000 năm.

 

ĐỜI  MẠT  KIẾP

 

          Theo Thánh Kinh Ấn th́ hiện giờ Nhân Loại đang ở vào Thời Đại Mạt Kiếp.

          Chốn chốn sanh linh đồ thán, loạn ly, giặc giă, chiến tranh nổi lên khắp nơi, hạn hán, đói rét, cang thường đảo ngược, đạo đức suy đồi.

 

THỜI  ĐẠI  MẠT  KIẾP  KHỞI  SỰ  HỒI  NÀO ?

 

          Kinh Thánh nói rằng: 5.000 năm đầu của Thời Đại Mạt Kiếp chấm dứt năm 1897, cách đây 77 năm (1974). Thế th́ Đời Mạt Kiếp khởi sự năm 3.103 trước Tây Lịch Kỷ Nguyên, tới nay, 1974, đă được 5.077 năm rồi.

 

 

MỘT  ĐẠI  KIẾP

 

          Một Thời Đại (Youga) là một Tiểu Kiếp.

          Bốn Thời Đại (Yougas) nhập lại làm một Đại Kiếp (Maha Youga) được 4.320.000 năm.

 

NHIỀU  CHU  KỲ  NHỎ  CỦA  ĐỜI  MẠT  KIẾP

 

          Không phải trọn Thời Đại Mạt Kiếp đều xấu xa, đen tối. Nó chia ra nhiều Chu Kỳ nhỏ, cũng có cái tốt đẹp vậy. Tỷ như trong ṿng 6, 700 năm nữa Giống Dân Thứ Sáu sẽ ra đời. Giống Dân nầy mở Bồ Đề Tâm và tiến rất cao, hướng về Đường Tinh Thần, mặc dầu ở vào Đời Mạt Kiếp.

 

 

4  THỜI  ĐẠI  GIỐNG  NHƯ  4  MÙA

 

          Ta có thể so sánh 4 Thời Đại với 4 Mùa.

          Thời Đại Hoàng Kim giống như Mùa Xuân.

          Thời Đại Bạch Ngân giống như Mùa Hạ.

          Thời Đại Hoàng Đông giống như Mùa Thu.

          Thời Đại Sắt Thép, Hắc Ám giống như Mùa Đông lạnh lẽo.

          Tuy rét mướt, nhưng chúng ta phải mặc đồ ấm đi làm lụng, chớ không phải là tối ngày trùm mền măi. Như vậy ta sẽ chết đói.

          Bây giờ hăy thử nghĩ điều nầy:

          Ta đi trên chiếc ghe mà gặp gió ngược, nước ngược th́ phải chèo chóng mỏi mệt.

          Ví như ta đi trên chiếc tàu, hay là phi cơ th́ gió ngược, nước ngược không thành vấn đề.

          Cũng như trời tối, không lẽ ta ở thầm trong nhà.Ta phải đốt đèn.

          Thuở xưa dùng dầu cá, dầu phộng; bây giờ có đèn dầu lửa, đèn măng-sông (manchon), đèn điện. Biết đâu rồi đây ta sẽ dùng được một thứ ánh sáng êm dịu hơn đèn điện mà lại không nóng. Sự tiến hoá không biết đâu là bờ bến. Nó không có giới hạn.

          Nói cho đúng, mọi việc đều do tự nơi ta, đừng đổ thừa cho cái chi cả. Chúng ta là Chơn Thần, nếu chúng ta muốn th́ ở vào Thời Đại nào ta cũng tiến được. Nếu chờ tới Thời Đại Hoàng Kim mới Tu th́ chắc là cho tới ngày nay không có ai thành Chánh Quả. Không có Đức Phật Thích Ca, không có Đức Bồ Tát Di Lạc, không có các Đấng Đế Quân, các Vị Chơn Sư và các Đệ Tử.

 

TẠI  SAO  CHƠN  THẦN  PHẢI  ĐẦU  THAI  LÀM  THÚ  VẬT  TRƯỚC  KHI  LÀM  NGƯỜI ?

 

          Điều nầy không có chi lạ. Tới một ngày kia Chơn Thần sẽ thành một Vị Thượng Đế và sẽ sanh hoá một Thái Dương Hệ giống như Vũ Trụ nầy.

          V́ thế Chơn Thần phải đầu thai từ Loài nầy qua Loài kia và đi từ Bầu Hành Tinh nầy qua Bầu Hành Tinh khác để học hỏi và kinh nghiệm. Rồi tiến lên măi cho đến khi trọn sáng, trọn lành và khai mở toàn vẹn những quyền năng tiềm tàng trong ḿnh như Đức Thượng Đế. Tới chừng đó mới sanh hoá một Thái Dương Hệ.

          Thời gian nầy kéo dài có lẽ cả chục tỷ năm, chớ không phải nội trong vài chục kiếp mà Pháp Lực vô biên.

          Bây giờ xin nói qua Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo.

 

PHẬT  GIÁO

 

          Phật đă bảo: “Chúng sanh đều có Phật Tánh. Ta đă thành Phật, c̣n các ngươi sẽ thành Phật.”

          Ư Ngài muốn nói: “Các ngươi sẽ tiến hoá và sẽ thành Phật như ta vậy,” nhưng Ngài không nói trắng ra.

          Quyển Túc Sanh Truyện (Lalite Vistara hoặc Jataka Mala) có thuật 550 kiếp của Đức Thích Ca chia ra làm 3 giai đoạn:

          Giai đoạn thứ nhứt: Làm Thú Vật: Thú ở dưới nước như: Vua Cá, rồi Thú ở trên bờ như: Gà Trống, Chim Gơ Kiến, Ḅ U, Nai, Voi.

          Giai đoạn thứ nh́: Làm Người. Thoát kiếp Thú, đầu thai làm Người. Cũng phạm tội như chúng ta bây giờ, vẫn c̣n bị Thất T́nh Lục Dục sai khiến.

          Giai đoạn thứ ba: Vào hạng Siêu Phàm. Tu hành thành Chánh Quả, vào hạng Siêu Phàm. Từ Chơn Sư lên Đế Quân, Bồ Tát, đến thành Phật.

 

KINH  PHẬT  DẠY  LINH  HỒN  ĐI  ĐẦU  THAI  TỪ  LOÀI  NẦY  QUA  LOÀI  KIA

 

          Trong quyển Phạm Vơng Kinh (Mahavagga VI-29) có đoạn nầy:

          Linh Hồn đi đầu thai từ Loài nầy qua Loài kia, xuyên qua tất cả những h́nh dáng như: Đá Cát, Cây Cỏ, Cầm Thú và những Người tánh t́nh riêng biệt, cho tới khi lên đến Bậc Toàn Giác là Phật.

          (Phúc Âm của Đức Phật) (Évangile du Bouddha par Carus page 127).

 

THIÊN  CHÚA  GIÁO

 

          Thuở xưa, Đấng Christ và các Đệ Tử có dạy về Huyền Bí Học, nhưng đời sau người ta loại ra ngoài những Giáo Lư Cao Siêu mà họ không hiểu được.

          Ngày nay, trong quyển “Tân Ước” Công Truyền c̣n vài chỗ để chứng minh rằng: Con Người là Thượng Đế. Thí dụ như mấy câu sau đây:

          (Jesus đáp lại với họ rằng: “Trong Luật của các Ngươi lại đă chẳng viết như thế nầy sao?

          Ta bảo: Các Ngươi là những Tiểu Thượng Đế.”)

          (Jesus leur répondit: “N’est-il pas écrit dans votre loi?

          J’ai dit: Vous êtes des Dieux”)  Jean 10-34.

          Chữ Dieux nầy dịch là Thần, không đúng, phải dịch là Tiểu Thượng Đế mới đúng.

          Xin xem những câu sau nầy:

          1- “Các Anh không biết các Anh là Đền Thờ của Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh ở trong ḿnh các Anh sao?” (I- Cô-ranh-tô III-16) (I- Corinthiens III-16).

          2- “Chúng ta là Ḍng Giống của Đức Chúa Trời.” (Công Vụ các Sứ Đồ XVII-28) (Actes XVII-28).

          Con Đức Chúa Trời không phải là Tiểu Thượng Đế hay sao?

          Hơn nữa trong “Sáng Thế Kư” có câu nầy:

          “Chúng ta hăy làm Con Người giống H́nh Chúng Ta và in hệt Chúng Ta.” (Sáng Thế Kư I-26).

          (Puis Dieu dit: Faisons l’homme à notre image selon notre ressemblance.)  (Genèse I-26).  (La Sainte Bible A. Crampon).

          Nếu nói Con Người giống H́nh Đức Chúa Trời và in hệt Ngài, tức là Con Người là Tiểu Thượng Đế.

 

 

HỒI  GIÁO

 

          Trong quyển Mesnavi, Kinh Thánh của Hồi Giáo có hai đoạn nầy:

- I -

          Linh Hồn, trước nhất nhập Loài Kim Thạch, rồi sang Loài Thảo Mộc. Nó trải qua không biết bao nhiêu Thế Kỷ trong Loài Thảo Mộc, quên hẳn những sự chiến đấu của Nó trong Loài Kim Thạch.

          Khi Nó đầu thai làm Thú Vật, Nó không c̣n nhớ lúc Nó ở trong Loài Thảo Mộc.

          Đức Thượng Đế mà các anh đă biết, Ngài đem nó ra khỏi Loài Thú Vật, rồi cho nó đầu thai vào Loài Người cho đến khi Nó thành một Sinh Vật khôn ngoan. (Le Mesnavi – IV Jalal du Diu Roumi)

- II -

          Tôi ở trong Kim Thạch, thác rồi thành một cái Cây.

          Tôi ở trong cái Cây, thác rồi thành một con Thú.

          Tôi ở trong một con Thú, thác rồi thành một Người.

          Tại sao Tôi lại sợ? Sự chết có làm cho Tôi giảm sút chi đâu?

          Lần sau Tôi bỏ kiếp Người đặng mọc cánh như Thiên Thần.

          Và Tôi cũng t́m cách thoát ra khỏi Hạng Thiên Thần, bởi v́ cả thảy đều sẽ bị tiêu diệt, trừ ra Ngài.

          Tôi cũng sẽ bay đi cao hơn các vị Thiên Thần nữa. Tôi sẽ thành ra cái ǵ không thể tưởng tượng được.

          Tôi thành ra Hư Không và khúc nhạc trổi lên: “Thật sự, Chúng Ta sẽ trở về với Ngài.” (Le Mesnavi).

          Chắc chắn Tác Giả quyển “Mesnavi” có học Khoa Bí Truyền, song không tiết lộ ra.

          Đáng lẽ là dùng danh từ “Con Người” để chỉ nói “Tôi” để ít ai để ư tới, v́ đây là ư kiến riêng của Tác Giả.

          Hiểu được Cơ Tiến Hoá, Con Người mau hợp tác với Thiên Cơ[12] tức là học hỏi Luật Trời, rồi nương theo đó để tiến mau. Như thế, Con Người giúp cho Thiên Cơ được mau thực hiện.

          V́ vậy, hợp tác với Thiên Cơ và giúp cho Nó mau thực hiện là biến đổi Cơi Trần bé nhỏ ra Cảnh Thiên Đường Cực Lạc. Thiết tưởng ai ai lại không muốn điều đó và trên đời c̣n có cái chi tốt đẹp, vinh diệu hơn việc nầy chăng?

          Thế cho nên, v́ y đă hiểu, y sẽ thuận theo lẽ Trời, quyết tâm làm lành, lánh dữ, phục vụ cho sự tiến hoá, chớ không phải v́ ích kỷ.

          Chơn Sư lặp đi lặp lại cho Alcyone biết rằng: Sự Hiểu Biết và Sự Không Hiểu Biết rất quan trọng đối với đời sống của Con Người, bởi v́ lúc đó Alcyone c̣n nhỏ, chưa đủ trí khôn, chưa kinh nghiệm.

          Xin nhắc lại: Sự Hiểu Biết đây là Sự Hiểu Biết Cơ Trời, Hiểu Biết thật sự Con Người là ai? Có Bổn Phận nào cần phải thực hành tại Thế Gian và Tại Sao vậy?

          Không Hiểu Biết lẽ nầy, Đạo Đức gọi là c̣n Vô Minh.

          Người chí nguyện làm Đệ Tử phải lo Tự Biết Ḿnh trước, rồi luôn luôn phải triệt để làm những điều thiện, những điều đem hạnh phúc lại cho kẻ khác, tuỳ duyên, tuỳ phận, tuỳ trường hợp. Chẳng những anh không làm việc quấy, mà anh cần phản đối việc ác. Và trước nhất, anh phải diệt cái mầm của sự ác ở trong ḷng anh, tức là anh phải tự trị, tự điều khiển 3 Thể: Thân, Vía, Trí của anh, v́ chúng nó là nguồn cội của Tam Độc: Tham, Sân, Si gây ra muôn vàn tội lỗi và buộc trói Con Người vào bánh xe Luân Hồi từ kiếp nầy sang kiếp kia.

          Anh cũng phải khuyên kẻ khác tránh những việc ác và làm những điều thiện, đừng bao giờ làm cho kẻ khác đau khổ trong Thể Xác hay trong Tâm Hồn.

          Người chí nguyện phải “Vị Tha,” không được “Hết sức Ích Kỷ,” chỉ biết có những quyền lợi riêng tư của ḿnh mà thôi, chớ không lưu tâm tới sự đau buồn và những nhu cầu của kẻ khác.

          Trong câu nầy có hai chữ nổi bật lên mà độc giả phải chú ư, ấy là hai chữ “Quyết Tâm,” bởi v́ Vật Chất có quyền năng quyến rủ phi thường, nó đưa ra những lư lẽ mà người chưa kinh nghiệm phải chấp thuận và cho “Thật là đúng.” Nhưng chừng thực hành mới thấy ḿnh đă sa ngă và đă mắc vào cạm bẫy.

          V́ thế, muốn làm lành, ư chí phải cứng cỏi như sắt đá và lấy cái “Vĩnh viễn, trường tồn làm tiêu chuẩn,” chớ đừng dùng cái “Tạm thời,” dầu cho sự hành động đem lại cho chúng ta những quyền lợi to tát chăng nữa.

          Nói tóm lại, người Hiểu Biết Cơ Trời phải nắm nắm nớp nớp sợ từ Tư Tưởng, không dám buông lung như người thường, tha hồ muốn tưởng chi th́ tưởng, muốn nói chi th́ nói, muốn làm chi th́ làm. Trước mặt và trong ḷng, người chí nguyện chỉ thấy Sự Tiến Hoá của muôn loài vạn vật, mong mỏi cho ai nấy đều cải dữ, về lành để mau thành Đài Giác.

          Nếu giúp ích được về phương diện nào th́ thực hành ngay khi đó liền, chớ không chờ đợi sự cầu khẩn của kẻ khác. Dẹp Bản Ngă qua một bên; không mưu cầu hạnh phúc riêng tư cho ḿnh, trong khi cả muôn, cả triệu người khác c̣n vô minh, nên ch́m đắm nơi Bến Mê, Sông Khổ, đó là Bổn Phận của Người Chí Nguyện.

          Xin nhắc lại quí bạn rằng: Tất cả đều do theo Thói Quen. Hăy tập cho có thói quen tốt, như: Có thiện cảm, thương người, cứu giúp người tuỳ theo khả năng của ḿnh. Lần lần thói quen biến thành Tánh T́nh của ḿnh, sau đó ḿnh hành động dễ dàng. Trái lại, nếu nuôi dưỡng các tánh xấu th́ không thể tưởng tới điều tốt được. Mà dầu có nghĩ đến việc lành cũng không thể thực  hành, v́ ta bị thói quen xấu xa đè bẹp từ lâu. Hăy đề pḥng và cẩn thận từ chút, nếu không muốn hối hận về sau. Thật vậy, ra sức trừ khử thói hư tật xấu khó hơn gấp muôn lần việc một ḿnh xông ra nơi trận địa chiến đấu với quân địch.

          Nếu y thuận theo lẽ Trời là y hợp nhất với chúng ta, dù y tự cho y là người Ấn Giáo hay Phật Giáo, người Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo, dù y là người Ấn Độ hay người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không mảy may quan hệ.

          Đây là một tư tưởng mà thí sinh trên Đường Đạo phải ghi nhớ vào ḷng, không thực hành, chứng tỏ ḿnh c̣n rất xa Cửa Đạo.

          Tại ngưỡng Cửa Đạo, người ta không hỏi quí bạn giữ Đạo nào? Thờ phượng ai? Hay là người nước nào? Mà chỉ hỏi quí bạn có hội đủ những điều kiện do Luật Trời qui định không? Chỉ cần những Đức Tánh và những Cố Gắng mà thôi.

          Xin nhắc lại: Tên các Tôn Giáo là nhăn hiệu bề ngoài, những tín ngưỡng, những lễ bái, những sự thờ phượng không có chi là quan trọng. Chỉ có sự Hành Đạo mới đáng quí , v́ nó dắt con người tới Cửa Đạo.   

 

BA  PHÁP  MÔN

 

          Có 3 Pháp Môn cũng gọi là 3 Con Đường:

-         Con Đường Sùng Tín.

-         Con Đường Trí Tuệ.

-         Con Đường Hành Động.  

          Có người thích sùng bái, có người thích học hỏi, có người thích hành động, tuỳ theo căn cơ của mỗi người. Miễn thực hành đúng phép sẽ thành công.

          Giữ Đạo Phật hay giữ Đạo Thiên Chúa, đầu thai làm người da vàng hay là người da trắng không khác nào mang lớp áo màu sắc khác nhau; những người mặc áo là Linh Hồn, chỉ khác nhau sự tiến hoá cao hay thấp, chớ Bản Tánh Thiêng Liêng vẫn in nhau.

          V́ vậy, người thuận theo lẽ Trời là một phía với Tiên Thánh, v́ thế cần chi cái nhăn hiệu Tôn Giáo hay là sắc da.

          Những người nào thuận theo lẽ Trời biết tại sao ḿnh thuận theo như vậy và ḿnh phải làm ǵ, và họ sẽ cố gắng thi hành nó. C̣n những người khác không biết họ phải làm ǵ, và v́ thế họ thường hành động rồ dại.

          Thuận theo Luật Trời tức là Hành Đạo.[13] Một khi hiểu được Cơ Trời th́ biết bổn phận ḿnh phải làm điều chi và cố gắng thực hiện. Tôi xin nhấn mạnh về hai chữ cố gắng, bởi v́ biết bổn phận là một việc, c̣n thực hành bổn phận là một việc khác nữa.

          Chơn Nhơn muốn cho Phàm Nhơn thuận theo lẽ Trời, c̣n Phàm Nhơn lại thường nghe theo 3 Thể: Thân, Vía, Trí nên ương ngạnh, thường thường không tuân theo mạng lịnh của Chơn Nhơn ban ra.

          V́ vậy mới có những trường hợp gọi là bị Lương Tâm cắn rứt.

          Ông Thánh Phao Lồ (Saint Paul) có nói: “Tôi không làm những điều phải mà tôi muốn, tôi lại làm những điều quấy mà tôi không muốn.”

          Chúng ta hăy tự tỉnh, sẽ thấy những lời các vị Đạo Sư nói rất đúng. Phải rán sức, miễn là đừng nửa chừng bỏ cuộc th́ cuối cùng sẽ thành công.

          C̣n những người không biết Cơ Trời làm theo ư họ muốn. Có thể nói 99 % những việc làm của họ đều đượm màu ích kỷ.

          Thế nào là những chuyện làm ngông cuồng?  

          Những chuyện làm ngông cuồng là những chuyện làm trái với Luân Lư Đạo Đức.

          Từ trong gia đ́nh tới ngoài xă hội có không biết bao nhiêu những chuyện làm ngông cuồng: Lớn có, nhỏ có.

          Xin kể sơ lược vài thứ:

          Không có tiết độ là làm chuyện ngông cuồng; cờ bạc, rượu chè, đàng điếm, hút sách là những chuyện ngông cuồng; nóng nảy, giận hờn, đánh đập, chửi mắng, nguyền rủa là những chuyện ngông cuồng; bày mưu sâu, kế độc hăm hại người, hiếp đáp người, chiếm đoạt của thiên hạ, làm những chuyện kết bè với kẻ xấu, ác nghiệp, bất nhân thất đức là làm những chuyện ngông cuồng, v.v...; bởi v́ Nhân nào Quả nấy, gieo Nhân th́ gặt Quả.

          Mấy việc nầy, có thứ làm hao ṃn thân xác, gây ra bệnh hoạn, làm hại ṇi giống, hậu quả truyền tới mấy đời con cháu, thu hút tai hoạ tới cho ḿnh, không kiếp nầy th́ cũng kiếp sau, không phương nào tránh khỏi được.

          Những chuyện ngông cuồng lớn lao, hết sức khủng khiếp là những Chiến Tranh Chủ Nghĩa, những Chiến Tranh Tôn Giáo.

          Hai trận Thế Giới Đại Chiến: 1914 và 1939 khiến cho thây nằm chật đất, máu chảy thành sông, nhưng kết cuộc đem lại cái chi?

          Toàn là những sự đau khổ triền miên cho nhân loại, măi cho tới ngày nay, mấy chục năm trôi qua, vẫn chưa dứt.

          Ấy là một bài học đau thương cho những kẻ tham tàn nuôi ảo mộng tóm thâu thiên hạ.

          Ngày nay, người ta đă thấy sự tàn phá của Nguyên Tử Lực, mà vẫn nuôi cuồng vọng dùng bạo lực để chinh phục thế giới, chà đạp dân chúng dưới gót giày xâm lăng của bọn quân phiệt. Họ dựa vào sức mạnh của cơ khí, không biết rằng: Chỉ có Trời mới thật là mạnh, chỉ có Trời mới định đoạt được số phần của thiên hạ, chớ họ không có quyền năng sửa đổi được Cơ Tạo Hoá.

          Phái Duy Vật không tin có Trời, Phật, Thánh, Thần th́ đâu có sợ Luật Luân Hồi, Nhân Quả. Họ làm những chuyện Bội Thiên, Nghịch Địa. Quả thật, họ có thể thành công, họ có thể thắng trong một thời gian, tức là lúc ban đầu, nhưng chung cuộc cũng phải bó tay trước Định Luật. Họ sẽ bỏ mạng.

          Những kẻ háo hư danh, đầy tham vọng từ xưa đến nay như: Attila, Tần Thuỷ Hoàng, Napoléon, Hitler, v.v…, chọc Trời khuấy nước, khiến cho thiên hạ lầm than, cơ cực, bị muôn đời nguyền rủa, chớ không có ai thán phục và thờ phượng như các vị Giáo Chủ, những Đấng Cứu Thế.

          Tiếc thay! Những gương kim cổ ngông cuồng đó chưa đủ để thức tỉnh những người đang sống trong thế kỷ 20 nầy, gọi là Đời Văn Minh, nên họ c̣n toan gây hấn thống trị hoàn cầu.

          Những điều của họ toan tính có phải là những chuyện ngông cuồng không?

          Họ cố t́m những đường lối nào mà họ nghĩ rằng sẽ đem hạnh phúc cho chính họ chớ không biết rằng “Vạn vật đồng nhất thể,” và do đó chỉ có điều Trời muốn mới có thể thật sự đem lại hạnh phúc cho mọi người.

          Nói cho đúng lư, chúng ta đương lần ṃ trong đêm tăm tối. Khi thấy một tia sáng rọi vào th́ mừng rỡ chạy ra ngoài, nên chúng ta bị chạm bàn ghế, đụng vách phên, té lên, té xuống.

          Tia sáng, ấy là bóng hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều t́m bóng hạnh phúc như thế đó.

          Con người t́m kiếm những con đường mà họ tưởng là êm đềm, bằng phẳng, vui vẻ, nhưng không ngờ những đường của họ chọn lựa thường là những đường đầy dẫy chông gai, hầm hố, không khéo bước sẽ sụp té. Những sự hành động của con người thường trái ngược với Đạo Lư, v́ ít khi chịu suy nghĩ sâu xa.

          Ít ai biết rằng: Nhân loại là một khối duy nhất, những việc làm của một người có ảnh hưởng đến toàn thể. Phải là Bậc Siêu Phàm lên tới Cơi Niết Bàn mới thấy rơ Vạn Vật Nhất Thể.

          Ở Cơi Trần có được bao nhiêu người tin điều nầy là có thật. Nhưng lấy việc Trần mà nói: Ngay trước mắt chúng ta, đồng Quan Pháp, đồng Anh Kim hay đồng Mỹ Kim bị phá giá th́ làm xáo trộn nền kinh tế của tất cả các nước trên Hoàn Cầu, chớ không riêng ǵ ở Pháp, Anh hay Mỹ.

          Mới đây, sự thiếu hụt dầu hoả làm tê liệt kỹ nghệ của Thế Giới, nhiều cường quốc bị tổn thất nặng nề. Cả ngàn triệu người lâm vào cảnh khốn khổ: Lớp bị thất nghiệp, lớp bị thiếu hụt, lớp bị đói rét, v́ giá sinh hoạt tăng lên vùn vụt. Thiên hạ đều rên siếc thở than, chớ không phải chỉ có Do Thái chịu thiệt hại thôi.

          Bao nhiêu đây cũng đủ chứng minh sự sống của các Giống Dân đều liên kết mật thiết với nhau về sự suy sụp, cũng như về sự thịnh vượng chung.

 

VẠN  VẬT  NHẤT  THỂ

 

          Chúng ta chưa lên được Cơi Bồ Đề hay Cơi Niết Bàn th́ hăy tưởng tượng như vầy:

          Nhân loại không khác nào thân ḿnh con người. Mỗi người có nhiều tế bào trong thân ḿnh nhờ máu là sự sống nuôi dưỡng. Nếu lấy kim chích đầu ngón tay th́ khắp cả châu thân đều đau, chớ không phải riêng ǵ chỗ bị chích. Đây có nghĩa là: Tất cả Nhân Loại chỉ là Một Người.

          Trong quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” có câu nói về Vạn Vật Nhất Thể nơi qui tắc 5:

          “Hăy diệt mọi ư niệm chia rẽ.

          Đừng tưởng rằng con có thể sống riêng biệt với kẻ hung ác hay người điên khùng. Họ chính là con, mặc dù ở vào một tŕnh độ thấp kém hơn người bạn thân của con hay Sư Phụ con. Nhưng nếu con để trong tâm nảy nở ư nghĩ rằng con không liên đới với một vật nào hay một người nào, th́ do đó con sẽ tạo một Nghiệp Quả, nó trói buộc con vào vật đó hay người đó cho đến ngày nào Linh Hồn con nh́n nhận rằng nó không thể sống riêng biệt được nữa.

          Con hăy nhớ rằng: Tội lỗi và sự nhục nhă của nhân loại là tội lỗi và sự nhục nhă của con, bởi v́ con là một phần tử của nhân loại và Nghiệp Quả của con dệt chung với Đại Nghiệp Quả của nhân loại, không thể nào gỡ ra được.”

          Người học Đạo khá cao mới hiểu được ư nghĩa của câu nầy.

          Chơn Sư là những bậc Siêu Phàm, dùng được những quan năng mà người thường chưa biết. Các Ngài đă thấy nên nói một cách tuyệt đối, c̣n chúng ta ở trong ṿng Trần Tục mắt chưa mở sáng nên thường không tin và cũng không chấp nhận.

          Hăy xem 3 người kia:

          Một người đứng dưới đất nh́n ra đồng bằng.

          Một người nữa ở giữa triền núi ngó mông.

          Một người khác đứng trên chót núi quan sát cảnh vật.

          Lẽ tự nhiên là người ở trên chót núi thấy xa hơn người ở giữa triền, c̣n người ở giữa triền th́ thấy xa hơn người ở dưới đất.

          Vậy chỗ thấy của người nào cũng đúng cả, đúng theo vị trí của ḿnh. Những điều họ nói đều hữu lư, nhưng với lư cao, hoặc lư thấp, chớ không phải hoàn toàn vô lư. Vậy, căi cọ với nhau rất vô ích, vừa mất niềm hoà khí mà c̣n gây ra ác cảm. Muốn xét đoán, phải biết trường hợp của mỗi người và tŕnh độ hiểu biết của họ. Hăy kinh nghiệm đi rồi mới thấy lời Tiên Thánh sâu xa và hết sức đúng.

 

MUÔN  VẬT  MỘT  THỂ

 

          Nhân đọc quyển Hạ “Cổ Học Tinh Hoa” thấy bài thứ 124 “Muôn Vật Một Thể” của Trương Hoành Cừ tức là Trương Tải Tiên Sinh, một nhà Văn Sĩ trứ danh Đời Tống có những lời dạy đúng với chân lư. Vậy xin chép hai đoạn chót ra đây cho quí bạn xem.

          “Người ta với muôn vật cùng sinh ra ở trong Trời Đất, thế th́ cái ǵ có H́nh đều là Khí của Trời Đất, cái ǵ có Tính đều là Lư của Trời Đất. Vậy người với người là đồng loại, thời ta coi nhau như anh em ruột cả. Trong Vạn Vật, giống hữu tri, giống vô tri so với người tuy khác, song cũng tự Trời Đất sinh ra, th́ ta cũng coi như một bọn với ta cả.

          Phàm người trong Trời Đất đă là con Trời Đất hết, th́ vua, ta coi như người anh cả; đại thần, ta coi như người giúp anh cả; cụ già ta kính, là cốt quí bậc tôn trưởng ta; trẻ bé ta thương, là cốt yêu đàn con trẻ ta; bậc Thánh là anh em ta mà giống cha mẹ ta, bậc Hiền là anh em ta mà giỏi hơn ta; c̣n những người ốm đau, tàn tật, cô độc, goá bụa đều là anh em ta mà vất vả khổ sở, không biết nương tựa vào đâu vậy.”

(Trương Hoành Cừ)

          Tôi tin rằng: Nếu ai thực hành đúng như lời khuyên trên đây sẽ tiến mau và bước lần tới Cửa Đạo.

          Thiết tưởng cái chi Trời muốn th́ cái đó làm cho mỗi người đều được đẹp ḷng. Trời muốn cái chi?

          Trời muốn cho con người biết Bản Tánh Thiêng Liêng của ḿnh, thông hiểu Cơ Tiến Hoá, rèn luyện Tâm Tánh để mau trở nên trọn sáng, trọn lành. Trời muốn con người hưởng hoàn toàn hạnh phúc, nhưng v́ con người không tuân theo những lời dạy dỗ của các Vị Thánh Nhân, Hiền Triết, cho nên mới chuốc lấy những sự đau khổ vào ḿnh, v́ đă làm trái nghịch với Đạo Đức.

          Họ theo đuổi cái giả thay v́ cái thật. Ngày nào mà họ chưa biết phân biện hai điều trên th́ ngày đó họ chưa thuận theo lẽ Trời. Cho nên Hạnh Phân Biện là bước đầu tiên.

          Tuy nhiên, dù khi đă chọn lựa đi nữa, con vẫn phải nhớ rằng: Điều thật và điều giả có muôn h́nh vạn trạng, con vẫn phải chọn lựa giữa điều phải với điều quấy, điều quan trọng với điều không quan trọng, cái hữu ích với cái vô ích, điều chân thật với điều giả dối, điều ích kỷ với điều vô tư lợi.

          Chơn Sư nhấn mạnh về sự phân biện sự chân và sự giả.

          Xin nhắc lại: Cái mộng ảo đây là cái có thật, nhưng có cái tan đi trong chớp mắt, có cái c̣n thấy trong vài giờ, vài tháng, vài năm, chớ không phải là hoàn toàn không có.

          Trong câu nầy Chơn Sư nhắc lại mỗi bước, mỗi ngày, trong mọi việc phải phân biện luôn luôn. Thật ra ít có người suy nghĩ chín chắn. C̣n biết bao nhiêu điều ta chưa học hỏi, chưa kinh nghiệm, nếu ta hiu hiu tự đắc, tưởng ḿnh không lầm lạc, tới khi đụng đầu vào vách mới bật ngửa ra và thấy ḿnh c̣n khờ dại.

          Chúng ta hăy Tự Tỉnh, Tự Biết Ḿnh, Tự Khắc Kỷ th́ sẽ tiến mau. Chúng ta c̣n ở trong ṿng Trời Đất, bị Luật Luân Hồi , Nhân Quả chi phối vậy tại sao không lo học rành rẽ những Luật đó, và nương theo Chúng Nó để tiến tới mà lại hành động theo ư muốn sái quấy của ḿnh, bất chấp Luật Pháp và những sự đau khổ của kẻ khác. Như vậy sẽ lănh Quả ác. Nếu chưa thấy Quả tới liền nên hiểu: Có thứ Quả đến mau, có thứ Quả đến chậm, tuỳ theo bản tánh của sự hành động, nhưng sớm muộn ǵ nó cũng phải tới.

          Không phải dễ biết liền cái nào hữu ích nhiều, cái nào hữu ích ít, cái nào ích kỷ, cái nào vô tư lợi, bởi v́ mấy điều đó có nhiều mặt khác nhau và Cái Trí của chúng ta thật ra cũng chưa được sáng suốt lắm. Phải học hỏi cho rộng sâu, phải có nhiều kinh nghiệm, phải giữ chừng luôn luôn, phải cố gắng, phải cẩn thận từ trong tư tưởng, từ trong ư muốn, từ trong lời nói, từ trong việc làm để biết được bản tánh của chúng nó lành hay dữ, hầu tránh cái quấy. Được như vậy mới có thể ít lỗi lầm hơn trước.

          Quả thật trước khi làm việc chi đều phải suy nghĩ, kết quả sẽ rất mệt mỏi, khó nhọc và chậm chạp trong sự thực hành. Nhưng nên biết: Khi có thói quen th́ dễ phân biện mau lẹ. Chỉ cần ra công tập luyện lúc đầu thôi. Ta cứ lo mở ḷng Từ Bi, Bác Ái th́ ánh sáng của Trực Giác sẽ d́u dắt ta lần lần.

          Phải biết cách đổi tánh ích kỷ ra tánh vị tha.

          Thí dụ, trong sự ăn uống hằng ngày, ta hăy tự nói như vầy: “Cầu xin những thức ăn vô thân tôi và biến đổi ra khí lực để tôi dùng phụng sự nhân loại, làm những việc ích lợi cho kẻ khác, chớ không phải tôi mong mỏi được khoẻ mạnh để thoả thích những sự ham muốn ích kỷ và làm khổ cho đời.”

          Như vậy, ta diệt được sự ham muốn ích kỷ trong việc ăn uống. C̣n mấy việc khác cũng nên dùng phương pháp ấy. Ta chỉ sửa đổi mục đích của sự hành động cái dữ sẽ hoá ra cái hiền, cái xấu sẽ hoá ra cái tốt, thói ích kỷ sẽ biến thành tánh vị tha, ḷng Từ Bi, Bác Ái của ta sẽ mở rộng lần lần.

          Không khó khăn chi trong việc chọn lựa giữa điều phải và điều quấy, v́ những ai muốn theo Thầy đă nhất quyết làm lành với mọi giá.

          Người nào quyết theo Chơn Sư th́ nhất định làm lành, không khi nào làm ác, dầu cho việc đó đem lại cho ḿnh tiền muôn bạc vạn và quyền thế cao sang.

          Trong trường hợp nào cũng phải trung thành với lư tưởng cao siêu, không khi nào làm giảm giá trị của sự Thành Thật. Nếu không chân thật th́ rất c̣n xa Cửa Đạo và không hề gặp được Chơn Sư.

          Nhưng câu nầy không phải nói về Hạnh Kiểm mà thôi, nó cũng áp dụng vào việc thực hành nữa.

          Có người hỏi Đức Leadbeater: “Tôi muốn có Thần Nhăn, Thần Nhĩ, vậy tôi phải làm sao?” Luôn luôn Ngài trả lời: “Bước đầu tiên là phải làm cho thân thể nhẹ nhàng, phải chọn lựa những món ăn tinh khiết hạp với thể xác, tức là trường trai, kế đó là trau giồi Tâm Tánh cho thật tốt.

          Phải khắc kỷ từ trong tư tưởng, ư muốn cho tới lời nói và việc làm.

          Nói tóm lại là phải Thanh Khiết từ trong Tâm Hồn cho tới ngoài Thể Xác.”

          Hăy xem máy thu thanh: Cái máy tốt chừng nào th́ những bộ phận của nó càng mảnh mai chừng nấy.

          Nhưng con người luôn luôn muốn Bắt Cá Hai Tay: Vinh hoa,  phú quí cũng muốn; Thần Thông rộng lớn, phép tắc cao cường cũng muốn. Rơ ràng là túi tham không đáy.

          Lánh dữ cũng c̣n một nghĩa khác nữa là: Không nên chọn nghề nào phải sát hại thú vật và làm hại kẻ khác, như: Nghề hàng heo, nghề giết thú vật lấy da, lấy lông, nhất là lông chim con đặng làm những áo, những khăn choàng, hoặc buôn bán khí giới và buôn bán ma tuư.

          Những người nào c̣n ch́u theo sở thích của ḿnh là muốn theo Thế Tục “đúng mốt thời trang,” chớ không phải muốn theo Chơn Sư.

          Nhưng Con Người và Xác Phàm là hai cái khác nhau, và ư chí của Con Người không phải lúc nào cũng là ư muốn của Xác Thân. Khi Xác Thân của Con muốn điều chi, Con hăy ngừng lại và suy nghĩ xem có phải thật là Con muốn cái đó chăng?

          Chơn Sư dạy Alcyone phải phân biện Xác Thân và Con Người.

          Quả thật Con Người vốn là Linh Hồn ở trong Xác Thân. Xác Thân chỉ là một khí cụ để cho Con Người dùng tại Cơi Trần trong một thời gian sẽ phải bỏ nó. Đừng nói: “Con Người có Linh Hồn” mà phải nói: “Linh Hồn là Con Người” mới đúng sự thật.

          Nhưng luôn luôn Con Người cứ đinh ninh rằng: Xác Thân nầy là ḿnh, tất cả những tội lỗi đều do sự hiểu lầm nầy gây ra.

          Nếu mỗi người đều biết Xác Thân không khác nào một lớp áo của Con Người mặc để hoạt động, th́ chắc chắn Cơi Trần không có hỗn loạn như ngày nay, non nước đă thanh b́nh và dân chúng đều an cư lạc nghiệp.

          Cũng ít người biết Xác Thân có những sự ham muốn riêng tư trái nghịch với lẽ phải, nên Chơn Sư căn dặn Alcyone phải suy nghĩ kỹ lưỡng coi có phải thật là Alcyone muốn hay không hầu tránh những tai hại có thể xảy ra.

          Bởi v́ Con là Thượng Đế, và Con chỉ muốn điều nào Thượng Đế muốn mà thôi, nhưng Con phải đào sâu vào nội tâm để t́m ra Thượng Đế ở trong Con và lắng nghe lời Ngài nói, đó là lời nói của Con.

         

ĐI  SÂU  VÀO  NỘI  TÂM    NGHĨA  G̀ ?

 

          Đi sâu vào nội tâm tức là đi từ ngoài vô trong ḷng cho thật sâu. Nói một cách khác là Tham Thiền về Chơn Thần.

          Trong lúc Tham Thiền phải xem xét lần lượt 3 Thể: Thân, Vía, Trí rồi loại ra ngoài từ Thể nầy tới Thể kia.

          Trước nhất suy nghĩ về Xác Thân, xong rồi th́ nói: “Xác Thân không phải là Tôi.”

          Kế đó t́m hiểu Cái Vía. “Cái Vía cũng không phải là Tôi.”

          Rồi tới Cái Trí. “Cái Trí cũng không phải là Tôi.”

          “Tôi là Chơn Thần trường sanh bất tử. Tôi là chủ chúng nó. Chúng  nó là những khí cụ để cho tôi dùng trong một thời gian tại Cơi Trần mà thôi. Đúng ngày giờ th́ chúng nó sẽ tan ră. Chúng nó phải tuân theo mạng lịnh của tôi sai khiến.”

          Phải tham thiền như vậy nhiều năm mới mong nghe được “Tiếng Nói Vô Thinh,” tức là Tiếng Nói của Chơn Nhơn, đại diện cho Chơn Thần.

          Chơn Sư bảo Alcyone đi sâu vào nội tâm đặng t́m Đức Thượng Đế và nghe lời Ngài.

          Đức Thượng Đế đây là Chơn Thần, bởi v́ ngày sau Chơn Thần sẽ thành một Vị Thượng Đế.

 

CHƠN  THẦN    TRONG  M̀NH  TA

 

          Thật vậy, Chơn Thần ở trong ḿnh ta đúng như lời của ông Uddhalaka đă  nói khi ông dạy cho con biết rằng: Đâu đâu cũng có Tinh Thần của Thượng Đế.[14]

          Có bạn sẽ hỏi: Chơn Thần ở tại Cơi Đại Niết Bàn, làm sao ở trong ḿnh ta được?

          Đúng vậy, nhưng xin đừng quên 7 Cơi Trời ở trước mặt ta và trong ḿnh ta, bởi v́ các chất khí đều thâm nhập lẫn nhau,[15]  các Cơi đều xỏ rế với nhau. Thế nên trong ḿnh ta vẫn có đủ 7 Cơi Trời: Cơi Phàm Trần, Cơi Trung Giới, Cơi Thượng Giới, Cơi Bồ Đề, Cơi Niết Bàn, Cơi Đại Niết Bàn và Cơi Tối Đại Niết Bàn.

          Trái tim là khí cụ của sự sống trong con người, cho nên nó vẫn liên lạc với Phàm Nhơn, Chơn Nhơn và Chơn Thần nữa.

 

SỰ  CẤU  TẠO  7  THỂ  CỦA  CON  NGƯỜI  

         

          Nên biết rằng: Chẳng những 7 Cơi Trời ở trong ḿnh ta, mà 7 Thể của ta cũng cấu tạo bằng 5 chất khí làm ra 5 Cơi: Từ Cơi Niết Bàn cho tới Cơi Trần.

          Kể từ dưới lên như sau:

          1- Xác Thân (Corp Physique) cấu tạo bằng 3 chất khí thấp làm ra Cơi Trần gọi là chất đặc, chất lỏng và chất hơi.

          2- Cái Phách (Double ou Corp Éthérique) cấu tạo bằng 4 chất khí cao làm ra Cơi Trần gọi là 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần (Ether Physique).

          3- Cái Vía hay là Tinh Quang Thể cấu tạo bằng 7 chất Thanh Khí làm ra Cơi Trung Giới hay là Cơi Tinh Quang (Plan Astral).

          4- Hạ Trí (Corp Mental Inférieur) cấu tạo bằng 4 chất Thượng Thanh Khí thấp cũng gọi là chất Trí Tuệ (Matière Mentale) làm ra Cơi Thượng Giới hay là Cơi Trí Tuệ (Plan Mental). Ấy là chất thứ tư, chất thứ năm, chất thứ sáu và chất thứ bảy.

          5- Thượng Trí (Corp Mental Supérieur) hay là Nhân Thể (Corp Causal)[16] cấu tạo bằng 3 chất Trí Tuệ cao làm ra Cơi Trí Tuệ hay là Cơi Thượng Giới. Ấy là chất thứ nhất, thứ nh́ và thứ ba.

          6- Kim Thân hay là Thể Bồ Đề (Corp Bouddhique) cấu tạo bằng 7 chất Thái Thanh Khí hay là chất Bồ Đề làm ra Cơi Bồ Đề cũng gọi là Cơi Trực Giác (Plan Bouddhique).

          7- Tiên Thể hay là Thể của Atma (Corp Atmique) cấu tạo bằng 7 chất Âm Dương Khí (Matière Atmique) làm ra Cơi Niết Bàn (Plan Atmique ou Nirvana).

          Con Người cũng có 3 Ngôi như Thượng Đế, cho nên kinh sách Đạo Đức mới gọi Con Người là Tiểu Thiên Địa.

          Học rành rẽ 7 Thể và điều khiển chúng nó được th́ Con Người thành một Vị Siêu Phàm, là một với Thượng Đế.

          V́ vậy mới có câu nầy khắc trên ngưỡng cửa của Thánh Điện Delphes: “Ngươi hăy biết Ngươi rồi Ngươi sẽ biết Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế.”

          Nhưng muốn thấy rơ và hiểu rơ điều nầy cần phải mở Huệ Nhăn, v́ mắt phàm chỉ để xem những vật ở Cơi Trần mà thôi, và xin nhớ: Cơi nào, Thể nấy. Vấn đề rất khó, không thể giải làm sao cho người chưa biết Đạo hiểu được rành rẽ, v́ không thể quan niệm với trí óc cạn hẹp của chúng ta.

          Đừng lầm lộn các Thể của Con là chính Con, Thể Xác cũng như Thể Vía và Thể Trí của Con không phải là chính Con đâu. Trong ba Thể nầy, cái nào cũng tự xưng là Con để mong đạt được điều nó muốn. Nhưng Con phải biết rơ chúng nó và biết rằng: Con là chủ của chúng.

          Chơn Sư nhấn mạnh điều nầy để Alcyone nhớ.

          Ngài nói: Mỗi Thể như là một người riêng biệt, bởi v́ mỗi Thể đều có ư muốn riêng và hành động riêng, nó cũng có tánh nết, tốt, xấu, chẳng khác Con Người.

          Cho tới ngày nay và chắc chắn tới mai sau nữa, nếu Con Người không học Đạo th́ Con Người vẫn c̣n lầm lộn và chưa phân biện được cái nào thật là ư muốn của ḿnh, cái nào là ư muốn của Cái Vía hay Cái Trí.

          Chơn Sư dạy Alcyone biết tánh nết của 3 Thể để dùng phương pháp chữa trị, làm chủ chúng nó, và trở lại sai khiến lại chúng nó.

          Khi có việc phải làm th́ Thể Xác muốn nghỉ ngơi, muốn đi dạo chơi, muốn ăn uống; và người không sáng suốt sẽ tự bảo ḿnh: “Tôi muốn làm mấy việc nầy và tôi phải làm chúng.” Nhưng người hiểu biết sẽ bảo: “Điều này Thể Xác Tôi muốn chớ không phải là Tôi muốn, nó phải chờ.” Thường thường khi có dịp phải giúp đỡ ai th́ Thể Xác nghĩ rằng: “Việc đó làm cho tôi bực ḿnh quá; thôi, để người khác làm.” Nhưng Con Người sẽ trả lời với Thể Xác rằng: “Ngươi không được cản Ta làm việc phải.”

          Đoạn nầy tả tánh nết của Xác Thân. Trước nhất là tánh biếng nhác, không chịu làm bổn phận. Nó muốn tự do, thong thả, không bị câu thúc, ràng buộc. Nó muốn cái ǵ đẹp mắt, cái ǵ vui tai, cái ǵ ngon miệng, v.v… Quí bạn suy nghĩ sẽ biết, không lẽ nói trắng ra, đừng gọi là nhu cầu của xác thịt mà ch́u theo nó.

          Phải tập nó có tánh siêng năng hầu giúp đỡ kẻ khác và không bê trễ trong những công việc hằng ngày.

          Phải bắt buộc nó tuân theo mạng lịnh của ḿnh, phải làm những điều ḿnh muốn và hạp  với chánh lư.

          Phải bảo nó làm cái nầy, cái kia tập có thói quen làm những điều lành, điều phải. Nó có thói quen tốt, sau nầy mới điều khiển nó dễ dàng, thí dụ như việc công phu mỗi ngày, như: Tụng kinh, gơ mơ, đánh chuông, thắp nhang đúng giờ khắc, v.v…

          Chúng ta đừng quên điều nầy: Nếu chúng ta không giúp ai th́ chắc chắn không ai giúp chúng ta. Ấy là Luật Nhân Quả. Phải t́m dịp giúp người, chẳng những t́m dịp mà phải tạo ra cơ hội nữa. Phải có sáng kiến làm những việc phước thiện.

          Thí dụ: Có một ḍng nước nhỏ ngăn cách hai con đường. Hành khách muốn sang bờ bên kia phải dùng xuồng. Vậy ta hăy kêu gọi những Nhà Hảo Tâm chung đậu một số tiền làm một cái cầu bắt ngang qua ḍng nước. Nhờ vậy xe cộ và người bộ hành qua lại rất tiện lợi.

          Một xóm kia, dân chúng đông đúc nhưng trẻ con không có Trường Học, ta hăy xin Chính Quyền mở những lớp dạy chúng nó.

          C̣n thiếu chi việc khác, nhất là ở các Công Sở, mỗi ngày đều có nhiều dịp giúp người.

          Nếu ta gặp một người đui mù cầm gậy ḍ đường th́ chớ ngần ngại dắt y tránh những cây cối và xe cộ. Hăy t́m mua thuốc men cho người cô đơn đang đau, hăy an ủi người buồn rầu, nếu ta làm được việc đó.

          Nếu có đủ phương tiện mà không thực hành những điều nhỏ mọn như thế th́ ta chưa làm chủ được xác thân và tánh t́nh ta; nếu như vậy câu chuyện xả thân độ đời rất c̣n xa xôi đối với ta.

          Chơn Sư có nói với một vị Đệ Tử của Ngài như vầy: “Giờ phút nào mà con không lo giúp đời giờ phút đó đối với Ta đă mất rồi.”

          Thể Xác là con thú của con, là con ngựa để con cỡi. Vậy con phải đối đăi với nó tử tế và săn sóc nó cho kỹ; đừng bắt nó làm việc quá sức, phải nuôi nó đàng hoàng bằng thức ăn và thức uống tinh khiết mà thôi, và luôn luôn giữ nó thật sạch sẽ, không một mảy may dơ bẩn. V́ nếu không có một thể xác hoàn toàn tinh khiết và mạnh khoẻ, con sẽ không kham nổi công việc tập luyện khó nhọc, không thể chịu đựng được sự cố gắng không ngừng. Nhưng luôn luôn con phải kiểm soát xác thân của con, chớ không phải nó sai khiến con.

          Ta có một con ngựa, muốn cỡi nó đi xa ta phải nuôi dưỡng nó tử tế. Mỗi ngày cho nó ăn uống no đủ và săn sóc nó kỹ lưỡng. Như thế, nó mới có sức mạnh để cho ta đi ngoài trăm dặm trên con đường hành hương dài thăm thẳm.

          Xác thân ta đâu khác con ngựa ta cỡi, ta phải nuôi nó cho đúng phép vệ sinh và cho nó dùng những đồ ăn tinh khiết.

 

NHỮNG  THỰC  PHẨM  TINH  KHIẾT

 

          Ở đây Chơn Sư dùng hai chữ “Tinh Khiết,” chớ không nói là “Bổ Dưỡng.”

          Thịt cá bổ dưỡng, song người học Đạo không nên dùng, bởi v́ nó chứa những chất độc gọi là Purines, nó c̣n dẫn đường cho nhiều chứng bệnh hiểm nghèo như: Ung thư, đau ruột, kiết lỵ, dịch tả. Một lẽ khác là máu huyết, xương thịt thú vật đều chứa đựng từ điển và tánh nết của nó. Vô thân chúng ta máu huyết, xương thịt và từ điển thú vật biến thành máu huyết, xương thịt và từ điển của chúng ta.[17] Tánh nết chúng nó sẽ nhiễm tánh nết chúng ta. V́ thế, thân thể chúng ta không được tinh khiết, mặc dầu thịt là món ăn bổ dưỡng thật.

 

THỰC  PHẨM   NÀO  TINH  KHIẾT ?

 

          Chỉ có các thứ trái cây, sữa thảo mộc[18] và các thứ rau thường dùng thuộc về loại thực phẩm tinh khiết. Tuy nhiên, nên biết rau trái cũng như các thứ thuốc, có người hạp với thứ nầy, có người hạp với thứ kia.

          Phải ra công học hỏi xác thân, coi món nào hạp với nó và loại ra những món nó không ưa thích.

          Điều hay hơn hết là phải ăn gạo lứt và muối đen[19] mới đúng phép. Đừng ăn thường gạo trắng quá, mất hết cám là chất bổ dưỡng nhất mà có ngày phải mang bệnh Thũng.

 

MỘT  CÁCH  NẤU  GẠO  LỨT  RẤT  DỄ

 

          Nấu như thường, nhưng khi cơm sôi lấy đũa bếp quậy cho đều. Phải chịu khó quậy nhiều lần. Chừng cơm chín, hột gạo thật mềm, ăn rất ngon. [20]

 

PHẢI  ĂN  CHAY

 

          Xét về bộ tiêu hoá, nhất là hàm răng và ruột th́ con người thuộc về loài thú ăn cỏ như trâu ḅ, chớ không phải thú ăn thịt như: Cọp, beo, chồn, sói.

          Muốn giữ đúng Phép Vệ Sinh phải Ăn Chay. Nhưng có một điều nên tránh là:

          Người ăn mặn chớ nên nhạo báng người ăn chay là khờ dại.

          Và người ăn chay cũng đừng tưởng rằng ḿnh tinh khiết và cao hơn người ăn mặn.

          Ai ăn được cái chi th́ cứ ăn, miễn lo trau giồi Tâm Tánh cho thật tốt là điều hay hơn hết. Ngày sau sẽ chọn lựa được thực phẩm thích nghi.

 

CHAY  L̉NG    CHAY  MIỆNG

 

          Có người bảo: Chay ḷng hơn chay miệng. Lời nầy rất đúng, bởi v́ có người chay ḷng mà không chay miệng, có người chay miệng mà không chay ḷng. Nếu chay miệng mà tánh t́nh c̣n xấu xa, hung bạo, ích kỷ,[21] tật đố, không biết thương xót người nghèo khó, bệnh tật th́ c̣n thua xa những người ăn mặn mà ḷng dạ rất nhân từ, chân chánh, thành thật. Luôn luôn chay miệng và chay ḷng phải đi đôi với nhau, hiệu quả mới hoàn toàn tốt đẹp.

          Quả thật ăn chay[22] rất khó và phải biết cách ăn. Khó là tại cả ngàn đời Tổ Tiên ta dùng thịt cá, khi sanh ta ra nuôi ta với thịt cá, cho nên trong ḿnh ta máu huyết đă nhiễm mùi thịt cá. Hơn nữa, trừ ra vài trường hợp đặc biệt tất cả nhân loại đều dùng thịt cá. Thế nên không phải dễ đang ăn mặn mà bỏ đi, ăn chay liền, trừ ra những người có sẵn căn lành nhiều kiếp trước.

          Không biết cách ăn có thể sẽ yếu đuối, phát đau rồi thôi chay, ăn mặn lại như trước.

          Ư chí phải cứng cỏi, phải cương quyết trường chay và tập lần lần như:

          Một năm đầu: Sớm mai mặn, chiều chay.

          Năm sau: 6 tháng đầu: 15 ngày chay, nửa ngày mặn.

                             6 tháng sau: 2 tháng chay, nửa ngày mặn.

          Qua năm thứ ba: Trường chay được.

          C̣n vài cách khác nữa. Tuỳ tiện.

 

SỰ  ÍCH  LỢI  CỦA  THỰC  PHẨM  TINH  KHIẾT

         

          Ta nên biết: Trong Trời Đất vật nào cũng rung động và do sự rung động mà thành h́nh. Hai thứ rung động đồng một bậc với nhau th́ thu hút nhau.

          Thân thể dùng thịt cá có một cách rung động chậm chạp và thu hút những Thần Lực thấp thỏi hạp với nó.

          Người trường chay máu huyết trong sạch, cho nên có một cách rung động mau lẹ, thu hút được những Thần Lực thanh cao, đồng bản tánh với nó. Thân thể lần lần trở nên nhẹ nhàng.

          Đây là nói về phương diện Huyền Bí, nhưng cũng nên biết phải trường chay từ 21 năm sắp lên mới thấy hiệu quả tốt. Tại sao thế ?

          Bởi v́ mỗi kỳ 7 năm, da thịt và xương cốt ta thay đổi trọn vẹn một lần. Phải 14 năm trường chay tế bào mới bắt đầu đổi ra hoàn toàn mới.

 

PHẢI    TIẾT  ĐỘ

 

          Phải có điều độ trong việc ăn uống. Không nên ép xác, không nên ăn ít quá mà cũng không nên ăn quá sức chịu đựng của dạ dày.

          Bất cứ việc nào cũng vậy, đi quá mức trung b́nh sẽ có hại. Theo đúng nguyên tắc: Đói mới ăn, khát mới uống. Không đói đừng ăn, không khát đừng uống.

 

KHÔNG  NÊN  HÚT  THUỐC    UỐNG  RƯỢU

 

          Đừng Hút Thuốc và phải tránh xa các thứ Ma Tuư, chúng làm hại Xác Thân, Cái Phách và Cái Vía.

          Rượu, dưới h́nh thức nào cũng đừng uống. Nó làm hại các tế bào trong óc, các dây thần kinh, dạ dày, gan ruột, phổi. Đáng sợ hơn hết là rượu làm hại hai Cục Hạch quí nhất ở trong óc. Ấy là Hạch Mũi (Glande Pituitaire) và Hạch Óc (Glande Pinéale).

          Khi sưng Hạch Mũi, con người mắt mở trao tráo mà không thấy đường.

          Hư Hạch Óc th́ không chuyển di tư tưởng được.

          Phải biết mới sợ và nhất là phải Tiết Dục, sự giao hợp vô độ hại xác thân thác sớm và bạc nhược.

         

XÁC  THÂN    THỂ  RẤT  KHÓ  ĐIỀU  KHIỂN

 

          Trong 7 Thể của con người Xác Thân là Thể được cấu tạo hoàn toàn nhất.

          Nhưng các Nhà Huyền Bí Học đều nói rằng: Nó rất khó điều khiển, v́ một mặt phải làm cho nó nhạy cảm, một mặt nó phải lănh đạm với những điều thấp hèn. Hai việc nầy dường như trái ngược nhau. Phải bền chí và cố gắng mới thành công.

          Thể Vía[23] có sự ham muốn riêng của nó, cả hàng chục thứ, nó muốn con giận hờn, muốn con nói những tiếng nặng nề, muốn con ganh tị, tham lam tiền bạc, mong đoạt của thiên hạ, làm con thối chí ngă ḷng. Nó muốn tất cả những điều đó, và c̣n nhiều điều khác nữa, không phải v́ nó muốn hại con, mà v́ nó thích những rung động mạnh bạo và thay đổi chúng luôn luôn. Nhưng trong mấy điều trên con không thích điều nào cả, và v́ vậy con phải phân biệt giữa ư muốn của con với ư muốn của Thể Vía con.

          Đoạn nầy kể ra tánh nết không được tốt của Cái Vía.

          Thiết tưởng chúng ta nên t́m hiểu tại sao Cái Vía có mấy tánh đó.

          Có thể nói rằng: Cái Vía không có ư hại Con Người, nó không biết Con Người là ai.

          Cái Vía hay là Tinh Quang Thể làm bằng Chất Thanh Khí pha trộn với Tinh Chất Thứ Ba (3è Essence Élémentale) là Tinh Chất Dục Vọng (Élémental du Désir). Tinh Chất nầy ưa những sự rung động dữ dội là v́ ngày sau nó đầu thai vào Hàng Kim Thạch, thân ḿnh cứng rắn. V́ vậy nó ưa thích những sự rung động thô bạo.

 

TIẾNG  NÓI  CỦA  CÁI  VÍA    CÁI  TRÍ

         

          Cái Vía có tiếng nói ư ? Vừa nghe qua thật là kỳ dị, nhưng quí bạn hăy thí nghiệm điều nầy:

          Quí bạn hăy ngồi yên, đừng suy nghĩ hay tưởng nhớ ǵ cả trong hai phút thôi. Thời gian nầy chưa trôi qua quí bạn đă nghe trong ḷng có tiếng nhắc nhở quí bạn muốn cái nầy, cái kia, nhớ những chuyện qua rồi hay lo những việc sẽ tới.

          Tiếng nói đó không phải là tiếng nói của quí bạn, bởi v́ quí bạn không tưởng nghĩ cái chi cả. Tiếng nói đó cũng không phải là tiếng nói của Lương Tâm, bởi v́ quí bạn có làm cái chi sái quấy để bị Lương Tâm quở trách.

          Tiếng nói đó là tiếng nói của Cái Vía hay là của Cái Trí, tuỳ theo trường hợp.

          Có kinh nghiệm như vậy mới thấy mấy Thể khác với Con Người.

 

TẠI  SAO  CON  NGƯỜI  ĐỒNG  HOÁ  VỚI  CÁI  VÍA ?

 

          Cái Vía là một Thể, nó có sự ham muốn của nó. Nó cũng quỉ quyệt. Đứng riêng rẽ một ḿnh, nó không làm ǵ được. Nó không đáng sợ. Nhưng nó biết rằng: Nếu cấu kết được với Cái Trí th́ sự ham muốn của nó sẽ được thoả thích và tăng cường thêm.

          V́ vậy, nó thuyết phục Cái Trí, cả hai Thể nầy xúi giục Con Người thực hành những điều chúng nó muốn.

          Nếu Con Người chưa phân biện được điều nào thật là ư muốn của ḿnh, điều nào là ư muốn của Cái Vía hay là của Cái Trí th́ sẽ làm theo lời chúng nó xúi biểu. Con Người tưởng rằng điều đó do ḿnh muốn nên liền thực hành.

          V́ vậy nên có chuyện bị Lương Tâm[24] quở trách và có sự ăn năn, hối hận.

          Xin hiểu ở đây Con Người là Phàm Nhơn, chớ chưa phải là Chơn Nhơn hay là Linh Hồn, nhưng cần dùng danh từ Con Người để dễ hiểu.

 

TÁNH  CON  NGƯỜI

 

          Tánh Con Người là ǵ?

          Ấy là thói quen rung động hay là tánh nết của 3 Thể: Thân, Vía, Trí chớ không có chi lạ.

          Người nầy nói: Tánh tôi hay nóng.

          Người kia lại bảo: Tánh tôi hay buồn.

          Nói như thế các bạn đó đồng hoá ḿnh với cái tánh của ḿnh.

          Nóng nảy, giận hờn, buồn bực là những cách rung động khác nhau của Cái Vía. Mấy tánh không tốt đó làm hại cơ thể Con Người rất nhiều như: Tim, phổi, gan, thận, nhưng ít ai ngờ điều đó.

          Hăy nh́n người nóng giận có khi đỏ mặt, có khi xanh mặt, tuỳ theo hạng người. Sự hổ thẹn hay sợ sệt cũng vậy, làm cho trái tim hồi hộp. Sợ quá trái tim ngừng đập th́ chết liền, nhưng mừng quá cũng phương hại như vậy.

 

CÁCH  TINH  LUYỆN  CÁI  VÍA

 

          Muốn tinh luyện Cái Vía phải tập luyện những tánh tốt, nhưng nên nhớ: Phải bền chí và biết phương pháp.

          Nếu không thành tâm th́ đến trọn đời cũng không tập được một tánh tốt và diệt trừ được một tật xấu. Thật đúng là:

Giang sơn dễ đổi.

  Tánh nết khó thay.

          Xin nhắc lại: Nền tảng của Đạo là Đức. Không có Đức không học được Chánh Đạo. Chơn Sư chỉ thâu nhận làm Đệ Tử những sinh viên hạnh kiểm tốt và lo mưu cầu hạnh phúc cho quần sanh. Dầu cho có tài kêu mưa hú gió, chỉ đá hoá vàng mà không hội đủ những điều kiện do Luật Trời qui định th́ không thể nào bước vào Cửa Đạo được.

          Tôi xin đưa ra 12 đức tánh sau đây[25] làm kiểu mẫu. Quí bạn có thể sửa đổi tuỳ theo sở thích của quí bạn, nhưng đức tánh đầu tiên Từ Bi Bác Ái phải tập trước nhất. Bởi v́ không có ḷng Từ Bi Bác Ái th́ mấy tánh kia dù có đi nữa, chúng cũng giống như nước đổ trên cát bị rút đi mất hết.

          12 đức tánh đó là:

          1- Từ Bi Bác Ái. 2- Bố Thí. 3- Chân Thật. 4- Kiên Nhẫn. 5- Khoan Dung. 6- Khôn Khéo. 7- Thăng Bằng. 8- Thanh Khiết. 9- Tự Tín. 10- Can Đảm. 11- Hy Sinh. 12- Phụng Sự.

          Mỗi tháng tập một đức tánh, trọn năm được 12 đức tánh. Qua năm sau tập lại như năm trước. Khởi sự tháng nào cũng được, không cần đợi tới Tháng Giêng mới tập đức tánh thứ nhất.

          Tập được từ 12 năm trở lên mà không gián đoạn sẽ hoàn toàn đổi mới và trở thành một vị Thiện Nhân. Tâm Trí càng ngày càng thêm sáng suốt và mở rộng hơn trước. Từ đó trọn đời, mỗi ngày cứ tưởng đến đức tánh phải tập.

          12 đức tánh nầy biến thành những tánh t́nh của ta. Kiếp sau, khi tái sanh, ta có sẵn những mầm của 12 đức tánh trong ḷng, người ta gọi là Thiên Phú.

          Thiên Phú không phải là Trời cho như nhiều người lầm tưởng, nhưng chúng nó do sự luyện tập của Con Người từ kiếp trước.

          V́ thế cho nên ta thấy tánh nết của đứa trẻ nầy khác hơn tánh nết của đứa trẻ kia, nhưng nói một cách tổng quát: Tánh tốt th́ ít mà tánh xấu lại nhiều.

 

PHƯƠNG  PHÁP  LUYỆN  TẬP

 

          Mỗi sớm mai khi thức dậy, rửa mặt mày xong xuôi th́ ngồi lại trên ghế hay trên ván cũng được, và suy nghĩ như vầy:

          Thí dụ: Sao là Từ Bi Bác Ái?

          Tại sao phải có ḷng Từ Bi Bác Ái?

          Tôi phải làm cách nào để giúp đỡ những người đau ốm, bệnh hoạn, tật nguyền, đói rét, cô đơn, già yếu, những người thất nghiệp, dốt nát, khờ dại, những trẻ côi cút không ai đoái hoài, v.v…

          Rồi tự ḿnh t́m giải đáp mấy câu hỏi nầy.

          Mấy tánh kia cũng tập như vậy.

 

THỰC  HÀNH

 

          Suy nghĩ đến tánh tốt chưa đủ, phải đem nó ra thực hành khi có cơ hội đưa đến.

          Mỗi ngày, thiết tưởng không thiếu chi cơ hội mở rộng ḷng nhân, chẳng hạn trong lúc ta làm việc tại Công Sở, Tư Sở hoặc là khi đi đường.

          Càng có kinh nghiệm th́ càng giúp ích được nhiều và càng trở nên khôn khéo hơn trước. Như trước đây tôi đă nói: Chỉ có thói quen. Phải tập cho có thói quen làm những việc cao quí, tốt đẹp, ngày sau sẽ hành động dễ dàng, và không ngần ngại.

 

SỰ  CẢM  XÚC    TRONG  CÁI  VÍA  CHỚ  KHÔNG  PHẢI    TRONG  XÁC  THÂN

 

          Mấy lời nầy làm ngạc nhiên những bạn chưa học Đạo, vậy tôi xin đem những thí nghiệm của ông Hector Durville để chứng minh.

 

NHỮNG  THÍ  NGHIỆM  CỦA  ÔNG  HECTOR  DURVILLE  VỀ  NGŨ  QUAN

 

          Trong quyển “Cái Vía” và quyển “Đạo Lư Thực Hành” tôi có thuật những thí nghiệm của ông Hector Durville về ngũ quan. Ở đây tôi xin tóm tắt câu chuyện.

 

1- VỀ  XÚC  GIÁC  (SỰ  ĐỘNG  DẠNG)

 

          Ông Hector Durville thâu thần Đồng Tử rồi cho Cái Vía của y xuất ra khỏi Xác và ngồi trên cái ghế cách xa đó từ 1 tới 3 thước.

          Ông làm một cái H́nh Nhân bằng sáp để trong Cái Vía. Chất Thanh Khí làm thành Cái Vía dính vào châu thân H́nh Nhân một ít.

          Đoạn ông dùng kim châm Đồng Tử, người Đồng Tử không nghe đau. Trái lại, chích H́nh Nhân chỗ nào th́ trong ḿnh Đồng Tử đau chỗ đó.

          Có một lần, Viên Thư Kư của ông Hector Durville bỏ H́nh Nhân vô túi định đem về nhà để học. Anh nầy để H́nh Nhân ở ngoài cửa sổ và quên đi. Lúc đó, nhằm tiết Trời Đông lạnh lẽo vô cùng. Đồng Tử đang ở trong nhà bỗng phát lạnh run, cứ đắp mền và uống rượu mạnh cũng không ấm. Trọn 5 ngày Đồng Tử nằm liệt trên giường. Qua ngày thứ 6 anh bớt lạnh bèn lại hỏi ông Hector Durville. Viên Thư Kư sực nhớ anh bỏ quên H́nh Nhân ở ngoài cửa sổ. Ông Hector Durville hối anh chạy về nhà lấy. Khi anh đem H́nh Nhân lại, Đồng Tử để H́nh Nhân trên ngực trong 10 phút, thân ḿnh anh ấm áp lại như cũ, v́ Cái Vía của anh rút hết chất Thanh Khí đă dính trong H́nh Nhân.

 

2- THỊ  GIÁC  (SỰ  THẤY)

 

          Thí nghiệm cuối tháng 10/1907 từ 5 giờ tới 6 giờ trong tối.

          Cô Đồng Edmee xuất Vía ngồi trên ghế cách cái Xác lối 3 thước.

          Lần thứ nhất ông Gaston Durville đưa sau ót Cái Vía của Cô Đồng một cái đồng hồ.

          Cô Đồng nói: “Tôi thấy một vật trắng và tṛn, nó chạy như một cái máy, nó làm ra tiếng. Ấy là tiếng tíc tắc của một cái đồng hồ lớn.”

          Lần thứ nh́ ông đưa sau ót Cái Vía Cô Đồng một cái bao thơ dán kín.

          Cô Đồng nói: “Tôi thấy hai vật tṛn như đồng xu.”

          Hỏi: Có phải là tiền không?

          Đáp: Phải.

          Hỏi: Màu ǵ?

          Đáp: Màu vàng, nhưng không phải, ấy là màu vàng đỏ.

          Hỏi: Có phải là đồng xu không?

          Đáp: Không, ấy là vàng.

          Hỏi: C̣n ǵ nữa?

          Đáp: C̣n bạc, ấy là những giấy bạc.

          Măn cuộc, người ta mở bao thơ ra trước mặt những người chứng. Người ta thấy hai tấm giấy bạc và hai đồng 20 quan bằng vàng.

 

3- THÍNH  GIÁC  (SỰ  NGHE)

 

          Cô Đồng Marthe xuất Vía ra ngồi trên ghế dựa cách cái Xác lối một thước.

          Người ta để cái đồng hồ phía lỗ tai trái, rồi phía trên bụng, và dưới chân Cái Vía Cô Đồng. Cô Đồng nghe rơ tiếng tíc tắc của đồng hồ chạy.

          Đem đồng hồ kê vào lỗ tai phía sau ót, phía trên bụng và dưới chân của cái Xác th́ Cô Đồng không nghe ǵ hết.

 

4- KHỨU  GIÁC  (SỰ  NGỬI)

 

          Cô Đồng Edmée xuất Vía.

          Bác Sĩ Pau de Saint Martin kê vào lỗ mũi của Xác Cô Đồng ve Nước Đái Quỉ (Ammoniaque) gần một phút đồng hồ mà Cô Đồng không có cảm giác chi cả. Bác Sĩ liền kê ve Nước Đái Quỉ vào lỗ mũi Cái Vía th́ Cô Đồng lấy tay bịt mũi và nói: “Nó hôi quá!”

          Bác Sĩ bèn cho Cái Vía Cô Đồng ngửi Dầu Chanh (Bergamote), Cô Đồng nói: “Mùi nầy thơm.”

          Ông bèn kê ve Dầu Chanh vô lỗ mũi cái Xác Cô Đồng không biết  mùi ǵ cả. Bác Sĩ nói: “Tôi cho Cô ngửi Dầu Thơm,” nhưng Cô Đồng trả lời: “Tôi không ngửi mùi ǵ cả.”

          Lần thứ nh́ thí nghiệm với Cái Vía của Cô Léontine.

          Lần thứ ba thí nghiệm với Bà Vix.

          Trong hai lần nầy, cũng là Cái Vía biết mùi, c̣n Cái Xác không biết mùi ǵ hết.

 

5- VỊ  GIÁC  (SỰ  NẾM)

 

          Ngày thí nghiệm: 12 December 1907.

          Đồng Tử xuất Vía là Cô Leontine.

          Ông Hector Durville để trong tay Cái Xác Cô Đồng một miếng Lư Hội (Aloès) bảo Cô đút vô miệng nhai rồi cho ông biết nó ngon không? Cô Đồng Leontine nhai rồi nói: “Không có mùi vị chi hết.”

          Ông bèn lấy một vị thuốc đắng tên Quassia. Ông bảo Cái Vía Cô Đồng hả miệng ra, ông đút thuốc đó vô miệng rồi dặn Cô ngậm miệng lại. Ông hỏi: “Vị Cô ngậm ra sao?” Cô trả lời: “Nó không ngon, đắng quá!”

          Ông để vô miệng Cái Vía miếng Lư Hội. Cô Đồng nói: “Nó không ngon, nó đắng lắm!”  Ông lấy miếng Lư Hội ra, ông cho Cái Xác Cô Đồng ngậm th́ Cô Đồng nói: “Không có mùi vị chi cả.”[26]

 

TẠI  SAO  NGÀY  NAY  KHÔNG  AI  LẶP  LẠI  NHỮNG  THÍ  NGHIỆM  NẦY ?

 

          Đọc đoạn nầy chắc chắn có bạn thắc mắc tại sao ngày nay không có ai lặp lại được những thí nghiệm của ông Hector Durville? V́ lư do nào các Nhà Khoa Học giữ thái độ im lặng về vấn đề đó?

          Tôi xin trả lời liền: Phải là Nhà Huyền Bí Học lăo luyện về Phép Thâu Thần mới làm cho Cái Vía xuất ra khỏi Xác và hiện h́nh được. Trong lúc ấy phải dùng bùa phép bảo vệ Cái Vía và Xác Thân Đồng Tử, bởi v́ khi Cái Vía hiện ra, nó bị bệnh chỗ nào th́ Xác Thân bị bệnh chỗ đó. Nếu Sợi Từ Khí vô h́nh màu trắng bạc cột dính Cái Vía với Xác Thịt đứt ngang th́ con người chết ngay, không phương cứu chữa.

          Những bọn quỉ quái ở Trung Giới không thích bên Chánh Đạo, họ chực sẵn để hăm hại, v́ vậy phải đề pḥng từ chút. Hiện giờ ở ngoài đời, khắp hoàn cầu chưa có một ai tài giỏi như ông Hector Durville. Không ai dám mạo hiểm làm những điều quá sức tưởng tượng để rước lấy những thất bại và mang tai hoạ vào thân, nếu Đồng Tử chết ngay trong lúc thí nghiệm.

          Một lẽ khác nữa các Nhà Bác Học măi t́m kiếm trong ṿng Vật Chất, không tin có Linh Hồn là phần Tinh Thần, là Sự Sống, cứ tin rằng Xác Thân là Con Người, thác rồi tan ra tro bụi, có chi gọi là Luân Hồi và Nhân Quả. Thuyết Vô Thần là nguyên nhân của những sự hỗn loạn và những sự đau khổ ở Cơi Trần hiện giờ.

          Ngày nay, khắp Hoàn Cầu có nhiều Nhà Bác Học khảo cứu Khoa Pháp Môn Huyền Bí. Các Ngài thâu thập được nhiều kết quả tốt đẹp, nhưng giữ thái độ im lặng, v́ không thể nào trưng ra những bằng chứng cụ thể như những thí nghiệm trong Pḥng Hoá Học.

          Những Luật chi phối các Cơi trên khác hẳn những Luật Vật Lư Hồng Trần. Không thể cân lường hay đo được; quan sát với con mắt thường sẽ lầm ngay, mặc dầu dùng những Kiến Hiển Vi phóng đại tới cả triệu lần cũng không thấy được những Nguyên Nhân của những sự vật hiện hữu đó, chúng nó vốn ở những Cơi Vô H́nh. Phải dùng Mắt Thánh của mấy Thể cao siêu hơn Xác Phàm mới thấy rơ.

          Dầu sao, các Nhà Đạo Đức rất cám ơn ông Hector Durville, v́ những thí nghiệm của ông chứng chắc những cảm giác, những ham muốn, những đắm mê, những dục t́nh vốn ở trong Cái Vía, chớ không phải ở trong Xác Thân như bấy lâu nay người ta lầm tưởng.

          Những sự rung động ở ngoại giới theo ngũ quan nhập vào Cái Phách, kế sang Cái Vía. Cái Vía bèn biến đổi chúng ra cảm giác và truyền qua Cái Trí. Cái Trí phân tách, chọn lọc, và tạo ra một khái niệm.

          Mới nghe qua tưởng là lâu lắm, nhưng 3 Thể: Thân, Vía, Trí chằng chịt với nhau và liên lạc rất mật thiết. Những rung động từ Thể nầy truyền qua Thể kia mau như chớp nhoáng, có thể nói hơn tốc độ của ánh sáng, tức là hơn 300.000 cây số trong một giây đồng hồ.

          Ai có kinh nghiệm th́ biết: “Thật Ta là Con Người,” Ta khác với những Thể của Ta dùng và nên cố gắng khắc phục chúng nó.

          Thể Trí của con ưa thói kiêu căng, chia rẽ, ưa vị kỷ chớ không vị tha. Dù khi con đă xoay Thể Trí con ra khỏi sự vật Trần Gian, nó vẫn cố giữ tính ích kỷ, làm sao cho con nghĩ đến sự tiến hoá riêng của con thay v́ nghĩ đến công việc của Thầy và giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền định, nó sẽ cố làm sao cho con nghĩ đến nhiều việc khác mà nó thích thay v́ một vấn đề duy nhất mà con đang muốn suy tư. Con không phải là Thể Trí nầy đâu, nhưng nó là của con để con dùng, thế nên Hạnh Phân Biện lại là điều cần thiết thêm ở đây. Con phải luôn luôn cảnh giác, nếu không con sẽ thất bại.

          Chúng ta thường nói: Tôi tưởng cái nầy, tôi tưởng cái kia. Thật ra trong 10 lần, hết 9 lần Cái Trí tưởng, chớ không phải là ta tưởng. Ta tưởng có 1 lần thôi.

          Phải tập cho được việc kiểm soát tư tưởng mới biết điều vừa nói trên đây là đúng. Ngày nào ta chưa làm chủ được Cái Trí, ngày đó tư tưởng ở ngoài nhập vào Trí ta hồi nào ta không hay; nó ở bao lâu rồi ra đi, ta cũng không biết.

          Cái Trí lanh lẹ lắm. Nó giống như con bướm, vừa đáp xuống bông nầy kế bay qua bông kia liền. Nó đâu có khác đứa con nít nhỏ, không ngồi yên một chỗ được lâu. Cần chạy đầu nầy, đầu kia, múa tay, múa chân.

          Tại sao vậy? Ấy v́ Chất Khí làm ra Cái Trí gọi là Chất Thượng Thanh Khí hay là Chất Trí Tuệ rung động mau lẹ vô cùng. Bởi thế Cái Trí rất lau chau.

          Trên Đường Đời hay trong Cửa Đạo, bắt buộc được Cái Trí và Cái Vía vâng theo mạng lịnh sai khiến của ḿnh sẽ học hỏi mau thông, kiến thức mở mang sâu rộng và tâm tánh mau trở nên tốt đẹp.

          Muốn làm chủ Cái Trí, công việc đầu tiên là phải Tập Định Trí. Phải tập trung tư tưởng vào công việc đang lo, dầu cho Cái Trí xúi giục ta nhớ tới cái nầy, cái kia cũng đừng nghe theo nó, đừng làm theo lời gọi của nó.

 

MỘT  CÁCH  ĐỊNH  TRÍ  DỄ  DÀNG

 

          Có nhiều cách Định Trí, nhưng cách dễ hơn hết do Trời phú cho ta là: Lo lắng công việc hằng ngày. Đừng cho Cái Trí xao lảng.

          Nếu ngồi viết th́ cứ lo viết, quét nhà cứ lo quét nhà, rửa chén cứ lo rửa chén, giặt đồ cứ lo giặt đồ, v.v… Phải chú ư vào công việc ḿnh đang làm và làm một việc thôi. Xong việc nầy rồi mới bắt qua việc khác. Trong lúc làm việc đừng nói chuyện tầm phào, đừng để Cái Trí vẩn vơ.

          Đừng cho việc làm nào đó thấp kém không xứng đáng cho ḿnh làm. Công việc nào cũng thiêng liêng cả. Quả thật tại Cơi Trần nầy có việc lớn, có việc nhỏ, tuy nhiên Cách Làm Việc mới là quan trọng, v́ nó làm tăng hay là giảm giá trị con người.

 

 

NÊN  BIẾT  NHỮNG  PHẢN  ỨNG  CỦA  CÁI  TRÍ

 

          Cũng nên biết những phản ứng của Cái Trí. Nó rất lẹ làng không ai ngờ được. Khi nó nghe một tiếng động hay thấy một vật ǵ đi qua th́ muốn t́m hiểu tiếng đó hay là vật đó liền.

          V́ thế, nếu chưa Định Trí được, chưa sửa trị Cái Vía được th́ đừng nói tới việc Tham Thiền.

          Vừa ngồi xuống Cái Vía liền đ̣i hỏi những điều nó ham muốn, c̣n Cái Trí bắt buộc ta nhớ Đông, nhớ Tây, nhớ Nam, nhớ Bắc. Như vậy dầu cho ngồi 30 ngày, chớ đừng nói nửa giờ cũng không có kết quả tốt đẹp nào hết.

          V́ lẽ ấy mà Chơn Sư căn dặn Alcyone phải đề pḥng từ li, từ tí. Đừng để bị Cái Trí lôi cuốn mà quên điều phải thực hành.

          Dầu ở trường hợp nào sự phân biện cũng cần thiết.

          Phải làm như tên lính canh, mắt ngó 4 Phương, tai nghe 8 Hướng, không được phút nào xao lảng.

          Đây là ḿnh tự canh chừng ḿnh, chớ không phải giữ ǵn của cải cho ai, thờ ơ sẽ thất bại.

 

8  GIAI  ĐOẠN  CỦA  RAJA  YOGA

 

          Raja Yoga có 8 Giai Đoạn mà Định Trí (Dharana) thuộc về Giai Đoạn thứ sáu.

          8 Giai Đoạn nầy là:

          1- Yama: Giới.

          2- Niyama: Luật.

          3- Asana: Tư Thế.

          4- Pranayama: Điều Tức.

          5- Pratyahara: Kiểm Soát Giác Quan.

          6- Dharana: Định Trí.

          7- Dhyana: Tham Thiền.

          8- Samadhi: Đại Định.

          Ba Giai Đoạn chót (6, 7, 8) nầy gọi là Samyama.

          Trước hết phải giữ Giới, Luật, không trau giồi Hạnh Kiểm th́ không bao giờ học được Chân Truyền. Trước hết sinh viên cần có tánh nết thật tốt, Đạo Sư mới dạy các Tư Thế và Điều Tức.

          Tôi xin lặp lại một lần nữa: Hơi Thở của Con Người liên quan mật thiết với Hơi Thở của Thượng Đế, tức là Hơi Thở của Vũ Trụ.

          Mỗi người, tuỳ theo Cung Mạng, đều có hơi thở khác nhau. Những tế bào trong ḿnh đều theo chiều hướng của hơi thở. Phải là một vị Đạo Sư có Huệ Nhăn mới thấy và biết hơi thở của sinh viên theo chiều hướng nào.

          Sửa đổi sái cách làm đứt mạch máu ở trong óc, trong phổi, sẽ thành phế nhân hay là bỏ mạng.

          Hăy xem gương của Brahma trong quyển “Ấn Độ Huyền Bí” (L’Inde secrète) dịch là “Đông Phương Huyền Bí” trang 50, anh suưt bỏ mạng, v́ coi theo sách luyện tập hơi thở một ḿnh. Tôi nói đây là thở theo Hatha Yoga, c̣n thở theo môn Thể Dục Âu Tây th́ không hại chi cả.

          Phải đi từ chỗ thấp đến chỗ cao, từ chỗ dễ đến chỗ khó.

          Nói cho đúng, Yoga là một cách luyện Đạo như tập Vơ Nghệ. Biết phương pháp và bền chí th́ thành công và sẽ có những quyền năng phi thường.

          Phương pháp đây là Phương Pháp Bí Truyền, c̣n những Tư Thế Yoga vẽ trong sách để bán vốn thuộc về Công Truyền, nhưng có nhiều Tư Thế rất nguy hiểm.

 

MUỐN  GIÚP    TẠO  HOÁ  CẦN  PHẢI  ĐÀO  TẠO  THANH  NIÊN  LÚC  C̉N    THƠ

 

          Ta biết rằng: Muốn bước vào Cửa Đạo, đức tánh đầu tiên phải tập cho kỳ được là Tánh Phân Biện. Phải biết việc nào lành, việc nào dữ sẽ chọn lựa được điều Chánh, bỏ điều Tà.

          Chuyện nầy đâu phải là chuyện dễ làm, bởi v́ 3 Thể: Thân, Vía, Trí của ta, mỗi Thể đều có một thói quen riêng biệt, làm ra tánh nết của nó, chúng trở thành cứng đầu, cứng cổ, ngỗ nghịch vô cùng, không dễ sửa trị chúng nó trong vài ngày hay vài tháng.

          Vậy muốn giúp Cơ Tiến Hoá, điều hay hơn hết là phải Giáo Dục Trẻ Em lúc chúng c̣n Thơ Ấu, v́ những lư do nên biết sau đây:

          Hài nhi không có Cái Vía và Cái Trí như lúc trưởng thành. Hai Thể nầy là hai ṿng hào quang trong trẻo, chưa thành h́nh. Chúng thu hút những ư muốn, tư tưởng, t́nh cảm và lời nói của người khác như bông đá hút nước.

          Đừng quên rằng: Ư muốn và t́nh cảm là thức ăn nuôi Cái Vía, cũng như tư tưởng là thức ăn của Cái Trí. Tiếc thay! Những thức ăn nầy thường thường là không tốt, bởi v́ trong số 1.000 tư tưởng, ư muốn và t́nh cảm, có đến 950 thứ rất tồi tệ; 45, 46 thứ vừa vừa; c̣n lại 4, 5 thứ gọi là khá. Hy vọng trong 100.000 tư tưởng mới có 1 tư tưởng thật tốt.

          V́ vậy có thể nói rằng: Mầm những tánh xấu trong ḷng đứa nhỏ bị tư tưởng và t́nh cảm đê tiện nuôi dưỡng nên phát triển mau lẹ, c̣n mầm những tánh tốt v́ ít có đồ ăn nên dường như khô héo.

          Như vậy lớn lên đứa nhỏ làm sao thành một vị Thiện Nhân được.

          Mầm những tánh nầy ở đâu mà ra? Các bạn sẽ hỏi như thế.

          Tôi xin nói: Chúng là kết quả những tánh của người ấy tạo ra trong kiếp trước và có ghi lại bằng những làn rung động trong 3 Phần Tử sau đây:

          Một là: Hột Lưu Tánh Nguyên Tử hay là Nguyên Tử Trường Tồn của Xác Thân (Atome Permanent Physique).

          Hai là: Hột Lưu Tánh Nguyên Tử hay là Nguyên Tử Trường Tồn của Cái Vía (Atome Permanent Astral).

          Ba là: Phân Tử Trường Tồn của Cái Trí (Molécule Permanent Mentale ou Unité Mentale).

          Vấn đề nầy cực kỳ khó khăn, xin quí bạn nhớ hai điểm chánh nầy:

 

ĐIỂM  THỨ  NHỨT

 

          Sau khi con người thác rồi một ít lâu, 3 Thể thấp: Thân, Vía, Trí (Hạ Trí) đều tan ră, nhưng:

          1- Xác Thân để lại một Nguyên Tử gọi là Nguyên Tử Trường Tồn ghi bản tánh tốt, xấu và những sự kinh nghiệm của Xác Thân.

          2- Cái Vía để lại một Nguyên Tử gọi là Nguyên Tử Trường Tồn ghi bản tánh tốt, xấu và những sự kinh nghiệm của Cái Vía.

          3- Hạ Trí để lại một Phân Tử gọi là Phân Tử Trường Tồn ghi bản tánh tốt, xấu và những sự kinh nghiệm của Hạ Trí.

          Ba Phần Tử nầy cột dính vào một sợi dây làm bằng Chất Bồ Đề gọi là Su-trắt-ma (Soutratma) và nằm trong Thượng Trí.

 

ĐIỂM  THỨ  NH̀

 

          Ngày sau, đúng kỳ con người đi đầu thai lại Cơi Trần, một lần nữa 3 Phần Tử nầy hoạt động trở lại như trước.

          Các Thiên Thần coi theo 3 Phần Tử nầy để tạo ra 3 Thể: Thân, Vía, Trí của hài nhi. V́ Luật Nhân Quả mà 3 Thể mới nầy đồng bản tánh với 3 Thể kiếp trước. Thế nên trong Đạo Đức có nói: Kiếp nầy là kết quả kiếp trước, c̣n kiếp sau là kết quả của kiếp nầy.

          Phải gieo trồng Giống Tốt kiếp nầy sang kiếp sau mới gặt hái Quả Lành.

          Nhưng cũng phải đề pḥng hoàn cảnh, v́ thường thường hoàn cảnh tốt đào tạo đứa nhỏ ra người tốt, c̣n hoàn cảnh xấu đào tạo đứa nhỏ ra người xấu, v́ tư tưởng và t́nh cảm truyền nhiễm.[27]

          V́ mấy lẽ trên đây mà cần nuôi dưỡng hài nhi và trẻ con trong một bầu không khí thanh bai, yên tịnh, dịu dàng giúp mầm những tánh tốt đâm chồi, mọc nhánh mau lẹ, c̣n mầm những tánh xấu sẽ khô héo lần lần.

          Chuyện Mạnh Mẫu chọn 3 lần vùng cho con ở, nhờ vậy Thầy Mạnh trở thành một vị Á Thánh, là gương sáng cho muôn đời sau soi chung.

          Ở đời muốn trị bệnh phải trị tận gốc, nếu trị cái ngọn th́ bệnh có thể hết trong một thời gian, nhưng sau sẽ phát sinh lại như trước.

          Nguồn gốc của các tội lỗi là ư muốn xấu xa của 3 Thể: Thân, Vía, Trí. Thế nên Chơn Sư bảo Alcyone “Đừng lầm lộn các Thể của con là chính con, . . . . . . . Nhưng con phải biết rơ chúng nó và biết rằng con là chủ của chúng.”

 

CỘI  RỄ  DANH  TỪ  TAM  ĐỘC :  THAM,  SÂN,  SI.

 

          Tiện đây tôi xin nói vài lời về Tham, Sân, Si mà Phật Giáo gọi chung là Tam Độc.

          Danh từ Tam Độc không phải do Phật Giáo tạo ra, nhưng do dịch 3 chữ Phạn: Raga, Dosa và Moha.

          Raga: Pháp dịch là Désir: Sự Ham Muốn; Tàu dịch là Tham.

          Dosa:  Pháp dịch là Colère, Haine: Giận Hờn, Oán Ghét; Tàu dịch là Sân hay là Sân Hận.

          Moha: Pháp dịch là Erreur, Illusion: Sự Lầm Lạc, Ảo Mộng, Huyễn Tưởng; Tàu dịch là Si, Ngu Si, Mê Muội, không thấy lẽ Chánh, theo đường Tà, Tà Kiến.

          Tham, Sân, Si ở đâu mà ra?

          Tham, Sân, Si là tánh xấu của 3 Thể: Thân, Vía, Trí. Người ta cũng gọi những tánh xấu nầy là Tam Bành Lục Tặc.

          Xác Thân ham ăn uống, ngủ nghê, ưa chơi đùa, tức là Tham và Si.

          Cái Vía mê sắc, tham tài, ưa nóng nảy, giận hờn, tức là Tham, Sân và Si nữa.

          Cái Trí tánh kiêu căng, phách lối, chia rẽ, không biết phục thiện, không định vào một chỗ cho lâu, bày mưu sâu kế độc hại người, gây ra những Quả xấu, tức là Sân, thêm Si và thêm Mê.

          3 Thể: Thân, Vía, Trí khi c̣n thô tục th́ gây ra muôn vàn tội lỗi cho con người. Sau khi Tinh Thần Hoá chúng nó rồi th́ chúng nó là chiếc Bè Từ đưa con người qua Bờ Giác.

 

THAM  THIỀN  ĐĂ    TỪ  THUỞ  KHAI  THIÊN  TỊCH  ĐỊA

                                    

          Nhiều nhà tu hành tưởng rằng Tham Thiền vốn của Phật Giáo bày ra. Không phải thế. Tham Thiền không phải phát sanh từ Phật Giáo, Ấn Giáo, hay là Ai Cập Giáo. Nó đă có từ thuở Khai Thiên Tịch Địa, mà cũng có thể nói trước lúc đó nữa. Bởi v́ trước khi sanh hoá Thái Dương Hệ nầy, Đức Thượng Đế của chúng ta đă Suy Nghĩ rồi Sắp Sẵn Một Bản Đồ gọi là Thiên Cơ, trong đó có ghi rơ ngày, giờ sanh hoá các Dăy Hành Tinh và Nhân Vật ở trên Mấy Dăy Đó, từ Thiên Thần, Con Người cho tới Các Loài Khác, cùng là Mức Độ Tiến Hoá của chúng.

          Như thế không có cái chi gọi là sự ngẫu nhiên cả. Quí bạn đọc rồi suy nghĩ th́ sẽ rơ.

          Bằng chứng sự Tham Thiền có từ thuở Khai Thiên Tịch Địa đă ghi trong quyển “Ánh Sáng Á Đông” (La Lumière de L’Asie), Đoạn Đức Phật thuyết pháp cho Vua cha là Tịnh Phạn Vương nghe lúc Ngài trở về Ca-Bi-La-Quốc. Tôi xin chép Đoạn đó cho quí bạn xem.

          “Om! Amitaya! Chớ nên ướm thử dùng lời nói mà đo Cơi vô biên hay là nhúng dây tư tưởng vào Cơi vô tận. Người hỏi cũng lầm, mà người trả lời cũng lầm vậy. Đừng nói chi hết.”

          Kinh sách dạy rằng: Trước khi Vạn Vật sinh ra chỉ có một ḿnh Phạn Vương trầm tư mặc tưởng mà thôi. Nhưng chớ nên suy gẫm đến Phạn Vương hay là một ánh sáng nào cả, Cái Trí người phàm cũng không hiểu được. Những màn lần lượt vén lên, cái  nầy tới cái kia. Phải có những bức màn và sau những bức màn nầy có những bức màn khác. Các Ngôi Tinh Tú cứ vận hành mà không hỏi han chi cả. Miễn là sự sanh, sự tử, sự buồn, sự vui, cái nguyên nhân và cái hậu quả c̣n lại là đủ rồi.

          Giữa điều phải và điều quấy, Huyền Bí Học không chấp nhận sự lưng chừng. Với bất cứ giá nào, điều phải là điều con phải làm, và không được làm điều quấy, dù cho những người không hiểu biết có nghĩ ǵ hoặc nói ǵ cũng mặc. Con phải nghiên cứu sâu xa những Định Luật bí ẩn của Tạo Hoá,[28] và khi con đă rơ, th́ con hăy xếp đặt cuộc sống của con cho phù hợp với những Định Luật nầy, nhớ luôn luôn sử dụng lư trí và lương tri.

          Nếu thành thật xem xét việc đời th́ ta thấy rơ đời sống của con người gồm lành và dữ pha lẫn nhau: Lành cũng có, dữ cũng có, nhưng phải công nhận rằng phần dữ nhiều hơn phần lành.

          Chơn Sư căn dặn Alcyone làm những điều thiện, không nên làm những điều ác. Thật sự, luôn luôn người ta sợ dư luận, dầu biết đó là điều phải lắm khi cũng không dám làm, hoặc làm mà không trọn vẹn hay là sửa đổi một ít cho hợp với thời thế.

          Ở đây vẫn phải phân biện, đừng hạ thấp Lư Tưởng cao siêu, phải tiến lần lên, từ kiếp nầy qua kiếp kia, nhất là, xin lặp lại một lần nữa v́ điều nầy rất cần thiết, ḿnh phải tự biết ḿnh để bồi bổ những chỗ khuyết điểm.

          Trong Kinh Upanishad có câu nầy:

          “Điều lành là một việc, sự vui là một việc khác nữa. Hiền Nhân chuộng điều lành hơn sự vui.”

 

NHỮNG  LUẬT  TRỜI  C̉N  ẨN  TÀNG

 

          Trong 7 Cơi Trời, từ Cơi Tối Đại Niết Bàn cho tới Cơi Trần, Luật Trời vẫn hành động nhưng Cơi nào, Luật nấy.

          Tại Cơi Trần, chúng ta khám phá và học hỏi được một số Luật Trời, nhưng chúng ta chỉ biết có vài phương diện, c̣n nhiều phương diện khác chúng ta chưa t́m ra. Có thể nói tất cả những Luật Trời đều ẩn tàng đối với chúng ta, bởi v́ chúng ta c̣n tai phàm mắt thịt. Phải mở những quan năng cao siêu như: Thần Nhăn, Thiên Nhăn, Huệ Nhăn mới thấy những Hành Động của Luật Trời.

          Hiện giờ chúng ta thấy nhiều sự việc hiện ra trước mắt, nhưng đó là Hậu Quả chớ không phải là Nguyên Nhân. Nguồn cội phát sanh chúng nó ở Cơi nào ta không biết, mà có lẽ có việc đă khởi sự hồi 3, 4, hay là 5, 6.000 năm trước.

          Hoàn toàn bí mật.

          Những Luật Trời ẩn tàng hằng hà sa số. Đối với tŕnh độ tiến hoá hiện thời của chúng ta, chúng ta mới biết chút ít về những Luật sau đây:

          1- Luật Sanh Hoá. 2- Luật Tiến Hoá. 3- Luật Tiết Điệu. 4- Luật Chu Kỳ gọi là Luật Tuần Hoàn. 5- Luật Nhân Quả. 6- Luật Luân Hồi. 7- Luật Hy Sinh. 8- Luật Thăng Bằng. 9- Luật Tư Tưởng. 10- Luật Tương Ứng. 11- Luật Tương Quan. 12- Luật Phát Triển Tâm Thức. 13- Luật Di Truyền. 14- Luật Thay H́nh Đổi Dạng.

          C̣n nhiều nữa, trên đây chỉ là những Luật chánh có thể gọi là thông thường, tức là ai ai cũng có thể hiểu và học hỏi một cách tổng quát.

          Muốn thật hiểu rành rẽ những Luật nầy phải mất mấy chục hay mấy trăm kiếp, chớ không phải chỉ trong một thời gian ngắn ngủi vài chục năm là đủ.

          Muốn tiến mau người chí nguyện cần biết 3 điểm chánh sau đây:

          1- Mục đích sự sanh hoá Thái Dương Hệ và sự thành lập 7 Cơi Trời.

          2- Ḿnh tự biết ḿnh.

                   a- Bản tánh Thiêng Liêng của Con Người.

                   b- Chơn Thần và 7 Thể của nó.

                   c- Sự liên quan mật thiết giữa 7 Thể và 5 Cơi Trời: Từ Cơi Niết Bàn xuống đến Cơi Trần.

                   d- Phương pháp tinh luyện 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

                   e- Luật Tư Tưởng, Luật Nhân Quả, Luật Luân Hồi, Luật Hy Sinh.

          3- Phụng Sự với tấm ḷng Vị Tha, không mưu cầu tư lợi.

          Xin nhắc lại: Thuyết Đạo dễ, Hành Đạo khó. Không Hành Đạo th́ không bao giờ Đắc Đạo.

          Con phải phân biệt giữa điều quan trọng và điều không quan trọng. Phải cứng rắn như đá khi phải áp dụng cho điều lành và điều quấy, hăy luôn luôn nhường cho kẻ khác những sự việc không quan hệ. Bởi v́ con phải luôn luôn dịu dàng, tử tế biết điều và thuận thảo, hăy để cho kẻ khác có trọn quyền tự do, như quyền tự do con đă cần cho chính con vậy.

          Chơn Sư nhấn mạnh về sự phân biệt điều trọng hệ và điều không trọng hệ, v́ đây là một việc hết sức khó.

          Khi ta chưa tiến hoá cao, chưa kinh nghiệm nhiều th́ có những việc ta cho là trọng hệ, nhưng thật sự chúng là việc nhỏ nhoi.

          Thí dụ như: Việc cúng kiếng, lễ bái, thờ phượng, tín đồ cho mấy điều nầy là quan trọng, nhưng đừng quên rằng: Mấy điều đó là h́nh thức bên ngoài, chúng nó có lợi ích riêng của chúng nó, nhưng không cứu rỗi được ḿnh.

          Điều giải thoát cho ḿnh là Tấm Ḷng Trong Sạch và sự thi hành tất cả những phương tiện mưu hạnh phúc cho quần sanh và diệt thói ích kỷ, hại nhân.

          Đối với những nguyên tắc ta phải giữ cho Đúng Qui Luật, như Trường Chay, Tinh Luyện Tánh T́nh chẳng hạn. C̣n về những tín ngưỡng phải rộng ḷng khoan dung, ai muốn tin chi th́ cứ tin, trọn tự do. Không phải ta lănh đạm, nhưng v́ không nên đụng chạm tới đức tin của kẻ khác. Luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi thấy điều đó cần thiết mà không can thiệp, không gây trở ngại, không kích bác.

          Phải có thiện cảm, phải biết dung hoà, phải khôn khéo trong sự hành động sẽ dắt dẫn kẻ khác rất dễ dàng.

          Chắc chắn trong chúng ta đă có người chứng kiến chuyện nầy:

          “Một anh kia nắm dây dàm kéo một con ḅ, nó dơng đuôi lên tŕ lại. Anh càng kéo, càng đánh, nó càng tŕ và quỳ xuống. Một người khác thấy vậy bảo anh kia đừng đánh nữa. Y lại ṿ đầu con ḅ, nói ngọt với nó, vài phút sau con ḅ đứng dậy ríu ríu đi theo chủ.”

          Đây cũng là một bài học cho chúng ta về cách điều khiển. Có lúc Nhu thắng Cang, Nhược thắng Cường, phải xử sự cho khéo léo. Tuỳ trường hợp, có lúc Cường, lúc Nhu chớ không phải cứng rắn măi.

          Ở hoàn cảnh nào, kẻ chí nguyện cũng phải Cương Quyết Làm Lành, không bao giờ làm ác; giúp được người th́ giúp, không giúp được th́ thôi, không hại người bao giờ, mặc dầu người đời cho ḿnh ngu dại cũng mặc.

          Con hăy cố xem coi việc nào đáng làm; và hăy nhớ rằng: Không nên xét đoán sự việc theo bề ngoài. Một việc nhỏ mà có ích trực tiếp cho công việc của Thầy th́ rất đáng làm hơn một công việc lớn mà Thế Gian gọi là tốt. Chẳng những con phải phân biệt cái nào có ích và cái nào vô ích, mà phải phân biệt giữa cái có ích nhiều với cái có ích ít.

          Ngoài những công việc bổn phận hằng ngày, t́m một việc đáng làm hết sức khó. Có tiêu chuẩn nào giúp ta biết được việc nào đáng làm, c̣n việc nào không đáng làm chăng?

          Nhưng ta có thể nói rằng: Việc đáng làm, việc nhiều có ích là việc lành, làm lợi cho mọi người, nhưng thường thường việc nào đem cho người ta nhiều quyền lợi vật chất th́ người ta cho là tốt đẹp, dầu tánh cách nó ác độc thế nào cũng mặc. Người đời đánh giá trị của mọi sự việc theo phương diện bên ngoài.

          Trái lại, giảng giải Đạo Đức cho người ta biết cái chi giúp cho Cơ Tiến Hoá điều đó mới hữu ích cho công việc của Tiên Thánh, bởi v́ các Ngài Phụng Sự Thượng Đế. Biết được Luật Trời, người ta tránh được các tội lỗi, v́ vô minh nên hành động không khôn ngoan.

          Cho kẻ nghèo ăn là một việc tốt, cao quí và hữu ích; nhưng nuôi dưỡng Linh Hồn họ lại là việc cao quư và hữu ích hơn nữa. Bất cứ người giàu nào cũng nuôi được Xác Thân, nhưng chỉ có Người Hiểu Biết mới nuôi dưỡng được Linh Hồn.

          Đoạn nầy làm cho nhiều người hiểu lầm rằng: Chơn Sư chỉ dạy chúng ta chú trọng đến phần Hồn, chớ không lo cho phần xác.

          Không phải thế. Ngài đă nói: Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt, cao quí và hữu ích. Ngài không hề bảo ta bỏ rơi những người nghèo khổ, đói khó, tật nguyền, đau ốm, bệnh hoạn, cô độc, không ai săn sóc đoái hoài.

          Chúng ta phải góp phần với Chính Phủ trong việc tạo lập những Dưỡng Đường, Cô Nhi Viện, Nhà Dưỡng Lăo.

          Về phương diện cá nhân, ta phải bố thí tuỳ phương tiện, tuỳ duyên, tuỳ phận, tuỳ trường hợp. Ta chia sớt những sự đau khổ của những kẻ xấu số, nạn nhân của những trận thiên tai, băo lụt, hoả hoạn, chiến tranh, loạn lạc, cướp bóc.

          Phải nói trắng ra, mặc dầu ta không được bỏ qua một việc phước thiện nhỏ nào cả, nhưng không phải ta chỉ lo lắng có bao nhiêu đó mà thôi.

          Phận sự Chánh của Người Biết Đạo là lo Khai Sáng Cho Đời, tức là lo mở mang Phần Tinh Thần của nhân loại. Tại sao vậy?

          Bởi v́ con người không biết Luật Trời, làm những việc chẳng lành, bị những sự phản ứng trả lại gọi là Mắc Quả Báo, cho nên mới chịu đau khổ. Nếu biết Cơ Trời, tuân theo Thiên Ư th́ tránh được những sự rối rắm đưa  tới.

          V́ thế, chỉ bảo cho con người biết Luật Trời và mở mang Phần Tinh Thần là điều cần thiết nhất.

          Nếu con người sinh ra trên Thế Gian lớn lên, lo lập thân danh, có gia đ́nh chờ ngày nhắm mắt từ giă Cơi Trần và chỉ có bao nhiêu đó thôi th́ cuộc đời không có mục đích ǵ cả.

         
          Đinh ninh rằng: Con Người là Xác Thân nầy, là không đúng, bởi v́ sau khi thác rồi, Xác Thân tan ră nhưng Con Người vẫn sống, vẫn hiểu biết như hồi c̣n sanh tiền.
[29]

          Bằng chứng là Hồn Ma hiện ra và người ta chụp h́nh được. Người và Ma cũng chuyện văn thân mật với nhau. Các Báo Thần Linh Học khắp hoàn cầu đều có đăng những mẫu chuyện như thế. Không ai chối căi được điều nầy, mặc dầu không dùng Luật Vật Lư Hồng Trần cắt nghĩa được sự hiện h́nh của Hồn Ma.

          Bây giờ ta hăy thử nghĩ: Nếu có Ma th́ Xác Thân nầy không phải thật là Con Người rồi.

          Vậy th́ Con Người là ai?

          Và tại sao cũng đồng loại là Con Người với nhau mà có những sự khác biệt lớn lao về nhiều phương diện như: H́nh Vóc, Tâm Tánh, Trí Thức và Thân Thể nữa?

          Mấy vấn đề nầy cực kỳ quan trọng mà cũng cực kỳ khó khăn. Chúng thuộc về những Luật vô h́nh gọi là Luật Tiến Hoá, Luật Luân Hồi, Luật Nhân Quả và Bản Tánh Thiêng Liêng của Con Người.

          Giải quyết chúng cho đúng lư sẽ thức tỉnh được Sự Sống Thiêng Liêng trong Con Người, nói một cách khác cho dễ hiểu Con Người tự biết Ḿnh là Chơn Thần (hoặc nói Ḿnh là Linh Hồn, hoặc Chơn Nhơn cũng được), c̣n Xác Thân chỉ là khí cụ để cho ḿnh dùng mà thôi.

          Hiểu như thế sẽ phá tan bức màn vô minh đă án mắt Con Người không cho thấy rơ, biết rơ Sự Thật.

          Bức Màn Vô Minh là những ảo ảnh do Vật Chất tạo ra.

          Chỉ tới chừng đó thôi, người ta mới biết: Nuôi Linh Hồn Con Người cao quí hơn nuôi Xác Thịt và chỉ có sự Hiểu Biết Cơ Tiến Hoá mới nuôi được Linh Hồn của người nghèo khổ cũng như Linh Hồn của người giàu sang.

          Đây là chữa bệnh Con Người ngay cái gốc chớ không phải chữa cái ngọn.

          Nếu con đă hiểu biết rồi th́ bổn phận con phải giúp kẻ khác giác ngộ.

          Dù con đă khôn ngoan thế mấy đi nữa, con vẫn c̣n phải học thêm nhiều trên Đường Đạo. Nhiều cho đến đỗi con cũng cần phải sử dụng Hạnh Phân Biện ở đây để suy nghĩ kỹ càng điều nào đáng học hỏi. Mọi sự hiểu biết đều hữu ích, và một ngày kia con sẽ có tất cả mọi sự hiểu biết. Nhưng trong khi con chỉ biết có một phần, con hăy chú ư đến nó, phần ấy là phần hữu ích nhất. Thượng Đế vốn Minh Triết và Từ Ái; vậy con càng Minh Triết th́ Ngài càng hiện rơ nơi con. Vậy con phải học hỏi, nhưng trước tiên phải học hỏi điều nào giúp con giúp đỡ kẻ khác, điều đó sẽ giúp con nhiều nhất.

          Khi ta sáng suốt rồi, bổn phận ta phải giúp kẻ khác được sáng suốt như chúng ta vậy. Phật đă dạy: “Tự giác nhi giác tha.”

          Hăy nh́n xóm ta ở. Chỉ có nhà của ta có đèn thắp sáng rỡ, c̣n mấy nhà khác có đèn, có dầu mà không có lửa nên ở trong tối. Ta hăy đem đèn của ta mồi đèn nhà kế cận, rồi nhà kế cận mồi đèn cho những nhà khác. Chẳng bao lâu, cả xóm đều sáng, không c̣n ai ở trong chốn tối tăm nữa.

          Đây là sự giúp đỡ về Phần Tinh Thần cũng như sự giúp đỡ về Phần Vật Chất.

          Chơn Sư Morya đă nói: “Tại sao lại ích kỷ nếu có những điều có thể học được, thấy được và cần ích cho tương lai của Con Người th́ tại sao không cho kẻ khác có dịp may như con.”

          Ở đây Ngài dạy Con Người phải diệt tánh ích kỷ.

          Đạo là Gia Tài Thiêng Liêng chung của Nhân Loại, tới một ngày kia ai ai cũng Biết Đạo. Cũng như Thần Nhăn, ngày sau, khi Nhân Loại tiến đến mức độ khá cao th́ ai cũng có Thần Nhăn, hiện giờ trên Thế Gian, người có Thần Nhăn rất hiếm.

          Thật là Biển Học Vô Biên.[30] Càng học chừng nào càng thấy ḿnh tối tăm, dốt nát chừng nấy. Trong mỗi địa hạt: Văn Chương, Khoa Học, Mỹ Thuật đều chia ra nhiều Môn. Chỉ học một Môn thôi, e cho trọn đời cũng chưa thấy thật là giỏi. V́ thế, Chơn Sư dặn Alcyone học Môn nào hữu ích nhiều hơn hết. Tôi tưởng Môn đó là Khoa Bí Truyền tức là Minh Triết Thiêng Liêng, bởi v́ nó khai mở Tâm và Trí một lượt. C̣n các Khoa học khác mở Trí mà không mở Tâm, cho nên thập phần nguy hiểm như việc chế ra những Hoả Tiễn, những Bom Nguyên Tử, Bom Khinh Khí và các Loại Vũ Khí mới khác mong kềm hăm Thế Giới trong Bàn Tay Sắt của Bọn Hiếu Chiến.

          Học Đạo sẽ thấy sự thông minh ở ngoài đời thuộc về Vật Chất, khác với sự sáng suốt trong Đường Đạo thuộc về Tinh Thần. Sự thông minh ở ngoài đời cũng cần thiết, nhưng một ḿnh nó chưa đủ, phải có sự sáng suốt của Tinh Thần điều khiển nó. C̣n không biết bao nhiêu điều cần phải học hỏi trong Đường Đạo để phá tan được bức màn vô minh.

          Thí dụ như sự sanh sản các Tế Bào trong ḿnh Con Người.

          Tại sao các Tế Bào hợp lại để làm một Cơ Thể mà Cơ Thể nầy khác hơn Cơ Thể kia và phận sự ai nấy làm? Tại sao tất cả lại chung sức làm ra một thân ḿnh, trong khi đó trái tim nhảy điều hoà, đưa máu chạy khắp châu thân để nuôi dưỡng Xác Thân? Thật là hoàn toàn bí mật.

          Hăy tưởng tượng: Một Tinh Trùng và một Noăn Châu hợp lại thành một người, Nam hay Nữ, từ lời ăn tiếng nói, tóc tai cho tới màu da, tánh t́nh, ngu độn hay khôn ngoan đều khác nhau; người nước nào nói tiếng nước nấy. Thử hỏi: Trên Thế Gian có người nào đủ tài thực hành được việc nầy không?

          Nếu có một cái đồng hồ chạy đúng giờ khắc mà nói không có Anh Thợ làm ra cái đồng hồ là điều phi lư, không thể chấp nhận được.

          Trước đây tôi đă nói: Chỉ Đường Đạo dạy đúng với thực tế sự sanh hoá Thái Dương Hệ và các loài vật, c̣n ở ngoài đời chỉ đưa ra những Giả Thuyết mà thôi.

          Thật ra, hiện giờ chúng ta đang học một cách bất toàn những ǵ mà Đức Thượng Đế đă tạo ra 6, 7 ngàn triệu năm trước và c̣n tạo thêm nữa.

          Chúng ta thâu thập được nhiều kết quả, nếu so sánh với các thế kỷ trước, chúng rất tốt đẹp.

          Nhưng 6, 700 năm sau, chắc chắn cháu chít chúng ta sẽ cho chúng ta c̣n vụng về, v́ Khoa Học càng ngày càng phát triển. Chưa biết tới chừng nào nó mới nói: “Đây là mức cuối cùng của sự Tiến Hoá.”

          Dầu sao, chúng ta cũng cần phải học hỏi Sự Sống hay là Tinh Thần, v́ Sự Sống mới thật có Quyền Năng Sanh Hoá và c̣n măi với Thời Gian. Trái lại, Vật Chất và H́nh Hài tới một ngày kia sẽ tan ră. Cát Bụi phải trở về với Cát Bụi. Đừng quá tŕu mến nó mà làm mất thăng bằng là Luật Điều Hoà của Vũ Trụ.

          Con hăy bền chí học hỏi, không phải để người đời nghĩ rằng con thông hiểu sâu rộng, cũng không phải để hưởng hạnh phúc của sự thông hiểu nhưng bởi v́ chỉ có người thông hiểu mới có thể giúp đời một cách khôn khéo. Dù con có chí lớn giúp đời đến mấy đi nữa, nếu con dốt nát th́ con có thể làm hại nhiều hơn là làm lợi.

          Lời khuyên bảo nầy rất hữu ích. Chúng ta phải lo học hỏi, dầu tới tuổi nào cũng cần học để mở mang kiến thức. Có học hỏi rộng sâu mới biết phân biện sự lành và sự dữ, sự phải và sự quấy, điều nào là Chân Lư, điều nào là dị đoan.

          Nên đọc những sách và báo chí chỉ nói về Khoa Học, Triết Học và Mỹ Thuật để coi Chân Lư hiện ra cách nào trong ba Môn đó và nếu có thể đưa ra những sự phát minh mới mẻ của Khoa Học chứng minh rằng những lời dạy của Huyền Bí Học vẫn đúng với Sự Thật. Thí dụ như dùng Thuyết Nguyên Tử để giải thích hai chữ “Sắc Không” của Phật Giáo.

          Có người bảo: Chớ nên xem sách Tôn Giáo khác, v́ sợ làm mất Đức Tin của ḿnh.

          Tôi lại nghĩ khác.

          Nếu sách Tôn Giáo ḿnh giải toàn là Chân Lư th́ dầu cho ḿnh đọc cả ngàn quyển sách của các Tôn Giáo khác cũng không sợ Đức Tin của ḿnh bị lay chuyển. V́ không có chi phá tan Chân Lư được. Thí dụ như Luật Luân Hồi, Nhân Quả. Đây là hai Đại Chân Lư c̣n măi đời đời kiếp kiếp. Không ai sửa đổi chúng nó được, mặc dầu chúng nó cũng như Mặt Trời có thể bị mây mù che lấp trong một thời gian, song chẳng bao lâu cũng chói sáng lại như cũ.

          Trái lại, nếu những Kinh Sách của Tôn Giáo của ḿnh nói những chuyện dị đoan phi lư, ép buộc tín đồ vào một khuôn khổ và nhắm mắt tin càn Kinh Điển th́ lẽ tự nhiên những tà thuyết sẽ bị Chánh Lư đánh đổ. Đức tin mù quáng sẽ bị phá vỡ, chẳng kíp th́ chầy, không thế nào tránh khỏi.

          Thật ra, ta nên xem những Sách giải về Chân Lư mà thôi, nhưng ở Việt Nam hiện giờ, những Sách thuộc về loại nầy rất hiếm.

          Ở Ấn Độ có những Sách do những Nhà Hiền Triết hay là những Cao Đồ Chơn Sư viết bằng Phạn Ngữ hay Anh Ngữ giải thích những Chân Lư cao siêu. Một số lớn Sách Phạn Ngữ đă được dịch ra Anh Ngữ, c̣n những sách Anh Ngữ cũng được dịch ra Pháp Ngữ và vài thứ tiếng nước khác như: Đức Ngữ, Ư Ngữ, v.v…

          Phải thông thạo Anh Ngữ hay Pháp Ngữ mới xem những quyển đó được. Tuy nhiên, cũng cần có một vị Sư Huynh giải rơ những chỗ khó khăn mới hiểu được. Nếu tŕnh độ Văn Hoá thấp thỏi,[31] kiến thức cạn hẹp; không hiểu được ư nghĩa của những Thánh Kinh th́ hành động sẽ không được khôn ngoan, sáng suốt; như vậy không thể giúp ích cho các bạn mến Đạo.

          Đáng sợ hơn hết là sự mê tín, về sau sẽ biến thành cuồng tín, nếu không chận đứng kịp thời th́ hậu quả sẽ vô cùng khốc hại.

          Chơn Sư dạy Alcyone phải hiếu học, v́ chỉ có người thông minh mới giúp ích được một cách khôn khéo, chớ không phải để cho người ta khen ngợi ḿnh là siêng năng, giỏi giắn. Ở đây Chơn Sư muốn ngăn ngừa tánh kiêu căng của con người thường khoe rằng ḿnh giỏi hơn, hay hơn kẻ khác. Phải sợ Cái Trí, nó rất quỷ quyệt, nó có đủ những lư lẽ để thuyết phục con người nghe theo nó.

          Nhưng c̣n một điều nữa nên giữ chừng là khi hiểu được những Chân Lư cao siêu, chớ nên khinh bạc sự học hỏi c̣n bị giới hạn của Thế Tục. Những sự hiểu biết nầy là một mặt của Chân Lư hiện ra tuỳ hoàn cảnh và thời gian. Chúng rất hữu ích cho những người c̣n cần dùng chúng nó. Nhưng cũng đừng tưởng rằng Vật Chất hơn Tinh Thần vô h́nh, cho nên phải trọng nó và loại bỏ những ǵ mà giác quan không nhận thức được. Điều nầy là một sự lầm lạc đáng tiếc, v́ Vật Chất và Tinh Thần mỗi thứ đều có sự hữu ích riêng của nó. Cả hai đều nương tựa lẫn nhau. Vật Chất là H́nh Thể, c̣n Tinh Thần là Linh Hồn, là Sự Sống. Không có Sự Sống th́ H́nh Thể tan ră, c̣n không có Vật Chất làm một lớp áo bên ngoài th́ Tinh Thần không thể hiện ra.

          Sự Sống tạo ra H́nh Thể và Vật Chất,[32] mà H́nh Thể không tạo ra Sự Sống hay là Linh Hồn được.

          Phải biết sử dụng một cách khôn khéo Vật Chất và Tinh Thần th́ mới tiến mau.

          Con phải phân biệt Sự Chân và Sự Giả; con phải tập sao cho Chân Chánh trong tư tưởng, lời nói và hành động.

          Chơn Sư nhấn mạnh về việc phân biệt Sự Chân và Sự Giả, bởi v́ luôn luôn v́ ta không suy nghĩ cho chín chắn điều nào phải, điều nào quấy, nên mới bị lỗi lầm.

          Muốn biết Sự Chân Thật trọng hệ dường nào hăy xem thí dụ sau đây:

          Ta lấy một cây gậy thọc vô một chậu nước. Ta thấy h́nh như cây gậy bị găy ngang chỗ nó chui xuống nước. Sự thật có phải như vậy hay không? Không phải. Ấy là con mắt ta bị sự thay đổi môi trường gạt gẫm. Ta thấy không đúng với sự thật. Quả thật, chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh nửa giả dối, nửa chân thật. Ta thấy mọi vật một cách sai lầm, chúng ta nh́n xem tất cả xuyên qua một bầu không khí nửa đúng, nửa sai. Thật là cực kỳ khó khăn.

          Trước nhất trong tư tưởng; và điều nầy không phải dễ, v́ trong đời có biết bao nhiêu tư tưởng sai lầm, biết bao nhiêu điều dị đoan khờ dại, và không một người nào bị nô lệ chúng mà có thể tiến bộ được. Do đó con chớ nên vịn vào một tư tưởng nào đó chỉ v́ có nhiều người khác đă vịn vào nó, cũng đừng v́ thiên hạ đă tin nó hàng mấy thế kỷ, hoặc v́ nó đă được ghi trong một quyển sách nào đó mà người đời cho là Thánh Kinh. Con phải tự ḿnh suy tưởng sự việc và tự ḿnh phán đoán xem nó có hợp lư không.

          Trong Đời có không biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, những sự dị đoan phi lư, không phải dễ mà sửa đổi.

          Không những có nhiều sự dị đoan mê tín trong Tôn Giáo mà trong địa hạt nào cũng có sự mê tín cả, cho đến Khoa Học cũng thế - khi cứ đinh ninh rằng Khoa Học vạn năng - bởi v́ Khoa Học c̣n quá chú trọng về Vật Chất, chưa công nhận có Tinh Thần, chưa truy ra được Lư Do Sanh Hoá các loài vật trên Địa Cầu.

          Trong Thông Thiên Học cũng vậy, khi chúng ta nói: “Đức Bà Blavatsky nói như thế nầy, Đức Bà A. Besant và Đức Leadbeater nói như thế kia, hay là trong Bộ Giáo Lư Bí Truyền đă viết như vầy, nên tôi tin;” th́ không khỏi mang tiếng là tin dị đoan, bởi v́ chúng ta chưa kinh nghiệm được mấy điều đó.

          Tuy nhiên, chúng ta có thể tin được các Ngài, v́ chúng ta biết các Ngài vẫn thành thật. Các Ngài tŕnh bày những điều các Ngài hiểu biết, nhưng không hề bảo ai tin cả.

          Đức Leadbeater nói: “Tôi thấy Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, những Vị Tinh Quân (Esprits Planétaires), những Sứ Giả ở những Thái Dương Hệ khác đến viếng Thái Dương Hệ chúng ta, v́ có mục đích nào đó mà chúng ta không biết được.

          Người ta sẽ hỏi tôi: “Ông là ai mà nói những chuyện như thế ?” Nhưng tôi đă thấy, tôi phạm tội khiếp nhược nếu từ chối sự chứng nhận của tôi. Hỡi thế nhân! Dầu các anh đồng thinh phủ nhận sự hiện hữu của Các Ngài đi nữa, tôi cũng bỏ các anh mà giữ lấy Đức Tin của tôi.”

          Quả thật có nhiều Đại Chân Lư phải tin mới được. Như sự Sanh Hoá các Cơi Trời, những Thể của Con Người, sự liên quan giữa các Thể và những Cơi Trời, Luật Tư Tưởng, Luật Luân Hồi, Nhân Quả và Hy Sinh.

          Cũng như Bản Cửu Chương, không học, không tin th́ làm sao làm Toán Nhơn được.

          Người học Đạo cũng như các Sinh Viên ban đầu phải học những Lư Thuyết, sau lần lần lên bậc cao rồi mới thí nghiệm được.

          Tin những Lư Thuyết nầy không phải là Mê Tín hay Tin Dị Đoan. Cũng đừng quên rằng: Sự Tin Dị Đoan ăn sâu vào bản tánh của con người. V́ vậy, sau khi được Điểm Đạo lần thứ nhứt vị Đệ Tử phải lo trừ tuyệt thói Mê Tín và Tin Dị Đoan mới được Điểm Đạo lần thứ nh́.

          Trong sự giao thiệp hằng ngày ta gặp nhiều bạn tu hành tánh t́nh rất tốt. Họ vui vẻ, nhân từ, sốt sắng làm những việc phước thiện không quản công lao nhọc nhằn. Nhưng họ lại quá quí trọng sự thờ phượng, cúng kiếng, lễ bái, tụng kinh, đọc kệ, không t́m hiểu ư nghĩa của mấy việc đó và cho rằng: “Chúng rất cần thiết cho sự Đắc Đạo.”

          Họ tiến về mặt Công Đức mà không tiến về mặt Tinh Thần. Tục rằng: Họ tu Phước chớ không tu Huệ.

          Chơn Sư không hề nói: Những người c̣n Tin Dị Đoan không tiến hoá được. Ngài bảo: “Đối với những người nào bị sự Dị Đoan Chi Phối không có sự Tiến Bộ.”

          Chi Phối đây là hoàn toàn tin tưởng vào những chuyện Dị Đoan, không chịu nghe Chánh Lư.

          Quí bạn suy nghĩ th́ thấy, không nên nói trắng ra.

 

CHÁNH  KIẾN

 

          Ngày nay, Chơn Sư lặp lại Đoạn Văn nói về Chánh Kiến của Phật dạy những người Kalama 2.500 năm trước và có ghi trong Bộ Kinh Tăng Nhất A Hàm (Kalama Sutta de l’Anguttara Nikaya).

          Tôi xin tóm tắt những lời của Phật nói cho quí bạn nghe:

          “Khi xưa, những người Kalama tới đănh lễ Phật và hỏi: “Bạch Phật! Những người Bà La Môn và những người Giáo Phái khác thuyết cho chúng tôi nghe những Giáo Lư của họ. Ai ai cũng nói những điều của họ nói toàn là Chân Lư. Bạch Phật! Chúng tôi rất bối rối, không biết phải nên tin hay bác bỏ, xin Phật dạy cho.”

          Phật bèn đáp: “Các ngươi không nên tin điều nào mà các ngươi chỉ nghe lặp lại mà thôi; không nên tin những tục lệ di truyền từ đời nầy qua đời kia; không nên tin những sự đồn đăi; không nên tin những bài mà người ta cho là vốn của những vị Thánh Hiền thuở xưa viết ra; không nên tin những sự mơ hồ; không nên tin những điều mà các ngươi có thói quen quí chuộng; không nên tin những lời vốn của Thầy các ngươi hay là Sư Huynh các ngươi đă nói. [33]

          Nhưng sau khi Xem Xét, Kinh Nghiệm và Suy Nghĩ Chín Chắn rồi nếu thấy Thuyết nào hợp với Chánh Lư và Hữu Ích cho mọi người th́ hăy Công Nhận nó và Sống với nó.”

          Chí lư thay những lời Phật dạy trên đây! Nếu đem áp dụng vào lúc xem Kinh Kệ th́ sẽ mở Trí Phân Biện và sẽ tránh được những điều Mê Tín Dị Đoan.

          Người học Đạo, người Chí Nguyện thỉnh thoảng nên kiểm soát những sự hiểu biết của ḿnh như vầy:

          1- Những điều mà ḿnh thật hiểu biết, v́ ḿnh đă học hỏi và kinh nghiệm.

          2- Những sự hiểu biết của kẻ khác mà ḿnh nhận lấy làm của ḿnh.

          3- Những điều mà ḿnh chưa biết.

          Chắc chắn những điều ta thật hiểu biết rất ít. Những điều mà ta nhận lấy của kẻ khác rất nhiều. C̣n những điều mà ta chưa biết có thể hằng hà sa số, không kể xiết.

          Nếu ta thường kiểm soát những sự hiểu biết của ta như thế đó th́ ta có thể hạ bớt tánh kiêu căng, tự phụ. Người học Đạo luôn luôn thấy những người khác thua ḿnh rất xa, v́ họ ít khôn ngoan và không hiểu biết bằng ḿnh, nếu không khắc kỷ th́ Tánh ngạo nghễ càng ngày càng tăng. Thay v́ phải thương yêu và dạy dỗ họ để họ mau trở nên sáng suốt như ḿnh th́ anh lại khinh khi. Đây là dấu hiệu của sự vấp ngă.

          C̣n về những nghi thức, những y phục phải mặc trong các ngày lễ, chúng ta phải tuân theo phong tục, đừng phản đối, chớ nên gây ra những điều phiền năo vô ích.

          Con hăy nhớ rằng: Dù cho có cả ngàn người tán thành một sự việc, mà nếu họ không biết ǵ về sự việc đó th́ ư kiến của họ kể như vô giá trị.

          Những bạn nào có kinh nghiệm những việc xảy ra trước mắt hằng ngày, những bạn nào đă học qua Lịch Sử Chiến Tranh và suy nghĩ những Tín Ngưỡng của các Tôn Giáo đều thấy rơ mấy lời của Chơn Sư nói rất đúng với sự thật. Không ích chi bàn rộng ra mà phải đụng chạm.

          Ai muốn bước đi trên Đường Đạo phải tập tự ḿnh tư tưởng, v́ dị đoan là một trong những tai hại lớn nhất trên Thế Gian, một trong những xiềng xích tự con phải hoàn toàn xa lánh nó.

          Nên biết rằng: Ngày nào ta chưa làm chủ được Cái Trí th́ ngày đó ta c̣n lấy tư tưởng của kẻ khác làm tư tưởng của ḿnh.

          Chơn Sư dạy vị Đệ Tử phải tự ḿnh suy nghĩ hầu tránh những sự mê tín dị đoan. V́ Tin Dị Đoan gây ra những sự khốc hại kéo dài măi, cái nầy sanh cái kia, rồi cái kia sản xuất cái nọ, cứ tiếp tục như vậy chưa biết tới chừng nào mới chấm dứt.

          Tư tưởng của con về người khác phải chân thật; con không được nghĩ điều ǵ về kẻ khác mà con không biết rơ.

          Thường thường ta nghe người nầy nói: “Ông X như thế nầy,” c̣n người kia nói: “Ông Y như thế đó.”

          Khoan vội tin. Biết đâu người nói về ông X hay ông Y chỉ nghe kẻ khác thuật lại, chớ thật sự anh chưa gặp ông X hay ông Y lần nào, chưa giao thiệp mà cũng không thấy những việc làm của ông X hay ông Y ra sao nữa.

          Như thế, sự xét đoán về ông X hay ông Y không hoàn toàn đúng với sự thật.

          Ta phải thấy sự hành động của ông X hay ông Y, không phải chỉ một lần, mà phải nhiều lần mới có thể xét đoán được phần nào về tánh t́nh của ông X hay của ông Y.

          Thế tục thường t́nh là:

                   Khi thương nước đục cũng trong,

                   Khi ghét nước chảy giữa ḍng cũng dơ.

          Chơn Sư dặn ta xét đoán hoàn toàn đúng với sự thật, điều nầy hết sức khó làm, bởi v́ ta chưa trọn sáng, trọn lành. Tốt hơn là: Tự ḿnh luôn luôn xét đoán ḿnh, chớ đừng xét đoán ai cả để sau ḿnh khỏi bị kẻ khác xét đoán lại, v́ Luật Nhân Quả Báo Ứng.

          Ḿnh tự xét đoán ḿnh mới tự biết ḿnh. Mà tự biết ḿnh rồi mới có thể tiến mau.

          Hăy xét tai hại của tánh đa nghi. Người có tánh đa nghi là người mang kiến màu để xem hoàn cảnh. Vạn vật đều thay đổi màu sắc. Người đa nghi cứ cho ḿnh là phải, c̣n người khác là quấy. Thấy cái trắng cũng cho là cái vàng hay là cái đen, gặp cái hay cũng cho là cái dở, v.v… Không bao giờ thấy đúng sự thật. Không biết phục thiện, không biết nhận lỗi ḿnh. Ngày nào không phá vỡ lớp vỏ thành kiến nầy th́ ngày đó khó gặp Chân Lư.

          Đừng tưởng rằng: Người ta luôn luôn nghĩ đến con. Nếu có người nào làm một điều ǵ đó mà con nghĩ rằng sẽ có hại cho con, hay nói một điều ǵ đó mà con nghĩ rằng ám chỉ đến con th́ con chớ vội nghĩ rằng: “Y muốn hại con.” Rất có thể y chẳng hề nghĩ ǵ đến con cả, v́ mỗi tâm hồn đều có những lo lắng riêng của họ và chỉ suy nghĩ nhiều nhất về chính họ mà thôi. Nếu có ai nói giọng giận dữ với con, con chớ nghĩ: “Y ghét con, y muốn hại con.” Có thể là một người hay một việc nào khác đă làm y giận dữ, rồi t́nh cờ y gặp con nên trút cơn giận lên con. Y đang hành động điên cuồng, nhưng con không nên v́ vậy mà nghĩ quấy cho y.

          Thiên hạ luôn luôn cứ tưởng tới cá nhân ḿnh. Họ ở tại trung tâm của một ṿng tṛn do những tư tưởng và t́nh cảm của họ tạo ra. Họ xét đoán kẻ khác do theo sự phản ứng của những tư tưởng và t́nh cảm nầy. Họ đi tới đâu, họ mang theo lớp vỏ nầy tới đó. Bởi quá ích kỷ nên họ tưởng ai ai cũng đều nghĩ đến họ cả.

 

ĐỨC  LEADBEATER  BỊ  NGHI  OAN

         

          Tôi xin thuật chuyện Đức Leadbeater bị nghi oan cho quí bạn nghe.

          Đức Leadbeater nói:

          “Hồi tôi c̣n làm Linh Mục ở Giáo Hội Anh Quốc, bữa nọ, tôi thuyết pháp cho tín đồ nghe những tai hại có thể đem đến cho những thợ thuyền và những tá canh, nếu họ hành động theo những dục vọng cám dỗ họ. Nói xong th́ có một anh tá canh đứng lên la lối om ṣm trong Pḥng Giảng. Anh hằn học hỏi tôi: “V́ cớ nào ông đem tôi ra làm đề tài của Bài Thuyết Đạo.”

          Thật sự tôi không hề nghĩ rằng: Anh ấy đă phạm lỗi đó, những lời tôi nói lại trúng vào nhược điểm của anh, nên anh nổi nóng. Tôi chắc cho tới ngày nay anh cũng c̣n đinh ninh rằng: Tôi phân biệt anh trong đám người tới dự thính, nên chỉ trích ngay anh.”

          Trường hợp của Đức Leadbeater đă xảy đến cho nhiều người và thường lắm. Sự nghi ngờ người ta bêu xấu ḿnh, chê bai ḿnh, mà chỉ là sự nghi ngờ thôi, chớ thật không có điều đó, sanh ra oán hận rồi đưa tới việc trả thù, lo mưu kế hăm hại nhau cho đă nư giận. Thật là oan, Thị Kính không thể giải bày. Chỉ có Trời biết thôi.

          Người học Đạo không nên ngờ vực điều chi cả trong ḷng mới yên tịnh để tu hành. Chớ nên gây Nhân chẳng Lành mà sau phải gặt Quả Cay Đắng.

 

SỰ  NGỜ  VỰC    NGOÀI  ĐƯỜNG

 

          Một thí dụ khác nữa. Ta đi ngoài đường ta nh́n người nầy, ngó người kia, đó là lẽ tự nhiên. Có người không nói chi, mà cũng có người tưởng là ta có ư muốn không tốt: Hoặc tọc mạch, hoặc trêu ghẹo, hoặc chọc tức hay khinh khi, v.v… Sự ngờ vực nầy lắm lúc sanh ra những chuyện rắc rối to tát. Chuyện nhỏ bằng mũi kim, không đáng chi cả, lại làm lớn ra bằng cái nhà, thật là đáng tiếc vô cùng. Mà nguyên nhân chỉ là “Ngờ Vực” thôi. Hăy coi: Đi vào chợ mua đồ, cả trăm người chen lấn nhau, đụng chạm nhau, đó là lẽ thường không thể tránh khỏi được. Ai ai cũng có việc lo riêng, không lẽ bị người khác vô t́nh lấn một cái rồi đứng lại gây gổ, vừa mất ngày giờ vô ích mà có khi phải tới C̣ Bót thêm mệt Trí vô cùng.

          Chơn Sư căn dặn chúng ta đừng nghi quấy cho ai cả, v́ hai lẽ:

          1- Ta phạm tội nghi oan cho kẻ khác.

          2- Khi tập cho Cái Trí có thói quen ngờ vực th́ bất câu việc ǵ nó cũng nghi ngờ, như vậy làm sao ta học hỏi được Sự Thật và c̣n tin cậy ai nữa. Ta không tin cậy người th́ người tin cậy ta sao? Ta sẽ ở trơ trọi một ḿnh, không ai làm bạn với ta lâu được, v́ thiên hạ không thích tánh t́nh của ta.

 

SỰ  NÓNG  GIẬN    SỰ  ĐIÊN  CUỒNG

 

          C̣n tại sao sự nóng giận nào cũng là điên cuồng cả?

          Bởi v́ trong lúc nóng giận Cái Vía nổi những quầng đen có vành đỏ và đầy những lằn đỏ nhọn xẹt ra như lằn chớp nháng thấy phát sợ. Lúc nầy con người không c̣n tự chủ được nữa, không c̣n sợ ǵ hết, dám làm tất cả những ǵ làm được để đă nư giận: Liệng bàn ghế, đập đồ đạc, chửi mắng, nguyền rủa, thậm chí dám cầm dao đâm chém người. Chừng nguôi ngoai rồi th́ hối tiếc những điều đă thực hành, song đă muộn.

          Vậy hăy tập cho được tánh b́nh tĩnh, thản nhiên, tức là không cho Cái Vía ứng đáp với những rung động của sự nóng giận th́ mới có thể tránh được nhiều sự phiền năo.[34]

          Chừng nào con làm Đệ Tử của Thầy rồi, luôn luôn con có thể thử xem tư tưởng của con có chân chánh hay không bằng cách so sánh nó với tư tưởng của Thầy. V́ Đệ Tử đă hợp nhất với Thầy nên chỉ cần đặt tư tưởng của ḿnh kề bên tư tưởng của Ngài là thấy ngay có phù hợp hay không. Nếu nó không phù hợp, th́ tư tưởng của Đệ Tử là sai, th́ phải thay đổi nó ngay, v́ tư tưởng của Thầy vốn trọn lành, v́ Ngài hiểu biết tất cả.

          Trước khi được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử, phải là Người Có Lư Tưởng.

          Có ba Hạng Đệ Tử:

          1- Hạng Đệ Tử Nhập Môn (Élève Probationnaire).

          2- Hạng Đệ Tử Chánh Thức (Élève Accepté).

          3- Hạng Con Của Thầy (Fils du Maitre).

 

1- ĐỆ  TỬ  NHẬP  MÔN

 

          Hạng Đệ Tử Nhập Môn được liên lạc trực tiếp với Chơn Sư.

          Ngài làm ra một H́nh Giả của Thí Sinh bằng Chất Trí Tuệ, Thanh Khí và Dĩ Thái Hồng Trần (Ether Physique), nghĩa là H́nh nầy có Thượng Trí, Hạ Trí, Cái Vía và Cái Phách. Bốn Thể nầy liên lạc bằng Từ Điển với 4 Thể của Thí Sinh tại Cơi Trần. Tất cả những hành động, những cảm xúc, những tư tưởng của Thí Sinh đều ghi vào H́nh Giả nầy.

          Chơn Sư để H́nh Giả trong một chỗ riêng tiện bề quan sát mỗi ngày.

 

2- ĐỆ  TỬ  CHÁNH  THỨC [35]

 

          Thường thường trong ṿng 7 năm, cũng có khi lâu hay mau hơn, Thí Sinh trau giồi Tâm Tánh càng ngày càng thật tốt và chỉ lo Phụng Sự Chơn Sư thâu nhận Anh làm Đệ Tử Chánh Thức. Ngài cho Tâm của Anh nhập vào Tâm Ngài, rồi Ngài làm cho H́nh Giả tan đi. Từ đây Anh liên lạc trực tiếp với Sư Phụ.

          Vị Đệ Tử Chánh Thức là Tiền Đồn của Tâm Thức Chơn Sư. Điều chi làm trước mặt Đệ Tử là làm trước mặt Chơn Sư.

          Những tư tưởng, ư muốn, lời nói và việc làm của Đệ Tử đều phản ứng đến Chơn Sư. Ngài hay biết liền. V́ thế, vị Đệ Tử phải cẩn thận, nhất là trong tư tưởng. Khi vị Đệ Tử v́ chưa tự chủ được nên nổi nóng, Ngài dùng một bức màn ngăn Tâm Thức Ngài với Tâm Thức Đệ Tử, không cho sự nóng giận truyền tới Ngài.

          Sự ngăn cách nầy thường thường không quá 48 giờ. Khi Đệ Tử biết lỗi, lo sửa đổi cách tưởng nghĩ th́ Chơn Sư vén bức màn lên, Tâm Thức của Đệ Tử sẽ thông đồng với Tâm Thức của Chơn Sư như trước.

          Tốc độ sự rung động của 3 Thể thấp của Đệ Tử càng ngày càng lên cao và hoà nhịp với sự rung động của 3 Thể thấp của Chơn Sư. V́ thế, vị Đệ Tử tiến rất mau.

 

3- CON  CỦA  THẦY

 

          Tới một ngày kia, khi Chơn Sư thấy Tâm của Đệ Tử đă được trong sạch, không c̣n ứng đáp với những tư tưởng và ư muốn thấp hèn th́ Ngài liền cho Tâm của Đệ Tử nhập vào Tâm Ngài thân mật hơn trước.

          Đây là Giai Đoạn thứ ba: Vị Đệ Tử làm Con của Thầy.

          Tới Giai Đoạn nầy, Chơn Sư không c̣n dùng bức màn ngăn cách Tâm Ngài với Tâm của Đệ Tử nữa.

          Một thời gian sau, Ngài tŕnh vị Đệ Tử trước Quần Tiên Hội xin Điểm Đạo cho anh.

          Hiểu điều nầy, tôi xin nói rằng: Phải làm Đệ Tử Chánh Thức mới biết phương pháp đem tư tưởng ḿnh so sánh với tư tưởng của Chơn Sư, c̣n vị Đệ Tử Nhập Môn không làm được việc đó.

 

TẠI  SAO  CHƠN    THÔNG  HIỂU  HẾT  MỌI  VIỆC ?

 

          Tâm Thức của Chơn Sư thường trực ở tại Cơi Niết Bàn hay Đại Niết Bàn. Lên tới Cơi nầy, Ngài nh́n xuống Hồng Trần tất cả những ǵ xảy ra trên Thế Gian đều hiện ra tỏ rơ trước mặt Ngài, không khác nào việc chúng ta ngồi xem Phim Hát Bóng. V́ vậy Ngài thông hiểu hết mọi việc.

          Tục ngữ: “Đừng lấy vải thưa che Mắt Thánh” rất đúng.

          Những người nào chưa được Ngài thâu nhận làm Đệ Tử không thể hoàn toàn làm được việc nầy; nhưng họ có thể tự giúp ích họ được nhiều bằng cách thường ngưng lại và tự hỏi: “Thầy sẽ nghĩ sao về việc nầy? Thầy sẽ nói hay sẽ làm ǵ đối với hoàn cảnh nầy?” V́ vậy con đừng bao giờ làm hoặc nói hoặc nghĩ điều ǵ mà con không thể h́nh dung được Thầy cũng đang làm hay đang nói hoặc đang nghĩ như vậy.

          Mặc dầu Chơn Sư đă căn dặn, chắc chắn người ta không nghe theo đâu. Họ cho là làm như vậy rất mệt Trí và mất th́ giờ.

          Thường thường Cái Trí và Cái Vía của Con Người phản ứng mau lẹ, cho nên có nhiều việc người ta làm mà không suy nghĩ kỹ lưỡng. Đọc đoạn nầy cũng có người sẽ nói:

          “Nếu trước khi tưởng hay nói mà tôi làm như lời dạy th́ chắc là trọn ngày tôi không nói được bao nhiêu tiếng và thực hành được bao nhiêu việc.”

          Lời nầy hữu lư khi lấy theo quan điểm của Thế Tục, nhưng nếu suy xét cho chí lư th́ biết: Khi ta luôn luôn nuôi dưỡng trong Tâm Trí những tư tưởng cao siêu, tốt đẹp, chân thật, từ bi, th́ tự nhiên ta ít nói sai lầm và không làm những việc bất nhân, thất đức, ngoại trừ những trường hợp vô tâm, nhưng mà ta vẫn giải quyết mau lẹ những vấn đề khác chớ không phải chậm chạp.

          Phải biết Chơn Sư dạy như thế là muốn cho con người nhắm vào chỗ trọn sáng, trọn lành. Điều nào đáng tưởng mới tưởng, điều nào đáng nói mới nói, việc nào đáng làm mới làm.

          Người học Đạo phải tiến hơn bực trung b́nh và càng ngày phải càng tiến cao. Quyển “Dưới Chân Thầy” rất hạp với những người đă tu hành nhiều kiếp, người ta gọi là Có Căn Lành. C̣n người thường, dầu không thể áp dụng tất cả những lời dạy trong đời sống hằng ngày đi nữa, cũng phải coi theo đó để tập rèn tánh nết, ban đầu ít, sau nhiều. Hiện giờ đă có những biến cố lớn lao xảy ra, người ta mới thấy Tánh T́nh thật quan trọng là dường nào.

          Lời nói con cũng phải ngay thật, chính xác và không phóng đại.

          Lời nói có một năng lực phi thường. Ấy là Quyền Năng Sanh Hoá.

          Xin nhắc Kinh Thánh Cựu Ước nói:

          Đức Chúa Trời phán: “Hăy có Ánh Sáng th́ Ánh Sáng hiện ra”.

          Tánh con người thường hay khoe khoang để được người ta khen ḿnh. Khi thuật lại một câu chuyện đă nghe hay là việc ḿnh đă chứng kiến th́ thường nói không đúng với sự thật, hoặc thêm, hoặc bớt những chi tiết.

          Nói phóng đại th́ phạm tội Vọng Ngữ.

          Người chí nguyện, trái lại, phải thật đúng đắn từ trong tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Mới xem qua th́ thấy điều nầy quá sức của con người, nhưng chúng ta phải tập lần, chúng ta sẽ thành công.

          Tôi thường nhắc nhở các bạn tu hành rằng: Trên Đường Đạo chúng ta là trẻ nít mới tập đi, c̣n té lên, té xuống. Nhưng con nít càng ngày càng lớn, ta đây cũng vậy, nếu bền chí, ta sẽ đạt được mục đích đă nhắm. Đây là vấn đề thời gian thôi.

          Đừng bao giờ gán cho người khác với nguyên do nào, chỉ có Thầy y mới biết y nghĩ ǵ, và có thể y hành động v́ lư do nào đó mà con chưa bao giờ nghĩ đến. Nếu con nghe câu chuyện nói xấu về ai, con chớ nên thuật lại, câu chuyện đó có thể không đúng sự thật, mà dù nó đúng đi nữa, tốt hơn đừng nói ǵ cả.

          Trong Đoạn nầy, câu: “Chỉ có Thầy y mới biết y nghĩ ǵ,” có nghĩa là Chơn Sư muốn dạy ta cách đối đăi với các bạn Đồng Đạo; không nên có ư ngờ vực. Y có cách tưởng nghĩ riêng, y chịu trách nhiệm với Đức Tôn Sư của y.

          Khi chúng ta không biết lư do hành động của bạn ḿnh th́ làm sao xét đoán được hành động đó. Nói cho đúng chúng ta không được phép xét đoán ai cả.

          Chơn Sư cũng dạy không nên lặp lại những điều mà ta nghe nói có  hại cho ông X hay ông Y. Biết đâu những điều đó không có thật, do người ta ghét rồi phao vu. Mà dầu người ta có lỗi, người có ḷng nhân từ không nhắc tới lỗi đó, v́ khi xét ḿnh th́ thấy trước kia ḿnh cũng đă phạm tội như họ. Nếu ngày nay ta được trong sạch phần nào, đó là do ta trước kia đă đau khổ v́ nó, bây giờ thấy nó liền tránh xa, không khác nào việc bị phỏng lửa một lần, không dám lại gần lửa nữa.

          Hăy mở rộng ḷng nhân tha thứ cho kẻ lỗi lầm mới thật là người Biết Đạo và Hành Đạo.

 

PHẬT  DẠY  ĐỆ  TỬ  LỜI  NÓI  PHẢI  CHÂN  CHÁNH.  “TÔI  NGHE  NHƯ  VẦY.”

 

          Ở đây tôi tưởng cần giải nghĩa tại sao Phật dạy trước khi giảng Kinh Phật nói: “Tôi nghe như vầy,” chớ không nói: “Phật nói như vầy.”

          Hai câu nầy ư nghĩa khác nhau rất xa.

          “Tôi nghe như vầy” có nghĩa là: Tôi lặp lại những điều đă nghe, không biết có thiếu sót điều chi chăng? Các anh hăy suy nghĩ.

          C̣n câu: “Phật nói như vầy” là quả quyết rằng ḿnh lặp lại đúng y như lời Phật đă nói, không bỏ sót chữ nào cả.

          Cái Trí con người không phải cái máy ghi âm, thâu vô bao nhiêu sẽ phát ra bấy nhiêu không sai một mảy.

          Trọn 45 năm, Phật thuyết pháp không biết bao nhiêu lần, làm sao các Đệ Tử nhớ hết từ đầu đến cuối được.

          Nếu lặp lại không y như lời Phật đă nói mà quả quyết “Phật nói như vầy” sẽ phạm tội Vọng Ngữ.

          Phật bảo: “Tôi nghe như vầy” tức là muốn dạy Đệ Tử lời nói phải Chân Chánh, Đúng với Sự Thật, Ngài muốn tránh cho Đệ Tử khỏi phải mắc tội nói dối, nên căn dặn Bài Kinh nào cũng phải mở đầu: “Tôi nghe như vầy.”

          Tiếc thay đời sau Vu Cáo Phật Nhiều Lắm.

          Họ nói cái nầy, cái kia rồi hô to: “Ấy là Phật Ngôn.” Họ luyện tập cách nầy, cách kia rồi tuyên truyền: “Ấy là Phật Pháp.”

          Những người chưa Biết Đạo tin bằng lời. Họ là những người đáng thương hại hơn hết, v́ mắc phải tội Vọng Ngữ.

          Phải biết bên Chánh Đạo các Đệ Tử đều Tŕ Trai, Giữ Giới.

          Phép luyện ḿnh là việc riêng của mỗi cá nhân. Ông Thầy dạy miệng học tṛ, tức là Khẩu Khẩu Tương Truyền. Không có hai người học tṛ nào học chung một Thầy mà luyện tập in như nhau, bởi v́ Cung Mạng của hai người và Đường Tiến Hoá Tinh Thần của hai người vẫn khác nhau. Phương pháp Huyền Bí Học không phải như Môn Thể Dục công khai mà ai ai cũng luyện tập một cách với nhau. Luyện sái một chút th́ bỏ mạng. Nếu không rèn luyện Tâm Tánh cho Thật Tốt, Xác Thân cho Tinh Khiết th́ không bao lâu sẽ Vấp Ngă trước những sự Thử Thách đưa tới mà Không Chịu Nổi. Ai ai cũng đều gặp những Chướng Ngại nầy. Vượt qua khỏi hay không tuỳ thuộc sức của Con Người. Những kinh nghiệm từ ngàn xưa đă chứng chắc điều nầy không bao giờ sai.

          Chớ nên thọc tay vào lửa để thử nó có đốt cháy da thịt hay không? Nên đề pḥng. Và hay hơn hết là mỗi người T́m Đạo nên tự hỏi: Tôi là ai? Tôi được sinh ra ở Cơi Trần làm chi? Hiểu được mục đích của cuộc đời th́ quí bạn cầm sự tiến hoá của quí bạn trong tay. Quí bạn hăy t́m đọc những quyển sách giảng giải về Đường Đạo th́ quí bạn sẽ biết những việc phải làm để tiến mau, khỏi bị những tai hại nào cả.

          T́m Đạo không phải là Học những Phép Thần Thông, v́ những Phép Thần Thông không phải là Đạo. Đạo là Luật Sanh Hoá Trời Đất.

          Quí bạn vẫn biết Đức Phật ra đời dạy Tứ Diệu Đế  và Bát Chánh Đạo, chớ không bao giờ dạy cách Xuất Hồn, Xuất Vía, Mở Thần Nhăn, Thần Nhĩ chi cả.

          Ngài cấm Đệ Tử dùng những Phép Thần Thông để khoe khoang. Việc Ngài đập nát Cái Bát bằng Bạch Đàn của Đức Ma-Ha Ca-Diếp lấy đem về Tịnh Xá chứng minh lời tôi nói đây (Xin xem Đoạn Những Phép Thần Thông).

          Hăy suy nghĩ kỹ trước khi nói, v́ e rằng con sẽ nói không đúng sự thật.

          Phải thành thật khi hành động: Đừng bao giờ tự huênh hoang, phóng đại h́nh ảnh của con hơn sự thật. Mọi sự nguỵ tạo đều là trở ngại nó không cho ánh sáng trong sạch của Chân Lư soi thấu ḷng con như ánh sáng Mặt Trời rọi xuyên qua mảnh kính trong trẻo.

          Phải biết lúc đó Alcyone c̣n nhỏ chưa thông hiểu Luật Nhân Quả, cho nên Chơn Sư phải lặp đi lặp lại nhiều lần về việc phân biệt sự chân, sự giả và sự thành thật, hầu Alcyone tránh những hậu quả không tốt có thể xảy ra.

          Khoe khoang những điều ḿnh không thật có, thật biết, tức là ḿnh muốn loè thiên hạ. Như vậy ḿnh đă tự dối ḿnh mà c̣n dối người khác nữa.

          Nếu biết th́ nói biết, không biết th́ nói không biết, và cố t́m học cho thật biết. Có chi để hổ thẹn. Chúng ta c̣n dốt lắm. Chúng ta vốn là học sinh, c̣n biết bao nhiêu điều cần phải học hỏi trên đường đời cũng như trên Đường Đạo. Chúng ta đang học làm người trọn lành, chớ chưa phải là người trọn lành. Tại sao lại không phục thiện?

          Ta hăy thử nghĩ điều nầy: Nếu trí óc ta là những tấm kiến màu th́ ánh sáng của Chân Lư rọi qua không c̣n sáng trắng nữa mà là ánh sáng màu vàng, màu đỏ, màu xanh, có khi màu đen, tuỳ theo bản tánh của trí óc ta.

          Ta nhờ trí óc để học hỏi, nhưng một trí óc như thế làm sao hiểu được sự thật?

          Đừng quên rằng: Đạo là Chân Lư, là Sự Thật Tuyệt Đối. Nếu ta không thành thật th́ Nhân Quả sẽ dạy ta những bài học về Sự Chân Thật rất đau thương, không bây giờ th́ cũng vài năm sau. Vậy nên tập tánh Chân Thật ngay lúc nầy là điều hay hơn hết.

          Tôi tưởng cũng nên nói trắng ra: Sự hung ác và sự giả dối cũng giúp cho con người tiến vậy. Mới nghe qua thật là sự trái tai, nhưng đây có nghĩa là họ bị Luật Báo Ứng phạt làm cho họ bị đau khổ nhiều lần. Họ tỉnh ngộ, và trở nên hiền lương và thành thật.

          Như thế họ tiến, nhưng tiến trong sự đau khổ. C̣n những người nhân từ, những người thành thật tiến trong sự an vui.

 

NHỮNG  ĐIỀU  HỮU  ÍCH  CỦA  SỰ  CHÂN  THẬT

 

          Trong quyển số 4 của Bộ “Học Cơ Tiến Hoá Theo Khoa Minh Triết Thiêng Liêng,” trang 13-26, tôi có bàn về: Tư Tưởng Chân Chánh, Lời Nói Chân Chánh và Việc Làm Chân Chánh.

          Tôi xin chép lại hai Đoạn nói về Lời Nói Chân Chánh và Việc Làm Chân Chánh cho quí bạn xem.

 

II- LỜI  NÓI  CHÂN  CHÁNH

 

          Thế nào là Lời Nói Chân Chánh?

          Lời Nói Chân Chánh phải có đủ 3 đức tánh:

          1- Có cần thiết không?

          2- Có đúng với sự thật không?

          3- Có nhân từ không?

 

A- CÓ  CẦN  THIẾT  KHÔNG ?

 

          Cần thiết đây có nghĩa là: Đúng lúc và hữu ích. Lời nói chỉ có hiệu quả tốt đẹp là khi nào nói có suy xét và cố ư chớ không phải nói suồng să, tầm ruồng, đụng đâu nói đó một cách vô tâm. Lời nói phải từ nội tâm phát ra, âm điệu du dương chỉ có thể nảy sinh trong khi vắng tiếng rầy rà, ồn ào.

          Lời nói chân chánh phải có tính cách giúp đỡ, phá tan những đau khổ, giải quyết những khó khăn và đem hạnh phúc lại cho con người. Ngạn ngữ Tây Phương: “Phải uốn lưỡi 7 lần trước khi nói,” thật đúng lắm vậy.

          Phải Bịt Miệng với 3 Lớp Khăn như H́nh mà Đức Khổng Tử đă thấy trong một Cổ Miếu. Phải Thủ Khẩu Như B́nh mới sống yên được trong đời loạn lạc.

          Từ xưa đến nay, Lời Nói Vô Ư Thức đă gây ra nhiều Tai Hoạ, mà ít ai nghĩ tới việc Cẩn ngôn, Cẩn hạnh.

 

B- CÓ  ĐÚNG  SỰ  THẬT  KHÔNG ?

 

          Trong Đạo Bát Chánh của Phật Giáo, Chánh Ngữ tức là Lời Nói Chân Chánh được sắp vào Hàng Thứ Ba, sau Chánh Kiến (Thấy Chánh hay là Phân Biện), và Chánh Tư Duy (Tư Tưởng Chân Chánh).

          Muốn cho Lời Nói Chân Chánh th́ phải nói cho thật đúng, hết sức thật đúng. Thật đúng một cách tầm thường như ngoài đời, chưa thật là đủ, nhưng được bao nhiêu đó cũng đă khá lắm rồi.

          Người Đệ Tử phải nói hết sức đúng với sự thật. Phải nói thật một cách tuyệt đối.

          Đây là Đức Tánh Cần Thiết Hơn Hết cho những ai muốn đi theo Con Đường Huyền Bí Học.

          Phải thật đúng trong khi nhận xét. Phải thật đúng trong khi tường thuật lại mọi việc. Phải thật đúng trong tư tưởng. Phải thật đúng trong lời nói, trong việc làm, trong lúc hành động.

          Nếu không ngớt t́m kiếm sự thật, nếu không chí quyết trở thành một người giữ ḿnh đúng với sự thật th́ không thể nào đi theo được Con Đường Huyền Bí Học.

          Huyền Bí Học sẽ là một hiểm hoạ, một sa ngă mà thôi. Sự sa ngă nầy càng đáng sợ, càng đau thương khi sinh viên càng lên cao. Tại sao thế ?

          Bởi v́ đối với Nhà Huyền Bí Học, sự thật quả vừa là một người chỉ đường, đưa lối, một người hướng đạo, vừa là một bộ áo giáp để che chở họ.

          Sự thật đúng là người hướng đạo v́ nhờ nó mà Nhà Huyền Bí Học có được Trực Giác, giúp anh có thể phân biệt được Con Đường Chân Chánh và Con Đường Sai Lầm: Chánh Đạo và Tà Đạo. Nó là một bộ áo giáp, v́ nếu Nhà Huyền Bí Học không mặc bộ Áo Giáp Chân Thật đó th́ không thể nào tránh khỏi cạm bẫy của kẻ nghịch đưa ra. Anh sẽ là nạn nhân của những ảo ảnh và những h́nh thù quái đản của những cảnh giới mà anh phải đi qua.

          Áp dụng Sự Thật Đúng trong Tư Tưởng, Lời Nói và Việc Làm sẽ lần lần thức tỉnh được cái Trực Giác Tinh Thần. Nó phá tan tất cả những tấm màn Ảo Tưởng và không khi nào bị một thế lực ǵ ở đời lừa dối nó được.

 

NHỮNG  TẤM  MÀN  CHE   MẮT  GIĂNG  KHẮP  MỌI  NƠI

 

          Trong Cơi Đời ảo tưởng nầy, những h́nh dáng giả dối từ tứ phía nổi lên, cho đến ngày nào mà Trực Giác Tinh Thần với tia mắt nh́n thẳng thắn và không sai lầm của nó đi xuyên qua được mặt nạ che giấu sự vật th́ ngày đó Nhà Huyền Bí Học mới vững bước trên con đường đầy chông gai nầy.

          Ta không thể đạt được Trực Giác đó, nếu không tập luyện để có được Sự Thật Đúng trong Tánh T́nh, Sự Thật Đúng trong Trí Năo, Sự Thật Đúng trong Hành Động.

          Không có Sự Thật Đúng, ta sẽ thất bại, và lầm lạc. Không bao giờ tránh khỏi điều nầy được.

          Về Sự Thật, Đức Leadbeater dạy chúng ta rằng những danh từ chính xác và cụ thể cái nghĩa của Sự Thật trong ngôn từ là:

          Đúng đắn, danh từ chọn lựa kỹ lưỡng, rơ ràng, không chuốt ngót.

          Trong Ấn Độ Giáo có một quan niệm rất quen thuộc với chúng ta là: Âm Thanh tạo lập Vũ Trụ. Âm Thanh đây có nghĩa là: Mỗi Thứ Rung Động. Đó là lư do khiến người ta qui cho nó một năng lực đặc biệt. Khi chúng ta nói, chúng ta phát ra một cái ǵ đó không thể thay đổi được nữa. Lời nói của chúng ta tượng trưng cho tất cả những kết quả do chúng ta gây ra và những động tác, hành vi, đủ đầy các thứ. Theo nghĩa tổng quát nầy chúng ta phải tập sao cho mỗi khi nói ta làm vang lên âm điệu trong trẻo và đích xác thật đúng điệu. Đó là một lư tưởng cao thật, nhưng trong khi hoài băo những lư tưởng của chúng ta và gắng sức làm cho đời sống của chúng ta phù hợp theo đó, ta không nên “quên nghĩ đến Sự Thật.” Đừng để có sự thoả hiệp với khuynh hướng tŕ độn ngăn trở sự cố gắng và giảm bớt sự hy sinh của chúng ta.

 

C- CÓ  TỪ  THIỆN  KHÔNG ?

 

          Quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” đă dạy:

          “Trước khi được nói trước mặt Chơn Sư, Lời Nói phải mất năng lực làm Thương Tổn.”

          Nói cách khác dễ hiểu hơn, Lời Nói phải dịu dàng, không ẩn ư nhục mạ hoặc làm đau ḷng kẻ khác. Sự Dịu Dàng và Thật Đúng không chống đối nhau như người ta thường lầm tưởng. Lời nói có thể đúng trọn vẹn vừa là hết sức dịu dàng, nhă nhặn và từ ái. Khi nó càng thật đúng bao nhiêu th́ nó càng phải dịu dàng bấy nhiêu, chính ngay trong Trung Tâm của Sự Vật, Chân Lư và Ḷng Từ Bi vẫn hằng sống đời đời bên cạnh nhau.

          Bởi lời nói phải phản chiếu Cái Tinh Hoa sâu kín nhất của Vũ Trụ không nên vô cớ làm mích ḷng người hay tạo ra một điểm ngờ vực nào cả. Vậy lời nói phải thật đúng và phải dịu dàng, nhă nhặn. Đó là sự khắc kỷ về lời nói, sự thiệt thọ hăm ḿnh trong ngôn ngữ, điểm hy sinh mà mỗi Người Chí Nguyện phải thực hành.

          Quí bạn sẽ hỏi: Nếu phải cảnh cáo hay khiển trách th́ phải làm thế nào?

          Nếu cảnh cáo hoặc khiển trách là những điều lắm khi cần đến th́ kết quả của nó phải có phần hữu ích. Nó phải thức tỉnh, khuyến khích, sửa đổi, đừng làm cho người có lỗi ở trong t́nh trạng ngă ḷng, rủn chí, buồn bực.

          Một đôi khi Chơn Sư có thể tỏ ra nghiêm khắc trong lời nói, nhưng như thế là Ngài muốn cho Đệ Tử hiểu một cách rành mạch và rơ ràng hơn lỗi đă phạm. Đồng thời Ngài cũng làm cho tâm hồn Đệ Tử được thêm phần mạnh mẽ và đầy nghị lực.

 

CHỚ  NÊN  HIỂU  LẦM  SỰ  NÓI  THẬT  ĐÚNG

 

          Tuy nhiên, chớ nên hiểu lầm sự nói thật đúng với sự nói hành.

          Không phải phanh phui những tật xấu của thiên hạ hay là mắng chửi trên đầu người ta rồi viện lẽ rằng: “Ḿnh nói Sự Thật.” Không nên đem những sự bí mật trong nghề nghiệp, trong gia đ́nh, trong xă hội, trong nước nói trắng ra để tỏ rằng ḿnh là tay thạo đời, là ḿnh thành thật.

          Điều đó là khờ dại, đần độn và chuốc lấy tai hoạ vào thân. Trong trường hợp nầy không nói ra tất cả những sự thật là khôn ngoan, kín miệng.

          Phải sáng suốt, phải biết phân biện, phải thận trọng từ chút, v́ có nhiều việc dầu biết rơ cũng phải giữ thái độ im lặng. Đó là điều hay hơn hết để tránh những điều phiền phức về sau có thể xảy ra.

 

VIỆC  LÀM  CHÂN  CHÁNH

 

          Việc Làm Chân Chánh (Chánh Nghiệp) đứng vào Hàng thứ Tư của Bát Chánh Đạo.

          Nếu Tư Tưởng Chân Chánh và Lời Nói Chân Chánh th́ tự nhiên Việc Làm cũng sẽ trở thành Chân Chánh.

          Cái Nhân đă như thế Cái Quả cũng sẽ như thế chớ không sao khác được. V́ hành động tức là sự biểu lộ của sức mạnh nội tâm và khi nào tư tưởng trong sạch, lời nói thật đúng và ngay thẳng th́ sự hành động tất nhiên sẽ cao thượng.

          Phát nguyên từ ngọn suối êm đềm, ngon ngọt, ḍng nước cũng phải êm đềm, ngon ngọt không thế nào khác hơn được. Phát sanh từ tấm ḷng và khối óc tinh khiết th́ hành động chỉ có thể là chân chánh và từ thiện mà thôi.

          Tư tưởng chân chánh, lời nói chân chánh, việc làm chân chánh là ba sợi dây liên kết Người Chí Nguyện một mặt với nhân loại trong việc phụng sự cao siêu, một mặt với Sư Phụ của anh. Ba sợi dây nầy không thế nào bị cắt đứt.

          Trong các Tôn Giáo lớn, ba sợi dây ấy là dấu hiệu của sự hoàn toàn tự chủ: Tự Chủ về Tư Tưởng, Lời Nói và Việc Làm.

          Và sau rốt mọi sự sẽ ra sao? Về ngôn ngữ, con người tỏ ra bất lực, không sao diễn tả đoạn chót của sự lập hạnh nầy. Những màu sắc tối tăm của Trái Đất không sao miêu tả vẻ mỹ lệ của lư tưởng toàn hảo ấy mà chúng ta hy vọng một ngày kia sẽ đạt và biết rơ rằng một ngày kia sẽ thành tựu. Có bao giờ lư tưởng nầy hiện rơ ra với chư huynh trong lúc lặng lẽ không? Chư huynh có bao giờ trông thấy cái phản ảnh của nó trong sự an tịnh của Trái Đất, cũng như trong sự tịch mịch của Bầu Trời không?

          Chư huynh đă bao giờ trông thấy các Vị Tiên Thánh c̣n sống và hoạt động không? Các Vị trước kia là người và bây giờ đă vượt qua tŕnh độ của con người, trở thành những Vị Siêu Nhân cao cả, oai nghiêm. Sau nầy nhân loại cũng sẽ được như các Ngài, tuy bây giờ chưa đạt đến tŕnh độ ấy, trừ ra những người ở những ṿng trong của Thánh Điện.

 

CÁC  TÔN  GIÁO  ĐỀU  TRỌNG  TÁNH  CHÂN  THẬT

 

          Tôi xin kể những lời dạy của các Tôn Giáo về Tánh Chân Thật cho quí bạn nghe.

 

1- ẤN  GIÁO

 

          Chân Lư là Thượng Đế, vĩnh cửu. Vạn vật đều dựa vào Chân Lư. (Mahâbhârata Anoushâsana Parva CLXII-5).

          Sự khổ hạnh, ḷng quảng đại, sự công b́nh, ḷng nhân từ, sự chân thật, đó là những sự hy sinh. (Chândogya Oupanishad, II, XVII, 4).

          Hăy nói điều chi có thật . . . . . . Đừng ra ngoài Chân Lư. (Taittiriya Oupanishad, I, II, 1).

 

2- BÁI  HOẢ  GIÁO  (ZOROASTRISME)                                              BA    GIÁO

 

          Người ta nên biết rằng: Thật là Phẩm Hạnh do Chân Lư mà ra.

          Đúng thật, những người cứu trợ nhân loại cao cả nhất là những người ưa thích Chân Lư, họ thấy xa và vâng lời Đức Thượng Đế, Ngài biết tất cả. (Dinhard. Vol. VII. P. 452).

          Điều thứ năm: Đừng bao giờ nói dối, v́ sợ danh giá và sự vinh quang sẽ bị hoen ố. (Ibid. P. 492).

 

3- DO  THÁI  GIÁO  (JUDAISME)

 

          Đức Thượng Đế muốn Sự Chân Thật ở trong đáy ḷng. (Thi Thiên 51-8) (Psaume 51-8).

          Những lời của kẻ hung ác là những cạm bẫy làm cho đổ máu.

          Nhưng cái miệng của những Người Ngay Thẳng giải thoát cho kẻ khác. (Châm Ngôn 12- ‘6’) (Proverbes 12- ‘6’).

          Kẻ nào Nói Thật, tuyên bố sự công b́nh; người làm chứng giả dối tỏ ra gạt gẫm. (Châm Ngôn 12- ‘17’).

          Điều Chân Thật bền vững đời đời, nhưng cái lưỡi giả dối chỉ tồn tại trong một lúc mà thôi. (Châm Ngôn 12- ‘19’).

 

4- PHẬT  GIÁO

 

          Ai biết được điều nào Chân là Chân, điều nào giả là giả sẽ hiểu thấu Chân Lư và theo đuổi những ước mơ chánh đáng. (Pháp Cú 1- ‘12’) (Dhammapada 1- ‘12’).

          Hăy Nói Thật, đừng giận hờn, tuỳ theo sức ḿnh mà bố thí, do ba điều nầy con người đến gần các Vị Thiên Đế. (Pháp Cú 224).

          Người nào lời nói dịu dàng, hữu ích, Ngay Thật, không dùng lời nói mắng nhiếc ai, người đó, mới thật là Người Bà La Môn. (Pháp Cú 408).

          Người nầy chớ gạt gẫm người kia v́ y vốn đồng loại với ḿnh. (Mettasoutta 6).

 

5- THIÊN  CHÚA  GIÁO

 

          Như vậy, mỗi người trong các anh hăy chừa bỏ sự nói dối, hăy nói thật với đồng bào, v́ chúng ta là anh em với nhau. (Ê Phê Sô 4- ‘25’) (Éphésiens 4- ‘25’).

          V́ cái quả của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công b́nh và Thành Thật. (Ê Phê Sô 5- ‘9’).

          Vậy hăy đứng vững, lấy Lẽ Thật làm dây nịt lưng. (Ê Phê Sô 6- ‘14’).

          Chớ nên Dối nhau, v́ đă lột bỏ người cũ cùng công việc của nó. (Colossiens 3- ‘9’).

          (Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước in lần thứ 8).

 

6- HỒI  GIÁO

 

          Đừng lấy sự giả dối che đậy Sự Thật, đừng đánh cắp ánh sáng của nó, anh biết nó rồi. (Coran II ‘41’).

          Hăy lường thật đầy và dùng một cái cân thật đúng. (Coran 6 ‘182’).

          Thật vậy, Thượng Đế ra lịnh cho chúng ta phải công b́nh. (Coran XVI  ‘92’).

          Và c̣n nhiều nữa, chớ không phải bao nhiêu đó là đủ.

          Con phải phân biệt giữa cái ích kỷ với cái vị tha. Bởi tánh ích kỷ có rất nhiều h́nh thức, nên khi con nghĩ con đă diệt được nó trong một h́nh thức nầy nó lại trổi dậy dưới một h́nh thức khác cũng mạnh mẽ không kém. Nhưng dần dần tư tưởng lo giúp đỡ kẻ khác sẽ choán cả tâm trí con đến nỗi không c̣n chỗ nào, lúc nào để nghĩ đến con nữa.

          Tánh ích kỷ ăn sâu vào tâm trí con người cả trăm triệu năm rồi. Không phải dễ trừ nó. Nó có thiên h́nh vạn trạng, Chơn Sư đă nói: Dầu diệt nó dưới một h́nh thức nào nó vẫn tái sanh dưới một h́nh thức cũng mạnh bạo khác.

          Tánh ích kỷ không khác nào Con Rắn Bảy Đầu Hydre de Laerne ở trong Hồ Laerne tại Argolide, miền ao hồ xứ Cổ Hy Lạp. Chặt đứt đầu nầy th́ đầu khác mọc ra. Nó bị Heraclès, tức là Hercules chặt một cái rụng hết bảy đầu, không mọc được nữa.

          Muốn trừ tánh ích kỷ phải mở ḷng từ bi thương xót những người cô thế, yếu đuối, lầm lạc và t́m phương giúp đỡ họ tuỳ theo khả năng của ḿnh.

          Phải ra công luyện tập mỗi ngày, trong ṿng 3, 40 năm mới mong thấy ḷng vị tha của ḿnh mở rộng.

          Phải làm sao trong trí ta chỉ chứa một điều là mưu cầu hạnh phúc cho đời th́ ta không c̣n th́ giờ nghĩ đến cá nhân ta nữa.

          Ta gặp nhiều người than phiền: “Thật là đáng buồn, đáng phiền, anh X không tưởng đến tôi, trong khi tôi vẫn lo lắng cho anh.” Sự than phiền nầy tỏ ra người nói c̣n tánh ích kỷ.

          Phải nói trong ḷng như vầy: “Tôi cứ lo làm những việc lành, những việc phải. Điều đó thật là trọng hệ. Việc người ta biết hay không biết những hành động của tôi, không có chi là quan trọng.

          Bổn phận của tôi luôn luôn phải thi ân bố đức, nhưng không đ̣i hỏi điều chi cho tôi cả.”

          Như thế th́ quí bạn sống một đời cao thượng, thanh cao và được thiên hạ mến yêu.

          Con phải phân biệt một  cách khác nữa. Phải tập nhận rơ Đức Thượng Đế ngự trong mọi người, mọi vật, dù cho bề ngoài người ấy hay vật ấy xấu xa đến đâu đi nữa. Con có thể giúp đỡ đồng loại của con nhờ cái mà con cùng có chung với y, đó là Sự Sống Thiêng Liêng. Hăy t́m cách đánh thức Sự Sống đó trong người của y, và t́m cách kêu gọi Sự Sống đó trong người y; như vậy con sẽ cứu được y ra khỏi sự sái quấy.

          Trên Trời, dưới Đất, trên Không Trung, trong thân thể các Loài Vật, từ Loài Tinh Chất, Kim Thạch, Cầm Thú, Con Người và các Hạng Thiên Thần đều có Sự Sống Thiêng Liêng, Sự Sống của Đức Thượng Đế.

          Ông Ouddalaka có đưa ra một sự thí nghiệm để chứng minh đâu đâu cũng có Thượng Đế. Câu chuyện như sau đây:

 

CÂU  CHUYỆN  ÔNG  OUDDALAKA  DẠY  CON  HAY    ĐÂU  ĐÂU  CŨNG    ĐỨC  THƯỢNG  ĐẾ

 

          Ông Ouddalaka bảo đứa con trai bỏ muối vào một chậu nước. Bữa sau, ông nói với nó: “Con hăy kiếm muối cho cha.” Đứa con trai trả lời: “Con t́m không ra.” Ông nói: “Hăy nếm nước ở trên mặt b́nh nước.” Đứa con trai vâng lời, và nói: “Nước mặn lắm.”

          Hỏi: Hăy nếm nước ở phần giữa cái b́nh.

          Đáp: Nó cũng mặn.

          Hỏi: C̣n nước ở dưới đáy?

          Đáp: Nó cũng mặn nữa.

          Ông bèn giải cho nó biết: Muối đă tan hết trong nước nên không thấy nó, không gặp lại nó. Cũng thế đó, Hồn của Vũ Trụ là Brahman, Đức Thượng Đế thâm nhập vào tất cả các loài. Đâu đâu cũng có Ngài, Ngài vô sở bất tại, trường tồn bất diệt, Ngài là một, tuy vẫn khác trong những lớp vỏ đă mang để hiện ra. Tất cả những cái ǵ có nơi đây, đều nhờ Đấng độc nhất vô nhị là Ngài ban cho Sự Sống nên mới sống được.

          Rồi ông mới nhấn mạnh: “Ấy là Đại Hồn của Vũ Trụ, ô Svetaketu! Ngài là Cái Đó (Tu es Cela).

          Nầy con! Đây là cái cầu của chúng ta. Con là Atman, Atman là Bản Ngă của Con Người; mà Atman với Brahman, Đại Ngă của Vũ Trụ, chỉ là một. Trong Tâm của Con Người có một lỗ hủng,[36] ấy là chỗ trú ẩn của Đức Thượng Đế Brahman, người ta có thể gặp Ngài nơi đó.”

          Bài nầy cũng chứng minh mấy câu sau đây trong Minh Tâm Bửu Giám:

          1- Nhơn hữu thiện nguyện, Thiên tất tri chi. (Tây Sơn Chân Tiên Sinh).

            - Người có ư nguyện lành, Trời ắt biết.

          2- Nhân gian tư ngữ, Thiên văn như lôi; Ám thất khuy tâm, Thần mục như điện. (Huyền Đế).

            - Ở Thế Gian lời nói riêng tư, Trời nghe như sấm. Ở trong nhà tối ḷng xấu tưởng quấy, mắt Thần thấy rơ như chớp.

          Những người chỉ biết Vật Chất, không tin có Tinh Thần sẽ cho những lời nói trên đây là phi lư, cốt để lừa trẻ con. Đối với họ, Trời là khoảng trống rỗng trên Không Gian mà thôi. Tự do tín ngưỡng, nhưng nên biết rằng: Dù cho Vũ Trụ, đừng nói chi là Con Người, cũng phải tuỳ thuộc Luật Nhân Quả.

          Nên nhớ rằng: Luật Nhân Quả là Luật Động và Phản Động; nó chi phối Vũ Trụ Càn Khôn, không có Loài nào thoát khỏi ảnh hưởng của nó.

 

3  ĐIỂM  CHÁNH  TRONG  CON  NGƯỜI    CÁC  LOÀI  VẬT

 

          Trong Con Người và các Loài Vật đều có 3 điểm chánh sau đây:

          1- H́nh Thể.

          2- Bản tánh của H́nh Thể.

          3- Sự Sống Thiêng Liêng trong ḿnh.

          Khi ta gặp một con sâu rọm ḅ dưới đất, lông lá h́ hợm làm cho người phát sợ, ta hăy tự nói: Con vật nầy cũng có Sự Sống Thiêng Liêng như ta, nhưng nó đang ở vào một tŕnh độ thấp kém hơn ta, nó có sự tiến hoá riêng của nó. Ta hăy để cho nó được tự do như ta muốn được tự do vậy.

          Ta không nên giết nó. Chỉ trong trường hợp sâu bọ phá hoại mùa màng, cây trái, ta phải ra tay trừ khử. Đây là trường hợp bất khả kháng. Ta phải trọng sinh mạng của Con Người hơn sinh mạng của sâu bọ.

          Ngoại trừ trường hợp phải tự vệ, ta không được phép sát hại những Loài Vật của Trời sanh.

 

SAO    THỨC  TỈNH  SỰ  SỐNG  THIÊNG  LIÊNG ?

 

          Sự Sống Thiêng Liêng ngủ say trong ḷng Con Người hay sao mà phải thức tỉnh nó?

          Đây là lời nói bóng dáng.

          Sự Sống Thiêng Liêng tức là Chơn Thần.

          Thức tỉnh Sự Sống Thiêng Liêng là phải làm sao cho Con Người tự biết ḿnh là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Thượng Đế.

 

CON  NGƯỜI  PHẢI  TỰ  BIẾT  M̀NH    CHƠN  THẦN

 

          Xin nhắc: Cũng như Đức Thượng Đế Con Người có 3 Ngôi:

          Ngôi thứ Nhứt: Chơn Thần (Monade).

          Ngôi thứ Nh́: Chơn Nhơn (Ego – Individualité – Soi Supérieur).

          Ngôi thứ Ba: Phàm Nhơn (Personnalité – Soi Inférieur).

 

1- CHƠN  THẦN

 

          Chơn Thần vốn là Con của Đức Thượng Đế ở tại Cơi Đại Niết Bàn, đồng Cảnh với Ngôi thứ Nh́ của Thượng Đế là Vishnou.

          Khi Con Thú tiến hoá tột bực cao rồi th́ Chơn Thần xuống Cơi Bồ Đề biến đổi Hồn Thú ra Thượng Trí và sanh ra Chơn Nhơn.

 

2- CHƠN  NHƠN

 

          Chơn Nhơn là một phần nhỏ nhít của Chơn Thần. Chơn Nhơn hoạt động ở 3 Cơi: Niết Bàn, Bồ Đề và Thượng Thiên.

          Chơn Nhơn đang ở vào thời kỳ phát triển mà thôi, cho nên các Chơn Nhơn có những tŕnh độ tiến hoá khác nhau.        

          Ta có thể nói, mặc dầu ở chung với các Đại Thiên Thần Vô Sắc Giới, có những Chơn Nhơn già và những Chơn Nhơn trẻ. Những Vị có tuổi tác thường thông hiểu và kinh nghiệm nhiều hơn mấy Vị c̣n trẻ và sanh sau. Dầu sao, đời sống của Chơn Nhơn cũng rộng lớn, phong phú và cao siêu hơn đời sống Hồng Trần của Phàm Nhơn.

 

3- PHÀM  NHƠN

 

          Chơn Nhơn sanh ra Phàm Nhơn để học hỏi và kinh nghiệm ở 3 Cơi dưới là: Hạ Thiên, Trung Giới (Dục Giới) và Hồng Trần. Phàm Nhơn là một phân thân của Chơn Nhơn.

 

PHÀM  NHƠN  RA  SAO ?

 

          Kinh sách Đạo Đức nói theo cách tượng trưng như vầy: Phàm Nhơn là một người màu vàng lớn bằng ngón tay cái ngự tại trái tim.

          Đức Leadbeater và nhiều vị Đệ Tử khác thường thấy Phàm Nhơn như là một Ngôi Sao Sáng Rỡ.[37]

          Có người th́ Ngôi Sao nầy ở tại Luân Xa giữa hai Chưn Mày, có người th́ ngôi sao nầy ở tại Luân Xa của Yết Hầu, có người th́ Ngôi Sao nầy ở tại Luân Xa gần rún, v.v… Điều đó vẫn tuỳ thuộc Cung Mạng và Ḍng Giống của Con Người hay là Sắc Tộc.

          Phàm Nhơn là đại diện của Chơn Nhơn trong 3 Cơi: Hạ Thiên, Trung Giới và Hồng Trần. Nhưng Phàm Nhơn thường quên cội rễ và coi ḿnh như một Cá Nhân riêng biệt, v́ nghe theo lời xúi biểu của 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

 

SỰ  LIÊN  LẠC  GIỮA  3  NGÔI:  CHƠN  THẦN, CHƠN  NHƠN    PHÀM  NHƠN

 

          Có Đường Giao Thông giữa Chơn Thần với Chơn Nhơn và giữa Chơn Nhơn với Phàm Nhơn.

          Đường Giao Thông giữa Chơn Nhơn với Phàm Nhơn gọi là Antakarana. Nhưng Đường Giao Thông nầy thường bị nghẹt, v́ các hành động xấu xa, quấy quá của Con Người từ trong tư tưởng, ư muốn cho tới lời nói và việc làm mỗi ngày. Con Người vẫn đi theo con đường cũ đă vạch sẵn.

 

TẠI  SAO  CHƠN    BẢO  ALCYONE  PHẢI  ĐI  SÂU  VÀO  NỘI  TÂM  ĐỂ  T̀M  ĐỨC  THƯỢNG  ĐẾ    NGHE  LỜI  NGÀI ?

 

          Ở đây Đức Thượng Đế là Chơn Thần. Chơn Thần vẫn đồng bản tánh với Đức Thượng Đế và ngày sau sẽ thành một vị Thượng Đế.

          Chơn Sư không bảo phải t́m Chơn Nhơn, v́ Chơn Nhơn chưa Sáng Suốt, chưa Thánh Thiện, chưa Thiêng Liêng như Chơn Thần.

          Khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt th́ Phàm Nhơn nhập một với Chơn Nhơn. Lúc nầy Chơn Thần xuống Phát Nguyện.

          Tới khi được Điểm Đạo lần thứ Năm, Chơn Nhơn nhập một với Chơn Thần. Con Người thành một Vị Siêu Phàm.

          Chơn Nhơn không c̣n nữa. “Dưới Chân Thầy” dạy một cách tuyệt đối, không có những biện pháp lưng chừng.

 

MUỐN  THỨC  TỈNH  NGƯỜI,  M̀NH  PHẢI  TỰ  THỨC  TỈNH  M̀NH  TRƯỚC

 

          Chơn Sư bảo: Phải thức tỉnh Sự Sống Thiêng Liêng trong Con Người mới cứu y khỏi bị tai hại.

          Thật sự, muốn dạy dỗ người, muốn thức tỉnh người th́ trước nhất ḿnh phải tự dạy dỗ ḿnh, tự thức tỉnh ḿnh th́ kết quả mới có phần tốt đẹp.

 

PHƯƠNG  PHÁP  TỰ  THỨC  TỈNH

 

          Dưới đây là phương pháp tự thức tỉnh ḿnh.

          Mỗi ngày 4 lần:

          1- Sớm mai khi vừa thức dậy rửa mặt mày xong xuôi.

          2- Trưa 12 giờ hay 1 giờ.

          3- Chiều 6 giờ.

          4- Tối trước khi đi ngủ.

          Ngồi trên ghế hay chỗ nào cũng được. Nói trong ḷng hay là nói nho nhỏ trong miệng câu nầy 3 lần:

          “Om! Tôi là Atman,[38] Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác. Ḷng Từ Bi, Bác Ái của tôi bao la, bát ngát, vô tận, vô biên.[39]

          Tôi là một với Vạn Vật. Tôi thương yêu tất cả.

          Tư tưởng tôi trong sạch. Lời nói tôi trong sạch. Việc làm tôi trong sạch.

          Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí là 3 Thể do Trời sanh để phục vụ tôi. Tôi là chủ của chúng nó. Chúng nó tuân theo mạng lịnh của tôi sai khiến. Om!”

          Nên học thuộc ḷng những câu nầy.

          Nếu mỗi giờ mỗi niệm 1, 2 lần th́ càng hay.

          Quí bạn hăy thực hành liên tục, từ 2 năm trở lên th́ thấy Cái Trí bớt lau chau và Tâm của quí bạn bắt đầu trở nên sáng suốt. Sau nhiều năm luyện tập, quí bạn sẽ phân biện được dễ dàng điều nào lành, điều nào dữ, điều nào tà, điều nào chánh. Quí bạn sẽ ít lỗi lầm.

         

CÁCH  THỨC  TỈNH  SỰ  SỐNG  THIÊNG  LIÊNG

 

          Có 2 cách:

          1- Trao Kinh Sách Đạo Đức cho người ta xem để biết Bản Tánh Thiêng Liêng của Con Người và v́ sao Con Người là Tiểu Thiên Địa.

          2- Khi gặp bất cứ là ai, già hay trẻ, nam hay nữ, hoặc là khi bắt tay ai hăy nói trong ḷng như vầy:

          “Om! Chị (Anh hay Em) là Atman, Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác. Cầu xin ân lành của Các Đấng Thiêng Liêng ban xuống cho Chị (Anh hay Em). Om!.”

          Câu nầy c̣n hữu ích khác nữa. Nó ngăn ngừa được T́nh Dục không cho dấy lên khi đứng trước một sắc đẹp quyến rủ.

          Quí bạn Đạo, quí bạn thanh niên, học sinh, sinh viên, quí bạn hăy nhớ 2 câu nầy và Thực Hành, quí bạn sẽ thấy hiệu quả tốt đẹp trong một thời gian sau. Xin quí bạn hăy bền chí.

          Cũng như mỗi buổi sớm mai đều tập Thể Dục th́ thân thể trở nên tráng kiện, ở đây cũng vậy; phải thực hành điều nầy mỗi ngày, v́ luôn luôn có cơ hội đưa đến.

          Tôi xin nói thêm: Muốn Hoàn Toàn Thành Công trước nhất, quí bạn phải Diệt Tánh Ích Kỷ, Chia Rẽ, điều nầy thuộc về tánh Phân Biện.

          Khi quí bạn gặp những người hung dữ, mê muội, xấu xa, ngu độn, dốt nát, khờ dại th́ quí bạn hăy tự nói trong ḷng:

          “Họ cũng là những Chơn Thần như tôi vậy, nhưng họ c̣n mắc vào ṿng tục luỵ. Tới một ngày kia, họ cũng sẽ đi đến tŕnh độ tiến hoá của tôi hiện thời và họ cũng sẽ thành Chánh Quả. Vậy tôi phải t́m những phương tiện thích nghi giúp đỡ họ mau trở nên sáng suốt.”

          Nói rồi cầu xin ân lành ban xuống cho họ.

          Hành động của quí bạn tạo ra một luồng từ điện êm đềm, hoà nhă, cảm hoá được tất cả những người mà quí bạn gặp gỡ. Quí bạn sẽ được thiên hạ mến yêu và quí bạn sẽ làm cho mọi người đều được đẹp ḷng.

         

II -  HẠNH  KHÔNG  HAM  MUỐN                                                                                                                                                                                                            

(Desirelessness)

 

          Hạnh không ham muốn là điều khó tập đối với nhiều người, v́ họ tưởng rằng ham muốn ấy là chính họ, và nếu những điều ham muốn riêng tư cùng những điều ǵ họ thích và không thích của họ bị dứt bỏ hết th́ không c̣n ǵ là bản thân họ nữa.

          Hạnh Không Ham Muốn là một tánh hết sức khó tập đối với tất cả mọi người. Sự Ham Muốn bắt đầu từ lúc ta mới sanh cho tới khi ta lớn khôn, càng ngày càng tăng thêm nhiều và đủ thứ Ham Muốn. Có 2 loại Ham Muốn: Ham Muốn tốt và Ham Muốn xấu.

          Luôn luôn Con Người đồng hoá với Cái Vía nên cứ nói là: Tôi Muốn, chớ thường không chịu ra công suy xét sâu xa để thấy sự Ham Muốn đó chánh đáng không? Hạp lư không?

          Muốn mà không được toại nguyện liền đau khổ, than thở, tức tối, cho rằng ḿnh vô phước nên không đạt được mục đích.

          Để thắng sự ham muốn, việc đầu tiên phải làm là: Luôn luôn quả quyết ḿnh là Chơn Thần, chớ không phải là Cái Vía. Cái Vía thường ham muốn, chớ không phải thật là ḿnh muốn. Cứ nhớ như vậy, rồi trước khi thực hành điều ḿnh muốn phải suy nghĩ và phân tách coi điều nào hữu ích nhiều, điều nào hữu ích ít th́ chắc chắn những lỗi lầm, những thất vọng sẽ giảm đi rất nhiều.

          Việc nầy như tôi đă nói: Lúc ban đầu thấy thật mệt nhọc, thật chậm chạp, nhưng chớ nên ngă ḷng; khi tập tánh chân thật cho có thói quen th́ trực giác sẽ mở lần lần. Sự phân biệt sẽ rất mau lẹ. Điều chi ban đầu thấy khó khăn, về sau đều hoá ra dễ dàng, khi ta mỗi ngày mỗi cố gắng luyện tập.

          Nhưng đây chỉ là những người chưa gặp được Thầy. Chớ một khi đứng trước Thánh Dung của Ngài với hào quang sáng chói th́ mọi dục vọng đều tiêu tan, chỉ c̣n lại ư muốn được giống như Ngài mà thôi. Tuy nhiên, trước khi được diễm phúc diện kiến với Ngài, con cũng có thể đạt được Hạnh Không Ham Muốn, nếu con quyết chí.

          Sự ham muốn không khác nào một cái cây có nhiều nhánh. Chặt nhánh nầy hăy c̣n nhánh khác. Phải chặt đứt ngang cây và đào hết gốc rễ mới mong cây không c̣n phương nào tái sanh.

          Quả thật, khi ta hữu phước đứng trước mặt Chơn Sư ta sẽ không c̣n ham muốn điều chi nữa, ngoại trừ việc: Làm sao được giống như Ngài vậy.

          Nhưng hăy cẩn thận, khi trở lại Cơi Trần những sự cám dỗ ào tới lung lạc ta. Nếu không biết giữ ḿnh th́ ta thích giàu sang, quyền thế hơn là Địa Vị Người Đệ Tử. Ta bỏ Con Đường Đạo và bước sang con đường vinh hoa, phú quí của Trần Tục. Từ xưa đến nay, ở xứ nào vào thời đại nào cũng đều xảy ra những trường hợp như thế.

          Thiết tưởng, nên biết tại sao đứng trước mặt Chơn Sư chúng ta không bao giờ tưởng quấy được?

          Bởi v́ lúc đó hào quang của Chơn Sư chói sáng rực rỡ, xinh đẹp vô cùng, nó bao phủ ta, che chở ta, không có một tư tưởng xấu nào ở ngoài xông vào hào quang của Ngài được. V́ thế Tâm Trí ta rất yên tịnh.

          Nhưng một khi ta xa Ngài, Cái Trí ta trở lại rung động theo thói quen của nó.

          Lẽ tự nhiên không sao tránh khỏi những tư tưởng không lành đến quấy rối ta. Ta quên lần lần những điều đă thấy.

          Thế nên ta phải luôn luôn nuôi trong trí những tư tưởng cao thượng, thanh bai, nhân từ, nhờ vậy ta sẽ tránh được những tư tưởng thấp hèn đến cám dỗ. Chúng ta phải cương quyết như lời Chơn Sư đă dạy ắt sẽ tập được Hạnh Không Ham Muốn.

          Hạnh Phân Biện đă dạy con rằng: Những điều mà hầu hết mọi người muốn có: Chẳng hạn như giàu sang và quyền thế đều chẳng đáng có chút nào; khi mà người ta thật sự hiểu thấu được điều nầy rồi - chớ chẳng phải nói suông mà thôi - th́ những tham vọng riêng tư của họ sẽ tiêu tan.   

          Giàu sang là hạnh phúc ở giữa chốn phồn hoa đô hội, ai ai cũng ham muốn. Đó là lẽ tự nhiên, nhưng chúng chỉ dùng được trong một kiếp, mà thường bị lạm dụng, nên gây ra khổ năo cho đời và cho cá nhân của những người toại hưởng phú quí, vinh hoa.

          Các vị Đạo Sư đă sáng suốt và kinh nghiệm việc đời rất nhiều khuyên những ai muốn t́m Chân Lư nên tránh những sự ham muốn những ǵ không vĩnh viễn, trường tồn, chúng thường gây thảm hoạ. Nhưng không phải nói: “Tôi không tham vọng,” là đủ, phải lo rửa ḷng trong sạch, không để nó nhiễm Trần Ai, nếu muốn bước vào Đường Đạo một cách an toàn.

          Có người bảo: Ham muốn được giàu sang và thế lực một cách chánh đáng và dùng hai phương tiện đó giúp cho nhiều người bớt đau khổ không phải là điều quấy, trái lại đáng khuyến khích.

          Có lư lắm. Nếu được đúng như vậy th́ rất tốt, nên tán thành. Nhưng chỉ sợ khi nắm Uy Quyền và Tiền Bạc trong tay chừng đó Thay Ḷng Đổi Dạ trở nên gắt gao, ích kỷ, quên hết Đạo Đức và làm những việc bất nhân, bất nghĩa.

          Chúng ta Đừng Tự Dối Ḿnh và phải Sợ Luật Nhân Quả, nó luôn luôn hành động trước mắt ta.

          Tới đây mọi sự đều dễ; chỉ cần con hiểu được là đủ. Nhưng có vài người ngưng việc theo đuổi những mục đích Trần Tục là chỉ để lên được Cơi Thiên Đàng, hay để giải thoát riêng ḿnh khỏi ṿng Luân Hồi; con đừng phạm lỗi lầm nầy. Nếu con đă hoàn toàn quên ḿnh, con không thể nghĩ ngợi chừng nào con mới được giải thoát hoặc con sẽ được lên Cơi Thiên Đàng nào. Con nên nhớ rằng: Mọi tham muốn ích kỷ[40] trói buộc con, dù cho mục tiêu của nó cao cả đến đâu đi nữa và chỉ khi nào con đă dứt bỏ được chúng th́ con mới được hoàn toàn giải thoát để hiến ḿnh cho công việc của Thầy.

          Hầu hết những người biết chữ đều có đọc những Truyện: Phong Thần, Tây Du, Phong Kiếm Xuân Thu, Đông Du Bát Tiên, nên thích được tiêu diêu tự tại. Nhưng nên hiểu: Ước ao là một việc, c̣n thực hành được là một việc khác nữa.

          Ngày nay, không thiếu chi người mới bước vào đường tu hành đă mong thành Tiên, thành Phật. Người ta ngỡ rằng: Khi hiểu được ư nghĩa vài quyển Kinh th́ đă Đắc Đạo thành Chánh Quả, hay là cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật măi cho tới ngày lâm chung được rước về Tây Phương ngồi trên toà sen làm một Vị Phật.

          Tôi tưởng cần hiểu nghĩa mấy chữ: Nam Mô A Di Đà Phật và Tây Phương th́ mới biết niệm Phật có ích chi chăng?

          Namo, Nama hay Naman có nghĩa là: Kính chào, xưng tụng Công Đức, Tôn Thờ hoặc “Tôi ẩn trú trong” như trong câu:

          Om! Namo Narayana.

          Narayana là Thượng Đế Vishnou.

          Có thể dịch là:

          Om! Đỉnh lễ Đức Thượng Đế Vishnou.

          C̣n câu: Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammâsambouddhassa.

          Xin dịch là: Xưng tụng Công Đức Đấng Chí Tôn, Toàn Thiện, Toàn Giác hay là Qui Y Phật.

          Niệm Nam Mô A Di Đà Phật là xưng tụng Công Đức Phật A Di Đà hay là Qui Y Đức Phật A Di Đà.

          Theo phép qui y với Vị Phật nào th́ phải thực hành đúng như lời của Vị Phật đó đă dạy.

          Nếu quả thật chỉ niệm Lục Tự Di Đà khỏi phải tŕ trai, giữ giới, khỏi lo rửa ḷng cho trong sạch, khỏi tu nhân, tích đức, tha hồ muốn làm chi th́ làm, chừng bỏ xác phàm cũng được về Tây Phương ngồi trên toà sen th́ đâu c̣n Luật Công B́nh của Trời Đất nữa. Những Quả đă gây ra cả trăm kiếp trước c̣n dư lại và những Quả tạo ra kiếp nầy tiêu tan cách nào? Ai trả?

          Thử hỏi có ai đi mời một người mặt mày lem luốc, ḿnh mẩy hôi hám, quần áo dơ bẩn vào trong một Đạo Viện trang nghiêm, lên ngồi trên Cẩm Đôn ngang hàng với các vị Đạo Sư y phục toàn là lụa trắng viền chỉ vàng không? Chắc chắn là không. Cũng thế đó, trên những Cảnh Giới cao siêu và thiêng liêng như Tây Phương th́ Luật Lệ c̣n nghiêm khắc hơn ở Trần Thế cả trăm lần.

          Nếu ta suy nghĩ một chút sẽ thấy Đức Thích Ca c̣n thua xa vị bày ra Pháp Môn nầy, bởi v́ xưa kia Ngài không biết niệm Phật, nên không truyền dạy cho các Đệ Tử cách tu hành như thế đó.

          Nói  theo Kinh Sách, kiếp nầy Đức Bồ Tát[41] là Đức Thích Ca phải vào rừng sâu tu luyện trong 6 năm mới thành Phật. Sau khi đắc quả Vô Thượng[42] Chánh Đẳng, Chánh Giác Ngài ra độ đời. Trong ṿng 45 năm Ngài đi thuyết pháp từ thành nầy qua thành kia bên Ấn Độ. Tới đâu Ngài cũng chỉ cho chúng sanh biết con đường giải thoát là Đạo Bát Chánh. Ai bền ḷng noi theo đó mà tu sẽ được nhập vào Niết Bàn.

          Đức Phật đă hy sinh v́ hạnh phúc của nhân loại.

          Trái lại, nếu chỉ lo cho một ḿnh ḿnh được về Tây Phương Cực Lạc, tiêu diêu, tự tại, bỏ mặc chúng sinh trong biển trầm luân khổ hải, chưa biết tới ngày nào mới thoát khỏi chốn trầm luân cơ cực, như thế c̣n tánh ích kỷ, tham vọng, chưa xứng đáng làm Đệ Tử Chơn Sư, nói chi là việc thoát đoạ Luân Hồi và tới bậc Toàn Giác.

          Phải chăng v́ muốn phấn khởi ḷng sùng tín của Tân Tín Đồ, nên người ta đưa ra h́nh ảnh của một giấc mơ tốt đẹp vô cùng. Nhưng nói rằng: Tu Tịnh Độ như thế được thành Phật, ai tin được cứ tin.

          V́ không quan niệm điều đó được, tôi xin giải bày ra sau đây:

          Theo Ngôi Thứ trên Thiên Đ́nh th́:

          Cấp bậc thứ Nhứt: Tu Đà Huờn được 1 lần Điểm Đạo.

          Cấp bậc thứ Nh́: Tư Đà Hàm được 2 lần Điểm Đạo.

          Cấp bậc thứ Ba: A Na Hàm được 3 lần Điểm Đạo.

          Cấp bậc thứ Tư: La Hán được 4 lần Điểm Đạo.

          Cấp bậc thứ Năm: A Sơ Ca (Aseka) hay là Chơn Tiên (Atila) được 5 lần Điểm Đạo.

          Cấp bậc thứ Sáu: Đế Quân (Chohan) được 6 lần Điểm Đạo.

          Cấp bậc thứ Bảy: Bồ Tát (Bodhisatva) được 7 lần Điểm Đạo. Ngài là Vị Chưởng Giáo, Huấn Luyện Sư của các Vị Thần, Tiên trên Địa Cầu.

          Cấp bậc thứ Tám: Phật Đà (Bouddha) được 8 lần Điểm Đạo.

          Như thế, không biết vị Tu Đà Huờn c̣n phải tu trong bao nhiêu kiếp trải qua 7 cấp bậc để trở thành một Vị Phật.

          Tôi xin đưa ra một bằng chứng cụ thể cho quí bạn xem.

          Muốn thành Phật th́ trước hết phải ở Ngôi vị Bồ Tát.

          Đức Thích Ca sau khi thành Phật rồi Ngài giao Ngôi vị Bồ Tát lại cho Đức Di Lạc (Seigneur Maitreya).

          Tới ngày nay, 2.500 năm đă trôi qua, Đức Di Lạc vẫn c̣n ở Ngôi Bồ Tát chưa thành Phật. Vậy, từ cấp bậc Bồ Tát lên cấp bậc Phật khó khăn là dường nào. Có đâu dễ như trở bàn tay theo người ta tưởng.

          Tôi phải giải rành rẽ ra đây cho quí bạn thấy việc tin rằng một người thường chưa được vào bậc Tu Đà Huờn, chỉ có niệm Lục Tự Di Đà mà thành Phật về Tây Phương là Cơi của Đức A Di Đà ngự trị, có đúng với sự thật hay không?

          Chúng ta phải có đức tin, nhưng đức tin phải sáng suốt, chớ không phải đức tin mù quáng, đụng đâu tin đó. Khi nghe nói Kinh Phật th́ tin liền, không chịu nhọc xem xét coi có hữu lư hay không?

          Tôi biết nhiều bài Ca Tiên đọc nghe rất hay, rất êm tai, làm cho ḷng người phơi phới, muốn lánh xa ṿng tục luỵ.

          Thí dụ như bài sau đây:

                   Chốn Bồng Lai là nơi thanh tịnh,

                   Thú chiều ưa trăng cảnh, nước ngời.

                   Gió thanh quét sạch bụi đời,

                   T́nh trong sơn thuỷ, cuộc ngoài Càn Khôn.

                   Lần qua khỏi chốn Hồng Môn,

                   Công danh biệt loại cầm tôn như nhàn.

                   Gậy lê ḍ chốn Quảng Hàn,

                   Dấu Kiều c̣n tạc Minh Hoàng thuở xưa.

                   Hội Đào một tiệc say sưa,

                   Mê man chẳng thấm, ngàn thừa xuân thu.

                   Trường sanh có thuốc nhiệm mầu,

                   Hoả vàng sẵn nấu một bầu đơn sa.

                   Nghêu ngao vui thú yên hà,

                   Sớm vào biển Thánh, tối ra non Thần.

                   Trải qua một cuộc phong vân,

                   Tay nâng bầu cúc, chân lần đám mây.

                   Ṭng reo v́ gió lung lay,

                   Hơi đờn thấp thoáng bên tai đưa vào.

                   Ḍ lần khỏi chốn ba đào,

                   Cuộc cờ vô sự anh hào cũng mê.

                   Mượn chưng huê thảo làm đề,

                   Tiếng vàng nấm đất thêm ghê anh hùng.

                   Mây giăng mấy khúc giao long,

                   Hoạ đồ cậy có Hoá Công vẽ vời.

                   Ba non trăng biển của Trời,

                   Gió hoà trăng rộng, nước ngời như xưa.

                   Hoa thơm trăng tỏ, t́nh ưa,

                   Suối đờn tai đẹp, chim ca ấy nhàn.

                   Ĺa nơi bệ ngọc đền vàng,

                   Lánh ḿnh Trần Tục, vui đàng Thiên Thai.

                   Luyện ḿnh chẳng nhiễm Trần Ai,

                   Linh đơn giồi luyện, vân đài dựa nương.

                   Phút chơi đến cảnh Nhạc Dương,

                   Hềm v́ phong tục không đường lễ nghi.

                   Biết ai là kẻ tương tri,

                   Đồng tâm đồng chí có kỳ thảnh thơi.[43]

                             *******************************

          Ai đọc bài nầy lại không thích Cảnh Tiên và tầm Tiên học Đạo. Nhưng nếu chưa làm chủ được 3 Thể: Thân, Vía, Trí th́ ngại cho:

                   Tuy say Cơi Tĩnh, chưa tan ḷng Phàm.

          Bài “Cơi Trần, Cơi Tiên” trong “Bích Câu Kỳ Ngộ” dưới đây giải rành cuộc đời và thực tế hơn.

 

CƠI  TRẦN,  CƠI  TIÊN [44]

 

                   Rằng coi cho thấu cuộc đời,

                   Dàm danh khoá lợi mấy người Thế Gian.

                   Trời thu mây hợp mây tan,

                   Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy lăm.

                   Xem trong tám, chín mươi năm,

                   Bóng câu cửa sổ dễ cầm măi ru.

                   Thịt xương gởi đám Diêm Phù,

                   Sanh sanh, hoá hoá trong ḷ Hồng Quân.

                   Mấy ai vượt khỏi ḷng Trần,

                   Mê sông ch́m bể, thế nhân đă đầy.

                   Anh hùng những mặt xưa nay,

                   Trăm năm nát mấy cỏ cây cũng là.

                   Lần lần tháng lụn ngày qua,

                   Má hồng mấy phút đă ra bạc đầu.

                   Thôn hoang mấy nấm cỏ khâu,

                   Ḱa nền Đồng Tước, nọ lầu Nhạc Dương.

                   Chưa đầy một cuộc tang thương,

                   Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.

                   Sao bằng ngày tháng Cung Tiên,

                   Vui trong tám cơi, xuân riêng bốn mùa.

                   Dọc ngang bốn bể, năm hồ,

                   Khắp trong ba đảo, chín châu mặc dầu.

                   Ra vào Kim Khuyết, Quỳnh Lâu,

                   Treo tranh yên thuỷ, dắt bầu Kiền Khôn.

                   Đi về Tuyết Điếm hoa thôn,

                   Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.

                   Một ngày trong thú thanh nhàn,

                   Mấy trăm muôn cảnh nhân hoàn đọ sao?

                   Khuyên chàng[45] sớm nghĩ lấy nao,

                   Gà lồng, hạc nội bên nào là hơn.

                                                *

                                      *                  *

                   Mảng riêng sanh những bàng hoàng,

                   Tuy say cơi Tĩnh, chưa tan ḷng Phàm.

                   Trót xưa túi sách, con gươm,

                   Ví ta Sào Hứa, ai làm Y, Chu.

                   Thưa rằng: Đă đứng trượng phu,

                   Sự đời vinh nhục chi cho bận ḷng.

                   Ví tham ngàn tứ muôn chung,

                   Con chim bay măi cũng trong khuôn Trời.

                   Làm chi cho bạn Tiên cười,

                   Ai vui yên hạc, ai chơi yên hà.

                   Vởn vơ trong đám phồn hoa,

                   Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân.

                                      ************

          Bài nầy cũng như bài Ca Tiên để riêng cho các bạn nào muốn lánh xa ṿng tục luỵ theo con đường tắt. Nó không hạp với những bạn c̣n chen lấn trên đường đời.

          Nhưng học Đạo v́ Đạo, chớ không nên v́ ích kỷ cá nhân mong thoát kiếp trầm luân làm Tiên, làm Phật. Sự Ham Muốn Ích Kỷ dầu mục đích cao thượng thế mấy đi nữa cũng là sợi dây oan nghiệt buộc trói con người vào bánh xe Luân Hồi.

          Cũng có người sợ chết, nên đi tu mong luyện được phép Trường Sinh Bất Tử như trong bài Ca Tiên đă nói.

          Xác phàm của chúng ta chỉ dùng được bực trung b́nh trong ṿng 60, 70 năm trở lại, dầu có Kim Đơn kéo dài sanh mạng tới 1, 2.000 năm, chung cuộc vẫn phải bỏ nó lấy một xác mới nhẹ nhàng hơn, tinh tấn hơn. Cũng như một xe hơi, ta có thể sửa chữa máy móc, nhưng tới một giới hạn nào, ta đành chịu, không c̣n phương nào khác. Tốt hơn là mua một xe mới hạp với năng lực của ḿnh.

          Ta cũng nên nhớ điều nầy: Nếu Tinh Thần tiến hoá th́ Vật Chất cần tiến hoá theo cho kịp, như vậy Tinh Thần mới dùng nó được. Nhưng nếu Vật Chất c̣n tŕ trệ th́ Tinh Thần phải bỏ nó chọn lấy Vật Chất khác hạp với ḿnh; có như thế Tinh Thần mới phô diễn được quyền năng của ḿnh.

          Người biết Đạo không sợ chết, nhưng phải giữ ǵn xác thân khoẻ mạnh trong nhiều năm để học hỏi và giúp người tuỳ phương tiện.

          Cũng không cần hỏi: Sau nầy tôi về Thiên Đường ở cảnh nào?

          Theo Luật Nhân Quả, Con Người xứng đáng với địa vị nào sẽ được đưa ngay vào địa vị đó. Trên Thiên Đ́nh không có tư vị, bất công như ở Trần Tục.

          Hơn nữa, vị Đệ Tử thay mặt cho Chơn Sư làm những việc Đại Hữu Ích cho Thiên Cơ. Nếu c̣n ham muốn điều nầy, vật kia th́ phải t́m phương thế thoả thích cho được sự ham muốn. Như vậy mất nhiều thời giờ, đâu c̣n rảnh rang để lo Công Việc của Chơn Sư được hoàn toàn.

          Vậy trong mọi trường hợp phải suy nghĩ kỹ lưỡng hầu Phân Biện và Không Ham Muốn những điều thật không quan trọng hay không cần thiết, mà cũng đừng quên: Tất cả đều vô thường.

          Khi mọi dục vọng cho Phàm Ngă đă tiêu tan, có thể con vẫn c̣n một ư muốn được thấy kết quả công việc của con. Khi con giúp ai, con sẽ muốn thấy con đă giúp y tới mức nào; có lẽ con cũng muốn cả y cũng biết điều đó nữa và phải biết ơn con. Nhưng như thế vẫn c̣n là dục vọng, và lại c̣n là một sự thiếu đức tin. Khi con ra sức giúp th́ dù con có thấy hay không cũng  phải có một kết quả; nếu con hiểu biết Luật Trời th́ con hẳn biết nó phải là như thế. Vậy con phải làm điều phải nhân v́ điều phải, chứ không với hy vọng được trả ơn. Con phải xả thân giúp đời, v́ ḷng thương đời, và v́ con không thể cưỡng lại được ư muốn đó.

          trong ṿng Trần Tục ai ai cũng muốn thấy kết quả những việc ḿnh làm, nhưng trong Đạo Đức th́ khác hẳn.

          Chúng ta phải làm việc v́ thương đời, v́ bổn phận và đồng thời để làm việc cho Cơ Tiến Hoá, chớ không phải trông mong hưởng kết quả.

          Thật sự, khi ta cố tâm làm việc th́ việc nầy vừa dứt, việc khác đă đến. Ta không có th́ giờ xem xét việc đă làm như thế nào, hay đọc lại quyển sách mới viết xong. Ai đă làm việc và có kinh nghiệm, nhất là các nhà Huyền Bí Học, sẽ biết những lời nói trên đây là đúng.

          Theo thế thường, khi ta giúp ai vẫn muốn người đó biết ta giúp hay là khi ta cho ai một món vật, ta cũng muốn người lănh vật ta cho tỏ lời cám ơn ta.

          Như thế đó là một cuộc buôn bán, đổi chác, chớ không phải là một sự thi ân.

          Lời xưa có nói:

                   Thi ân bất cầu báo,

                   Cầu báo bất thi ân.

          Đấng Christ há chẳng đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ và nói với họ rằng: “Các ngươi đừng làm cho Nhà của Cha Ta biến thành cái nhà thương măi.”  (Jean – II – 16)

          Mặc dầu người thi ân không cầu báo, người thọ ân cũng phải nhớ ân người đă giúp ḿnh trong lúc hữu sự.

          Nếu kiếp nầy ta không trả được, xin hẹn lại một vài kiếp sau, đừng để mang tiếng Vong Ân, Bội Nghĩa.

          Về điểm nầy, tôi xin mở một dấu ngoặc để thuật lại trường hợp của một vị Chơn Sư cho quí bạn nghe.

          “6.000 năm trước, Ngài là một Nhà Quyền Quí Cao Sang. Xứ Ngài bị quân Ai Cập chiếm đóng. Ngài bị bắt làm tù binh. Trong đạo binh cầm tù Ngài, có hai vị ngày nay là Sinnett và Đức Leadbeater.

          Thuở đó, Sinnett là một Ông Hoàng Ai Cập thanh thế rất lớn, nhưng cũng phải ra trận như một tên lính thường. Theo tục lệ Ai Cập thuở xưa, tù binh thuộc về cấp bậc nào th́ được đối xử ngang hàng cấp bậc đó, nếu họ không t́m cách trốn đi.

          Thế nên Ngài được Sinnett trọng đăi. Ngài ở trong nhà Sinnett hai năm. Trong thời gian nầy, Ngài rất thích những cuộc lễ bái ở một Đạo Viện lớn do ông thân của Sinnett xây cất và có rất nhiều uy tín. Nhờ Sinnett giúp đỡ, Ngài được vào Đạo Viện tu hành. Từ đó cho tới nhiều kiếp sau liên tục, Ngài tiến bộ một cách phi thường trên con đường Huyền Bí Học.

          Hiện giờ, Ngài lên đến địa vị Đế Quân. Khi Ngài muốn t́m người xứng đáng phổ biến Giáo Lư Thông Thiên Học, Ngài nh́n xuống Cơi Trần thấy người ơn của ḿnh thuở xưa đầu thai làm Sinnett rất thông minh và chiếm một địa vị quan trọng trong xă hội. Ngài bèn chọn Sinnett, đem Huynh lại gần Ngài để dạy dỗ bằng cách trả lời những câu hỏi của Huynh nêu ra. Những câu trả lời nầy hiện nay đă xuất bản thành sách nhan đề: “Những bức thơ của Chơn Sư M. và K.H. gởi cho Sinnett” (Lettres des Mahatmas M. et K.H. à A.P. Sinnett).

          Như thế Chơn Sư đă đáp ơn Sinnett trọn vẹn. Nhân Quả tạo ra giữa Sinnett và Ngài trong quá khứ đă chấm dứt ở kiếp nầy.

          Xin nói: Luôn luôn ai giúp Chơn Sư Một th́ Ngài trả lại Mười.

          Trên con đường Huyền Bí Học, một người chân thành học Đạo không bao giờ quên ơn những vị đă khai sáng cho ḿnh và dắt ḿnh vào Cửa Đạo để tiến đến Cơi Trường Sanh Bất Tử hay là đă giúp ḿnh bất cứ về phương diện nào.

          Tôi tưởng cũng nên nói rằng: Xưa kia Chơn Sư không muốn cho phổ biến những bức thơ nầy,[46] v́ có nhiều câu trả lời cho những việc riêng, độc giả sẽ hiểu lầm.

          Sau khi Huynh Sinnett từ trần không hiểu tại sao lại có việc xuất bản mấy bức thơ đó.

          Bây giờ thử hỏi: Ai là người làm việc cho Đức Thượng Đế mà không chịu lănh ban thưởng chăng?   

          Có chứ, song rất ít, chỉ có những vị Đệ Tử chân thành, các Nhà Huyền Bí Học cao thâm hiểu được Cơ Tiến Hoá nên sẵn sàng hy sinh v́ hạnh phúc của Nhân Loại.

          Ngoài đời, những người làm việc phước thiện đều mong mỏi kiếp sau đầu thai được an hưởng giàu sang, ít khi nghe nói v́ thương người đói rét mà ra tay cứu giúp.

          Xin nhắc lại: Khi ta làm một việc lành do Nhân Danh Chơn Sư hoặc Đức Phật, Đức Chúa mà làm th́ Công Đức đó sẽ Nhập Vào Kho Thần Lực của Quần Tiên Hội, Tiên Thánh sẽ dùng để ban rải cho đời. Trong Đạo Đức gọi là trong Hữu Vi có Vô Vi.

          Thực hành như thế sẽ không bị trói buộc vào bánh xe Luân Hồi, bởi v́ người làm lành hay làm ác kiếp sau cũng phải đầu thai lại để hưởng Quả Lành hay lănh Quả Ác do ḿnh đă tạo ra.

          Chung quanh ta là những Luật Trời, chúng hành động luôn luôn, không giờ phút nào ngừng nghỉ và thứ nào theo thứ nấy, dầu ta thấy hay không thấy, biết hay không biết điều đó cũng không thay đổi, hay ngăn cản được chúng.

          Hễ Luật là Luật. Con người đừng vi phạm.

          V́ mấy lẽ trên đây Chơn Sư dạy Alcyone phải hy sinh cố gắng làm lành v́ ưa thích việc lành, chớ không phải trông mong được ban thưởng; làm việc v́ mến công việc, chớ không trông mong thấy kết quả; xả thân giúp đời v́ thương đời, chớ không do điều chi khác nữa được.

          Trong Trí của Chơn Sư chỉ có Một Tư Tưởng mà thôi: Ấy là Phụng Sự.

          Nếu ta muốn được Ngài thâu nhận th́ chỉ có một điều phải làm là: Luôn luôn lo giúp ích cho người và không bao giờ v́ Tư Lợi.                 

          Đừng ham có những Phép Thần Thông. Con sẽ có khi Thầy xét đă đúng lúc con cần có. Rán sức tập luyện những Phép nầy quá sớm thường mang đến nhiều rắc rối.

          Khi mới học Đạo người ta thường ham có những Phép Thần Thông. Nghe những việc kêu mưa, hú gió, sai Thần, khiến quỉ, chỉ đá hoá vàng, người mộ Đạo rất thích ư và mong phô trương được quyền năng đó. Nhưng cũng nên biết những tai hại do chúng nó gây ra khi sử dụng không đúng phép hay là luyện sái cách.

          Những quyền năng nầy ở đâu?

          Chúng ở trong người ta và cũng ở ngoài ta nữa, tức là tự lực và tha lực.

 

TỰ  LỰC

 

          Bên Chánh Đạo luôn luôn theo phương pháp Raja Yoga.

          Phải tŕ trai, giữ giới, làm chủ giác quan, Định Trí, Tham Thiền.

          Phải ra công luyện tập từ kiếp nầy sang kiếp kia. Nếu kiếp nầy thành công trong vài năm, điều đó chứng tỏ mấy kiếp trước đă luyện tập. Ảnh hưởng của kết quả truyền lại cho kiếp nầy, chớ không phải chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà được sáng suốt.

 

THA  LỰC

 

          Tha lực là nhờ sức ngoài. Dùng bùa chú, chân ngôn, sai Thần, khiến quỉ.

          Thuở xưa, tại Ai Cập có một quyển sách viết bằng màu sắc. Mỗi màu sắc đều có ảnh hưởng đến một Loại Tiểu Thần, Tinh Linh. Người nào chép lại rủi cho màu sắc sái th́ bị tội tử h́nh.

 

KHOA   LUYỆN   PHÉP   TẮC

 

          Những Phép Thần Thông tiếng Bắc Phạn gọi là Siddhi, tiếng Nam Phạn là Iddhi.

          Phật Giáo gọi Khoa Luyện Phép Tắc là Iddhi Vidhahâna, quyển Kinh dạy Luyện Phép gọi là Visuddhi Mârga.

          Có hai phương pháp luyện tập:

          Phương pháp thứ nhất: Lôkottara.

          Phương pháp thứ nh́: Lankika.

          Theo phương pháp Lôkottara cần thiền định hầu mở mang Tâm Thức. Những quyền năng nầy không mất, chúng theo Con Người từ kiếp nầy qua kiếp kia.

          Theo phương pháp Lankika, Hành Giả dùng mùi hương, ngải, nghệ, thuốc men, bùa phép, thần chú, v.v… Nhưng quyền năng nầy không bền bỉ, có khi dùng chưa được nửa đời người chúng nó đă tiêu mất do Luật Nhân Quả.

 

VÀI  PHÉP  THẦN  THÔNG

 

          Tôi xin kể vài  Phép Thần Thông và những tai hại có thể xảy ra cho quí bạn nghe trước khi bàn tới chúng nó.

 

CHUYỆN  ĐẠO    SIM  BANDAI  LÀM  RA  SẤM  SÉT

 

          Báo “Echo du Merveilleux” bên Pháp ngày 15 Novembre 1905 có đăng bài nầy của ông Dina thuật lại.

          Ông Dina nói: “Tại bờ biển phía Tây Bắc Cù Lao Madagascar, ngay trước mặt Cù Lao Nossi-Bé, có một vị Đạo Sĩ tên Sim Bandai muốn làm sấm sét giờ nào cũng được.

          Một bữa kia, tôi để một trái bầu ở dưới đất và xin Đạo Sĩ cho xem phép mầu của ông. Đạo Sĩ niệm chú tức th́ đám mây hiện ra, gió thổi mạnh. Th́nh ĺnh một lằn chớp nháng xẹt xuống ḅ lăng quăng dưới đất trước mặt tôi và nhiều người chứng kiến. Tiếp theo đó là một tiếng nổ vang đánh tan nát trái bầu của tôi, kế đó mây tan gió tạnh.”

          Nếu tôi nhớ không lầm trong quyển “Dưới Bóng Thiền Môn Tây Tạng” (À l’ombre des Monastères Tibétains) ông Jean Marquès Rivière có nói: Ông thấy một vị Lạt Ma (Lama) làm sấm sét giết một đứa bé chăn chiên, v́ nó phá ông. Tôi chẳng rơ có một nguyên nhân bí mật nào nữa hay không, chớ chỉ việc phá phách không phải là đáng chết. Dầu sao người tu hành cũng không nên dứt ḷng từ bi.

 

LÀM  MƯA

CHUYỆN  MỘT  NHÀ  PHÙ  THUỶ  Ư  SIGNOR B.  LÀM  MƯA

 

          Trong quyển I, “Lịch sử chính xác của Hội Thông Thiên Học” (Histoire authentique de la Société Théosophique)[47] trang 67, Đại Tá Olcott có thuật chuyện một Nhà Phù Thuỷ Ư tên Signor B. làm mưa trước mặt ông và Đức Bà Blavatsky.

          Đại ư như sau đây:

          “Một buổi chiều mùa thu năm 1875, ngay sau khi Hội Thông Thiên Học vừa thành lập, một Nghệ Sĩ Ư tên Signor B. mà cũng là một Nhà Phù Thuỷ đến viếng Bà Blavatsky tại nhà riêng của Bà tại New York. Anh nói anh có thể sai khiến Thần Phong Ba làm mưa. Anh trổ tài cho chúng tôi xem.

          Anh mời Bà Blavatsky và tôi ra bao lơn của pḥng khách ở phía sau, anh căn dặn chúng tôi yên lặng và trầm tĩnh tuyệt đối, dầu có cái chi xảy đến cũng mặc.

          Đêm đó trăng tṛn, không có một chút mây. Anh lấy ra từ trên ngực anh một tấm cạt tông lối 1, 75 tấc bề ngang và 2, 70 bề dài, trên một phía cạnh có những ô vuông, trong mỗi ô có một H́nh Kỷ Hà Học kỳ dị vẽ bằng sơn nước. Anh không muốn cho tôi rờ tới hay là xem coi H́nh đó.

          Anh cầm tấm cạt tông đưa ngay mặt trăng. Tôi đứng sau anh, thấy lưng anh cứng đơ, dường như nó bị ảnh hưởng của ư chí anh.

          Anh chỉ cho chúng tôi xem mặt trăng. Từ phía Đông nguyệt cầu tuôn ra những hơi đen dày đặc như những đám mây đen khi trời sắp nổi cơn dông tố, hay nói đúng hơn đó là những khói từ trong ống khói tàu bay lên cuồn cuộn rồi toả ra về phía chân trời. Tôi không nín được phải kêu lên một tiếng. Anh Phù Thuỷ nắm cứng cánh tay tôi như một cái bàn kẹp, anh bảo tôi “Im đi.”

          Khói đen giống như chiếc quạt xoè ra, bỗng chốc che khuất mặt trăng. Chị Hằng không c̣n chiếu sáng nữa, liền đó một đám mưa lớn ào ào rơi xuống làm cho chúng tôi phải vô nhà. Lúc đó không có sấm sét, không có lằn chớp nháng, không có gió, mưa trọn một khắc đồng hồ.

          Dưới ánh sáng của ngọn đèn bạch đăng, tôi thấy anh cắn răng, trên gương mặt anh lộ vẻ hung hăng của những người đang đánh lộn với nhau. Thật vậy, anh Phù Thuỷ mới chiến đấu với bọn Ngũ Hành làm mưa. Anh lật đật từ giă chúng tôi, trời đă khuya, tôi cũng ra về.”

          Anh Signor B. có tài làm mưa, nhưng theo lời của Đại Tá Olcott nói về cử chỉ của anh th́ anh Phù Thuỷ nầy c̣n thua những vị Đạo Sĩ bên Tàu. Đạo Sĩ chỉ niệm một câu Chân Ngôn tức th́ mây kéo tới mù mịt kế đó mưa ào xuống, họ không cần chiến đấu với bọn Ngũ Hành làm mưa.

          Những Đại Lạt Ma bên Tây Tạng tài phép cao cường, một trận băo thổi tới dữ dội, họ vẽ một lá bùa tức th́ trận dông đổi hướng. Nhưng hăy cẩn thận. Đừng khoe tài, làm nghịch ḷng Trời ắt sẽ mang tai hoạ, trốn tránh đường nào cũng không khỏi.  Thật là:

                             Có tài đừng cậy chi tài,

                             Chữ tài liền với chữ tai một vần.

 

BÁN  GIÓ

 

          Lối năm 1670, trong Thế Kỷ thứ 17, Bác Sĩ Lamartinière xuất bản 4 quyển sách nhan đề “Cuộc du lịch ở những xứ miền Bắc” (Voyage des pays septentrionaux).

          Trong đó ông nói về những tín ngưỡng lạ lùng của những người Lapons[48] và những người Islandais mà nhất là “Chuyện những người bán gió” (Les vendeurs du vent).

          Xin tóm tắt câu chuyện Bán Gió ra dưới đây:

          . . . . . . Biết rằng dân chúng trên Cực Bắc và những người tại bờ biển “Biển Cuối Cùng” (Finische Scher ou mer Finie), hầu hết là những Nhà Phù Thuỷ muốn có gió chừng nào cũng được. Chúng tôi cho chiếc tàu ra biển và đi kiếm mua gió.

          Trong một làng kế cận, chúng tôi nói cho vị Đại Pháp Sư ở đó biết chúng tôi muốn đi đến một chỗ kia và hỏi ông có thể cho một trận gió đưa chúng tôi tới Nourmans Koimore không? Ông bằng ḷng với giá cả  xong xuôi là 10 Kroner tương đương với 20 Livres tiền Pháp thuở xưa và một cân thuốc lá do chúng tôi cho.

          Họ cột tại cánh buồm của cột buồm đàng trước một mảnh buồm có 3 gút.

          Ra khỏi bến thuyền chủ mở gút thứ nhứt, tức th́ một trận gió thổi về hướng Tây Tây Nam rất tốt đưa chúng tôi đi 30 dậm cách xa Maelstroom, khỏi mở gút thứ nh́. Kế đó, gió bắt đầu đổi hướng và muốn thổi về hướng Bắc. Thuyền chủ mở gút thứ nh́, một trận gió thuận buồm đưa chúng tôi tới những núi trước Rouxella.

          Khi gần tới mũi Cap th́ gió lặng. Thuyền chủ mở gút thứ ba, một trận gió thổi về hướng Bắc Tây Bắc rồi trong giây phút biến thành một trận dông đùng đùng nổi dậy dường như muốn làm cho Trời sập đè chết chúng tôi.

          Đức Thượng Đế muốn tàn sát chúng tôi về tội kết liên với bọn Phù Thuỷ. Chúng tôi không c̣n nắm dây lèo buồm được nữa, chúng tôi để cho chiếc tàu trôi theo những luồng sóng.

          Qua ngày thứ ba, một trận cuồng phong thổi tàu chúng tôi lên một tảng đá lối 30 dặm phía trên mũi Cap.

          Mỗi người đều la lên: “Cầu xin Thượng Đế vui ḷng tha thứ những lỗi lầm của chúng tôi.”

          Nhờ một sự may mắn lạ thường, tàu chúng tôi chỉ bể một lỗ dưới lườn. Chúng tôi phải bôm nước ra. Tới ngày thứ tư gió yên lặng, thời cơ thuận tiện.

          Chúng tôi cho Thổ Dân ở Varanger rượu mạnh, thuốc lá, xin họ đừng cản trở lúc chúng tôi khởi hành và nhờ họ cho chúng tôi một trận gió tốt. Họ biết ơn chúng tôi cho nên 5 ngày sau, một trận gió êm dịu đưa chúng tôi ra khỏi biển nhỏ nầy.

          (Trích trong quyển “Histoire du Spiritualisme expérimental” par C. De Vesme page 138).

          Truyện Tàu cũng có nói nhiều người học được Phép Tiên nên khi niệm Chân Ngôn th́ cuồng phong nổi lên làm cho cát bay, đá chạy, cây cối ngă rạp. Đó là những việc có thật, tin cũng được, không tin cũng được.

 

PHÉP  CẦM  MÁU

 

          Nhà Văn Sĩ Horace Leap được nhiều người biết tiếng, sau khi du lịch bên Na Uy (Norvège) trở về có viết một bài đăng trong tạp chí Huyền Bí Học Occult Review 1924 nói về phong tục của những người Lapons. Trong đó có chuyện Phép Cầm Máu như sau đây:

          Ông Leap nói: “Ông Karl Tiren, người Thuỵ Điển là một viên quan cao cấp tại xứ Laponie có thuật cho tôi biết rằng những người Lapons có dạy ông một câu Thần Chú để cầm máu.

          Ông có thử nhiều lần thấy nó rất linh nghiệm. Một buổi chiều kia, người ta tới cho ông hay có một người bị xe lửa cán đứt một cánh tay. Người ta chạy đi mời Bác Sĩ lại, nhưng chắc chắn Bác Sĩ không đến kịp để cứu y đâu. Y sẽ chết trong vài phút nữa, v́ mất máu quá nhiều. Ông lật đật chạy đến, ông tới vừa lúc nạn nhân con mắt ngó lên, môi đang mấp máy. Cánh tay bị đứt ĺa gần chả vai, máu chảy tuôn như suối.

          Ông bèn để bàn tay sau cổ anh theo phương pháp Bí Truyền, miệng niệm Thần Chú, tức th́ máu ngưng chảy. Nạn nhân mở mắt ra nói nhỏ: “Tôi hết đau rồi, trong ḿnh rất khoẻ.” Những người tới xem đều kinh ngạc. Khi Bác Sĩ tới, họ lấy làm lạ tại sao nạn nhân không chết. Các mạch máu đều đứt mà máu không chảy nữa.

          Họ rất khen ông và nói: “Nếu họ không thấy chuyện nầy ngay trước mắt ắt không bao giờ tin có thật.”

          Một lần khác, một người đàn bà bị sừng một con nai rạch một đường từ cùi chỏ tới bàn tay. Máu hết chảy và bà đó hết đau khi ông Tiren đọc câu Thần Chú theo giọng của những người Lapons, gọi là Lap Reading.”

          Chuyện nầy có thật hay không?

          Tôi xin trả lời liền: Có thật.

          Hiện giờ, trong Thế Kỷ 20 nầy đă có người sử dụng được quyền năng ấy: Đó là một Bác Sĩ người Ư tên Carlo Mariani.

 

MÁU  TUÂN  THEO  Ư  MUỐN  CỦA  ÔNG

 

          Đọc báo Nostradam nơi trang 7 (rất tiếc đă mất cái b́a, nên không biết xuất bản ngày nào, nhưng có lẽ cũng mới vài năm gần đây) có một bài với cái tựa thật lớn.

LE  SANG  OBÉIT  À  SA  VOLONTÉ

(Có h́nh Bác Sĩ Carlo Mariani và một cái xe hơi bể nát).

Trước xe hơi có câu chữ lớn nầy:

CARLO  MARIANI  IMPOSE  SES  MAINS  AU-DESSUS  DU  FLOT SANGLANT  L’HEMORRAGIE  S’ARRETE  ET  LA  PLAIE  SE REFERME.

(CARLO  MARIANI  XOÈ  BÀN  TAY  ĐỂ  TRÊN  D̉NG  MÁU, MÁU   NGƯNG  CHẢY, VẾT  THƯƠNG  KHÉP  MIỆNG  LẠI).

 

          Câu chuyện tóm tắt như sau đây:

          6 giờ chiều thứ sáu, Bác Sĩ Carlo Mariani lái xe từ Turin về ngôi nhà ở Milan. Ông cho xe chạy chậm, v́ không có chi gấp rút.

          Bỗng ở đàng sau một chiếc xe hơi Ford chạy tới như dông, bóp kèn qua mặt. Bác Sĩ tự nói: “Chạy xe như vậy là điên rồ.”

          Tới 3 cây số phía đàng trước, tai nạn xảy ra. Xe Ford đụng vào một cái cây bể nát.

          Bác Sĩ Mariani ngừng xe lại thấy anh lái xe c̣n ở tại tay bánh, mặt mày xanh xao, cặp mắt trợn ngược, miệng trào máu và một mạch máu lại đứt, chỗ đó máu tuôn xối xả. Nạn nhân sắp chết.

          Bác Sĩ không c̣n ngày giờ lấy va li thuốc, ông bèn xoè hai bàn tay để trên ḍng máu, tức th́ máu ngưng chảy, vết thương khép miệng lại, dường như nhờ một phép mầu huyền diệu.

          Tác giả bài nầy là Guido Parlotti nói:

          “Rất khó phỏng vấn Bác Sĩ Mariani, v́ ông rất dè dặt. Nhưng cuối cùng ông cũng phải nh́n nhận rằng ông có một quyền năng phi thường.” Ông nói: “Tôi khám phá quyền năng nầy trong một cuộc giải phẫu.

          Một Bác Sĩ Chuyên Khoa về tim, bạn thân của tôi, mời tôi phụ với ông trong một cuộc giải phẫu ruột dư.

          Bệnh nhân là một người đàn bà đau tim lại mắc chứng máu loảng, khó đặc lại. Đă một lần bà suưt chết sau khi lâm bồn.

          Sau cuộc giải phẫu máu tuôn xối xả. Bác Sĩ bạn tôi và các y tá dùng đủ các phương pháp mà vô hiệu quả. Tôi bèn lại gần bà đó xoè hai bàn tay để trên chỗ máu, tức th́ máu ngưng chảy.

          Giới Y Khoa chấp nhận một cách lạnh nhạt những hiện tượng mà Khoa Học không giải thích được. Nhiều lần tôi xin hiến công không, chẳng nhận tiền thù lao mà không bao giờ được tin trả lời.”

          Tác giả viết: “Hiện giờ, Bác Sĩ Mariani là người duy nhất trên đời có những quyền năng như thế, nhưng mà không có một Dưỡng Đường nào nhờ đến ông trong những trường hợp tuyệt vọng.”

          Đúng vậy, trong khi các Nhà Khoa Học không công nhận có những quyền năng của Tinh Thần, lẽ tự nhiên phải từ khước một sự giúp đỡ như thế. Phải chăng đây cũng là một trạng thái của Tánh Kiêu Căng gọi là Chạm Ḷng Tự Ái mà ít người thoát khỏi.

 

CHUYỆN  NGƯỜI  HOÁ  SÓI

 

          Đọc những chuyện đời xưa, nhất là những chuyện Phù Phép, ta thấy Đạo Sĩ ở Châu Atlantide niệm một câu Thần Chú Con Người liền hoá ra Thú Vật. Chúng ta cho đó là những điều dị đoan, phi lư.

          Nhưng từ Đời Trung Cổ cho tới Thế Kỷ thứ 19, bên Âu Châu người ta c̣n tin có chuyện Con Người hoá ra Chó Sói gọi là Lycanthropie (do chữ Lycaon  là Vua xứ Arcadie bị Zeus biến thành Chó Sói).

          Đây là chuyện có thật do nhiều người qua ở Phi Châu thấy tận mắt thuật lại, tôi xin kể vài chuyện cho quí bạn nghe.

 

     CHUYỆN  THỨ  NHỨT

 

          Ông Richard Bagot có đăng trong Tạp Chí Cornhill Magazine tháng 10 năm 1918, Londres, một bài nhan đề “The Hyenas of Pirra” nói về Trung Uư F. đă thấy Người hoá Thú. Khi ông nầy cai quản một Toán Lính Tập bổn xứ từ tháng 7 tới tháng 10 năm 1915 tại miền Bắc Nigerie ở Phi Châu.

          “Trung Uư F. đóng binh gần một làng kia mà tŕnh độ Thổ Dân c̣n thấp kém lắm. Có một bầy chó chóc thường phá hại súc vật rất nhiều.

          Đêm kia, ông xách súng ngồi ŕnh gần bên một con dê làm mồi bị trói lại. Một con Chó Chóc chạy lại chưa kịp nhảy chụp con mồi th́ ông nổ hai phát súng trúng đầu nó. Chó bị thương nặng, nhưng rán chạy trốn thoát.

          25 phút sau, ông nghe trong làng có tiếng trống báo tin một người  chết.

          Tới sáng, ông theo dấu chân con thú, thấy nó đi tới đống đất của loài kiến đen vun lên th́ mất, nhưng từ đó tới đầu làng toàn là dấu chân người.

          Vài giờ sau, người ta cho ông hay rằng: Một vị Hương Chức trong làng mới thác đêm hôm, trên đầu bị một vết thương của đạn súng. Nhưng người ta không cho ông tới xem cái thây.”

 

CHUYỆN  THỨ  NH̀

 

          Ông Richard Bagot c̣n viết thêm một Câu Chuyện Thứ Nh́ nữa như sau đây:

          “Đại Uư H. H. Shott cũng đóng binh tại miền Bắc Nigerie thuật lại rằng:

          “Ông có bắn trúng một con Chó Chóc rất lớn. Nó bị thương nơi đầu rồi chạy băng qua đồng trốn, ông và vài người nữa đuổi theo. Được một đỗi th́ thấy cái hàm của một con Chó rớt bên một vũng máu. C̣n dấu chân tới đường ṃn dắt đi vô làng th́ biến mất.”

          Bữa sau, dân trong làng cho ông hay ông mới giết vị Phó Tù Trưởng Nê-pha-da (Nefada) của họ, nhưng họ không tỏ dấu chi thương tiếc y cả.

          Họ nói: “Phó Tù Trưởng bị bắn bay một cái hàm. Tù Trưởng có cho họ hay y sắp đi dạo trong rừng. Một chặp nghe tiếng súng nổ, kế họ thấy y trở về lấy áo trùm đầu đi ngả xiêu ngả tó như một người bị thương nặng.” Ngày mai, người ta tới thăm ông th́ thấy ông đă chết, trong nhà không có ai cả, v́ sau khi ông về ông đuổi mấy người đàn bà đi hết.

          Phó Tù Trưởng có tiếng là Người Chó Chóc. Lúc ông hiện ra Chó Chóc th́ quỉ quyệt lắm.

          Ông Shott nói: “Tôi là Quan Vơ, không hề tin dị đoan, nhưng đứng trước trường hợp nầy tôi cũng phải tin rằng Dân Bổn Xứ miền đó có Phép lạ lùng.” “

* * * * * * * *

          Trong Báo Echo du Merveilleux xuất bản ngày 1 tháng 11 năm 1908 có đăng bài nầy của ông Andre Nervin từ Dakar tháng 9 năm 1908 gởi về Toà Soạn.

          “ . . . . . . . . Người ta chỉ cho tôi xem thân xác trống rỗng của một Thầy Phù Thuỷ. Họ nói: Ngài có thể rờ nó, đánh nó, châm chích nó hay là ngồi trên ḿnh nữa, và hăy lấy tay để trên trái tim của ông ta, Ngài sẽ thấy nó không nhảy nữa, bởi v́ ông ta đă đem nó theo rồi. Xác ông chỉ là một cái lớp vỏ, ông giao cho vợ ông giữ ǵn, v́ sợ những Người Phù Thuỷ khác ngăn cản ông không cho Nhập Xác. Khi mấy Thầy Phù Thuỷ xuất Vía và đi thơ thẩn trên không, họ có thể lấy những h́nh dáng khác nhau và nhập vô ḿnh Thú Vật.”

 

MỘT  NGƯỜI  ĐÀN    HOÁ  RA  CHÓ  SÓI

 

          Tuần Báo Nostradamus số 36 xuất bản ngày thứ năm 14-12-1972, nơi trang 5 có đăng Chuyện “Chân của một con Chó Sói biến thành một Bàn Tay của người đàn bà trong cái túi vải của người thợ săn.”

          “Năm 1588, trong một cái làng tại Auvergne, một người thợ săn bị một con Chó Sói lớn, hung dữ lạ thường tấn công. Anh chống trả mănh liệt và chặt được một cái Chân của nó. Nó liền chạy mất. Anh thợ săn bỏ cái Chân trong túi vải rồi trở về làng.

          Dọc đường anh ghé thăm người bạn thân của anh, vốn là chủ nhân của một toà lâu đài cổ, anh bèn thuật lại câu chuyện xảy ra cho bạn anh nghe.

          Ông nầy rất thích và xin xem cái Chân của con Chó Sói. Anh thợ săn tḥ tay vào túi vải để lấy ra, mà quái lạ thay! Không phải là cái Chân của con Chó Sói mà lại là Bàn Tay của một Thiếu Phụ có đeo một chiếc nhẫn bằng vàng rất đẹp.

          Chủ nhân toà lâu đài cổ mới giựt ḿnh la lên: “Ấy là chiếc nhẫn của vợ tôi.” Ông bèn đi với anh thợ săn vô pḥng vợ ông. Ông thấy bà nầy mặt mày xanh xao, hốc hác, kiếm cách che giấu cánh tay dưới một áo choàng rộng. Ông bèn giật áo ra liền thấy bàn tay bà bị đứt ĺa tới cườm tay.

          Bị hạch hỏi, bà mới khóc lóc thú thật rằng: Chính bà là Chó Sói tấn công anh thợ săn để ăn thịt, v́ bà thèm thịt sống không nhịn được.

          Khi bà biến thành Chó Sói, bà chạy ra đồng kiếm con nít bắt ăn thịt.

          Vài bữa sau, bà bị đưa lên dàn hoả, v́ tội thông đồng với Ma Quỉ.”

 

NHỮNG  CHUYỆN  NGƯỜI  HOÁ  SÓI    THẬT  KHÔNG ?

 

          Các Nhà Huyền Bí Học đều biết rằng: Những Chuyện Người hoá ra Chó Sói cũng như những Chuyện Ma Cà Rồng đều có thật, và đă xảy ra cả trăm ngàn năm trước, từ đời Châu thứ Tư là Châu Atlantide rồi truyền lại cho tới ngày nay.

          Thuở đó các vị Đạo Sĩ tài phép cao cường, họ học được Phép biến đổi Con Người ra Thú Vật. Họ biết tạo ra những Thú biết nói tiếng người để giữ nhà và sai khiến; nhất là một Đạo Quỉ Binh móng vuốt nhọn và bén hơn gươm dao do chủ tể của bọn chúng là Hắc Diện Đại Vương điều khiển. Lúc lâm trận, chúng xé xác quân lính địch để cho bọn Gian Đạo Sĩ theo sau uống máu.

          Ngày nay không ai tưởng tượng được việc nầy, nhưng mà việc Người hoá Sói ăn thịt, uống máu trẻ con và người lớn cũng đủ để chứng minh những điều kể ra trên đây.

 

  PHẢI  XÁC  THÂN  CON  NGƯỜI  HOÁ  RA  THÚ  VẬT  HAY  KHÔNG ?

 

          Có phải Xác Thân Con Người hoá ra Thú dữ như: Sói, beo, cọp hay không?

          Không phải Xác Thân. Ấy là Cái Vía của Con Người hiện h́nh ra.

          Xin nhắc lại: Cái Vía hay là Tinh Quang Thể làm bằng Chất Thanh Khí (Matière Astrale), con mắt phàm không thấy được. Nhưng muốn hiện h́nh cho người ta thấy, phải làm cho Cái Vía đặc lại như da thịt con người.

          Ngày thường, đánh Cái Vía cũng như đánh vào gió, không có chi hại đến Xác Thân; trái lại, khi Cái Vía hiện ra rồi, đánh chỗ nào trong Cái Vía th́ Xác Thân bị bịnh chỗ đó. (Xin đọc lại những sự thí nghiệm của ông Hector Durville, nhất là về Xúc Giác).

          V́ lẽ nầy, những Người hoá Chó Sói hay Loại Thú nào khác bị bệnh chỗ nào th́ Cái Xác của họ bị bệnh ở chỗ đó, như trường hợp vị Hương Chức và Phó Tù Trưởng Nê-pha-da do ông Richard Bagot thuật lại và chuyện Bà Vợ của ông chủ nhân toà lâu đài cổ mới kể ra đây.

 

NHỮNG  BẰNG  CỚ  KHÁC  ĐỂ  CHỨNG  MINH  CÁI  VÍA  BỊ  BỆNH  CHỖ  NÀO  TH̀  XÁC  THỊT  BỊ  BỆNH    CHỖ  ĐÓ

 

                    Có một bữa, Nữ Thánh Sainte Lidwine xuất Vía ra đi dạo, Cái Vía Bà bị trặc chân, chừng về nhập Xác mấy ngày sau Bà đi không được v́ bị trặc ở chân.

          Một lần khác, khi lật đật đi ngang qua một bụi cây, Cái Vía Bà bị gai đâm ở bàn tay (không thấy nói tay mặt hay tay trái), chừng về nhập Xác bàn tay Bà đau nhức, v́ cái gai c̣n dính trong ḷng bàn tay.

          Catherine Emmerich cũng có những kinh nghiệm về những hiện tượng như thế.

          Trong quyển Thần Bí Học (Mystique) ông Gorres và trong quyển Thần Bí Học Thiêng Liêng (Mystique Divine) ông Ribes cũng có thuật những chuyện tương tự.

          Người ta đă thấy trong lúc Cầu Đồng, Cái Vía Đồng Tử hiện h́nh ra rồi mà bị bệnh ở chỗ nào th́ Xác Thân Đồng Tử bị bệnh ở chỗ đó.[49]

 

TRƯỜNG  HỢP  ĐÁNH  CÁI  VÍA    XÁC  THÂN  KHÔNG  BỊ  BỆNH

 

          Các Đệ Tử Chơn Sư đều biết phương pháp lấy 4 Chất Dĩ Thái Hồng Trần (Ether Physique) làm ra một cái Xác giả, cũng đi đứng, chuyện văn và làm việc như người thường vậy.

          Nhưng đánh vào Xác giả nầy cũng như đánh vào gió hay là nước, Xác Thân nằm ở nhà không bị bệnh, v́ Xác Giả không có liên lạc chi với Xác thật như những trường hợp đă kể ra trước đây.

 

DỤNG  Ư  CỦA  TÔI    CHO  BIẾT  NHỮNG  TAI  HẠI  CỦA  SỰ  XUẤT  VÍA

 

          Xuất Vía, Xuất Hồn là có những Phép Thần Thông.

          Tôi kể những sự nguy hiểm ra đây cho các bạn thấy rằng: Việc Xuất Vía không phải là chuyện dễ dàng như người ta lầm tưởng.

          Cơi Trung Giới rộng lớn gần 400.000 cây số vuông. Nó lên gần tới Mặt Trăng và chia ra làm 7 Cảnh. Mỗi Cảnh đều có một Hạng Nhân Vật hoạt động ở đó.

          Trên Cơi nầy có nhiều Phái, chia ra làm 3 Hạng:

          1- Chánh Đạo gọi là Bạch Y.

          2- Tà Đạo gọi là Hắc Y.

          3- C̣n một Hạng nữa là vừa Tà, vừa Chánh. Họ làm Phải cũng được, làm Quấy cũng được, gọi là Hạng Màu Xám (Les Gris).

          Cả thảy đều có những Phép Tắc cao cường.

          Bên Chánh Đạo, trước khi học được Phép Xuất Vía, vị Đệ Tử phải tŕ trai, giữ giới, trải qua nhiều kinh nghiệm, nhiều sự thử thách về Ḷng Can Đảm.

          Trước nhất là Địa, Thuỷ, Hỏa, Phong.

          Vô lửa, xuống nước, đi ngang qua đá - thường là đi ngang qua núi non - lên trên không, để có kinh nghiệm rằng: Nước, lửa, đất, gió, không làm hại được Cái Vía. Và c̣n nhiều kinh nghiệm khác nữa, nhất là phương pháp giữ ḿnh khỏi bị kẻ khác hăm hại.

          Sau khi vị Đệ Tử thành công, Chơn Sư cho phép anh đi một ḿnh, nhưng luôn luôn Ngài xem chừng, không để anh bị nguy hiểm trong khi làm những công tác được giao phó.

          Xin quí bạn nhớ điều nầy: Nếu Ông Thầy dạy Học Tṛ xuất Vía mà không biết quyền năng bảo vệ họ, để cho Bọn Tà Quái giết chết th́ Ông Thầy sẽ mắc tội với Trời. Quả Báo sẽ nặng lắm. Bên Chánh Đạo rất thận trọng về những điểm nầy.

          Mấy chục năm trước, giáo sư Van Der Stock, người Hoà Lan, có Huệ Nhăn, thuật lại cho các bạn Thông Thiên Học ở Pháp Quốc nghe chuyện lần đầu tiên Ngài xuất Vía lên Cơi Trung Giới một cách bất thường. Ngài bị bọn Ngũ Hành áp tới đuổi, chạy hào hễn trở về nhập Xác không kịp.

          Vậy xin khuyên quí bạn mến Đạo nên lo Tu Tâm Dưỡng Tánh là điều cần thiết trước nhất, v́ điều đó là Đắp Nền Đạo cho vững chắc. Đừng ham học Xuất Vía, Xuất Hồn[50] e cho có ngày phải mang tai hoạ vào thân, ăn năn chẳng kịp. Cũng đừng ham có Thần Nhăn, Thần Nhĩ khi tấm ḷng chưa được trong sạch. Lạm dụng th́ mắc Quả nặng.

          Đừng quên rằng: Kiếp sau chưa chắc ta sẽ được sung sướng như kiếp nầy. Nếu ta không lo Giữ Đức và Tu Hành th́ chừng đầu thai lại phải lănh những Quả ác ta đă tạo nên.

          Ta sẽ sinh vào Nhà Hàn Vi, chịu khổ cực nhiều về Thể Xác, không có phương tiện học hành cho thông minh.

          Nhân Quả, dầu tốt, dầu xấu cũng theo ta như bóng với h́nh. Điều nầy không bao giờ sai, dầu người đời biết hay không biết, tin hay không tin Luật Báo Ứng Tuần Hoàn.

          Chỉ có một điều là phải lo Trau Giồi Tâm Tánh cho thật tốt, học hỏi Luật Trời cho rộng sâu và làm những việc phước thiện vô tư lợi th́ Nhân Quả sẽ cho ta sanh vào một hoàn cảnh thuận tiện cho sự tiến hoá cao siêu sau nầy.

          Vẫn biết dầu cho Cơi Tối Đại Niết Bàn đi nữa cũng là vô thường. Tất cả những Thái Dương Hệ trên Không Gian đều phải tuân theo Luật Tuần Hoàn. Hết lúc Thành, Trụ th́ tới lúc Hoại, Không. Đúng ngày giờ th́ Vạn Vật sẽ tan ră, c̣n phần Tinh Thần gọi là Linh Hồn sẽ nhập vô Tâm của Đức Thượng Đế; nhưng điều nầy c̣n lâu lắm mới xảy ra. Vậy ngay bây giờ đây, chúng ta đang sống ở Cơi Trần, c̣n mắc vào Ṿng Tương Đối, thế nên phải t́m cái chi dùng được lâu dài. Hăy dẹp qua một bên những ảo mộng, tạm thời, đừng luyến tiếc chúng nó.

 

TẠI  SAO  CHƠN    LẠI  NÓI  NGÀY  GIỜ    SỨC  LỰC  ĐỂ  LUYỆN  TẬP  MẤY  PHÉP  ĐÓ  NÊN  ĐỂ  GIÚP  ĐỜI  C̉N  HAY  HƠN ?

 

          Bởi v́ phải mất ít nữa là từ 10 tới 15 năm mới luyện được một Phép Thần Thông và bắt đầu dùng nó được. Nhưng cần phải có kinh nghiệm từ 15 tới 20 năm sau mới chắc ư không có việc sơ hở.

          Nhưng trong ṿng 25, 30 năm, tuỳ theo cách sử dụng nó, ta lại gây ra Quả Lành hay Quả Ác nữa. Ngày nào chưa diệt được tánh ích kỷ, chưa làm chủ được Cái Trí th́ chắc chắn những Quả Xấu sẽ nhiều và nặng cả trăm lần hơn Quả Tốt.

          Kiếp sau ta đầu thai lại phải thanh toán những Món Nợ đă mang kiếp nầy. Ta sẽ không được như bây giờ. Ta phải chịu nhiều sự đau khổ.

          Vậy thời gian để luyện tập những quyền năng như: Thần Nhăn, Xuất Vía nên dùng vào việc giúp đời th́ công đức rất lớn. Nhờ thế, ta mau trở nên sáng suốt, đi lần lần tới Cửa Đạo, khỏi bị những Quả Báo xấu xa cản trở bước tiến hoá. Chúng ta hăy thận trọng và nên cân nhắc từ chút, đừng ch́u theo Dục Vọng mà mang tai hoạ vào thân và mắc kẹt măi vào bánh xe Luân Hồi, nhất là đừng quên rằng: Thần Thông là cây gươm hai lưỡi, nó làm lợi cũng được mà làm hại cũng được.

 

PHẬT  CẤM  DÙNG  NHỮNG  PHÉP  THẦN  THÔNG

 

          Tôi xin thuật hai chuyện nầy cho quí bạn nghe.

 

1 - PHẬT  CẤM  DÙNG  THẦN  NHĂN  XEM  NƯỚC  UỐNG

 

          Xá Lợi Phất nh́n vô bầu lọc nước của Ngài th́ thấy có nhiều sinh vật đang hoạt động, bởi v́ b́nh lọc của Ngài c̣n thô sơ. Ngài bèn nhịn  khát, không uống nước. Phật hay được chuyện nầy bèn nói với Xá Lợi Phất: “Con quí trọng sinh mạng mà con lại sát hại sinh mạng.”

          Từ đó, Ngài cấm các Đệ Tử không được phép dùng Thần Nhăn xem nước uống, chỉ xem bằng con mắt thường mà thôi.

          Phật có 80 vị Đệ Tử Pháp Thuật cao cường. Đứng đầu là Mục Kiền Liên (Mogallana), kế đó là Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasyapa), Xá Lợi Phất (Sariputta), Kiều Trần Như (Koudanya), Chullapanthaks, v.v…

          Duy có Ananda trọn 25 năm không có một phép nào cả. Cho đến khi Hội Nghị Phật Giáo lần thứ Nhứt tại Động Satabani Ngài mới Xuất Vía được.

 

2 – CÁI  BÁT  BẰNG  BẠCH  ĐÀN

 

          “Djyoticha, con của Soubhadra ở tại Vương Xá Thành Râdjagrihâ. Người ta cho Djyoticha một cái bát bằng Bạch Đàn nhận châu ngọc quí giá. Djyoticha đem cái bát để trên chót vót một cột trụ dựng trước nhà, ở dưới treo một tấm bảng có mấy hàng chữ: “Vị Sa Môn nào không dùng thang, không dùng móc mà chỉ dùng Thần Thông lấy được cái bát nầy, xin cái chi ta cho cái nấy.”

          Ma Ha Ca Diếp tới trước cột trụ chấp hai tay lại, tức th́ cái bát rơi xuống, Ngài xách đem về Tịnh Xá. Thiên hạ hay tin nầy đồn ra và khen ngợi Phật có những Đệ Tử Phép Tắc cao cường. Đức Phật hay được chuyện nầy bèn lại Tịnh Xá đập bể nát cái bát và cấm Đệ Tử không được dùng Phép Thần Thông để khoe khoang.”

          Phật đập bể nát cái bát nầy v́ hai lẽ chính dưới đây:

          1 - Thấy cái bát các Đệ Tử sẽ tự hào đă làm được một việc mà mấy Giáo Phái khác không làm được. Tánh khoe khoang, tự đắc, kiêu căng sẽ xô ngă những Đệ Tử trước những thử thách lớn lao khác đưa tới bất ngờ trong một thời gian sau. Cho đến đỗi tới bực La Hán c̣n phải lo diệt 5 chướng ngại chót để thành một vị Siêu Phàm, mà chướng ngại thứ 8 là Mano: Kiêu Căng.

          Thế nên ta phải hết sức khiêm tốn.

          2 - Người ta sẽ theo Phật Giáo không phải v́ Con Đường Chánh Giác của Phật đă vạch ra, mà v́ ham những quyền năng siêu việt. Nếu không luyện tập được những Phép Thần Thông th́ người ta sẽ thất vọng rồi bỏ Đạo. C̣n thành công, sẽ lạm dụng những tài phép để thoả thích ḷng ham muốn ích kỷ của ḿnh, làm hại người, gây ra Quả ác và bước qua Con Đường Bàng Môn Tả Đạo dễ dàng.

          Trong hai trường hợp, không có trường hợp nào tốt cả.

          Có một điều chắc chắn không ai căi lẽ được là trên 2.500 năm nay, Đức Phật được người đời Tôn Sùng không phải v́ Ngài là một Vị Giáo Chủ Thần Thông Quảng Đại, Đạo Pháp Cao Cường, Chỉ Đá Hoá Vàng, Vỗ Tay Sấm Nổ, mà chỉ v́ Ḷng Từ Bi của Ngài Bao La Bát Ngát Như Biển Rộng, Trời Cao. Ngài thương xót người đời c̣n mang nhiều Nghiệp Chướng, nên vạch ra Con Đường Thánh Thiện gọi là Bát Chánh Đạo để cứu vớt quần sanh ra khỏi chốn Trầm Luân Khổ Hải, mà ai ai cũng có thể thực hành được, không nhiều th́ ít. Ai bền chí noi theo đó mà đi tới măi sẽ sớm thoát đoạ Luân Hồi.

          C̣n một gương khác nữa là:

          Người ta thờ phượng Đức Khổng Tử chỉ v́ Ngài dạy Tam Cang Ngũ Thường, tức là Khoa Luân Lư, chớ không hề nói đến việc khiến Quỉ sai Thần. Quí bạn hăy xem chuyện Socrate thâu Xénophon làm Đệ Tử sẽ biết Hạnh Kiểm quan trọng là dường nào trong việc xử thế.

          Sau khi đọc đoạn nầy, bạn nào c̣n muốn hoạch đắc những Phép Thần Thông nên suy nghĩ lại coi có nên ra công luyện tập hay không?

         

TA  THẤY  NHỮNG  PHÉP  THẦN  THÔNG  MỖI  NGÀY  TRƯỚC   MẮT  TA

 

          Mỗi ngày ta thấy những Phép Thần Thông trước mắt mà ta không ngờ chút nào. Súng Đạn, Bom, Hoả Tiễn, Tia Sáng Hồng Ngoại Tuyến, Tia Sáng Tử Thần, Radar, v.v… là những Phép Thần Thông.

          Xưa kia, Tru Tiên Kiếm chỉ chém được có một người một lần, nhưng ngày nay Súng Liên Thanh, Hoả Tiễn trong một phút có thể sát hại cả trăm mạng sanh linh. Nói ǵ tới Bom Nguyên Tử, Bom Khinh Khí  c̣n độc hại hơn nữa. Chúng có thể nhận ch́m một Lục Địa.

          Đời càng Văn Minh Vật Chất th́ người ta đua nhau chế ra những khí giới tối tân để tàn sát lẫn nhau đặng thoả thích ḷng háo sát và tham vọng của họ. Nếu cứ tiếp tục như thế, biết tới chừng nào nhân loại được an hưởng thái b́nh. V́ thế luyện tập Tánh Từ Bi, Bác Ái là điều cần thiết hơn hết.

          Thường người có những Phép nầy hay bị bọn Ma Quái gạt gẫm, hoặc trở nên khoe khoang và nghĩ rằng y không thể nào lầm lẫn.

          Điều nầy thường xảy ra, những người học Đạo có kinh nghiệm đều biết, nhất là những người vừa có Thần Nhăn. Đừng tưởng có Thần Nhăn ắt đọc được tư tưởng và t́nh cảm liền. Không phải thế, chúng ta thấy Cái Vía của ta trước hết.

          Phải nhờ Huấn Luyện Sư chỉ bảo phương pháp xem xét. Chất khí làm Cơi Trung Giới rung động mau lẹ, bọn Ngũ Hành thay h́nh đổi dạng trong chớp nháng, những chữ số thấy ngược. Trong những lần đầu tiên, 100 lần nói trật hết 97, 98 lần. Phải sửa đổi cách nhắm cho đúng.

          Cũng có thứ Tinh Linh ưa khuấy chơi, cũng có bọn Ma Quái gạt gẫm những người vừa có Phép Thần Thông.

 

SỰ  NGUY  HẠI  CỦA  VIỆC    THẦN  NHĂN

 

          Nếu không có một Nhà Huyền Bí Học lăo luyện hay là một Cao Đồ của Chơn Sư dắt dẫn, người có Thần Nhăn sẽ gặp những điều nguy hại lớn lao mà không ngờ trước.

          Thí dụ như: Ngày đêm thấy măi trước mắt những Hồn Ma và những Tinh Quái h́nh thù kỳ dị ở Cơi Trung Giới, có thứ giống như một cục thịt, hả miệng rộng lớn đỏ ḷm. Có khi Hồn Ma theo một bên nói chuyện nầy, chuyện kia, bảo làm nhiều điều họ muốn, không nghe theo họ th́ họ hăm doạ. Phái nữ mà có Thần Nhăn hăy coi chừng lấy, thường bị trêu ghẹo, cười cợt, níu kéo và nựng nịu nữa. Có khi ngày đêm không yên, không nhắm mắt ngủ như ngày thường được.

          Một điều hại nữa, có Thần Nhăn thấy được sự giả dối, xảo quyệt của người đời th́ bắt ngán ngẩm. Thà đừng có Thần Nhăn c̣n hay hơn.

          Không phải có bao nhiêu đây mà thôi, c̣n nhiều điều khác nữa.

          Nếu xét ḿnh tấm ḷng chưa được trong sạch, chưa tự chủ, c̣n nhát sợ, chưa thật gan dạ, chưa được huấn luyện kỹ càng, xin đừng ước ao có Thần Nhăn. Nguy hiểm lắm!

 

BA  LỜI  NGUYỆN

 

          Bên Chánh Đạo, trước khi dạy phương pháp mở Thần Nhăn th́ vị Đệ Tử phải phát nguyện như sau đây:

          1 – Không được dùng Thần Nhăn xem chuyện riêng tư của thiên hạ.

          2 – Không được khoe khoang. Nếu bị thách đố, không được trổ tài để cho người ta biết ḿnh quả thật có quyền năng nầy.

          3 – Không được dùng Thần Nhăn mưu cầu lợi lộc ở Cơi Trần hay ở Cơi trên.

          Phạm lời thề ắt mắc Quả nặng.

 

CHUYỆN  MỘT  ÔNG  PHẬT  GIẢ

 

          Tôi xin kể câu chuyện rất lư thú nầy cho quí bạn nghe.

          Thuở xưa, có một Nhà Sư rất đạo đức. Một Con Quỉ mến đức của ông nên xin làm Đệ Tử. Một bữa, ông nói với nó: “Thầy muốn thấy Phật lắm.” Con Quỉ mới thưa: “Ngày mai đúng ngọ tôi hoá h́nh Phật cho Thầy xem mà Thầy đừng có lạy.” Ông Sư ưng chịu.

          Tới giờ ngọ hôm sau, Nhà Sư thấy Phật hiện ra, hào quang rực rỡ, sau lưng có một đám Đệ Tử theo hầu. Nhà Sư lật đật quỳ lại. H́nh biến mất, Con Quỉ bèn nói: “Con đă dặn Thầy, Thầy đừng có lạy. Đây là h́nh Phật giả chớ không phải Phật thiệt.”

          Người bày ra câu chuyện nầy có ư răn đời, đừng quá tin cái ǵ thấy trước mắt là đúng với sự thật.

          Về những việc Huyền Bí, v́ bởi chúng ta c̣n ở trong Ṿng Trần Tục, nên không có tiêu chuẩn để chứng minh rằng: Ông nầy thật là Chơn Tiên, c̣n Ông kia là Giả Tiên, chỉ có Nhân Viên trong Quần Tiên Hội mới biết được việc nầy mà thôi.

          Chính Đức Bà A. Besant có thuật cho chúng tôi nghe: Đă hai lần một vị Bàng Môn hoá h́nh Chơn Sư gạt Bà, ra lịnh cho Bà làm một việc trái với Đạo Lư mà Bà không làm.

          Nên biết, có những vị Bàng Môn tài phép cao cường chỉ kém Tiên Thánh một, hai bậc về quyền năng mà thôi.

          Cho đến Đức Bà A. Besant là một vị La Hán mở được Huệ Nhăn mà c̣n bị họ toan gạt, nhưng Bà không lầm. C̣n chúng ta đây ví như trẻ nít mới 4, 5 tuổi có đáng chi đối với họ. Họ giăng bẫy th́ ta vấp té.

          Người học Đạo nên tự biết ḿnh tới tŕnh độ nào và hăy Hết Sức Khiêm Tốn, v́ thật ra chúng ta c̣n dốt lắm, chưa biết ngày mai ra sao? Nên cẩn thận là điều hay hơn hết.

 

VỀ  TÁNH  KIÊU  CĂNG

 

          Điều nầy khỏi nói: Kiêu căng là Tánh của Cái Trí, càng mở mang, càng hiểu biết nó càng kiêu căng, tự phụ, tự tôn, tự đại, nhất là những vị có Tài Phép.

          Tôi chắc bạn nào có đọc bộ Phong Thần Diễn Nghĩa và bộ Tây Du đều biết hai bộ truyện nầy viết ra để dạy những người có Tài Phép phải hết sức Khiêm Tốn.

          Hai câu liễn dán tại Bích Du Cung có ư nghĩa hết sức sâu xa:

          “Đóng cửa tụng Huỳnh Đ́nh, thật bậc số thành Ngôi Chánh Quả.”

          “Tách ḿnh qua Tây Thổ là người tên đứng Bản Phong Thần.”

          Tây Thổ không phải là Tây Kỳ mà thôi, mà nó c̣n ám chỉ Trường Danh, Nẻo Lợi ngàn đời nữa.

          Hai câu nầy dạy các Tiên Triệt Giáo đừng ỷ ḿnh Tài Phép cao cường qua Tây Kỳ khoe khoang quyền năng mà sẽ bỏ mạng và thành Thần, chớ không c̣n được làm Tiên nữa.

          Điển h́nh cho tánh kiêu căng là Triệu Công Minh trong 4 câu thi nầy:

                    Xô núi Côn Lôn muốn ngả nghiêng,

                   Dầu cho nhật nguyệt cũng theo quyền.

                   Từ hồi mới có ta ra mặt,

                   Chưa thấy ông nào đáng bực Tiên.

          Triệu Công Minh ỷ ḿnh có xâu Định Hải Châu đánh bại 12 vị Đại Tiên, Đệ Tử của Ngọc Hư Cung, nhưng cuối cùng phải thác về tay Lục Yểm.

          Triệu Công Minh điển h́nh cho Cái Trí quá ư tự cao, tự phụ, khinh khi thiên hạ không ai tài giỏi bằng ḿnh.

          Lục Yểm tượng trưng cho sự khắc phục Lục Căn. Chúng đă thanh tịnh v́ bị trấn ếm, nên Lục Yểm mới hạ được Triệu Công Minh.

          Chính là 75.025 năm trước Tây Lịch Kỷ Nguyên, các vị Đạo Sĩ theo Phái Bàng Môn ở Châu Atlantide ỷ ḿnh Thần Thông rộng lớn, Pháp Lực cao cường làm những tội ác hết sức lớn trọn 50.000 năm. Thiên Đ́nh cảnh cáo nhiều phen nhưng không ăn năn chừa cải. Cho nên cuối cùng Đức Ngọc Đế phải hạ lịnh nhận ch́m Châu Atlantide xuống dưới đáy biển để tẩy uế Quả Địa Cầu. Chỗ Châu Atlantide nằm khi xưa bây giờ là Đại Tây Dương ba đào sóng bủa và mang tên là Océan Atlantique.

          Cù lao Acores là chót núi của một Dăy Núi cao của Châu Atlantide thuở xưa.

          Đọc qua lịch sử Huyền Bí Học sẽ thấy những tai hại vô cùng rộng lớn của tánh kiêu căng, tự phụ, Mục Hạ Vô Nhơn.

 

ĐỨC  KHIÊM  TỐN

 

          Bà Blavatsky đă nói trong quyển “Những Bước Đầu Tiên Trên Con Đường Huyền Bí Học” rằng: “Không ai có thể tự nói rằng: Tôi xứng đáng hơn, hay là tôi làm đẹp ḷng Đức Sư Phụ của tôi nhiều hơn các bạn tôi, mà vẫn c̣n được làm Đệ Tử của Ngài.”

          Riêng về phần Bà Bác Sĩ A. Besant, Bà có nói ngày kia rằng: “Đối với Nhà Huyền Bí Học, một trong những Qui Luật thứ Nhứt là giữ một Địa Vị Khiêm Tốn chừng nào tốt chừng nấy, hầu giúp cho Phàm Nhơn của nó Ít Được người ta Để Ư đến chừng nào lại càng tốt chừng nấy.”

          Những người khảo cứu về Huyền Bí Học mà chưa được nhận vào Hàng Đệ Tử Chơn Sư có thể rất dễ lầm lạc v́ ḷng kiêu hănh và đó là điều khó khăn lớn lao cho những kẻ đă luyện được những Phép Thần Thông. Họ nhận thấy rằng: Họ có thể thấy được nhiều vật vô h́nh mà kẻ khác không thấy, họ có thể đạt được nhiều sự hiểu biết mà kẻ khác không biết, họ bắt đầu cảm thấy ḿnh cao hơn đồng loại, v́ thế kết quả trên đây thường khá khốc hại.

          Khi chúng ta gặp những người có Phép Thần Thông kiêu hănh thái quá, tôi tưởng chúng ta có thể quả quyết rằng: Họ chưa phải là bậc cao siêu và nếu những quyền năng cao siêu của họ phát triển th́ họ cũng chưa giao tiếp được với Chơn Sư, v́ lẽ Không Kiêu Hănh là đặc tính hoàn toàn của người phải học bài học của nó.

          Trong quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo,” Qui Tắc 13 như vầy:

          “Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.”

          Chơn Sư giải thích:

          Quyền năng mà con ao ước là quyền năng làm cho thiên hạ coi con không ra ǵ trước mặt họ, tức là Đệ Tử phải hết sức Khiêm Tốn.

          Xưa nay, các vị Thánh Sư đều dạy các Đệ Tử phải tập rèn cho được Ḷng Từ Bi, Bác Ái và diệt tánh Chia Rẽ, chớ không bao giờ chỉ cách khai mở những quyền năng, trước khi Đệ Tử hội đủ những điều kiện cần thiết.

          Khoa Bí Truyền để dành đào tạo những vị Thánh Nhân. Những ai mong mỏi có những Phép Tắc th́ không bao giờ được bước vào Thánh Điện tôn nghiêm. Nơi đây chỉ đón tiếp những người Mộ Đạo, Ḷng Vị Tha mở rộng, chỉ biết Phụng Sự để mưu cầu hạnh phúc cho quần sanh mà thôi, chớ không hề v́ Tư Lợi.

          Đây là Luật Lệ bên Chánh Đạo, các Đệ Tử phải tuân theo.

          Dù thế nào, ngày giờ và sức lực dùng để luyện tập mấy Phép nầy nên để giúp đời c̣n hay hơn. Chúng sẽ đến với con khi con được phát triển, bề nào chúng cũng đến; và nếu Thầy nhận thấy con cần có những Phép đó sớm hơn, Ngài sẽ chỉ cách cho con khai mở chúng một cách an toàn. Từ đây tới đó, tốt hơn là con đừng có chúng.

          Có hai phương pháp chánh để mở những quyền năng siêu việt.

          Phương pháp thứ nhứt là Tinh Thần hoá 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

          Khi tinh luyện Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí đúng phép th́ các tế bào của 3 Thể nầy càng ngày càng trở nên nhẹ nhàng, thanh bai. Chúng rung động mau lẹ và thâu thập được những Thần Lực từ mấy Cảnh cao đưa xuống. Hành giả sẽ có Thần Nhăn. Phương pháp nầy cũng như sự Tiến Hoá tự nhiên, không có phương hại chi cả.

          Như hiện giờ đă có những trẻ nhỏ mở được Thần Nhăn, thấy những điều mà người thường không thấy, làm cho cha mẹ chúng nó rất ngạc nhiên.

          Chúng nó cần được các vị Cao Đồ của Chơn Sư chăm nom. Nếu để sống theo thế tục các quyền năng nầy không mở v́ bị cách nuôi dưỡng của cha mẹ, như cho ăn thịt hay là cho uống rượu, hút thuốc. Chúng nó phải trường trai, tuyệt dục, không nên lân la với đám trẻ mất dạy mà hư hỏng cuộc đời tốt đẹp.

          Phương pháp thứ nh́ là cho Luồng Hoả Hầu (Kundalini) đi lên khai mở những Luân Xa của Cái Phách và Cái Vía. Phương pháp nầy rất nguy hiểm. Bên Ấn Độ có câu châm ngôn nầy:

          “Nó (Luồng Hoả Hầu) giải thoát những người Hiền Triết mà nó trói buộc những kẻ khờ khạo.”

          Xin nhớ rằng: Điều hay hơn hết là theo sự tiến hoá tự nhiên, nhưng có thể đi mau hơn người thường bằng cách Tham Thiền, Tự Trị, Tự Chủ, Khắc Kỷ, Mở Rộng Ḷng Nhân và Giúp Đỡ Người Tuỳ Phương Tiện.

          Câu châm ngôn sau đây:

          “Khi Thí Sinh sẵn sàng th́ Chơn Sư hiện đến” không bao giờ sai.

          Đừng đi đến Côn Lôn, Tây Tạng hay Hy Mă Lạo Sơn tầm Tiên học Đạo. Nếu không có đủ các Đức Tánh Tốt th́ bên Chánh Đạo không hề thâu nhận. Không khéo sẽ lạc qua đường Bàng Môn Tả Đạo, gây ra tai hoạ cho nhiều kiếp sau.

          Sự thật là Chơn Sư t́m ḿnh, chớ ḿnh khỏi đi t́m Ngài. Nếu ḿnh có đủ đức tánh tốt ắt Ngài sẽ sai Đệ Tử đến dẫn dắt. Ngài ở Cơi Niết Bàn nh́n xuống thấy rơ và biết rơ tất cả những ai có căn lành trên Địa Cầu nầy, ở chốn nào và tại nước nào.

          Trước đây tôi có nói: Nếu không có những học tṛ đủ sức hiểu những bài học theo chương tŕnh đă sắp đặt sẵn th́ Ông Thầy dạy ai bây giờ. Nhiều người tin rằng Cửa Đạo đóng chặt, nên không ai học Đạo được. Sự thật không phải thế. Cửa Đạo vẫn chờ Người Có Đủ Tư Cách tới gơ Cửa để mở ra và rước vào. Nhưng thí sinh vắng bóng. Một điểm nữa, một đứa trẻ chưa thuộc những mẫu tự A, B, C đáng lẽ phải vô ngồi Lớp 1 mà đ̣i lên ngồi Lớp 4, Lớp 5 th́ chắc chắn không có ông Hiệu Trưởng nào thâu nhận nó được cả. Vậy lỗi tại ai?

          Về câu chuyện Chơn Sư đến t́m Đệ Tử nên nhớ câu nầy:

          “Trong nhà có Quân Tử th́ ngoài ngơ có Quân Tử đến.”

          Luôn luôn đồng thinh tương ứng, đồng khí tương cầu. Ở thời đại nào câu nầy vẫn đúng cả.

          Đọc đoạn Dưới Chân Thầy nầy rồi suy nghĩ sẽ thấy Tánh Khiêm Tốn hết sức tốt mà cũng là Tánh rất khó tập vậy.

          Tưởng cũng nên biết rằng: Khi Chơn Sư chỉ cho ta mở những quyền năng th́ Ngài theo dơi luôn luôn. Nếu ta làm sai Ngài chỉ cho ta cách sửa đổi liền, khỏi sợ tai hại nào cả.

          Xin tóm tắt những lời của Đức Leadbeater nói:

          “Trước kia, tôi tưởng muốn mở những quyền năng phải có những thiên tư riêng biệt. Đó không phải là trường hợp của tôi. Một hôm, Chơn Sư đến viếng Adyar, Ngài giải thích về những quyền năng và chỉ cho tôi một cách Tham Thiền. Ngài nói: “Thầy tưởng nó sẽ đem cho con những kết quả tốt đẹp.” Tôi vâng lời và thực hành liền. Những quyền năng khai mở trong một thời gian sau.

          Tôi tưởng người nào làm việc cho Chơn Sư nên chờ đúng ngày giờ, nghĩa là khi anh có những điều kiện cần thiết Ngài sẽ chỉ cho anh cách luyện tập.”

          Trong lúc Đức Leadbeater công phu Chơn Sư vẫn theo dơi từng cử chỉ cho đến khi Ngài thành công.

          Ta có thể nói rằng: Đức Leadbeater là người có Huệ Nhăn đứng vào hàng bậc nhất trên Hoàn Cầu trong Thế Kỷ 20 nầy. Tới bây giờ chưa có ai sánh kịp với Ngài cả, v́ Ngài thấy được những việc xảy ra mấy trăm triệu năm trước và cả trăm triệu năm sau.

          Con cũng phải giữ ḿnh, tránh những ham muốn nhỏ nhen thường có trong đời sống hằng ngày. Đừng bao giờ phô trương hay ra vẻ khôn ngoan.

          Chơn Sư nhắm ngay bệnh thông thường của người đời là Ham Muốn, ai cũng thích khoe khoang, muốn cho thiên hạ biết đến ḿnh. Khoe ḿnh giàu, khoe ḿnh sang, khoe ḿnh đẹp, khoe ḿnh học giỏi, khoe ḿnh tài hay, v.v…

          Điều nầy không tai hại, nhưng thường nó làm tổn đức con người bởi v́ không thành thật. Nếu không thành thật là tự dối ḿnh và dối người một lượt. Tấm ḷng sẽ bị nhơ bợn. Tuy là việc nhỏ mọn mà cái hiệu quả có khi lớn lao không ai ngờ, v́ việc nầy c̣n kéo ra việc khác nữa.

          Nhưng c̣n không biết bao nhiêu sự ham muốn nhỏ nhen khác, chúng làm hao tổn khí lực của con người, lại c̣n sanh ra những nỗi đau buồn khi thoả măn. Phải cân phân cái lợi, cái hại trong mọi trường hợp, tức là phải phân biện mới biết lời dạy của Chơn Sư quí báu là dường nào.

          Phật Giáo có 14 Tín Điều mà Tín Điều Thứ 5 như thế nầy:

          Đức Thích Ca Mâu Ni dạy rằng:

          “Vô Minh sanh ra Ham Muốn; Ham Muốn không được toại là nguồn cội của Luân Hồi; Luân Hồi là nguyên nhân của sự đau khổ.

          Muốn diệt đau khổ cần phải thoát đoạ Luân Hồi, muốn thoát đoạ Luân Hồi th́ phải diệt Ham Muốn, muốn diệt Ham Muốn th́ phải trừ khử Vô Minh.”

          Thật là hết sức đúng.

          Đừng ham nói. Nói ít th́ tốt, mà không nói ǵ cả lại càng tốt hơn, trừ phi con hoàn toàn chắc chắn rằng điều con muốn nói là chân thật, dễ thương và hữu ích. Trước khi nói hăy suy nghĩ kỹ xem điều mà con sắp nói ra có đủ ba đức tính trên không; nếu không th́ đừng nói.

          Sống ở giữa Đời Văn Minh nầy, người ta thích nói chuyện, hết chuyện nầy tới chuyện kia, gặp nhau mà không chuyện văn th́ rất buồn chán và có khi bị người đời nghi ngờ ḿnh kiêu hănh, khinh bạc người ta. Thật là cực kỳ khó khăn, phải thận trọng, phải khôn khéo.

          Thật ra, thường thường người ta nói những chuyện không đáng nói chút nào, tức là đụng đâu nói đó.

          Đức Bàn Cổ có dạy: “Người nào làm chủ được cái lưỡi th́ làm chủ được tất cả.”

          Thánh Jacques cũng nói: “Cái lưỡi là một phần tử bé nhỏ, mà nó khoe khoang những việc lớn lao vô cùng. Hăy coi ḱa! Một đốm lửa nhỏ làm cháy cả một khu rừng.

          Cái lưỡi cũng vậy, nó là một ngọn lửa, ấy là thế giới của những hành vi bất công. Cái lưỡi để trong thi thể chúng ta, nó làm nhơ bẩn tất cả thân ḿnh.” (Jacques III – 5 – 6)

          Chế ngự được cái lưỡi là chế ngự được bản tánh thấp hèn của chúng ta.

          Xưa kia, tại Crotone, Hy Lạp, Đức Pythagore bắt buộc sinh viên mới nhập học Trường của Ngài lập ra phải làm thinh trong ṿng 2 năm (có khi tới 5 năm). Chỉ nghe chớ không được hỏi han chi cả. Đó là cốt ư tập cho sinh viên Tánh Cẩn Ngôn, và sự làm thinh cũng c̣n có ảnh hưởng Huyền Bí tới Luân Xa tại Yết Hầu nữa.

          Ở Ấn Độ có những Nhà Tu Sĩ Dô-Ghi (Yogui) gọi là Muni phát nguyện Tịnh Khẩu trong một thời gian, luôn luôn họ giữ vẹn lời hứa của họ.

          Đức Leadbeater có gặp một vị Dô-Ghi tịnh khẩu đă 10 năm, vị nầy rất trầm tĩnh và phẩm cách thanh cao phi thường. Nếu ông không sống một cách yên lặng th́ ông không thể tiến đến một mức độ tinh thần như bấy giờ.

          Nhưng chúng ta nên nhớ: Hiện giờ chúng ta chưa ly gia cắt ái, chưa ra khỏi ṿng tục luỵ, không thể tịnh khẩu măi. Tuy nhiên, phải cố gắng giữ ḷng thanh tịnh, chỉ nói những điều cần thiết, hữu ích v́ bổn phận. Ngoài ra nên giữ thái độ im lặng để tu dưỡng tánh t́nh mà không làm cho ai phiền hà ḿnh cả.

 

PHƯƠNG  PHÁP  TẬP  LUYỆN

 

          Nói rất dễ, Hành rất khó. Vậy ta nên tập theo những người Djain, tín đồ Hoả Thần Giáo.

          Mỗi buổi sớm mai, họ nghĩ: “Ngày nay tôi không làm điều chi đó, hay nói cái chi đó,” có lẽ chẳng có chi là quan trọng; hoặc giả không đi dạo một ṿng, không nói một tiếng nặng nề, v.v… Tuỳ ư.

          Lần lần có thói quen sẽ tập được tánh cẩn thận, nghiêm nhặt, không c̣n chểnh mảng, sơ suất nữa. Như thế ḿnh tự kiểm soát lấy ḿnh được.

          Trong quyển Tư của Bộ “Học Cơ Tiến Hoá” tôi có giải về Lời Nói Chân Chánh. Xin đọc lại lời giải về Đoạn IV: “Trước khi nói, con phải suy nghĩ cho kỹ lưỡng.”

          Ngay cả bây giờ con cũng nên tập tính quen suy nghĩ kỹ trước khi nói; bởi v́ khi con được Điểm Đạo  rồi, con phải giữ ǵn từng lời nói, bằng không con sẽ nói ra những ǵ con không được nói.

          Tại sao có câu: “Con sẽ nói ra những ǵ con không được nói, khi con đă được Điểm Đạo.”

          Phải biết những quyền năng của sự Điểm Đạo biến đổi Con Người thành ra một vị Tiểu Thượng Đế.

          Hiểu được chút đỉnh về những hành động của các vị Đạo Sĩ ở Châu Atlantide thuở xưa mới rơ tại sao phải kín miệng.

          Nếu người ngoài, nhất là Phe Tả Đạo, biết được những quyền năng nầy, họ sẽ lạm dụng để thoả thích ḷng ham muốn của họ. Cơi đời sẽ biến thành một băi chiến trường, hay đúng hơn là một băi tha ma, không phải là đầy mồ mả mà đầy những người sống, nhưng như những người đă chết, v́ họ bị kềm kẹp trong bàn tay sắt của Phái Bàng Môn. Họ thành những người máy. Tuy nhiên, không bao giờ những sự bí mật của sự Điểm Đạo bị tiết lộ ra ngoài. V́ khi dạy Đệ Tử cách luyện tập các Đấng Cao Cả cũng chỉ cho Đệ Tử cách che giấu tư tưởng. Dầu cho mấy anh Tả Đạo mở được Thần Nhăn cao thế mấy đi nữa cũng không thấy được, không biết được cách luyện tập. Và thí dụ vị Đệ Tử muốn nói ra một vài điều anh đă học khi mới vừa mở miệng, anh đă quên mất anh muốn nói điều chi, cả tháng như vậy. Tại sao có điều đó? Bởi v́ Tâm của người được Điểm Đạo liên lạc mật thiết với Tâm của Tiên Thánh của Quần Tiên Hội. Trước khi anh muốn tiết lộ th́ Tiên Thánh đều biết, các Ngài ngăn cản liền.

          Nhiều cuộc nói chuyện thông thường đều không cần thiết và không đúng đắn; và khi nó là chuyện nói hành th́ nó hoá ra hung ác.

          Nên suy xét điều nầy: Có những người nói để mà nói, hoặc để làm vui ḷng người đàm thoại với ḿnh. Nói Đông, nói Tây, nói Nam, nói Bắc một hồi sẽ kéo chuyện người nầy ra nói, tánh người kia ra bàn luận, phê b́nh.

          Trước kia, chưa thông hiểu Đạo Đức, ta làm như vậy. Nay biết được Luật Trời th́ phải cẩn ngôn và thủ khẩu như b́nh. Đây không phải là ngậm miệng măi, nhưng ít nói và chỉ nói khi thấy việc đó là cần thiết. Chớ nên để mang tiếng Bạ Ăn Bạ Nói.

          Tục rằng: “Hay ăn hay đói, hay nói  hay lầm.” Thật là không sai.

          Ít nói cũng là một phương pháp giữ ǵn sức khoẻ. Quí bạn hăy thí nghiệm điều nầy:

          Bàn tay trái để trước ngực, bàn tay mặt để sau lưng rồi nói vài lời. Quí bạn sẽ thấy cái ngực bị dội như đánh trống.

          Mấy vị Giáo Chức phải nói nhiều khi giải nghĩa bài học, cho nên hai lá phổi rất mệt. Nhiều vị mang bệnh lao là bởi thường hay nóng giận.

          Tưởng cũng nên biết: Lời nói phát ra những làn sóng như những làn sóng điện. Những tiếng của âm nhạc có h́nh dạng và màu sắc, nhiều thứ rất đẹp. Nhưng có một điều khó là phải có Thần Nhăn mới thấy được mấy điều nầy, v́ vậy nên ít ai tin.

          Vậy con hăy tập thói quen nghe hơn là nói; không nên phát biểu ư kiến trừ phi người ta trực tiếp hỏi con.
Có một câu gồm đủ các đức tính phải tập là: Trí (Hiểu Biết), Dũng (Can Đảm), Nguyện (Quyết Chí), và Mặc (Làm Thinh); và hạnh cuối cùng là khó tập luyện hơn hết.

          Xin nhấn mạnh hai chữ “Thói quen.” Thói quen là Bản Tánh Thứ Nh́ của Con Người. Thói quen rất khó sửa.

          Vậy bây giờ nên tập ngồi nghe hơn là hay nói.

          Quả thật có nhiều người nghe những điều trái tai th́ liền căi lẽ và sanh ra những chuyện bất hoà. Người ta nói mặc người ta, can chi tới ḿnh mà phải can thiệp, đă không ích lại c̣n mất niềm hoà khí. Một khi gây gổ không biết tới ngày nào hay là vài chục năm sau mới hết cái hậu quả của nó.

          Khi người ta ân cần hỏi ư kiến của ḿnh, ḿnh mới nên tỏ ra, mà cũng phải dè dặt. Phải nói như vầy: Đây chỉ là chỗ thấy của tôi mà thôi, anh suy nghĩ coi nó có đúng lư không? Không nên bao giờ cho rằng điều biết của ḿnh là đúng, là hay hơn hết. Chân Lư có nhiều khía cạnh. Mỗi người biết hay thấy một hay hai khía cạnh mà thôi. C̣n nhiều khía cạnh khác ta chưa học tới nên không biết. Chỉ khi nào tới bực Chơn Tiên mới thấy toàn thể Chân Lư.

          C̣n 4 chữ: Tri, Cảm, Nguyện, Mặc, phải hiểu ư nghĩa sâu xa của chúng nó.

          Sinh viên Huyền Bí Học phải cố gắng học hỏi để hiểu biết những Luật Bí Ẩn Thiên Nhiên, và phải tự rèn luyện cho có một ư chí cứng cỏi như sắt đá mới vượt qua được những trở ngại, những thử thách và khai mở những quyền năng cao siêu. Thành công xong phải giữ thái độ trầm mặc, giữ ḿnh không kiêu căng, tự phụ v́ biết rằng c̣n nhiều cấp bậc cao phải lo tiến lên lần lần. Đúng với câu: Mặc, mặc, mặc, vô hạng Thần Tiên tùng thử đắc.

          Phái Hoa Hồng Thập Tự (Rose Croix) lấy 4 chữ: Tri, Cảm, Nguyện, Mặc làm nguyên tắc.

          Đức tánh làm thinh khó tập thật, song nếu ta cố gắng và bền chí mỗi ngày tập một ít, lâu ngày sẽ thấy kết quả tốt đẹp hiện ra.

          Một tính thông thường khác mà con phải nghiêm khắc bài trừ là ư muốn xen vào chuyện của người khác. Những ǵ người khác làm hoặc nói hoặc tin đều không can hệ chi tới con, và con phải tập tính tuyệt đối không xen vào chuyện của y. Bao giờ y không xen vào chuyện người khác th́ chừng đó y có toàn quyền tự do tư tưởng, ngôn luận và hành động. Chính con cũng vậy, con đ̣i quyền tự do để làm những ǵ mà con nghĩ là đúng; vậy con cũng phải để cho y có quyền tự do y như vậy; và khi y sử dụng quyền tự do đó, con không có quyền chỉ trích.

          Những người mới hiểu được Chân Lư, có vài kinh nghiệm đều mong mỏi thiên hạ hiểu biết như ḿnh vậy. V́ thế có nhiều bạn quá ư sốt sắng nên thường can thiệp vào tín ngưỡng và việc làm của kẻ khác. Như thế phạm lỗi không có ḷng khoan dung.

          Những điều kẻ khác tin được, làm được cứ để cho người ta tin, người ta làm. Chân Lư của ḿnh không phải là Chân Lư của bạn ḿnh, mà Chân Lư của bạn ḿnh cũng không phải là Chân Lư của ḿnh. Mỗi người hiểu Chân Lư một cách khác nhau, tuỳ theo tŕnh độ tiến hoá của đương sự.

          Trước đây tôi có nói: Chân Lư giống như ánh sáng, c̣n Cái Trí là một tấm kính do con người tô màu không giống nhau.

          Nếu Cái Trí là tấm kính màu xanh con người sẽ thấy ánh sáng màu xanh, nếu Cái Trí là tấm kính màu đỏ con người sẽ thấy ánh sáng màu đỏ, c̣n Cái Trí là tấm kính màu vàng con người sẽ thấy ánh sáng màu vàng. Chừng nào Cái Trí là tấm kính màu trắng trong trẻo con người mới thấy được ánh sáng màu trắng.

          Không ai có thể thay đổi tấm kính của ta từ màu nầy ra màu kia. Mỗi người phải tự ḿnh thay đổi tấm kính màu của ḿnh. Nói một cách dễ hiểu là tự phá tan những thành kiến cũ kỹ bằng cách sửa đổi tư tưởng, ư muốn và thói quen. Nhưng phải can đảm và thành tâm.

          Vậy chớ nên xen vào việc thiên hạ, không phải lănh đạm, nhưng phải trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của mọi người, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ, nếu điều đó cần thiết. Đáng sợ hơn hết là sự bài xích các Tôn Giáo, nó gây ra những việc bất hoà làm đổ máu không ít, từ xưa đến nay không biết bao nhiêu lần.

          Đừng bắt buộc người ta tưởng như ḿnh hay là nói như ḿnh vậy. Thí dụ như: Có người khi nghe nói “Đức Chúa Trời” th́ không thích, mà cũng có người nghe ai nói tới “Phật” cũng chẳng ưa.

          Cái nhăn hiệu bên ngoài có chi là trọng hệ. Cái b́nh đựng nước dầu nó làm bằng pha lê, thuỷ tinh, vàng hay bạc cũng là cái b́nh. Hăy xem nước trong b́nh nếu nó trong sạch, ngon ngọt ắt dùng được, dầu cái b́nh đựng nó bằng sành cũng không hề ǵ. Chỉ sợ một điều là nếu cái b́nh bằng ngọc nhưng đựng thuốc độc th́ ta nên tránh xa mà thôi.

          Hiện giờ người ta cũng chưa thật mở rộng ḷng khoan dung.

          Ta thường thấy: Một người kia bày ra một kiểu áo mới, rồi cả trăm cả ngàn người khác đua nhau may áo theo kiểu đó, không cần biết kiểu đó có thật đẹp mắt hay không.

          Nếu gặp một người khác mặc áo không giống kiểu mới liền chê là c̣n xưa quá.

          Cái “mốt” thay đổi măi. Nếu chạy theo “mốt” th́ tốn hao tiền của một cách vô lối, v́ phải bỏ hết quần áo cũ và may quần áo mới. Miễn là người ta không ăn mặc lố lăng, không làm chướng mắt thiên hạ, hăy để cho người ta tự do.

          Mỗi dân tộc đều có cách ăn mặc và ngôn ngữ riêng biệt, ta phải kính trọng điều đó. Nếu ta muốn được tự do đi đứng, nói năng, tại sao ta không cho người khác được làm như thế. Vậy sự công b́nh ở đâu?

          Điều nào ḿnh không muốn kẻ khác làm cho ḿnh chớ nên làm cho họ (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân).

          Nếu con nghĩ rằng y làm quấy và nếu con có thể tạo ra một cơ hội để nói riêng cho y nghe một cách lễ phép rằng tại sao con nghĩ như vậy, th́ con có thể thuyết phục được y; nhưng có nhiều trường hợp mà ngay cả sự can thiệp như thế cũng không phải cách nữa. Con không được v́ bất cứ lư do nào đem chuyện đó mách với một người thứ ba, v́ đó là một hành động thật xấu xa.

          Điều nầy không phải dễ thực hành. Ít có người biết phục thiện, dầu biết ḿnh quấy cũng không chịu nhận lỗi ḿnh, cứ cho ḿnh là phải.

          Trừ ra các bạn thân, ḿnh có thể khuyên can một đôi lần nhưng vẫn sợ chạm ḷng tự ái của bạn.

          Chơn Sư dạy ta phải xử sự khôn khéo.

          Thiên hạ thấy cái quấy của kẻ khác mà không thấy cái quấy của ḿnh và thường thổi lông t́m vết. Thật đúng với câu châm ngôn:

          “Người ta thấy cọng rơm trong con mắt của kẻ khác, mà không thấy cái đ̣n bẫy trong mắt ḿnh.”

 

PHƯƠNG  PHÁP  KHẮC  KỶ

 

          Có một phương pháp hay để khắc kỷ là: Tối trước khi đi ngủ, hăy ngồi suy nghĩ lại những điều ta đă tưởng, đă muốn, đă nói, và đă làm trong ngày, từ chiều tối nghĩ ngược về sớm mai. Nếu có lỗi th́ nhận lỗi, đừng tái phạm lỗi. Mỗi ngày mỗi thực hành như vậy, thế nào cũng có hiệu quả tốt lành.

          Có thể chỉ và giải thích phương pháp nầy cho bạn ḿnh hay là ai đó và khuyên nên đem ra thực hành thử xem.

          Tại sao Chơn Sư không cho đem lỗi của một cá nhân nói cho người khác biết?

          Bởi v́ tư tưởng có h́nh dạng và có sức mạnh. Khi tưởng nghĩ tới lỗi của ai tư tưởng của ḿnh sẽ thêm sức mạnh cho tánh xấu của người đó, ḿnh xúi giục y phạm thêm tội ấy nữa. (Xin xem tới Đoạn: Nói hành, nói vu).

          Nhưng đây là trường hợp rất tế nhị. Về cá nhân, có thể tránh điều nầy được dễ dàng. C̣n về một tập đoàn, nếu sự hành động của một đoàn viên có thể làm hại cho toàn thể th́ các hội viên phải hội lại và đem việc của y làm ra xem xét để t́m phương cứu chữa, ở hoàn cảnh nầy khó mà làm thinh.

          Chúng ta khá thận trọng về điểm nầy. Thật là: Vi nhân nan! Vi nhân nan!

          Nếu con thấy ai hung ác đối với trẻ con hoặc thú vật, con có bổn phận phải can thiệp. Nếu con thấy ai vi phạm luật pháp quốc gia, con phải báo chính quyền.

          Điều nầy có thể gọi là can thiệp vào chuyện thiên hạ, nhưng mục đích của nó là ngăn cản không cho người ta làm ác với một trẻ con hay một thú vật.

          Ư nghĩa của đoạn trước “Hăy lo lắng việc nào có can hệ với ḿnh” và đoạn nầy khác nhau rất xa.

          Ta thường thấy một đứa trẻ nít 4, 5 tuổi hoặc 7, 8 tuổi phạm một lỗi, cha mẹ hay anh chị nó không dạy dỗ nó, không dạy cho nó biết điều nào phải, điều nào quấy, mà chỉ chửi mắng, đánh đập, dùng toàn những lời thô tục, cộc cằn, nên tránh. Thử nghĩ lúc ta bằng tuổi nó ta cũng làm như nó, không hơn, không kém. Tại sao không nhớ lại lúc ấu thơ của ḿnh? Tại sao ta lại lấy trí khôn của người lớn mà xét đoán việc làm của đứa trẻ, miệng c̣n hôi sữa như tục đă nói.

          Quả thật, có lần ta khuyên cha, mẹ hay anh, chị của đứa nhỏ đừng đánh nó và người ta trả lời với ta: “Việc nầy có liên hệ chi tới anh mà anh can thiệp.”

          Tuy nhiên ta có thể nói một cách khôn khéo rằng: “Xin anh (chị) bớt giận, anh (chị) tha lỗi cho nó, nó c̣n khờ dại, khuyên răn nó bao nhiêu cũng đủ rồi; lần sau nó không dám tái phạm đâu.”

          Ở chốn thôn quê, ta thường thấy người ta đánh đập thú vật, nhất là trâu ḅ. Một con ḅ kéo xe chở nặng quá, đi không nổi th́ anh đánh xe lấy roi quất túi bụi vào nó. Thật là tội nghiệp. Hăy thử nghĩ: Nếu ḿnh vác hay xách một món đồ nặng quá, ḿnh đi không nổi mà lại bị kẻ khác đánh đập th́ ḿnh phản ứng cách nào? Gặp những trường hợp như thế, ta phải hành động một cách khôn khéo và dùng những lời lẽ ôn hoà, dịu ngọt khuyên can th́ hoạ may cảm hoá được người có tánh hung bạo, nóng nảy.

          C̣n việc cho Nhà Chức Trách hay những ai làm nghịch với Phép Nước là điều hết sức khó khăn, hết sức rắc rối.

          Có lẽ thuở đó Luật Lệ Ấn Độ bắt buộc công dân phải tố cáo những ai phạm pháp, cho nên Chơn Sư mới nói như thế.

          Nhưng nên hiểu: Luật Lệ mỗi nước mỗi khác, mà cũng không áp dụng một cách như nhau.

          Chúng ta phải thực hành những lời dạy bảo một cách khôn ngoan, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng và xem xét đủ mọi khía cạnh của vấn đề. Chớ nên hấp tấp.

          Chúng ta không phải là những người Điểm Chỉ Viên hoặc có phận sự Điều Tra hay là T́m Kiếm những Phạm Nhân để bắt nạp cho Nhà Cầm Quyền. Không ai khờ dại chuốc lấy tai hoạ vào ḿnh và gây thù kết oán vô ích. Nhưng thấy những biến cố lớn lao xảy ra ngày nay, người ta mới biết những lời khuyên trên đây không phải là hoàn toàn vô căn cớ, nó vẫn đúng với Phép Nước. Song ai hiểu sao th́ hiểu, hiểu cách nào tuỳ ư, tuỳ trường hợp.

          Tôi chỉ nói một điều: Trong mọi việc, ta phải sáng suốt và cân phân lợi hại trước khi hành động.

          Nếu con được giao trách nhiệm dạy dỗ một người, th́ con có bổn phận phải chỉ cho y biết lỗi của y một cách dịu dàng. Ngoài những trường hợp đó ra con hăy lo việc riêng của con, và hăy học cái hạnh làm thinh.

          Bổn phận của ông Thầy là chỉ bảo lỗi của học tṛ để cho nó sửa đổi cái dở ra cái hay, điều quấy ra điều phải. Lời nói của ông Thầy phải dịu dàng, nhỏ nhẹ mà nghiêm khắc, chứ không phải nạt nộ, mắng nhiếc hay đánh đập. Ông Thầy thay mặt cho Đức Thượng Đế để giáo hoá dân chúng hiểu biết bổn phận làm người. Công đức rất lớn mà trách nhiệm cũng nặng nề. Khi sự tiến hoá về Đường Tinh Thần chưa đi đến một mức độ khá cao th́ lư thuyết và sự thực hành khó đi đôi với nhau lắm.

          Chúng ta phải chước lượng, chọn lựa cái hữu ích nhiều là điều hay hơn hết.


III -  HẠNH  KIỂM  TỐT

 (Good  Conduct)

 

          Đây là 6 điểm Hạnh Kiểm Tốt đặc biệt phải có, mà Thầy đă chỉ dạy như sau:

          1- Tự Kiểm Soát Thể Trí.

          2- Tự Kiểm Soát trong Hành Động.

          3- Đức Khoan Dung.

          4- Hạnh Vui Vẻ.

          5- Hạnh Quyết Chí.

          6- Ḷng Tin Cậy.

          (Tôi biết có vài đức tính trong số các đức tính trên thường được diễn dịch khác đi; nhưng tôi luôn luôn dùng những danh từ mà chính Thầy đă dùng khi Ngài giải nghĩa cho tôi nghe).

 

THỜI  KỲ  CHUẨN  BỊ  ĐỂ  ĐƯỢC  ĐIỂM  ĐẠO  LẦN  THỨ  NHỨT

 

          Thời kỳ chuẩn bị để được Điểm Đạo lần thứ Nhứt gồm 4 giai đoạn:

 

1- GIAI  ĐOẠN  THỨ  NHỨT

 

          Ấn Giáo gọi là Viveka: Phân Biện.

          Phật Giáo gọi là Manodvaravajjana: Mở cửa Trí Khôn.

 

2- GIAI  ĐOẠN  THỨ  NH̀

 

          Ấn Giáo gọi là Vairagya: Đoạn Tuyệt hay là Xả.

          Phật Giáo gọi là Parikamma: Chuẩn bị để hành động.

 

3- GIAI  ĐOẠN  THỨ  BA

 

          Ấn Giáo gọi là Shatsampatti, tức là 6 Đức Tánh thuộc về nhóm năng lực trí thức:

          1- Shâma: Kiểm soát Cái Trí.

          2- Dâma: Kiểm soát giác quan và thân thể.

          3- Upariti: Khoan Dung, Đại Độ.

          4- Tititsha: Kiên Nhẫn.

          5- Shraddhâ: Đức Tin.

          6- Samâdhanâ: Điềm Tĩnh.

          Phật Giáo gọi giai đoạn thứ ba là Upacharo: Chủ Ư hay Hạnh Kiểm. Cũng gồm 6 đức tánh:

          1- Samo: Tư tưởng yên tịnh và trong sạch.

          2- Damo: Kiểm soát giác quan và thân thể.

          3- Uparati: Khoan Dung.

          4- Titikkha: Nhẫn Nại.

          5- Samâdhâna: Sức mạnh của sự chủ ư.

          6- Saddhâ: Đức Tin.

          (Phật Giáo để “Sức mạnh của sự chủ ư” trước “Đức Tin”).

          Theo quyển “Dưới Chân Thầy”, Giai Đoạn Thứ Ba là Hạnh Kiểm Tốt gồm 6 Đức Tánh sau đây:

          1- Tự Kiểm Soát Thể Trí.

          2- Tự Kiểm Soát trong Hành Động.

          3- Đức Khoan Dung.

          4- Hạnh Vui Vẻ.

          5- Hạnh Quyết Chí.

          6- Ḷng Tin Cậy.

 

4- GIAI  ĐOẠN  THỨ 

 

          Theo Ấn Giáo, Giai Đoạn Thứ Tư là Mumuksha: Ư muốn được giải thoát.

          Phật Giáo gọi Giai Đoạn Chót là Anuloma: Thứ Tự trực tiếp hay là Liên Tục.

          “Dưới Chân Thầy” lại gọi là Hạnh Bác Ái.

          Tên mỗi Giai Đoạn tuy có khác nhau, song sự giải thích về những điều kiện bắt buộc vẫn giống nhau.

          Thí sinh phải có 4 Đức Tánh nầy tới một mức độ đă qui định sẵn và nhất là phải mở rộng Hạnh Bác Ái. Nếu không biết thương người, không sẵn sàng giúp đỡ bất cứ là ai trong lúc cần thiết, th́ các Đức Tánh khác giống như sương mù, lúc Mặt Trời lên sẽ bị tan mất.

          Thật ra khi bước vào Con Đường Nhập Môn, vị Đệ Tử đă cố gắng luyện ḿnh cho có đủ 4 Đức Tánh cần thiết và càng ngày chúng càng phát triển.

          Một vị Cao Đồ của Chơn Sư đă nói: “Nên để ra 2 năm để tập một Đức Tánh, hết 8 năm th́ đủ 4 Đức Tánh.”

          Được như thế, kết quả sẽ khả quan và có nhiều hy vọng được Điểm Đạo.

1- TỰ  KIỂM  SOÁT  THỂ  TRÍ

(Self-control as to the Mind)

          Hạnh Không Ham Muốn dạy ta phải kiểm soát Thể Vía; Thể Trí cũng phải được điều khiển như vậy. Điều khiển đây có nghĩa là dằn cái tính để con đừng giận hờn hay nóng nảy; kiểm soát Thể Trí để tư tưởng được luôn luôn an tịnh và điềm tĩnh; và (nhờ Thể Trí) điều khiển những dây thần kinh để chúng nó có thể ít bị kích thích chừng nào tốt chừng đó. Điểm chót nầy khó tập, bởi v́ khi con tự tập luyện để bước vào Đường Đạo, con không thể nào ngăn không cho xác thân con nhạy cảm hơn trước; v́ vậy mỗi một tiếng động hay một sự đụng chạm cũng dễ làm cho những dây thần kinh của nó bị rối loạn, và dù một áp lực nào cũng làm cho chúng cảm thấy nhức nhối được; nhưng con phải cố hết sức ḿnh.

          Phải đoạn tuyệt những sự ham muốn thấp hèn, xấu xa, Cái Vía mới lần lần trở nên thanh bai. Ta c̣n phải tự chủ trong tư tưởng nữa.

          Muốn thực hiện được điều nầy sinh viên phải khắc phục Cái Trí, ta phải biết tánh nết và khuynh hướng của nó mới điều khiển nó được. Phải tập Định Trí trong nhiều năm, phải Tham Thiền các Đức Tánh, không khác nào mỗi ngày phải xây dựng một phần của toà lâu đài tráng lệ mà ta đă có sẵn hoạ đồ trong tay.

          Chúng ta ở vào một thời đại cực kỳ khó khăn, Vật Chất đang chiến đấu với Tinh Thần và có phần lấn lướt.

          Bao nhiêu tâm trí và ngày giờ người ta dùng vào việc sanh sống của Xác Thân để được những tiện nghi. Đây không phải là một tội mà trái lại, nó là một điều rất cần thiết cho gia đ́nh.

          Cái Trí măi lo lắng những nhu cầu Vật Chất phù du tạm thời nên không c̣n dư thời giờ lo cho phần Tinh Thần đến đúng mức độ cần thiết. Nhưng dầu sao mỗi ngày ta cũng phải để ra ít nhất là một giờ tập luyện mở mang phần Tinh Thần. Đừng để Tâm Trí ta như là một cái vườn hoang, cỏ dại và gai gốc mọc đầy, sau nầy ruồng phá rất mệt nhọc.

          Nên nhớ Chơn Sư dạy Alcyone phải thực hành cho đúng lẽ Đạo. Phải tập Cái Trí cho yên lặng, đâu có phải là một việc dễ dàng cho Thí Sinh, Đệ Tử.

          Có hai phương pháp thông thường tập cho Cái Trí lần lần trở nên yên tịnh.

 

PHƯƠNG  PHÁP  THỨ  NHỨT

 

          Đang làm việc bỗng ngưng, không tưởng nghĩ điều chi hết, ban đầu trong 1, 2 phút; sau lần lên 4, 5 phút. Trong Đạo Đức gọi là Huờn Hư.

 

PHƯƠNG  PHÁP  THỨ  NH̀

 

          Thường niệm một câu Thần Chú, một câu Chân Ngôn theo phương pháp Mantra Yoga.

          Thí dụ như thường đọc câu:

          Om Namo Narayanaya. Klim Krishnaya. Govindaya. Gopi Jana. Vallabhaya. Swaha! (Đây là câu xưng tụng Đức Thượng Đế Vishnou).

          Hoặc:

          Gata! Gata! Paragata! Parasamgata! Bodhi! Swaha!

          Mỗi ngày đọc 4 lần: Sớm mai khi mới thức dậy, Trưa: 12 giờ, Chiều: 7 giờ, Tối: 10 giờ.

          Mỗi bận đọc 2, 3 lần. Nếu rảnh mỗi giờ đọc 2 bận càng hay.

          Theo Ấn Giáo, Samo là sự kiểm soát gắt gao tư tưởng, tức là làm chủ Cái Trí. Thí sinh phải biết rành rẽ hậu quả của tư tưởng. Tuỳ theo chúng hướng về điều thiện hay điều ác, chúng thiết lập những mối liên quan hiền hay dữ giữa ta và những người chung quanh, trong Đạo Đức gọi là gây ra quả tốt hay quả xấu với những kẻ khác.

          Tư tưởng có quyền năng giúp đỡ hay phá rối đời sống của con người. Nói một cách khác, nó làm lợi hay làm hại cũng được. Tuỳ theo bản tánh của nó, nó có thể thúc đẩy hay là làm tŕ hoăn sự tiến hoá của nhân loại. Phải sử dụng nó luôn luôn vào công việc giúp đời của Chơn Sư. Nó là cội rễ của Luân Hồi, Nhân Quả.

          Cũng đừng quên rằng: Tư tưởng có quyền năng sanh hoá.

 

TRỞ  NÊN  NHẠY  CẢM

 

          Khi luyện tập Cái Trí trở nên thanh trong nó sẽ rất nhạy cảm. Cái Trí và Bộ Năo Tuỷ Thần Kinh Hệ vẫn liên quan mật thiết với nhau. Thế nên khi nó nhạy cảm các Dây Thần Kinh thường căng thẳng. Một tiếng động nhẹ cũng làm cho chúng nó đau nhức, v́ vậy con người trở nên nóng nảy, quạu quọ. Nhưng phải cố gắng tập cho tư tưởng yên tịnh ắt sẽ thường vui vẻ và ôn hoà.

          Cái Trí yên tịnh c̣n được một ích lợi khác nữa: Nó truyền sang trọn vẹn và không sai lạc Thần Lực từ những Cảnh cao tuôn xuống xuyên qua Cái Vía , Cái Phách.

          Muốn hiểu điều nầy hăy xem mặt nước hồ thu. Khi nó trong trẻo và yên tịnh, không chút sóng xao động th́ h́nh ảnh cây cối rọi xuống thấy rơ ràng, và lại c̣n đẹp mắt nữa. Trái lại, nếu nó đục ngàu và xao động th́ h́nh rọi xuống thấy lờ mờ, đứt từng khúc.

          Cái Trí và Cái Vía của Con Người cũng giống như mặt nước. Sự so sánh nầy tạm đỡ cho dễ hiểu, chớ thật sự phải mở Thần Nhăn, Huệ Nhăn mới thấy được sự thật là sao.

 

HAI  ĐIỀU  TRÁI  NGƯỢC  NHAU

 

          Sinh viên Huyền Bí Học ở vào một trạng thái cực kỳ khó khăn. Một mặt phải cảm xúc lẹ làng, tức là những Dây Thần Kinh luôn luôn căng thẳng; một mặt phải b́nh tĩnh, không một mảy nóng nảy, giận hờn. Hai điều nầy trái ngược nhau nhưng phải thực hành cho kỳ được. Phải đáp lại những tiếng nặng nề, thô lỗ, cộc cằn bằng những lời lẽ dịu dàng êm đẹp, làm mát ḷng kẻ nghe. Đây cũng có thể gọi là trường hợp “Nhu thắng Cang, Nhược thắng Cường.” Điều nầy khó làm thật, mà làm được thật là hay.

          V́ mấy lẽ trên đây Chơn Sư dạy: “Con rán làm sao được th́ làm.”

          Thể Trí yên tịnh cũng gọi là ḷng Can Đảm, nhờ đó con có thể đương đầu không nao núng với những thử thách và gian nan trên Đường Đạo.

          Đức Bà A. Besant nói: Kinh Thánh Ấn rất chú trọng về tánh Can Đảm. Trong quyển Chí Tôn Ca Bhagavad Gita, Chương thứ 16, Đức Sri Krishna có kể những đức tánh siêu việt cần thiết cho sinh viên Huyền Bí Học, và đứng đầu là Abhagam tức là tánh Can Đảm.[51]

          Không Can Đảm khó tiến trên Đường Đạo. Nên biết khi vừa xuất Vía lên Trung Giới lần đầu tiên được tỉnh táo như lúc c̣n thức đây liền bị bọn ma quái hoá h́nh dữ tợn tới nhát và hăm dọa. Nếu phát sợ chạy về nhập Xác, có khi hư các Dây Thần Kinh hoá ra điên khùng.

          Đức Leadbeater có thuật lại rằng: Lúc Ngài theo Bà Blavatsky qua Ai Cập, một bữa kia, Đức Tiên Trưởng Djwal Kul (lúc đó c̣n là một vị La Hán) th́nh ĺnh hiện ra làm cho Ngài giựt ḿnh. Bà Blavatsky cười Ngài và nói: “Một Nhà Huyền Bí Học mà nhát gan như thế ư?”

          Từ đó về sau Ngài không c̣n nao núng trước một hiện tượng nào cả.

          Tất cả chúng ta đều nhát v́ hồi c̣n thơ ấu cha mẹ hay người giữ chúng ta thường nhát Ma, cho nên tới bây giờ chúng ta vẫn sợ Ma.

          Ta là Chơn Thần, ta có quyền năng của Thượng Đế. Những quyền năng nầy biểu lộ lần lần tuỳ thuộc sự phát triển Tâm Thức của ta. Thí dụ như muốn có tánh Can Đảm ta phải tập luyện mỗi ngày, cũng như tập Thể Dục.

          Hăy tưởng tượng thấy trước mặt những sự nguy hiểm, nhưng cứ thản nhiên nói: Cái nầy rồi cũng sẽ qua. Ta là Chơn Thần vốn trường sanh bất tử.

          Phải bền chí luyện tập trong một thời gian. Nếu tập được tánh nầy, mấy tánh khác tập cũng dễ dàng.

          Đừng quên rằng: Khi bước vào Đường Đạo sẽ bị những sự chê bai, những sự hiểu lầm, những sự nhạo báng, khinh khi, chỉ v́ thái độ của người Đệ Tử khác hẳn người thường.

          Trong Đường Đạo những sự khó khăn, những sự nguy hiểm ở Cảnh nào cũng có thật và rất nhiều. Không phải là nói bóng dáng, tượng trưng đâu.

          Phải có gan dạ, phải có sức chịu đựng mới đương đầu nổi với những thử thách hiện ra ở mỗi chặng đường.

          Miễn là ta nhớ ta là Chơn Thần, một vị Tiểu Thượng Đế th́ ta vững ḷng, không lùi bước.

          Nói về tánh Can Đảm, chúng ta hăy thử nêu ra câu hỏi nầy: “Trong mấy bạn Cầu Đồng, nếu Hồn Ma hiện ra có ai dám ở lại để coi Hồn Ma già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà và muốn điều chi chăng? Hay là cả thảy ùn ùn chạy hết?”

          Có vậy các bạn mới thấy sự tập luyện tánh t́nh rất cần thiết, bất cứ ở trường hợp nào.

          Và cũng nghĩa là sự Bền Ḷng, nhờ đó con có thể sáng suốt khi gặp những phiền toái thường xảy đến cho mọi người, và tránh khỏi những lo lắng không ngớt và những việc nhỏ mọn làm cho nhiều người mất hết cả ngày giờ.

          Công việc hằng ngày làm hao ṃn sức lực con người, nhưng ít hơn những sự lo âu và những tư tưởng buồn bực.

          Người chí nguyện không nên để “Cuốn theo chiều gió.” Phải t́m phương pháp giải quyết mau lẹ những vấn đề xảy ra.

          Có người than phiền măi: “Nếu lúc đó tôi không làm như vậy th́ bây giờ không có sự buồn bực nầy.” Điều ấy có lẽ đúng, nhưng nó thuộc về dĩ văng, hối tiếc cũng không kéo thời gian trở lại trước, chúng ta không thể thành nhỏ bé như lúc trẻ thơ.

          Điều ǵ phải đến nên đến cho rồi.

          Cũng có những người lo về tương lai, không phải họ sắp đặt một chương tŕnh phải thực hành tuỳ theo khả năng của họ trong những ngày sắp đến, nhưng v́ họ xem Sấm Giảng nên đâm ra sợ sệt. Họ bàn theo ư họ hiểu, họ tự hỏi không biết những điều Sấm Giảng nói chừng nào xảy ra và hậu quả thế nào?

          Sự thật là Sấm Giảng nói một cách tổng quát, có khi người viết đặt Tuồng Bụng vịn theo lời của ông X hay ông Y, chuyện ít xích ra nhiều. Chính là sự lo âu nầy làm hại trí óc không cho họ nghe lẽ phải, v́ họ quá tin nên có thành kiến.

          Không phải không có những Nhà Tiên Tri, nhưng nên biết sự học thức và sự hiểu biết của họ đều khác nhau. Những lời Tiên Tri thường là bóng dáng và tượng trưng. Không dễ mà bàn cho thật trúng và cũng nên hiểu một điều tối quan trọng nầy nữa là tuỳ theo tư tưởng và hành động của dân chúng ở một miền nào đó, Thiên Đ́nh có thể sửa đổi số mạng đă định cho miền đó đổi khác, chớ không phải giống in như h́nh tư tưởng mà các Nhà Tiên Tri đă thấy hay là Bài Toán của họ đă làm 200 hay 300 năm về trước.[52]

          Phải hiểu trường hợp nầy trước khi tin hay phê b́nh những Lời Tiên Tri, những Sấm Giảng.

          Mỗi cá nhân cũng có thể sửa đổi số phần của ḿnh nhưng phải hội đủ hai điều kiện là:

          1- Ư chí cứng cỏi, tức là cương quyết.

          2-  Phải thật nhân từ, làm những việc phước thiện vô tư lợi, tức là “Thi ân bất cầu báo.”

          Xin nhắc lại hai câu:

                   “Có Trời mà cũng có ta,

                   Tu là cội phúc, t́nh là dây oan.”

          Hay là:

          “Xưa nay Nhân định thắng Thiên cũng nhiều” vẫn đúng.

          Thiên là số mạng Trời định, chớ con người làm sao hơn Trời được.

          Thầy dạy rằng: Mọi người nên xem những việc ở ngoài xảy đến cho ḿnh như là những sầu năo, rắc rối, bệnh tật, mất mát, mấy việc nầy như không có liên hệ ǵ đối với y cả và đừng để chúng làm rối loạn đến sự yên tĩnh của Thể Trí. Chúng là kết quả của những hành động trong quá khứ, và chừng chúng đến con hăy vui vẻ nhận lănh. Hăy nhớ rằng: Mọi việc khổ năo đều là tạm thời, bổn phận con là phải luôn luôn giữ ḷng vui vẻ và b́nh tĩnh. Những khổ năo nầy thuộc về kiếp trước của con chớ không phải kiếp nầy; con không thể sửa đổi chúng được, v́ thế bận ḷng với chúng vô ích. Tốt hơn con nên nghĩ đến những việc của con đang làm bây giờ đây, chúng sẽ định phần số con ở kiếp sau, đó là điều con có thể sửa đổi được.

          Những chuyện sầu năo, khó khăn, bệnh tật, tốn hao, mất mát chia ra làm hai loại:

          Một loại do Căn Quả kiếp trước.

          Một loại do Kiếp Nầy tự ta gây ra.

 

-         I  -

 

          Ở đây Chơn Sư chỉ nói về những Căn Quả kiếp trước, trong Đoạn “Những việc ở ngoài xảy đến.” V́ trong những kiếp quá khứ chúng ta khờ dại, làm những việc không lành, ngày nay Quả Báo trả lại th́ phải vui ḷng lănh lấy. Đó là Luật Công B́nh, đừng than van.

          Nói về Nhân Quả th́ xin nhắc lại rằng: Chúng ta c̣n một số rất lớn chưa thanh toán được. Quả đó gọi là Quả Chất Chồng, Quả Tồn Tại (Karma Accumulé).

          Mỗi kiếp ta chỉ trả một số Quả nhỏ, Quả đó hiệp với những Quả của ta đă gây ra kiếp mới rồi, tức là kiếp trước đây.[53]

          Trả xong nghe nhẹ ḿnh, kiếp sau ta mới rảnh rang và học Đạo được dễ dàng.

          Nhưng có một điều tôi tưởng cũng phải nói là kiếp nầy ta cũng có thể sửa đổi được một phần của Căn Quả kiếp trước.

          Thí dụ: Sanh ra yếu đuối, ta phải lo tập Thể Dục và tốt hơn nữa là tập vài tư thế đầu của Yoga, rồi dùng những thực phẩm tinh khiết, bồi bổ thuốc men, giữ ǵn đúng phép vệ sinh, dầu ta không trở thành một lực sĩ nhưng cũng được khoẻ mạnh, ít khi đau ốm.

          Cũng như trong lúc có thai nghén, bà mẹ dùng thuốc dưỡng thai, nhất là Thang Thập Nhị Thái Bảo và thực hành đúng mức những lời dạy trong Khoa Thai Giáo, thế nào đứa con sanh ra cũng mạnh mẽ, dễ nuôi. Đây là sửa đổi số phần của đứa nhỏ về Thể Xác.

          Về phần Tinh Thần, muốn phát triển nó, ta phải nhờ Đức Dục. Tiếc thay! Đời bây giờ, sự sanh sống cực kỳ khó khăn, cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối mới có đủ tiền để nuôi dưỡng con cái. Như thế đâu c̣n th́ giờ rèn luyện tánh t́nh chúng nó cho thật tốt như các vị Hiền Mẫu thuở xưa.

          V́ phần đông trẻ con thiếu Đức Dục, cho nên ngày nay ta mới thấy những gương xấu dẫy đầy trong đám Thanh Niên, Nam, Nữ.

          Muốn lành mạnh hoá xă hội cho có hiệu quả, mỗi người công dân phải tự lành mạnh hoá ḿnh trước. Không vậy, đâu cũng huờn đó, không bao giờ diệt được những dục vọng là nguồn cội của các sự đau khổ trên Thế Gian. Những kế hoạch đưa ra đều vô hiệu quả, mặc dầu chúng rất hữu ích và tốt đẹp.

 

-         II  -
NHỮNG  CHUYỆN  SẦU  NĂO,  KHÓ  KHĂN,  BỆNH  TẬT,  HAO  TỐN,  MẤT  MÁT  DO  KIẾP  NẦY  GÂY  RA

 

Xin nhắc lại rằng: Khi mỗi Giống Dân mới sanh ra, có hai Đấng Cao Cả là Đức Bàn Cổ và Đức Bồ Tát lâm phàm.

          Đức Bàn Cổ chăm nom sự sanh sản Ṇi Giống, lập Luật Lệ, xây cất những Thành Tŕ.

C̣n Đức Bồ Tát lo dạy dỗ Đạo Đức và Lễ Nghi, Phong Hoá.

          Thuở đó, thật là Đời Hoàng Kim, thái b́nh thạnh trị, dân chúng an cư lạc nghiệp, nhà nhà no ấm. Có thể nói Cơi Trần là Thiên Đàng Tại Thế. Văn Minh Tinh Thần và Văn Minh Vật Chất sát cánh với nhau. Tôn Giáo và Khoa Học vốn liên quan mật thiết.

          Nhưng khi hai Ngài và các Tiên Thánh về Ngôi cũ trên Thiên Đ́nh để cho dân chúng tự điều khiển lấy công việc của họ, như vậy họ mới thật sự tiến hoá th́ những sự rối loạn bắt đầu nảy nở v́ ḷng Tham Dục của con người. Rồi Nhân nầy sanh ra Quả kia, Quả kia lại trở thành Nhân nọ, cứ nối tiếp nhau và kéo dài từ Thế Hệ nầy qua Thế Hệ khác, cho tới bây giờ; chưa biết đến ngày nào chấm dứt các sự đau khổ.

          Thử hỏi: Nếu con người không giữ vệ sinh, ăn uống không điều độ, cờ bạc, rượu chè say sưa, hút xách, đàng điếm mang bệnh hoạn di hại cho Ṇi Giống, như vậy có thể đổ thừa tại số kiếp không? Đó là Quả Báo nhăn tiền mà con người phải trả liền tay trong kiếp nầy; chúng là hậu quả của những sự hành động không khôn ngoan của ḿnh.

          Những sự tốn hao tiền bạc sanh ra những việc rối rắm cũng có thể do sự tính toán sai lầm của đương sự gây ra trong kiếp nầy, trừ khi những điều xảy đến th́nh ĺnh không ai ngờ trước mới nghĩ rằng: Đó thật là tại kiếp số. Mà dầu phải gặp những trường hợp bất ngờ đi nữa, cũng nên tự nói: “Ấy là một món nợ cũ phải trả. Ta hăy vui ḷng thanh toán cho rồi.” Ta than thở có ích ǵ không? Có sửa đổi điều ǵ được không?

          Dâu biển đổi thay. Cồn hoá Vực, Vực thành Cồn.

          Không có chi trước mắt ta mà c̣n măi với thời gian, tức là được vĩnh viễn trường tồn. Tất cả rồi cũng sẽ qua. Đọc Thế Giới Sử ta thấy rơ điều nầy.

          V́ vậy, Chơn Sư bảo mọi việc đều tạm thời. Ngài dạy chúng ta phải nghĩ đến hậu quả những việc ta làm ngay bây giờ đây, v́ chúng nó chỉ định số phần của chúng ta trong tương lai, của kiếp nầy hay kiếp sau.

          Nên ghi nhớ rằng: Kiếp sau đầu thai lại, ta chỉ đem theo ḿnh Tánh Tốt, Tánh Xấu và Quả Lành, Quả Ác của ta gây ra trong kiếp trước, chớ không phải sanh ra liền được cao sang, quyền quí như kiếp nầy đâu.

          Đừng bao giờ cho phép con buồn bực hay rủn chí. Rủn chí là điều sai lầm, v́ nó truyền nhiễm cho kẻ khác và làm cho đời sống của họ khó khăn thêm, đó là điều con không có quyền làm. V́ vậy, nếu bao giờ có ư nghĩ rủn chí đến với con, con hăy xua đuổi nó ngay.

          Sự buồn bực và rủn chí nhiễm cách nào?

          Khi ta buồn bực và rủn chí Cái Vía và Cái Trí ta rung động theo một tốc độ nào đó, tuỳ theo nguyên nhân của sự buồn bực hay rủn chí. Sự rung động nầy truyền qua Cái Vía và Cái Trí của những người ở gần bên ta và bắt buộc hai Thể nầy rung động theo một tốc độ với chúng, nghĩa là chúng làm cho người bị chúng nhiễm sanh ra buồn bực và rủn chí. Cái hậu quả có khi biến thành những tai hại lớn lao không ai ngừa trước được.

          V́ t́nh cảm truyền nhiễm, cho nên có người nói: Khi tôi gặp anh A tôi rất vui vẻ, yêu đời, tinh thần phấn chấn không khác mặt trời sáng rỡ. C̣n khi tôi gần anh B th́ tôi cảm thấy buồn buồn, không muốn hoạt động chi cả, dường như vào một căn nhà âm u, tăm tối.

          Ấy chỉ tại anh A sống theo Đạo Đức, c̣n anh B sống theo thế tục và hai thứ hào quang rung động khác nhau.[54]

          Bây giờ phải làm cách nào để xua đuổi sự buồn bực, rủn chí?

          Luôn luôn chỉ có một phương pháp hay hơn hết là dùng tư tưởng tốt đánh đổ tư tưởng xấu đối lập.

          Ta phải luôn luôn tự nói: “Tôi là Chơn Thần Atman, tôi là hạnh phúc, tôi đem ân lành của các Đấng Thiêng Liêng ban cho tất cả chúng sanh,” liền tư tưởng rủn chí, buồn bực bị đuổi đi xa, không ảnh hưởng tới ta nữa.

          Tuy chúng ta chưa có Thần Nhăn, song xem h́nh thứ XVIII trong quyển “Con Người Hữu H́nh Và Vô H́nh” (Man Visible And Invisible) của Đại Đức Leadbeater th́ cũng biết được màu sắc Cái Vía của Người Rủn Chí ra thế nào. Thật ra ng̣i viết phàm không thể tả đúng màu sắc đó, v́ ở Cơi Trung Giới có những màu sắc mà ở Cơi Phàm không có. Ta có những màu từa tựa, hoặc 2, 3 màu pha lại với nhau, không biết phải gọi sao cho đúng.

          Tôi thường nhắc: Chúng ta nói những điều thuộc về Cơi Vô H́nh th́ không khác nào nói chuyện “Mua trâu vẽ bóng.” Chúng ta c̣n học gián tiếp ít hay nhiều tuỳ theo cấp bậc của chúng ta, chớ chưa học trực tiếp và đầy đủ, những lời diễn tả đều bất toàn. Vậy nên khiêm tốn một chút. Nên noi theo gương của các vị Giáo Chủ trong đời sống hằng ngày, nếu muốn bước mau vào Cửa Đạo.

          Con c̣n phải kiểm soát tư tưởng của con bằng một cách khác nữa, con đừng để nó vẩn vơ, dù con đang làm việc ǵ, hăy tập trung tư tưởng của con vào đó đặng việc làm có thể hoàn hảo.

          Đừng cho tư tưởng vẩn vơ, tức là tưởng bông lông, nhớ cái nầy rồi tới cái kia. Như thế mất một phần trí lực và Cái Trí vẫn theo thói quen bay nhảy, không định vào đâu cho lâu.

          Đoạn nầy dạy chúng ta phải chú ư vào mỗi việc của ta làm, tức là Định Trí. Sinh viên Huyền Bí Học vẫn hành động khác hơn người thường.

          Khi viết một lá thư nên dùng những danh từ đúng đắn, giải quyết mỗi việc rành rẽ, nếu có thể được mỗi lá thư phải đánh máy sạch sẽ, nhưng hầu hết chúng ta không có phương tiện nầy. Ta cần viết một cách cẩn thận và cuối bức thư ta khẩn nguyện trong ḷng: Cầu xin ân lành của các Đấng Thiêng Liêng ban xuống cho Anh (Chị hay Em) và quí quyến, xong rồi kư tên.[55]

          Luôn luôn có hiệu quả tốt đẹp cho người nhận bức thư của ta, khi ta ban rải tư tưởng tốt lành trong lúc viết thư.

          Không chỉ lúc viết thư mà thôi, chuyện nào của ta làm, ta cũng phải làm cho hết ḷng, cho tṛn phận sự. Người thường muốn làm việc cách nào cũng được, tuỳ ư, nhưng khi muốn bước vào Cửa Đạo sinh viên phải giữ ǵn cẩn thận từ tư tưởng, từ ư muốn, từ lời nói và từ việc làm.

          Đừng để trí con trống không mà phải luôn luôn dành sẵn bên nó những tư tưởng tốt đẹp để khi trí con rảnh rang th́ nó sẵn sàng nghĩ ngay đến những tư tưởng tốt đẹp ấy.

          Việc nầy người chưa tu hành khó làm, c̣n đối với người Sùng Đạo th́ rất dễ.

          Đức Bà A. Besant nói: Những người thợ thầy Ấn Độ sau khi làm xong công chuyện luôn luôn đọc mấy chữ nầy: “Ram, Ram, Ram, Sitaram, Sitaram, Sitaram.” Ấy là những Thánh Ngữ. Có người cho là đọc như vậy vô ích. Nhưng họ lầm vậy. Thánh Ngữ nầy sanh ra một tư tưởng tốt đẹp, nó làm cho Cái Trí nhớ những việc cao siêu. Trong lúc Cái Trí ở không, tư tưởng xấu mới nhập vào Cái Trí được.

          Các Phật Tử lần chuỗi, niệm Phật cũng không ngoài mục đích nầy. Đây cũng là một cách Định Trí nữa.

          Mỗi người dùng một cách riêng.

          Như trong lúc không suy nghĩ chi hết mà đọc nhiều lần câu: “Om! Tôi là Atman, Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, vô sở bất tại.

          Ḷng Từ Bi Bác Ái của tôi bao la bát ngát, vô tận, vô biên. Tôi là một với vạn vật, v.v…” sẽ thấy Cái Trí lần lần trở nên yên tịnh và sáng suốt.

          Ngoài mấy câu nầy ra c̣n nhiều câu Chân Ngôn, Thần Chú và những tư tưởng cao thâm, huyền diệu. Khi ta không có việc chi lo lắng cứ tưởng nghĩ đến chúng nó liền.

          Hăy sử dụng quyền năng tư tưởng của con mỗi ngày dành cho những mục đích tốt lành; hăy trở thành một thần lực hướng theo chiều tiến hoá. Mỗi ngày hăy nghĩ đến một người nào mà con biết y đang đau buồn khổ sở hoặc đang cần sự giúp đỡ; con hăy ban rải tư tưởng thương yêu đến cho y.

          Người ta thấy sức mạnh của nước, của điện khí, nhưng người ta không biết sức mạnh của tư tưởng, bởi v́ nó vô h́nh; mà người ta cũng làm được một cái máy phát sanh Tư Tưởng như cái máy phát sanh điện. Cái máy phát sanh Tư Tưởng vốn ở trong Con Người, ấy là Cái Trí.

          Ít người hiểu Tư Tưởng là một sức mạnh, nó cũng có h́nh dạng, giống như một con thú. Nó cũng sống lâu, cũng thác yểu, cũng yếu, cũng mạnh, cũng quỉ quyệt, cũng khôn khéo, vâng lời chủ sai khiến và thực hành đúng theo ư chủ muốn. Trong quyển nhỏ “Cái Trí và Quyền Năng Tư Tưởng” tôi có giải những điều cần yếu phải biết, nên không lặp lại ở đây.

          Tôi xin nói rằng: Người Học Đạo là Người Phụ Tá Đức Thượng Đế, cho nên phải ban rải những tư tưởng lành để khai sáng cho đời, bởi v́ phần đông dân chúng c̣n trong chốn tối tăm. Như thế mới đúng ư nghĩa của câu: “Dùng trí lực để tính làm những việc tốt lành và thành một lực lượng hướng về sự tiến hoá.”

          Nếu ta chỉ lo làm những việc ích kỷ, riêng tư, chỉ tính toán cho ḿnh được lợi, c̣n ai đau khổ mặc ai, ấy là làm trái nghịch với ḷng Trời và Cơ Tiến Hoá v́ đó mà sẽ phải tŕ trệ.

          Hăy xem một cái máy đương chạy, nếu có một hột bụi nhỏ dính vô răng cưa th́ máy sẽ bị trục trặc. Nên nhớ măi là tư tưởng và việc làm của một người đều có ảnh hưởng đến Toàn Thể Nhân Loại, dầu người đời biết hay không biết việc nầy. Cũng như việc sớm mai mặt trời mọc, chiều mặt trời lặn, ta thấy rơ ràng như vậy, nhưng sự thấy của ta lầm lạc. Trái Đất xoay chung quanh Mặt Trời, chớ Mặt Trời không mọc mà cũng không lặn.

          Người Học Đạo phải Thấy hay Biết Sự Thật.

          Thí dụ về quyền năng của tư tưởng. Một người đang buồn bực, ta muốn giúp đỡ y, nhưng sợ e gặp mặt ta y ái ngại. Vậy ta dùng tư tưởng vui vẻ và cao thượng ban rải cho y. Tư tưởng của ta sẽ tới một bên y phá tan sự buồn bực.

          Ban rải tư tưởng là Thí Pháp, cũng như Bố Thí tiền của là Thí Tài, một đàng thuộc về Vật Chất, một đàng thuộc về Tinh Thần. Thí Tài, Thí Pháp, Thí Công, Thí Việc cũng tốt. Dùng phương tiện nào được th́ cứ dùng để diệt lần tánh ích kỷ, chia rẽ, là điều Tối Đại Cần Thiết và Tối Quan Trọng.

          Giữ Trí con đừng kiêu căng, v́ sự kiêu căng chỉ do nơi sự dốt nát mà ra. Người không hiểu biết nghĩ rằng ḿnh là cao cả lắm, rằng ḿnh đă làm được việc vĩ đại nầy kia; người thông hiểu th́ biết rằng chỉ có Trời là cao cả, rằng mọi việc lành đều chỉ do Trời làm ra.

          Ai lại không biết rằng Cái Trí càng mở mang nó càng quá ư kiêu hănh. Nó khinh khi thiên hạ, nhất là coi thường những người học thức và  hiểu biết kém hơn nó.

          Ở ngoài đời không thiếu chi người như thế mà trong giới nào cũng có, trong Khoa Học cũng như trong Văn Chương, trong Mỹ Thuật cũng như trong Kỹ Nghệ.

          Nhưng họ quên rằng sự phát triển của Con Người chưa hoàn toàn đầy đủ. Dầu giỏi về phương diện nầy, cũng c̣n dở về nhiều phương diện khác. Nếu ta không nhờ kẻ khác giúp đỡ trong mọi khía cạnh ắt ta không làm chi cho nên việc.

          Mà đáng sợ hơn hết là sự kiêu căng trong Giới Đạo Đức. Có nhiều người thích Huyền Bí Học, sau khi đọc được vài quyển sách nói về Luật Trời và một ít những sự bí mật trong ḿnh Con Người liền tự thấy ḿnh giỏi hơn chúng bạn nhiều.

          Chứng bịnh nầy các bạn thanh niên thường mắc phải, v́ chưa kinh nghiệm.

          Sự hiểu biết ta căn cứ vào sách vở, ta thấy những sự giải thích rất hay, ta ưa, song thật ra, ta chưa có chút ít kinh nghiệm về mấy điều đó.

          Nếu so sánh sự hiểu biết của Chơn Sư với sự thông minh của ta th́ ta thấy Ngài là ngọn đèn pha sáng rỡ, c̣n ta chỉ là những con đom đóm chớp chớp ánh sáng mà thôi.

          Nhưng ta gặp Chơn Sư ta không tự thẹn như ở gần một nhà Khoa Học tài ba lỗi lạc, bởi v́ Ḷng Đại Từ, Đại Bi của Ngài bao phủ ta, làm cho ta hân hoan cực độ, thơ thới phi thường.

          Tại sao ta không tự biết rằng: Ta c̣n dốt lắm. Ta không thấy Nguyên Tử, không biết tư tưởng vào Trí ta từ đâu tới, không biết tương lai của ta ra sao. Nói cho đúng ta đang ở trong chốn tối tăm lần ṃ ra ánh sáng. Nếu may mắn ta được thấy một tia sáng lọt vào kẽ hở nào đó, ta nên mừng và dắt mấy bạn ta lại chỗ có ánh sáng đó, chớ không phải chê họ c̣n ở trong bóng tối và để cho họ cứ cầm gậy ḍ đường.

          Nói rằng: Dốt nát sanh ra kiêu căng, thật hết sức đúng.

          Khi Con Người làm được một việc lớn lao hữu ích, liền tự hào rằng ḿnh giỏi hơn và hay hơn những người không hiểu biết và thực hành như ḿnh vậy. Nhưng nếu ta suy nghĩ một chút liền biết mỗi người là Chơn Thần, tức là một vị Tiểu Thượng Đế. Và tất cả những ǵ tốt đẹp vốn do Trời làm ra. Ở dưới Trần không thể chứng minh được điều nầy, phải lên tới Cơi Niết Bàn mới hiểu, v́ thấy tận mắt. 

2- TỰ  KIỂM  SOÁT  TRONG  HÀNH  ĐỘNG

(Self-control in Action)

          Chừng nào tư tưởng của con đúng đắn th́ trong hành động của con sẽ ít gặp rắc rối. Nhưng con hăy nhớ rằng: Muốn được hữu ích cho nhân loại, con phải biến tư tưởng thành hành động. Không nên biếng nhác, phải luôn tích cực làm việc lành.

          Người biết Đạo đều hiểu: Việc Làm Chơn Chánh tuỳ thuộc Tư Tưởng Chơn Chánh.

          Trong Đạo Bát Chánh: Việc Làm Chơn Chánh đứng vào bậc thứ Tư, sau Chánh Ngữ.

          Ít ai tin rằng: Con Người tưởng nghĩ trước rồi mới thực hành sau. Tư Tưởng biến thành Hành Động khi cơ hội đưa tới.

          Trước đây tôi có nói: Người biết Đạo khác hơn người thường v́ sợ Tư Tưởng hơn là Hành Động.

          Khi ta thấy một người kia vụt làm một việc chi đó mà không suy nghĩ, ta có thể nói rằng: Y đă tưởng, nghĩ đến việc đó, có khi 4, 5 ngày trước, hoặc cả tháng trước nữa. V́ thế nên có người nói: “Tôi không làm như vậy không được. Tôi không suy nghĩ chi cả.” Y đâu có biết rằng: Sự hành động nầy là hậu quả của một sự suy nghĩ trước xảy ra đă lâu rồi. Cũng có khi ư nghĩ làm việc nầy đă ghi vào “Lưu Tánh Phân Tử hay là Phân Tử Trường Tồn của Cái Trí” kiếp trước. Kiếp nầy có những sự rung động ở ngoài tới kích thích nó làm nó sống lại và thúc đẩy Con Người hành động liền, không c̣n ngày giờ để suy xét phải, quấy.

          V́ mấy lẽ nầy mà các Nhà Huyền Bí Học đều khuyên chúng ta khi bỗng nhiên sanh ra một tư tưởng quấy, quá thấp hèn th́ ta phải diệt trừ nó liền, bởi v́ không biết nó biến thành sự hành động lúc nào, thường thường là bất ngờ.

          Muốn diệt trừ một tư tưởng xấu[56] ta phải hướng tới một tư tưởng tốt đối lập với nó. Điều nầy phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Sinh Viên Huyền Bí Học mới ghi nhớ vào ḷng để thực hành. (Xin quí bạn miễn nghị khi gặp những Đoạn như thế).

          Trong Đoạn “Việc làm Chân Chánh” trước đây, tôi có giải rằng: Nếu Tư Tưởng trong sạch, chân chánh th́ Việc Làm cũng trong sạch, chân chánh. Nước từ ngọn suối ngon ngọt và tinh  khiết chảy ra tự nhiên nó phải ngon ngọt và tinh khiết làm mát dạ người uống.

          Tuy hành động rất khó, nhưng có một việc mà tất cả ai ai cũng có thể làm được là: Trong gia đ́nh chúng ta khi có một đứa bé ra chào đời, chúng ta phải thương yêu nó, hết ḷng lo lắng cho nó. Dùng toàn những lời lẽ thanh bai, dịu ngọt, nhân từ nói với nó. Tự nhiên những mầm các tánh xấu của nó mang theo kiếp trước trong Cái Trí và Cái Vía sẽ héo ṃn lần lần và khó phát triển; c̣n những mầm các tánh tốt nảy nở lớn ra. Đến khi trưởng thành, dầu đứa nhỏ không thành một bực Thiên Tài, nó cũng làm được một vị Thiện Nhân, vượt khỏi mức độ trung b́nh rất xa.

          Ta hăy nhớ: Luôn luôn đứa bé sanh ra ở trong một gia đ́nh thường xào xáo, lời qua tiếng lại, cay đắng, nặng nề, và lại bị đánh đập, chửi mắng, Cái Vía và Cái Trí của nó bị hư nhiều chỗ. Những mầm của các tánh xấu đâm chồi, mọc nhánh mau lẹ. Đứa nhỏ khó thành một người tốt và lớn lên nó sống một đời tầm thường, trí năng eo hẹp, khó mở mang mau lẹ, trừ phi nó là một Linh Hồn đă tiến hoá khá cao mà phải trả một số Quả Muồi như Alcyone chẳng hạn. Điều nầy rất hiếm có trên đời.

          Nhưng con phải làm bổn phận của riêng con, chớ đừng làm giùm bổn phận của kẻ khác trừ khi y cho phép để giúp y. Hăy để mọi người làm việc riêng của họ theo đường lối riêng của mỗi người; hăy luôn luôn sẵn sàng hiến sự giúp đỡ cho nơi nào cần, nhưng đừng bao giờ xen vào việc người khác. Đối với nhiều người, việc khó khăn nhất trên đời cần phải học là lo việc riêng của chính ḿnh; mà đó đúng là điều con phải học.

          Trong Đoạn nầy Chơn Sư lặp lại ư tứ của những lời Ngài đă nói trong Đoạn “Hăy lo lắng việc nào có can hệ với ḿnh.”

          Tại sao vậy? Ấy v́ ba lẽ chánh sau đây:

          1- Alcyone lúc đó là một đứa trẻ mới có 14, 15 tuổi[57] nên Chơn Sư phải lặp đi lặp lại những điều Alcyone đă học để Alcyone đừng quên.

          2- Một bài học dầu ta thuộc rồi mà bỏ lâu vẫn không nhớ hết. Học sinh phải ḍ đi ḍ lại nhiều lần và lâu lâu cũng phải ôn lại một lần những bài đă học, tuy không thuộc làu hết nhưng cũng nhớ những điểm chính.

          Theo Khoa Huyền Bí, những bài học đều liên kết và bổ túc nhau. Phải lặp đi lặp lại những đoạn quan trọng Sinh Viên mới không quên và đem ra thực hành, khi cơ hội đưa đến. Thế nên tôi thường xin quư bạn miễn nghị khi gặp mấy đoạn đó. Không phải vô ích đâu, sau khi có kinh nghiệm rồi quư bạn sẽ thấy rơ ràng hơn bây giờ, v́ cắt nghĩa không được.

          3- Mỗi người đều có đường lối hành động riêng biệt khác nhau, nên giải quyết với những cách khác nhau công việc của ḿnh.

          Nếu ta xen vào chuyện của bạn th́ e cho đường lối giải quyết của ta không hạp với công việc của bạn, kết quả sẽ không được tốt đẹp hay sẽ chậm chạp.

          Cũng như việc học Đạo, ta biết rằng: Nó sẽ giúp cho mọi người tiến mau và tránh được những tai họa v́ vô minh, nhưng ta chỉ đưa ra những nguyên tắc tổng quát mà thôi. Mỗi người phải thực hành theo căn cơ của y, chớ không thể theo đường lối của riêng ta. Nếu ta muốn cho cả thảy đều làm in như ta th́ ta đă lầm rồi vậy. Việc nào v́ miễn cưỡng bị ép làm đều không có kết quả tốt đẹp.

          Lấy một thí dụ trước mắt đây: Một người kia có cách cầm cây viết đă quen rồi, tuồng chữ của y không đẹp. Nếu ta bảo y cầm cây viết như ta đă cầm, chắc chắn y mất ngày giờ mà tuồng chữ của y c̣n tệ hơn trước nữa.

          Nếu y cần hỏi ư kiến của ta về sự thay đổi cách cầm viết, ta có thể chỉ cho y rồi y tự sửa lại tuỳ theo khả năng của y. Điều nầy có thể đem lại một kết quả khả quan hơn là làm theo ư ta muốn.

          Chơn Sư dạy mỗi người phải lo giải quyết việc riêng của ḿnh, như vậy mới mở mang trí tuệ nhờ kinh nghiệm và tiến mau.

          Con đừng lảng quên những bổn phận thường nhật của con với lư do là con đang cố gắng một công việc cao cả hơn, v́ chỉ khi nào những bổn phận nầy làm xong rồi con mới rảnh rang để làm việc khác. Con đừng đảm trách thêm một bổn phận nào mới của Thế Gian; nhưng đối với bổn phận mà con đă nhận lấy, con phải thi hành cho hoàn hảo, tức là những bổn phận hữu lư và rơ ràng mà con đă nh́n nhận, chớ không phải những bổn phận mà kẻ khác cố gán cho con. Nếu con là Đệ Tử của Thầy, con phải thi hành những công việc thường nhật giỏi hơn những kẻ khác, chớ không phải tệ hơn; bởi v́ con phải làm việc đó cũng là v́ Nhân Danh Thầy.

          Nếu ta để ư một chút sẽ thấy có người khi thích Huyền Bí Học thường bê trễ trong việc làm hằng ngày, có thể nói là làm c̣n tệ hơn hồi trước nữa. Ấy tại người ta tưởng rằng: Việc Đời không quan trọng bằng việc Đạo.

          Không phải như vậy đâu. Tôi thường nói trong Đạo có Đời, trong Đời có Đạo.

          Không làm việc Đời cho khéo léo th́ làm sao làm việc Đạo hoàn toàn.

          Công việc Đạo Đức đ̣i hỏi một sự cố gắng, một sự chú ư, một sự hy sinh triệt để.

          Tuy nhiên Con Người phải tuỳ phương tiện, tuỳ hoàn cảnh và tuỳ thời thế mà thi hành phận sự. Phải biết quyền biến, chớ chấp nê.

 

NHỮNG  VIỆC  ĐẢM  ĐƯƠNG

 

          Trong những việc đảm đương có phận sự truyền bá Đạo Đức và nhất là dạy dỗ Trẻ Con trong gia đ́nh.

          Xét cho kỹ, đời c̣n tối tăm là tại Con Người không chịu nghe theo lẽ phải, không cẩn thận, cứ bê trễ, không trọng tinh thần trách nhiệm, cứ vui đâu chúc đó.

          Lư do là v́ khi c̣n Ấu Thơ không ai chỉ bảo Đạo Đức để trau giồi tâm tánh. Bên tai thường nghe những tiếng thô lỗ, cộc cằn, không được nhă nhặn, thanh bai, dịu dàng, trước mắt thấy cuộc đời quá ư tầm thường, chẳng có chi là cao thượng, thiêng liêng. Đă nhiễm thói quen sống một cách máy móc e khó gỡ lắm.

          Khi gặp Chân Lư cao siêu tỏ ra bỡ ngỡ, không khác nào bấy lâu nay ở trong bóng tối, nay ra ngoài ánh sáng cảm thấy choá mắt. Cần lấy tay che mắt trong một thời gian mới thấy các sự vật rơ ràng.

          Đọc quyển “Dưới Chân Thầy” ta thấy Chơn Sư dạy Alcyone lúc 14, 15 tuổi, bởi v́ lúc Bé Thơ rất dễ uốn nắn trí óc theo lẽ phải và hướng về Chân Lư.

          Đến khi lớn khôn có những thành kiến rồi th́ rất khó sửa đổi những tin  tưởng, bởi v́ một khi Cái Trí rung động theo một chiều hướng nào nó sẽ có khuynh hướng theo đường lối cũ, chống trả lại với ta, khi ta bắt buộc nó suy nghĩ về một đường lối mới khác. Thế nên phải biết cách đào tạo Thanh Niên. Tôi xin thuật chuyện Socrate thâu Xénophon làm Đệ Tử cho quư bạn nghe.

 

CHUYỆN  SOCRATE  THÂU  XÉNOPHON  LÀM  ĐỆ  TỬ

 

          Socrate là một vị Đại Hiền Triết thời Cổ Hy Lạp. Ông thường nói với các Môn Đệ: “Tôi chỉ dạy Các Tṛ một Khoa Học thôi, nhưng nó là một Khoa Học đứng đầu tất cả và quan trọng hơn hết. Nó làm cho Con Người trở nên tốt đẹp, ngay thật và biết rơ bổn phận của ḿnh; ấy là Khoa Luân Lư.”

          Một ngày kia, khi đi dạo chơi trên đường phố Nhă Điển (Athènes), Ông gặp một cậu bé mặt mày sáng sủa, và định thâu nhận cậu làm học tṛ để dạy dỗ. Ông bèn lấy cây gậy chận đường cậu và hỏi: “Nè cậu! Cậu có biết chỗ nào bán bánh ḿ và thịt không?” Cậu bé là Xénophon mới trả lời: “Thưa Cụ! Cụ t́m hai món đó tại chợ Agora.” Socrate không hạ cây gậy xuống hỏi nữa: “Cậu có biết chỗ bán giày vớ và quần áo không?” Xénophon bèn chỉ chỗ bán hai thứ đó cho Socrate.

          Socrate nói: “Tốt lắm! Cậu đă biết nhiều việc hữu ích, bây giờ cậu cho tôi biết ở đâu người ta học hỏi để làm một vị Thiện Nhân.”

          Chuyến nầy Xénophon nín thinh, đỏ mặt.

          Socrate mới bảo: “Nếu cậu không biết việc quan trọng hơn hết th́ sự hiểu biết phần c̣n lại có ích lợi chi đâu. Tài của cậu để làm ǵ, nếu cậu không dùng nó vào những việc từ thiện. Sự hiểu biết của cậu giống như khí cụ ở trong tay một người vụng về, không kinh nghiệm. Y quơ bậy, quơ bạ; y bị đứt tay, đứt chân hơn là tiến bộ trong nghề nghiệp.”

          Xénophon đứng lặng thinh, sượng sùng, v́ bấy lâu nay bỏ phế Môn Học Thuật chân chánh và tối quan trọng.

          Socrate bèn nói: “Thôi! Cậu hăy theo tôi, chúng ta sẽ học Khoa làm những vị Thiện Nhân.”

          Xénophon nhờ Socrate đào tạo trở thành một bậc Thiên Tài làm rạng danh quê hương của ông là Xứ Hy Lạp; nơi đây sản xuất nhiều vị Anh Hùng, Liệt Sĩ và những Nhà Đạo Đức để tiếng muôn đời.

 

NHỮNG  LUẬT  HẠNH  KIỂM

 

          Tại sao Socrate lại cho Khoa Luân Lư đứng đầu các Khoa khác? Bởi v́ có những Luật Thiên Nhiên, cũng gọi là Luật Trời, liên quan đến tánh t́nh của Con Người. Chúng nó vững chắc và bất biến như những Luật Lư Hoá, Vệ Sinh, Thiên Văn, Toán Học vậy.

          Những vị Siêu Phàm tri ra những Luật nầy, sắp đặt lại thành một Hệ Thống gọi là những Nguyên Tắc Hành Động có mục đích đem lại những sự an lạc và hạnh phúc cho Con Người, Ṇi Giống.

          Những Luật nầy cũng gọi là Khoa Luân Lư hay Hạnh Kiểm. Chúng thiết lập sự tương quan đầm ấm và đẹp đẽ giữa những Cá Nhân, những Đoàn Thể từ trong gia đ́nh cho đến ngoài xă hội, nhân quần, khắp cả Thế Gian.

          Nơi nào người ta không lo bổn phận, cứ bê tha, chểnh mảng và làm theo ư muốn của ḿnh, bất chấp Cang Thường Đạo Lư, chỗ đó nảy sinh những sự hỗn loạn, bất hoà, tranh chấp, hung bạo, mà hậu quả đáng ghê sợ là những đau khổ triền miên đưa tới, bởi v́ khi Con Người làm trái nghịch Luật Trời ắt phải  lănh lấy những phản ứng trở lại.

          Trong Trời Đất, trật tự và điều hoà ngự trị khắp nơi. Làm mất trật tự, không c̣n sự điều hoà sẽ tạo thành những rối ren, xáo trộn, quay cuồng, đổ vỡ, phải mất một thời gian khá lâu mới mong lập lại được quân b́nh như cũ.

          Chính xưa nay Khoa Luân Lư đă đào tạo những vị: Anh Hùng Dân Tộc, Trung Cang, Nghĩa Khí, Cứu Khổ, Pḥ Nguy, những vị Tiết Phụ, những vị Liệt Nữ Kiên Trinh, những Cha Hiền, Con Thảo, Vua Sáng, Tôi Ngay, Công B́nh, Chính Trực, Thanh Bạch, Liêm Khiết, cùng những vị có Ḷng Nhân Đức, những người Can Đảm dám nhảy vô nước, lửa để cứu mạng kẻ khác.

          Ông Socrate ra công huấn luyện Xénophon v́ biết rằng Thanh Niên là tương lai của Xứ Sở, rường cột của Nước Nhà, các Bạn Trẻ là những yếu tố có thể định đoạt vận mạng hưng vong của một Quốc Gia, của một Dân Tộc.

          Tài năng của Thanh Niên là một khí cụ rất nguy hiểm, nếu dùng không đúng chỗ, hay là không nhờ tánh t́nh tốt hướng dẫn cho đúng với nhịp điều hoà của Vũ Trụ cũng gọi là Cơ Trời.

          Tánh t́nh tốt của Thanh Niên là Cây Kim Chỉ Nam. Mất nó, Thanh Niên sẽ lạc vào chỗ tối tăm rồi sa hầm, sụp hố mà không ngờ chút nào. Thật vậy, có một căn bản Đạo Đức, Thanh Niên mới cố gắng làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh, hành động một cách cẩn thận, sốt sắng, không cẩu thả như người chưa biết mục đích của cuộc đời, nói một cách khác, Con Người được sanh ra ở Cơi Trần để làm chi?

          Nhưng tôi xin khuyên các Bạn Trẻ một lần nữa là phải lo học hỏi cho thành tài. Nếu được lên tới bậc Đại Học th́ càng quí. Kiến thức mở rộng giúp phân biện dễ dàng lẽ tà, chánh, phải, trái. Đừng nghe lời rủ ren, đương học hành lại bỏ đi tu.

          Đường Đạo không phải êm đềm, bằng phẳng như Đường Đời, hai bên lề đầy những hoa thơm, cỏ lạ đâu. Nó rất gồ ghề, nguy hiểm, đá sỏi bén nhọn nhô lên, những cạm bẫy và hầm hố, chông gai đếm không kể xiết.

          Chưa làm chủ được 3 Thể: Thân, Vía, Trí, nói một cách khác là chưa điều khiển được Ư Muốn, Tư Tưởng, Lời Nói và Việc Làm cho đúng với đường lối Luân Lư Đạo Đức sẽ sa ngă, việc vấp té sẽ không tránh khỏi. Điều nầy xảy đến không biết giờ phút nào.

          Đừng tin những lời đường mật về Tu Thiền. Không phải Tịnh trong vài ba năm mà thấy những sự bí mật của Tạo Công hiện ra trước  mặt, hay là Đắc Đạo thành Chánh Quả.

          Không biết Định Trí th́ không bao giờ Thiền được, không bao giờ thành công.

          E cho vài chục năm sau, khi thấy ḿnh luôn luôn thất bại trong sự chiến đấu với Bản Thân, Tâm Trí không được yên tịnh và sáng suốt hơn người sẽ dễ đâm ra chán nản. Mộng đẹp ngày xưa nay đă tan ra mây khói. Thôi th́ cứ miễn cưỡng đi, tới đâu hay đó. Hăy đề pḥng miếng mồi Vật Chất rất ngon lành, nhưng lưỡi câu bén lắm, nó móc th́ dính liền, khó gỡ ra được.

          Tôi nói đây không phải là cố ư làm cho các bạn ngă ḷng. Các bạn c̣n Trẻ mà Mộ Đạo, tôi rất mừng cho các bạn, v́ các bạn có căn lành kiếp trước. Các bạn sẽ là những công dân ưu tú của Đất Nước. Tôi chỉ khuyên các bạn cẩn thận và hết sức dè dặt, bởi v́ các bạn c̣n ngây thơ, chưa kinh nghiệm việc đời và chưa biết Đạo là ǵ?

          Trong 51 năm nay, tôi đă thấy rất nhiều chuyện rất thương tâm. Nhiều bạn điên điên, khùng khùng hoặc thổ huyết, ốm o, thành phế nhân và bỏ mạng.

          Các bạn hăy tiếp tục sự học vấn, học cao chừng nào, tốt chừng nấy. Các bạn hăy lo tu đức trau ḿnh, không nên nản chí, dầu không thấy kết quả hiện ra liền, chờ đúng ngày giờ th́ có một vị Đạo Sư chân chính tới khai sáng cho các bạn. Từ đó, các bạn sẽ thấy bước đường của các bạn đă vững. Các bạn cứ tiếp tục đi tới, càng ngày càng gần mục đích đă nhắm.

 

TẠI  SAO  KHÔNG  NÊN  LĂNH  NHỮNG  NGHĨA  VỤ  MỚI

 

          Mọi người thường thường cũng không thể nào làm xong hoàn toàn hai việc được. Nội một việc, đem hết tâm trí lo lắng cũng chưa ắt thấy kết quả tốt đẹp, v́ điều nầy c̣n tuỳ thuộc khả năng và hoàn cảnh.

          Người làm việc cho Chơn Sư không có một chút chi rảnh rang, c̣n ngày giờ đâu mà lo chuyện khác. Tất cả những điều phải thực hành đều phải Nhân Danh Chơn Sư mà làm, nghĩa là phải làm cho được hoàn thiện. Điều nầy c̣n có hai sự ích lợi khác nữa:

          1- Vị Đệ Tử sẽ thành người lăo luyện, khéo léo.

          2- Việc làm không buộc trói Đệ Tử vào bánh xe Luân Hồi.

          Trong Thánh Ca Bhagavad Gita có nói: “Yoga là việc làm khéo léo, chuyên môn.”

          Đừng quên rằng: Công việc của Chơn Sư không phải là riêng cho một cá nhân, mà cho toàn thể Nhân Loại.

          Làm việc cho Chơn Sư tức là Phụng Sự Nhân Loại đúng theo Cơ Trời. Sự hành động có thể trái ngược với ư muốn của người thường chưa rơ Cơ Tiến Hoá.

          “Dưới Chân Thầy” đưa ra một lư tưởng cao siêu, không hạp với phần đông những người c̣n sống giữa Thế Tục.

3- ĐỨC  KHOAN  DUNG

(Tolerance)

          Con phải hết ḷng khoan dung cho tất cả mọi người và phải nhiệt thành quan tâm đến đức tin của những người thuộc Tôn Giáo khác cũng như là con quan tâm với Tôn Giáo của chính con vậy. V́ Tôn Giáo họ cũng như Tôn Giáo của con đều là con đường dẫn đến Thượng Đế. Muốn giúp đỡ tất cả mọi người th́ con phải hiểu rơ tất cả họ.

          Muốn thật ḷng khoan dung phải hội đủ hai điều kiện sau đây:

          1- Mở rộng Ḷng Từ Bi, nói một cách dễ hiểu là rất Nhân Từ.

          2- Tin rằng con đường nào cũng dắt đến Thượng Đế.

 

1- PHẢI  NHÂN  TỪ

 

          Người thật Nhân Từ thương người và tha thứ những sự lỗi lầm của kẻ khác. Thí dụ:

          Ta sai đứa giúp việc làm một chuyện mà kết quả ta không vừa ḷng. Ta mắng nhiếc nó ư? Không nên làm điều đó. Tại sao vậy? Bởi v́ tŕnh độ tiến hoá của nó tới mức đó th́ nó làm theo sức nó, chớ không hơn điều đó được. Vậy ta hăy chỉ bảo cho nó biết cái nào hay, cái  nào dở để sau nó khôn hơn bây giờ.

          Nó chỉ đáng trách là việc nó làm được mà v́ biếng nhác, không làm hết bổn phận, nó làm cho lấy có, tục gọi là trả nợ Quỉ Thần.

          Tuy nhiên, trong trường hợp đáng trách cứ nầy, ta dùng lời nghiêm khắc nhưng dịu dàng chỉ lỗi cho nó để nó sửa đổi tánh t́nh ra siêng năng, sốt sắng. Hăy nhớ rằng: Dầu muốn, dầu không, ta cũng bị Luật Tiến Hoá thúc đẩy đi tới chỗ trọn sáng, trọn lành. Nhưng theo Thiên Nhiên e thời gian nầy kéo ra dài lắm.

          Đừng quên rằng: Mỗi hành động của ta đều có một ảnh hưởng tốt hay xấu, tuỳ theo bản tánh của nó lành hay dữ. Dầu biết hay không biết, ta cũng không sửa đổi Luật Trời được. Đừng làm nghịch Thiên Ư. Không ai bẻ nạn chống Trời được. Tốt hơn là ngay bây giờ, ta nên ngắm vào chỗ Toàn Thiện để thâu ngắn ngày giờ học hỏi trong vài chục kiếp, thay v́ phải đầu thai đi, đầu thai lại cả muôn lần mà chưa thoát khỏi ṿng Trần Tục.

 

TẠI  SAO  SỰ  TIẾN  HOÁ  LẠI  BẤT  ĐỒNG ?

 

          Muốn thật ḷng khoan dung, phải coi Nhân Loại như một Đại Gia Đ́nh trong đó có đủ Nam, Nữ và các Hạng Người khác biệt nhau rất xa về tuổi tác, tánh t́nh, kiến thức, kinh nghiệm, nghĩa là có người già nua, có người lăo thành, có người trọng tuổi, có người tráng niên, có người thanh niên, có trẻ nít, ấu thơ, có người tốt, có người xấu, có người khôn, có người ngu, có người hiền, có người dữ, có người thông minh, có người dốt nát, v.v…

          Tại sao sự tiến hoá lại bất đồng như thế ?

          Muốn giải cho đúng phải biết rành hai điểm sau đây:

          1- Sự liên lạc giữa các Thái Dương Hệ trên Không Gian đồng một Cung với nhau.

          2- Sự liên lạc giữa 7 Dăy Hành Tinh (Chaine Planétaire) của một Hệ Thống Tiến Hoá (Système d’Évolution).

          Vấn đề nầy cực kỳ khó khăn. Trong quyển “Sự Sanh Hoá các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu” tôi có giải sơ lược v́ lư do nào mà sự Tiến Hoá của Nhân Loại lại bất đồng. Xin quí bạn đọc quyển đó. Ở đây tôi xin nói vắn tắt vài lời thôi.

 

7  LOÀI  TRÊN  DĂY  ĐỊA  CẦU

 

          Trên Dăy Địa Cầu có 7 Loài:

          1- Tinh Chất thứ Nhứt.

          2- Tinh Chất thứ Nh́.

          3- Tinh Chất thứ Ba.

          4- Kim Thạch.

          5- Thảo Mộc.

          6- Cầm Thú.

          7- Con Người.

          Ngoài 7 Loài nầy c̣n:

          a- Các Hạng Tinh Linh cũng gọi là Ngũ Hành.

          b- Các Hạng Thiên Thần.

          Và các Loài khác mà Con Người không hề trông thấy.

          Thiên Thần và mấy Loài sau nầy theo Đường Tiến Hoá khác hơn Đường Tiến Hoá của Con Người. (Xin xem quyển “Các Hạng Thiên Thần” của tôi).

 

SỰ  THAY  H̀NH  ĐỔI  DẠNG

 

          Đúng ngày giờ th́ có sự thay h́nh đổi dạng.

          1- Tinh Chất thứ Nhứt đầu thai làm Tinh Chất thứ Nh́.

          2- Tinh Chất thứ Nh́ đầu thai làm Tinh Chất thứ Ba.

          3- Tinh Chất thứ Ba đầu thai làm Kim Thạch.

          4- Kim Thạch đầu thai làm Thảo Mộc.

          5- Thảo Mộc đầu thai làm Cầm Thú.

          6- Cầm Thú đầu thai làm Con Người và Ngũ Hành.

          7- Con Người thành Tiên Thánh.

          Chỉ có 7 Loài Thú đầu thai làm Người. Bây giờ chỉ biết có 5 Loài, c̣n 2 Loài nữa không biết. 5 Loài nầy là:

          1- Khỉ. 2- Voi (Tượng). 3- Ngựa. 4- Chó. 5- Mèo.

 

THOÁT  KIẾP  THÚ  TRƯỚC  CHÚNG  BẠN

 

          Trong 5 Loài nầy có những Thú tiến hoá mau nên đi đầu thai làm Người trước chúng bạn, có con trước cả triệu năm, có con trước cả muôn năm, có con trước cả ngàn năm. Lẽ tự nhiên những người sanh ra trước và đầu thai  nhiều kiếp phải có nhiều kinh nghiệm và khôn ngoan hơn những người đầu thai sau, cũng như trước mắt ta những người trọng tuổi thông thạo việc đời hơn một đứa bé 5, 6 tuổi.

          Hiểu được lẽ nầy ta mới biết thương những người c̣n dốt nát, khờ khạo, ngu muội, tối tăm, bệnh tật, nghèo khổ và lo d́u dắt họ, dạy dỗ họ, khoan dung những lỗi lầm và những việc làm của họ c̣n dại dột.

          V́ mấy lẽ trên đây, trong những quyển của tôi viết, tôi thường nhắc nhở điều nầy: Nếu ngày nay ta đă thành con bướm cánh lông rực rỡ bay lượn trên không, hăy nhớ rằng trước đây không lâu, ta cũng là con sâu h́ hợm ḅ dưới đất ai thấy cũng sợ. Đừng quên lốt cũ mà trở lại kiêu ngạo các bạn đồng loại chưa được diễm phúc như ḿnh.

          Phật nói: “Một ông Vua kiếp nầy, kiếp sau có thể đầu thai làm một tên ăn mày, v́ những tội ác đă gây ra. C̣n một tên ăn mày kiếp sau có thể làm con nhà giàu sang, v́ nhờ Ḷng Nhân anh đă tạo ra nhiều Phước Đức.”

          Từ cái to lớn như Thái Dương Hệ cho tới cái nhỏ bé là một Nguyên Tử, tất cả đều phải Phục Tùng Luật Nhân Quả.

          Tu Hành cũng vậy. Cố gắng nhiều, kết quả là bước mau, c̣n bê trễ, biếng nhác sẽ bước chậm.

          Phải ghi nhớ vào Ḷng Luật Nhân Quả. Đừng gieo giống Tiêu, Ớt mà sau phải gặt những Quả Cay Nồng.

 

     KHOAN  DUNG  NHỮNG  TÍN  NGƯỠNG

 

          Tôn Giáo là gạch nối giữa Con Người và Thượng Đế. Mỗi Giống Dân Tộc đều có một Tôn Giáo hạp với tŕnh độ tiến hoá của ḿnh, do Đức Bồ Tát lập ra. Nếu có những tŕnh độ tiến hoá khác nhau, lẽ tự nhiên phải có những Tôn Giáo khác nhau về h́nh thức bên ngoài, chớ bên trong Chân Lư vẫn là Một.

          Thí dụ: Đấng Chí Tôn sanh hoá Vũ Trụ, dầu gọi Ngài là Ông Trời, Đức Thượng Đế, Thái Cực Thánh Hoàng, Đức Chúa Trời hay Dieu, Logos, Brahma, Eternel, Allah, Ahure Mazda, v.v… tuỳ theo Dân Tộc, th́ cũng là Ngài, chớ không phải là một Vị khác.

          Cũng như Đức Thượng Đế phân là 3 Ngôi.[58] Dầu gọi:

          1- Ngôi thứ Nhứt là: Shiva, theo Ấn Giáo. Ahura Mazda, theo Hoả Thần Giáo. Dieu, le Père, theo Công Giáo.

          2- Ngôi thứ Nh́ là: Vishnou, theo Ấn Giáo. Asha, theo Hoả Thần Giáo. Dieu, le Fils, theo Công Giáo.

          3- Ngôi thứ Ba là: Brahma, theo Ấn Giáo. Vohou Mano, theo Hoả Thần Giáo. Dieu, le Saint Esprit, theo Công Giáo.

          Th́ cũng là Một Vị với 3 Tên, chớ nào phải 3 Vị với 3 Tên lạ khác nhau.

          Hoặc gọi 3 Ngôi là:

                   Thái Cực.

                   Lưỡng Nghi.

                   Tứ Tượng.

          Cũng được.

 

GHÉT  NHAU    TÍN  NGƯỠNG  BẤT  ĐỒNG

 

          Ta thường thấy ông A không thích ông B. Có dịp ta hỏi thăm ông A duyên cớ th́ ông A nói: “Tôi giữ Đạo khác. Ông B giữ Đạo khác.” Nghe qua ta mới hiểu.

          A! Thế là v́ Tín Ngưỡng bất đồng, chớ không phải tại tánh t́nh ông B không tốt, làm nhiều điều nông nổi, cho nên ông A không ưa ông B.

          Nếu ta t́m hiểu tại sao ông A tin như thế nầy, c̣n ông B tin như thế kia, th́ không biết câu trả lời được nghe sẽ như thế nào?

          Ông A và ông B có kinh nghiệm chi về Tín Ngưỡng của ḿnh không? Hay là trước kia chỉ nghe theo lời đồn đăi của một số người và nhập môn.

          Điều nầy thật là khó vô cùng, v́ có những lư do khác nhau khiến cho người ta theo Tôn Giáo nầy hay Tôn Giáo kia.

          Nhưng có một điều chắc chắn là ít có một vị Tín Đồ nào t́m hiểu Giáo Lư của Đạo ḿnh và đem ra so sánh với Giáo Lư của những Đạo khác với một cách ngay thẳng, tuyệt đối vô tư không hề thiên vị.

          C̣n một vấn đề tưởng cũng phải đem ra bàn thử coi: Ấy là tại sao Phật Giáo không tin có Thượng Đế ?

 

TẠI  SAO  PHẬT  GIÁO  KHÔNG  TIN    THƯỢNG  ĐẾ ?

 

          Tôi có hỏi các bạn Phật Tử quen thuộc: “Tại sao Phật Giáo không tin có Thượng Đế ?” Câu trả lời thường là: “Phật không có dạy Thượng Đế hay là trong sách Phật không có nói đến Thượng Đế.”

          Tôi thấy hai câu trả lời đó không vững chắc chút nào.

          Nói “Tin” hay “Không Tin” không cắt nghĩa cái chi hết.

          Nếu có thật Thượng Đế mà ta nói không có Ngài th́ Ngài cũng là Ngài, chớ không có giảm sút chi cả. Nhưng Ngài vẫn mỉm cười, v́ biết chúng ta c̣n vô minh.

          Nhược bằng không có Thượng Đế mà ta lại tạo ra một Ông Trời th́ Ông Trời đó là Ông Trời giả, chớ không phải là Ông Trời thật. Bất quá là Một H́nh Tư Tưởng, trong một thời gian sau nó cũng tan ră.

          Vẫn biết không ai được phép bắt buộc ta phải tin có Ông Trời, nhưng khi ta nói “Không Tin” th́ ít ra ta cũng phải trưng ra những lư lẽ chứng minh rằng quan niệm của ta không sai lầm.

          Tôi xin tỏ ư kiến của tôi về hai câu trả lời trước đây:

 

1- PHẬT  KHÔNG    DẠY  VỀ  THƯỢNG  ĐẾ

 

          Chúng ta không phải sinh đồng thời với Phật, làm sao dám quả quyết rằng: Phật không có dạy về Thượng Đế. Nếu quả quyết là Vọng Ngữ.

 

2- KINH  SÁCH  PHẬT  NÓI  KHÔNG    THƯỢNG  ĐẾ

 

          Xin hỏi: Ai viết câu nầy và ở trong cuốn Kinh nào?

          Theo Lịch Sử Phật Giáo, trong 45 năm Truyền Đạo, Phật chỉ nói miệng, tức là Thuyết Pháp, chớ không viết một chữ nào cả. Các vị Đệ Tử lớn như: Ma Ha Ca Diếp, Ananda và U Ba Li (Upali) cũng không thảo ra một trang nào cả.

          Phật nhập Niết Bàn chưa được bao lâu th́ 18 Phái nổi lên tranh giành Quyền Thế, bởi vậy cho nên mới có 3 lần Hội Nghị Phật Giáo.

          Hai lần đầu tiên chỉ lặp miệng những Lời của Phật dạy, mà dám chắc là không đầy đủ nữa.

          Qua tới Hội Nghị Phật Giáo lần thứ Ba do Vua A Dục triệu tập, 3 Tạng Kinh được viết ra thành Sách.

          Nếu cho rằng trong quyển Kinh Phật nào đó có ghi rằng: “Phật dạy không có Thượng Đế,” tôi xin trả lời liền: Câu đó vốn của Người Đời Sau thêm vô, chớ thật sự Phật không có bảo như thế.

          Người Đời Sau vu cáo Phật nhiều lắm. Thí dụ như: Chuyện Phật lạy đống xương khô, v́ cho rằng trong đống xương nầy biết đâu lại không có xương của cha mẹ Ngài. Phật là Đấng Chí Tôn Cao Cả, một Vị Đại Giáo Chủ, Thầy của các Đại Thiên Thần và Tiên Thánh trên Địa Cầu nầy mà đi làm một chuyện dốt nát cực kỳ phi lư như thế ư?

          Cũng như nhiều Câu ư nghĩa tầm thường mà cho là Phật Ngôn. Nếu không suy nghĩ kỹ lưỡng lại vội tin, thành ra mê tín.

          Phật đă ngăn ngừa điều nầy, nhưng ít ai nghe theo.

          Đại ư những lời của Đức Phật đă dạy các Người Kalama là:

          “Các Ngươi đừng tin các lời của Ông Thánh, Ông Hiền nói hay là lời ghi trong những sách gọi là Sách Thánh, nếu chúng nó không hạp với Chánh Lư.”

          Trong quyển “Phật Pháp” (Le Dhamma du Bouddha) trang 64 của ông Jagadish Kasyapa có 2 câu nầy nói về đặc sắc của Phật Giáo:

          “Đối với các Hàng Phật Tử, 3 Tạng Kinh không được xem như chiếm một địa vị như Thánh Kinh (Bible) đối với Tín Đồ Cơ Đốc Giáo hay là Kinh Koran đối với Tín Đồ Hồi Giáo hoặc là Kinh Phệ Đà đối với Dân Chúng Ấn.”

          “Vị Phật Tử không nô lệ 3 Tạng Kinh. Anh không chấp nhận chúng một cách mù quáng như là Chân Lư tuyệt đối do một Đấng Thần Linh tiết lộ hay là như một Tín Điều.”

          Tôi chỉ nói bao nhiêu thôi, v́ tôi rất trọng quyền Tự Do Tư Tưởng và Tự Do Tín Ngưỡng của mọi người.

          Quí bạn hăy suy nghĩ măi ắt Ánh Sáng của Chân Lư sẽ hiện ra.

         

  CỚ  NÀO  PHẬT  GIÁO  KHÔNG  NH̀N  NHẬN    THƯỢNG  ĐẾ ?

 

          Tôi thấy có một lư do khiến cho Phật Giáo không nh́n nhận có Thượng Đế, xin nói ra sau đây:

          Lúc Phật c̣n tại thế ảnh hưởng của Phật Giáo rất lớn, Bà La Môn Giáo phải lu mờ. Phật đi tới đâu cũng được người ta tôn kính tới đó. Sau khi Phật nhập Niết Bàn và các vị Đệ Tử lớn lần lượt từ trần, Bà La Môn Giáo bắt đầu tấn công Phật Giáo. Phật Giáo suy sụp lần lần v́ hai lẽ chánh sau đây:

          1- Các Chùa Chiền giàu sang tột bực, Tăng Đồ quá say mê Vật Chất, không giữ ǵn Giới Cấm, cho nên không học được Chân Truyền. Phật Giáo không c̣n đào tạo được những Vị Cao Tăng như các Đệ Tử của Đức Phật thuở xưa.

          2- Thay v́ hợp nhất lại để đương đầu với kẻ nghịch mười phần lợi hại, các Giáo Phái v́ những quyền lợi riêng tư, chia rẽ nhau, giang sơn ai nấy giữ. V́ vậy mà Phái nầy bị tiêu diệt rồi tới phiên Phái khác.

          Đây là một bài học hay từ xưa đến nay để thức tỉnh Con Người: “Đoàn kết th́ sống, chia rẽ th́ chết.”

          Tới Thế Kỷ 11, Bà La Môn Giáo đuổi Phật Giáo ra khỏi Ấn Độ.

          Vậy phải chăng muốn cho người ta thấy Phật Giáo khác hơn Bà La Môn Giáo nên các Hàng Phật Tử thuở đó nói Phật không dạy có Thượng Đế, v́ Bà La Môn Giáo thờ Phạn Vương. Đây cũng là một cách tuyên truyền đánh đổ đức tin của những người Ấn để họ đừng theo Bà La Môn Giáo.

          Nói một cách khác, điều đó là một bằng chứng Phật Giáo chống đối Bà La Môn Giáo. Nhưng những lời tôi nói đây chỉ là một giả thuyết thôi.

          Sự thật là thế nào? Không ai biết.

          Chỉ thấy một điều là v́ không ḷng khoan dung cho nên Bà La Môn Giáo triệt hạ Phật Giáo.

          Cho tới ngày nay, v́ không có Ḷng Nhân tha thứ mới có những sự tranh chấp giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan và nhất là mới đây trận chiến tranh giữa Do Thái và Á Rập làm cho Kỹ Nghệ Thương Măi khắp hoàn cầu phải một phen điêu đứng, v́ thiếu nhiên liệu cần thiết là Dầu Hoả. Ảnh hưởng dây chuyền nầy rất lớn lao, Quả gây ra Nhân, rồi Nhân biến thành Quả, kéo dài từ năm nầy qua năm nọ, từ xứ nầy qua xứ kia, chưa biết tới ngày nào sự quân b́nh trở lại như trước.

          Nhưng khoan dung không phải là lănh đạm, không màng ngó tới, ai làm ǵ mặc ai, miễn là đừng phạm pháp th́ thôi.

          Chúng ta thường nghe nói về các Tôn Giáo: “Ôi! Họ làm ǵ mặc họ, có đá động chi tới ta mà ta phải can thiệp.”

          Quả thật thuở xưa, cả ngàn năm trước có nhiều sự ngược đăi và hành hung các Tín Đồ, ngày nay th́ việc nầy không c̣n một cách công khai nữa, nhưng có khi cũng c̣n ngấm ngầm, v́ một lẽ nào đó.

          Tưởng cũng phải nói, trong gia đ́nh cũng có sự ngược đăi những đứa con không chịu theo Tôn Giáo của cha mẹ đă sùng bái.

          Ta nên tránh điều nầy và hăy để cho mọi người được quyền Tự Do Tín Ngưỡng và Hành Đạo.

 

TÔI  TIN  ĐỨC  PHẬT    DẠY  VỀ  ĐỨC  THƯỢNG  ĐẾ

 

          Riêng tôi, tôi tin Đức Phật có dạy về Đức Thượng Đế, v́ những lẽ sau đây:

          Phật Giáo có 2 Khoa: Khoa Công Truyền hay là Hiển và Khoa Bí Truyền hay là Mật.

          Đức Long Thọ đă tiết lộ điều nầy trong quyển “Tâm Kinh” Chương thứ 24:

          “Giáo Lư của Đức Phật gồm 2 Phần: Phần Công Truyền hay là Hiển để cho Quần Chúng, c̣n Phần Bí Truyền hay là Mật để cho các Vị Thánh.”

          Chắc chắn là ngày nay nhiều Vị Lạt Ma bên Tây Tạng và nhiều Vị Cao Tăng, Đại Đức bên Trung Hoa ở mấy chốn non cao đều học được Khoa Bí Truyền.

 

TỨ  THÁNH

 

          Trong quyển Kinh Kim Cang có 4 Bậc Thánh là:

          1- Tu Đà Huờn.

          2- Tư Đà Hàm hay là Nhất Lai.

          3- A Na Hàm hay là Bất Lai.

          4- La Hán.

          Bốn Cấp Bậc nầy là 4 Cấp Bậc đầu tiên trong Quần Tiên Hội hay là Thiên Đ́nh. Tứ Thánh c̣n ở trong Hàng Đệ Tử. Phải lên Cấp Bậc thứ Năm, Phật Giáo gọi là A Sơ Ca (Aseka) nghĩa là không c̣n làm Đệ Tử nữa mới được hoàn toàn giải thoát.

          Tứ Thánh thuộc về Khoa Bí Truyền, không rơ tại sao lại đem vô Kinh Kim Cang?

          Thiên Đ́nh hay là Quần Tiên Hội gồm những Đấng Cao Cả[59] thay mặt cho Đức Thượng Đế cai trị và coi sóc sự Tiến Hoá của các Loài Vật trên Thế Gian.

          Như vậy, ta có thể kết luận rằng: Nếu có Thiên Đ́nh th́ lẽ tự nhiên phải có Đức Thượng Đế, bởi v́ nếu không có Thượng Đế th́ làm sao có 4 Bậc Thánh trên Thiên Đ́nh được.

          Hễ có cái nầy phải có cái kia.

          Riêng tôi, tôi suy luận như vậy, c̣n Tin hay Không Tin là quyền tự do của quí bạn.

 

TẤT  CẢ  NHỮNG  CON  ĐƯỜNG  ĐỀU  DẮT  ĐẾN  THƯỢNG  ĐẾ

 

          Các Vị Hiền Triết có trạng tả 3 Con Đường dắt Con Người đến sự được Giải Thoát, tức là thành một Vị Siêu Phàm. Con Người tự do theo Con Đường nào hạp với Tánh T́nh và Cung Mạng của ḿnh. Phương Pháp và Kỷ Luật tuy khác nhau, nhưng đồng dắt tới cùng chung một mục đích. Cả 3 đều liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời ra được.

          3 Con Đường đó là:

          1- Con Đường Hành Động: Karma Marga cũng gọi là Karma Yoga.

          2- Con Đường Minh Triết: Jnana Marga cũng gọi là Jnana Yoga.

          3- Con Đường Sùng Tín: Bhakti Marga cũng gọi là Bhakti Yoga.

 

1- CON  ĐƯỜNG  HÀNH  ĐỘNG

 

          Tất cả chúng ta đều làm việc và mong hưởng kết quả của việc ta làm. Đó là chúng ta đi t́m hạnh phúc trong sự Hành Động.

          Chúng ta phải hoạt động, hoạt động nhiều chừng nào tốt chừng nấy, v́ có hoạt động mới có kinh nghiệm, có nhiều kinh nghiệm mới trở nên khôn ngoan, khéo léo.

          Nhưng xin nhắc lại: Chúng ta có bổn phận làm những Việc Lành, tránh những Việc Ác, mặc dầu người đời tưởng sao hay nói sao cũng được.

          Xin đừng quên, dầu Việc Lành hay Việc Dữ cũng đều buộc trói Con Người vào bánh xe Luân Hồi.

          Chỉ có một Phương Pháp giúp cho Con Người khỏi bị ảnh hưởng Việc Làm của ḿnh mà thôi. Ấy là: Làm việc nhưng từ khước sự hưởng thụ kết quả. Làm việc Nhân Danh một Đấng Cao Cả hoặc Chơn Sư, hoặc Đức Bồ Tát, hoặc Đức Chúa, hoặc Đức Phật.

          Làm Việc v́ Bổn Phận Phải Làm và v́ Thương Đời, không c̣n cách nào khác nữa.

 

ĐỨC  KRISHNA  NÓI  VỀ  SỰ  HÀNH  ĐỘNG

 

          Trong quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo,” Qui Tắc thứ Nhứt: “Hăy diệt ḷng tham vọng, hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc vậy,” có những lời giải thích của Đức Bà A. Besant rất hay. Tôi xin chép mấy đoạn đó cho quí bạn xem:

          “Không có lời chú thích nào của câu Cách Ngôn nầy hay hơn một đoạn ở trong phần đàm thoại thứ 3 trong quyển Thánh Ca (Bhagavad Gita) nơi đó chỉ cho biết những lư do phải làm việc sau khi đă  mất những lư do thường t́nh là Ḷng Ham Muốn những Kết Quả của sự Hành Động.

          Kẻ nào gặp sự hoan hỉ trong Chơn Ngă (Chơn Nhơn), thoả măn với Chơn Ngă và chỉ đẹp ḷng do Chơn Ngă, kẻ ấy mới đích thật là không c̣n ǵ phải thi hành ở Thế Gian nầy.

          Sự hành động, cũng như sự bất động không c̣n liên hệ đến Thế Gian nữa, nó không c̣n  lệ thuộc một sinh vật nào trong cơi đời nầy.

          Thế nên, con hăy thoát ly và phải  hành động: Sự hành động là bổn phận của con, v́ khi hoàn thành sự hành động mà không tham luyến, con người đạt được Ngôi Cao Cả. Janaka và những Vị khác, quả thật đă tiến đến Bậc Toàn Thiện bằng sự hành động. Con hăy cố gắng hành động bằng cách nhắc nhở với con rằng mục đích của con là Phụng Sự Thế Gian.”

          Trong những Chương Thánh Ca vừa kể trên, Đức Shri Krishna giải thích phải làm việc cách nào để đạt đến Ngôi Cao Cả, và nhận thức được sự hiện diện và quyền lực của Đức Thượng Đế.

          Kế đó, Ngài chỉ cho biết rằng sự kiện đạt đến Ngôi Cao Cả và nhận thức được Đức Thượng Đế, dắt đến một sự hoạt động của Đấng Tối Cao là để bảo tồn tất cả vạn vật.

          “Nầy Partha, Ta không c̣n cái chi phải hoàn thành hay là hoạch đắc ở trong 3 Thế Giới và trong khi đó Ta vẫn tham gia vào Sự Hành Động.

          Bởi v́, nếu Ta không tham dự vào một phần việc, kiên cố trong sự hành động, nầy Partha, Nhân Loại sẽ theo bước chân ta khắp mọi nơi.

          3 Thế Giới nầy sẽ bị huỷ diệt, nếu Ta Không Hành Động.”

          Ngài làm việc cho hạnh phúc của Nhân Loại để duy tŕ sức chuyển động của bánh xe Vũ Trụ. Sự Hoạt Động của Ngài chỉ có một lư do là giúp cho Thế Gian tăng trưởng và phát triển cho đến khi chấm dứt chu kỳ của Địa Cầu.

          Kế đó, Đức Shri Krishna chỉ mục đích nhắm vào sự làm việc của chúng ta là phụng sự và bảo tồn Cơi Thế Gian và Nhân Loại. Dứt hẳn sự đồng hoá với mọi h́nh thức chia rẽ, hầu đưa chúng nó đến chỗ toàn thiện. Như thế, con người đồng hoá với Sự Sống phải hiến dâng tất cả mọi công tác cho hạnh phúc, cho công việc Phụng Sự Đồng Loại và trọn cả Thế Gian, hầu tất cả muôn loài từ Động Vật cho đến Bất Động Vật có thể tiến đến mức cuối cùng đă dành sẵn cho chúng nó. Có thể trở nên cái ǵ mà Đấng Tối Cao muốn cho chúng nó trở nên, mặc dù trong đời sống hiện nay chúng nó chưa tiến đến điểm đó.

          Tất cả Vũ Trụ của Đấng Tối Cao đă có sẵn và toàn thiện trong tư tưởng của Ngài, dần dần và trải qua nhiều giai đoạn, Ngài đem tư tưởng nầy thành h́nh thức trong Vật Chất. Người ta không thế nào nhận thức được một phần Sự Sống của Ngài mà không làm việc như chính Ngài đă làm việc cho sự biểu hiện hoàn toàn tư tưởng nầy, nghĩa là làm chuyển động Bánh Xe của Sự Sống cho đến Kỳ Hạn Chỉ Định.”

 

TỪ  KHƯỚC  KẾT  QUẢ  CỦA  SỰ  HÀNH  ĐỘNG

 

          Đức Bà A. Besant có diễn thuyết về 3 Con Đường: Hành Động, Minh Triết và Sùng Tín, sau xuất bản thành một quyển sách nhỏ nhan đề là “Ba Con Đường.” (Les 3 Sentiers).

          Tôi xin trích vài đoạn trong bài dịch của Huynh Nguyễn Văn Minh đă đăng trong Ánh Đạo số 11, 16 và 17.

          V́ thế, Đức Chưởng Giáo đă dạy Anh rằng sự từ bỏ hành động không giải thoát khỏi ách hành động, rằng các Bậc Thánh Nhân chỉ hành động giúp đời. Đấng ấy nay dạy Anh một bài học khác thâm thuư hơn để giúp Anh tiến thêm một bước khác trên Con Đường Hành Động: Ngài dạy Anh phải Từ Bỏ mọi Kết Quả của Hành Động, hay dứt khoát với các động cơ ích kỷ trong T́nh Thương và Hoan Lạc. Bài học được tóm tắt trong lời nầy: “Con chỉ lo Hành Động mà thôi, đừng khi nào nghĩ đến Kết Quả,” dù kết quả ấy là sự cảm mến và tri ân. Đừng bao giờ nghĩ đến Kết Quả, đừng khi nào liên hiệp Kết Quả vào Nguyên Nhân. Ngài thêm: “Con đừng để kích thích bởi Kết Quả và cũng đừng buông trôi trong sự ăn không, ngồi rồi.” (Bhagavad Gita II. 17).

          Sự dứt bỏ đă hoàn toàn. Không c̣n hoạt động v́ muốn sung sướng ở Cơi Thế Gian; không c̣n hoạt động v́ muốn sung sướng ở Cơi Thiên Đàng; không c̣n hoạt động v́ muốn được cảm mến hay tri ân, mà từ bỏ các ham muốn và không màng kết quả. Thành Công đến? Cũng được. Thất Bại? Cũng không sao. “Phải b́nh thản ở Thất Bại cũng như trong Thành Công: Đó là sự quân b́nh của Yoga.” (Bhagavad Gita II. 16). B́nh thản trong thành công cũng như trong thất bại, trong cơn vui cũng như trong lúc buồn, trong khi vinh quang cũng như lúc tủi nhục, trong t́nh thương cũng như sự oán ghét. Cái chi thuộc Phàm Ngă đê hèn không được dính líu đến Hoạt Động. Hành Động là công tác của Thượng Đế, dù kết quả như thế nào, nó cũng phát xuất từ Ngài. Bạn thiết lập một kế hoạch giúp đời nhưng kế hoạch thất bại. Đó là một điều tốt. Bạn thiết lập một kế hoạch giúp đời và kế hoạch ấy thành công. Cũng tốt. Mục đích của Anh không phải là sự thành công, mục đích của Anh cũng không phải là sự thất bại. Anh chỉ nhắm một mục đích: Làm tṛn phận sự. Kết quả của hành động dù tốt, dù xấu, Anh phải thản nhiên và b́nh tĩnh. Chỉ có hành động là phận sự. Bí quyết của Con Đường Hành Động là: “Không t́m kiếm Hành Động khi nó không đến; đừng từ chối khi nó xảy ra, vui vẻ Hành Động khi bổn phận bắt buộc; sẵn sàng ngồi không nếu không có điều ǵ thuộc bổn phận ḿnh. Hăy tuyệt nhiên b́nh thản với mọi kết quả.” Trên Con Đường Hành Động, nếu con người có được thái độ ấy, Anh có thể ở trong Điện Ngọc, Đền Vàng, ăn những cao lương mỹ vị, sống giữa gấm vóc ngọc ngà, mà vẫn b́nh thản, an nhiên. Tất cả các món đó c̣n cũng tốt, mất cũng tốt, v́: “Chỉ có giác quan cảm xúc chúng nó,” (Bhagavad Gita V, 9), c̣n Anh th́ b́nh thản, an tĩnh. Các vật bên ngoài không khiến Anh vui thích hay chán chê. Khi chúng nó đến, Anh không xua đuổi; khi chúng nó đi, Anh không buồn phiền. Khi Anh phải từ bỏ Đền Đài để đến ở nhà tranh vách lá; khi Anh phải rời bỏ gấm vóc, lụa là để mặc quần vải, áo bô; nếu thay v́ món ngon, vật lạ, Anh phải độ ḷng với cơm hẩm canh rau, sự thay đổi đó không can hệ ǵ. Anh không mến tiếc của cải đă mất, không xua đuổi nếu chúng đến tay. Anh sung sướng trong cḥi tranh cũng như trong Điện Ngọc, Anh sung sướng trong Điện Ngọc cũng như trong cḥi tranh. Không cái nào khiến Anh ham mê. Không điều ǵ khiến Anh khổ sở. Đó chỉ là khí lực bên ngoài của Tạo Vật, ảo ảnh nhất thời của Vật Chất. Các vật đó có nghĩa lư ǵ đối với Anh, v́ Anh không màng Kết Quả v́ chỉ cố gắng làm tṛn Bổn Phận ḿnh. Sống ở Cơi Trần mà ḷng lúc nào cũng tuyệt đối thản nhiên trong sự giàu sang cũng như trong sự bần cùng, trong cảnh vui cũng như trong cảnh buồn, trong lúc vinh cũng như trong khi nhục, lúc nào cũng thoả măn, cũng an vui, cũng b́nh thản. Một đời sống như thế mới tuyệt diệu, mới thanh cao, mới khó khăn. Ai sống được như vậy chứng tỏ rằng ḿnh đă đi gần trọn Con Đường Hành Động để hoà hợp với Thượng Đế. Anh đă tiến gần đến giai đoạn mà mọi Pháp Môn đều hoà với nhau làm một, mà Thiên Ư biểu lộ cho ai đă vén màn ảo ảnh của Vật Chất.

          Từ đời sống đó - cái đời sống không xin xỏ chi cả, không t́m kiếm chi cả, không đ̣i hỏi chi cả và cũng không từ chối chi cả - từ đời sống đó nảy sanh sự Minh Triết; là v́ làm sao người ta có thể sai lạc khi mắt đă quên phân biệt giữa hoạt động bên ngoài và Bản Ngă duy nhất, đă biết từ bỏ Kết Quả trong khi Hành Động! Con người ấy trở nên Thánh Thiện bằng Hành Động, cũng như nhiều kẻ khác đă trở nên Thánh Thiện bằng sự Suy Tư, bằng Thiền Định hay bằng Ḷng Sùng Tín, các Pháp Môn khác nhau nhưng hoà hợp với nhau khi cuộc hành hương đi đến Giai Đoạn cuối cùng.

 

HIẾN  DÂNG

 

          Đến lúc ấy, hành giả được xem như xứng đáng để gặp Đấng Tối Cao. Khi đôi mắt được tinh luyện sạch dục vọng, chúng nó sẽ thấy Ngài xuyên qua tấm màn Vật Chất. Khi ḷng tinh luyện sạch dục vọng, nó sẽ thấy ở đáy sâu Linh Hồn Duy Nhất và Đại Đồng. Khi mắt trông thấy Đấng Tối Cao, hiện thân của sự Mỹ Lệ muôn đời, hành giả bước một bước chót nữa trên Con Đường Hành Động: Bước chót ấy là bài học Hiến Dâng.

          Bài học nầy cũng do vị Chưởng Giáo khuyên dạy, cũng phát xuất từ một nguồn thiêng liêng. Một khi Linh Hồn đă tinh luyện và học qua thế nào là Hoạt Động Nghĩa Vụ, thế nào là sự từ khước các Kết Quả của sự Hành Động để sống hợp với Thiên Ư. Linh Hồn học bài học tối thượng: “Nhân Loại bị trói buộc bởi các hành động, ngoại trừ các Hành Động Hiến Dâng.” (Bhagavad Gita III, 42). Bây giờ tất cả các hành động được thực hiện không phải để đạt được ước mong nào đó mà trong mục đích Cung Hiến cho Đấng Tối Cao. Con người phải trở thành một cộng sự viên với Thượng Đế, một bậu bạn với Đấng Hoá Công. Lúc đầu, Anh hành động v́ kết quả; đoạn sau Anh hành động để giúp đời; kế đó, Anh hành động để làm tṛn bổn phận với một tâm hồn b́nh an không màng kết quả; sau cùng, Anh tập hành thiện trong mục đích hiến dâng; từ nay các hành động của Anh đều là những Hành Động Tôn Sùng, Cung Hiến cho Đấng Chí Tôn. Đến Giai Đoạn nầy của Con Đường Hành Động, Anh hưởng được sự hân hoan của Thượng Đế. Sự an lạc thiêng liêng sẽ tràn ngập ḷng Anh. V́ Anh tập từ bỏ Phàm Ngă thấp hèn nên Chơn Ngă sẽ hiện ở ḷng Anh, thấm nhuần ḷng Anh. Anh thấy Anh là Một với Đấng Tối Cao. Từ nay, những phận sự Anh thi hành là những Hoạt Động Hiến Dâng và Anh hưởng được sự an lạc của Kẻ Hiến Dâng. Từ nay, Anh dự phần vào đời sống của Đức Thượng Đế, Anh là vận hà truyền đạt Khí Lực của Ngài. Dưới mắt Anh, các Hành Động đều là những sự Hiến Dâng cho Ngài, Đấng Hoá Công duy nhất, Đấng Hy Sinh duy nhất, Đấng Ban Rải cho muôn loài, Đấng Thu Nhận mọi kết quả và hưởng lấy, v́ tất cả đều tập trung về Ngài. Khi sự Hiến Dâng ấy được hoàn toàn rồi, khi đời sống chỉ biết Ban Cho mà không bao giờ thu nhận, khi nó phát huy ánh sáng mà không đ̣i hỏi chi cho ḿnh, khi Thái Dương chói sáng đến khắp Chân Trời để Cung Phụng Đấng Tối Cao mà không chút tự hào, chừng đó, trên Con Đường Hành Động con người bước vào Giai Đoạn An Lạc Tuyệt Vời. Anh đă đạt được Mục Đích, Anh đă Hoà Hợp với Thượng Đế.

          Như vậy, để kết luận, chúng ta có thể nhắc lại Giáo Lư và Lời Hứa của Đức Chưởng Giáo mà chúng ta cố gắng t́m hiểu để sống một cuộc sống thanh cao, an lạc. Giáo Lư ấy, Lời Hứa ấy nằm trong lời hùng dũng sau đây:

          “Một khi Bản Ngă được tinh luyện để Giác Quan có thể không thiết tha, không ghét bỏ giữa Vạn Vật hữu h́nh, khi nó được chủ trị bởi Chơn Ngă, th́ Con Người tiến hành trong sự B́nh An.

          Đó là Tâm Trạng của Đức Thượng Đế, hỡi con của Pritha. Không ai đă đi đến đó mà lầm lạc bao giờ. Đến giờ lâm chung, ai c̣n giữ được Tâm Trạng đó, Người Ấy sẽ tiến lên Cơi Niết Bàn.” (Bhagavad Gita).

 

2- CON  ĐƯỜNG  MINH  TRIẾT
(Jnana Yoga)

 

          Con Đường nầy không phải để cho quần chúng, nó dành riêng cho một số người rất ít. Nó dẫy đầy những sự nguy hiểm có tánh cách đặc biệt mà người ta không thấy ở hai Con Đường kia. Ai theo Con Đường nầy mà không chuẩn bị trước, tức là không được Tinh Luyện sẽ phải vấp ngă. Không giống như hai Con Đường Hành Động và Sùng Tín, hành giả sẽ gặp những sự nguy hiểm là những quan niệm sai lầm, ư nghĩ không minh bạch và có thể lầm lạc qua Con Đường Bàng Môn Tả Đạo.

          Điều quan trọng là phải lo rửa ḷng cho trong sạch, quên ḿnh để phụng sự, không bao giờ v́ tư lợi th́ mới mong tránh được sự sa hầm sụp hố khi tiến bước trên Con Đường Huyền Bí Học.

 

NHỮNG  ĐIỀU  NGUY  HIỂM  PHẢI  TRÁNH

 

          Hành giả theo Con Đường nầy có Cái Trí càng ngày càng mở rộng ra, rất sắc bén, nhạy cảm. Phải chế ngự giác quan, tinh luyện Trí Tuệ không phải với mục đích mưu cầu lợi lộc, nhưng để sau nầy hưởng thú vui tinh khiết của sự Minh Triết thuần tuư.

          Không nên để sự ham muốn thoả thích những dục vọng đê hèn phát sinh từ sự hiểu biết nhiễm lấy Trí Tuệ làm cho nó trở nên ô trược, bởi v́ thông thường Trí Tuệ dùng để phụng sự thoả thích nhục dục.

          Phải cần mẫn, siêng năng, sự lười biếng sẽ kéo hành giả xuống bùn lầy.

          Nên ghi nhớ: Khi Cái Trí phát triển mau lẹ, nó xúi giục con người trở nên kiêu căng tột bực, mục hạ vô nhân, cứ làm theo ư ḿnh muốn, khinh thường lẽ phải, bất chấp lời khuyên can, không khéo sẽ lạc qua nẻo Bàng Môn Tả Đạo.

 

SỰ  VUI  THÍCH  CỦA  HÀNH  GIẢ  CHÂN  CHÍNH

 

          Hành giả chân chính có nguyện vọng hiểu biết bản tánh của Vũ Trụ, bản tánh của Con Người, vượt lên tới tột đỉnh của Sự Sống; khám phá những sự bí mật của Tạo Công và đồng hoá tất cả những sự hiểu biết mà ngoại giới có thể đem lại cho Anh.

          Anh không màng danh vọng, tiền của, hay sự thoả thích của Bản Tánh thấp hèn. Anh để ngoài tai những lời khen tặng của anh em chúng bạn.

          Anh là mẫu người trung thành với Lư Tưởng và Khoa Học. Khoa Học đem lại cho Anh những sự vui thích trong sự phát minh và sự thành công trong công cuộc t́m kiếm đem lại cho Anh sự ban thưởng ngay khi đó. Cho tới ngày Anh từ trần Anh không ngớt tăng gia sự phát triển kiến thức của Anh.

 

AI  THEO  CON  ĐƯỜNG  MINH  TRIẾT ?

 

          Ấy là các Nhà Khoa Học, các Nhà Bác Học và các Nhà Huyền Bí Học.

          Hành giả dùng Trí Tuệ quan sát, học hỏi, chiêm nghiệm, thí nghiệm và phân tích những h́nh thức để t́m Chơn Ngă.

          Anh khảo cứu những hiện tượng Thiên Nhiên, rồi loại bỏ từ h́nh thức nầy tới h́nh thức kia, sau khi đă học hỏi xong. Anh nói: “Mấy cái nầy đối với tôi rất lạ lùng.” Nhưng các Nhà Bác Học, các Nhà Khoa Học chỉ t́m kiếm ở Hồng Trần nầy mà thôi, c̣n các Nhà Huyền Bí Học đi xa hơn nữa.

          Các Ngài dùng quan năng siêu việt như Thần Nhăn, Thiên Nhăn, Huệ Nhăn để học hỏi từ Cơi Trung Giới lên tới Cơi Thượng Giới và Bồ Đề.

          Tại hai Cơi Trung Giới và Thượng Giới, các Ngài thấy: Những h́nh thức vẫn c̣n biến đổi, vô thường, chúng không phải là Chơn Ngă.

          Qua Cơi Bồ Đề là nơi “Đồng Nhất ngự trị,” hành giả mới biết được sự thật sau nầy:

          Ở trên mấy Cảnh cao của Cơi Bồ Đề, Con Người là Một với những kẻ khác.

          Ta hiểu biết những kẻ khác như ta hiểu biết những tư tưởng của ta sanh ra hay là những cử động của tay chân ta. Bởi v́ ta có thể nhập vào Tâm của kẻ khác và tưởng nghĩ như họ tưởng vậy. Ta xem xét họ từ bên trong chớ không phải từ bên ngoài.

          Bạn ta ở trong ḷng ta mà ta cũng ở trong ḷng bạn ta vậy.

          Tại Cơi Trần, v́ Trí Hoá c̣n cạn hẹp, chúng ta không quan niệm nổi điều nầy mà cũng không ai tin, trừ ra những vị đă có kinh nghiệm, nghĩa là đă làm Đệ Tử Chơn Sư và đă được Điểm Đạo.

          Lên tới Cơi Niết Bàn là Thế Giới Thiêng Liêng Đại Đồng, hành giả mới thấy Chơn Ngă và mới thật biết “Vạn Vật Nhất Thể.” Nơi đây, Tất Cả chỉ là Một.

          Nói tóm lại: Hành giả theo Con Đường Minh Triết t́m kiếm Sự Sống Duy Nhất là Đấng Vô Cực, Vô Biên, Trường Tồn Bất Diệt, cũng gọi là Đức Thượng Đế không biểu lộ, nhưng vẫn tiềm tàng trong Vạn Vật, thấm nhuần Tất Cả, bảo tŕ Tất Cả. Nhờ sự phân biện và theo Con Đường Trí Huệ mà Anh đạt được sự hiểu biết Chơn Ngă. Anh nói: “Tôi là Ngài – Soham.”Anh hoàn toàn đồng hoá với Đấng Độc Nhất Vô Nhị.

          Con Đường Minh Triết là như thế, những sự khó khăn mà hành giả phải gặp gỡ là như thế, ai thành công trong sự tu tập sẽ sống một đời cao thượng, tự do và hợp nhất với Chơn Ngă.

          Thế nên, người nào đă dập tắt lửa ḷng, đă chế ngự và khắc phục được những ham muốn thấp hèn, người đó mới xứng đáng làm Đệ Tử và chỉ người ấy mới được Chơn Sư truyền cho Bí Pháp.

 

3- CON  ĐƯỜNG  SÙNG  TÍN
(Bhakti Yoga)

 

          Tín Đồ các Tôn Giáo, nhất là Phái Nữ, đều theo Con Đường Sùng Tín, nhưng ḷng nhiệt thành có khác nhau một chút ít mà thôi. Tôn thờ Đấng Cứu Thế Đại Từ Đại Bi, khẩn nguyện trước Phật Đài, sớm mơ chiều chuông, tụng Kinh, đọc Kệ, lần chuỗi, dâng hương, lễ bái, sám hối, rằm nguơn đi Chùa lễ Phật là có Ḷng Sùng Đạo, nhưng đây chỉ là những bước đầu tiên mới tập đi trên Con Đường Sùng Tín mà thôi.

          C̣n nhiều Giai Đoạn phải trải qua, từ chỗ thấp lên chỗ cao, từ chỗ dễ đến chỗ khó. Con Đường Sùng Tín là Con Đường Từ Bi, Con Đường của T́nh Thương Nồng Nhiệt, nhưng trong sạch, cao thượng.

          Đức Bà A. Besant nói rằng: Hành giả theo Con Đường Sùng Tín mến yêu và thờ phượng Đấng Ishvara là Đức Thượng Đế nhân cách hoá, tức là Đức Thượng Đế biểu hiện trong một H́nh Thể Con Người.

          Trong quyển Thánh Ca (Bhagavad Gita), Chương X-8-9, có câu nầy:

          “Các bậc Hiền Triết say mê trong sự Sùng Bái Ta. Trong Tinh Thần họ chỉ có Ta mà thôi. Đời sống của họ ẩn tàng nơi Ta. Người nầy soi sáng người kia, luôn luôn họ nói tới Ta, họ toại ḷng và vui vẻ.”

          Ở Đông Phương người ta luôn luôn khuyên nhủ Sinh Viên nên t́m những Nhà Đạo Đức và nghe họ nói để nhờ đó mà khêu gợi một đốm nhỏ yêu thương và nhiệt thành cho nó cháy bừng lên và sau thành một ngọn lửa to. Chỉ có một Tâm Hồn mạnh mẽ, cương quyết mới giữ được Ḷng Nhiệt Thành trong cảnh cô đơn, c̣n vị Tân Tín Đồ tốt hơn là không nên bỏ qua một cơ hội nào để tăng cường nguyện vọng của ḿnh bằng cách lân la với kẻ đồng một chí hướng.

 

HAI  MẪU  NGƯỜI  SÙNG  TÍN

 

          Có hai Mẫu Người Sùng Tín:

          1- Mẫu Người thứ Nhất là những Người Sùng Tín Thụ Động.

          2- Mẫu Người thứ Nh́ là những Người Sùng Tín Hoạt Động.

          Đặc tính chung của hai Mẫu Người nầy là: Ḷng Mến Yêu tập trung về Đấng mà họ Tôn Sùng Thờ Phượng. Tuy nhiên họ khác nhau về điểm nầy: Người Thụ Động cảm thấy một niềm vui triệt để trong sự chiêm ngưỡng, c̣n Người Hoạt Động thấy một sự vô cùng vui vẻ trong công việc phụng sự Đấng ḿnh Tôn Sùng. Hai hạng người nầy đều có thể là những người thông minh, nhưng sự thông minh nầy luôn luôn phụ thuộc vào cái năng khiếu chính yếu là Tôn Sùng.

          Ở nơi họ, cội rễ của đời sống ở trong Trái Tim, chớ không phải ở trong Trí Óc. Họ sống trong những Mối Cảm Xúc của họ. Họ tiến lên cao bằng Trực Giác, chớ không phải bằng sự Hành Động hay là Ư Chí.

 

1- MẪU  NGƯỜI  SÙNG  TÍN  THỤ  ĐỘNG

 

          Người ta thường gặp những Người Sùng Tín Thụ Động ở Ấn Độ hay là trong nhóm Người Thần Bí của Cơ Đốc Giáo.

          Người Sùng Tín Ấn Độ tham thiền hằng giờ trong niềm hoan hỉ cực lạc. Họ ĺa xa Quả Địa Cầu, v́ họ tập trung tư tưởng vào Đức Thượng Đế hay là Sư Phụ họ. Không bao giờ họ tách rời các Ngài ra khỏi sự Tôn Sùng của họ, v́ Sư Phụ hợp nhất với Thượng Đế và Thượng Đế chói sáng nơi Sư Phụ. Đời sống của họ là chiêm ngưỡng, tôn sùng và ca ngợi, xưng tụng trong trạng thái Xuất Thần. Đối với những người ở chung quanh th́  họ dịu dàng, âu yếm hay chiều chuộng, hay giúp đỡ, luôn luôn sẵn sàng d́u dắt. Đó là những Vị Thánh và những Nhà Thần Bí. Họ tự coi ḿnh như quá đỗi hèn mọn để cảm được cái niềm vui càng mănh liệt hơn khi họ chiêm ngưỡng Chúa họ, khi họ quỳ dưới chân Ngài.

          Những Đồng Tử kín trầm mặc của Cơ Đốc Giáo La Mă lấy một Tấm Ḷng Sùng Đạo như thế làm lư tưởng, v́ họ cũng muốn chịu đựng trong sự kín đáo những tội lỗi và đau khổ của Thế Gian. Họ đem Nước Cam Lồ rưới tất cả những vết thương mà không muốn cho những người được họ săn sóc trong Cảnh Giới Tinh Thần Thiêng Liêng biết đến họ.

          Mong rằng không một ai coi thường sự hy sinh của họ, khinh khi cách phụng sự của họ. Tất cả những người như thế trong các Cấp Bậc, trong các Tôn Giáo, ở khắp mọi nơi hợp thành một Cơ Quan Duy Nhất. Đó là Trái Tim của Ḷng Sùng Tín Thuần Khiết và cần thiết cho Đời Sống Tinh Thần của Thế Gian.

 

2- MẪU  NGƯỜI  SÙNG  TÍN  HOẠT  ĐỘNG

 

          Hạng Người nầy chia sớt với những Người Sùng Tín Thụ Động sự cần phải chiêm ngưỡng trong sự trầm lặng Đấng mà họ thờ phượng, nhưng họ coi đó chỉ là một sự nghỉ ngơi, một niềm khuyến khích.

          Người Sùng Tín Hoạt Động không muốn ở măi trong Đền Thờ, nhưng thỉnh thoảng tới đây:

          a- Để t́m cảm hứng và niềm an ủi trong các bóng tối mát mẻ của những Cửa Ṭ Ṿ h́nh ṿng cung.

          b- Trong hương thơm của Trầm Nhang.

          c- Trong những điệu du dương của Âm Nhạc.

          d- Và nhất là trong sự hiện diện của Đấng Thiêng Liêng. Ngài thấm nhuần mọi vật, khiến cho:

                   Bóng tối được mát mẻ,

                   Trầm Nhang được thơm ngát,

                   Âm Nhạc có uy lực phấn khởi ḷng người.

          Nhưng nếu cần tới thời kỳ nghỉ ngơi yên tịnh như thế th́: Cái cách tự phát biểu cao cả của anh, cái niềm vui sâu kín nhất của anh là thực hiện ư muốn của Đấng mà anh thờ phượng mến yêu:

-         Trong một sự cộng tác tràn đầy nhiệt tâm hoan hỉ với Ngài.

-         Trong cái cảm giác được Hợp Nhất với Ngài.

-         Được trở nên một phần tử của Đấng Cao Cả mà anh yêu mến.

          Nếu họ sống trong thời đại mà người ta hành hạ và ngược đăi những người khác Đạo th́ họ vừa đi, vừa ca hát khi lên Giàn Hoả không có chút chi nao núng. Họ Tử v́ Đạo mà không hề nhận thức được cái Trạng Thái Hấp Hối Lâm Chung của ḿnh trong một Niềm Vui Xuất Thần được Hợp Nhất với Chúa ḿnh.

 

CON  ĐƯỜNG  SÙNG  TÍN  ĐI  ĐẾN  ĐÂU ?

 

          Con Đường Sùng Tín thường dắt dẫn những khách lữ hành đi trên đó đến Khu Bộ của những Vị Giáo Chủ Nhân Loại mà Vị Thủ Lănh là Đức Bồ Tát. Đức Bồ Tát hiện kim, các Đức Chơn Sư K.H., D.K. và Jésus v.v… đă theo Con Đường nầy. Đức K.H. sẽ thành Vị Bồ Tát vị lai, tức là Vị Bồ Tát của Giống Dân Chánh thứ Sáu trong 6, 700 năm nữa. Đó cũng là Con Đường của Đức Jinarajadasa,  của Đức G. S. Arundale và của Alcyone.

          Cũng có Vị đă Thành Đạo hoạt động dưới sự điều khiển của các Vị Nirmanakayas và gia nhập vào một Cấp Bậc của các Ngài, luôn luôn thêm Thần Lực vào cho đầy những Kho Dự Trữ thiêng liêng để cho những người làm việc sốt sắng tới đó lấy những phương tiện để cứu giúp Nhân Loại. Các Ngài là những tia sáng Mặt Trời, những làn mưa dịu dàng khiến cho Thế Giới Tinh Thần đâm chồi nảy lộc, những Vị trầm tĩnh ban phước lành cho kẻ khác, và cũng được kẻ khác ca tụng công đức.

          Nhiều Vị Đệ Tử Phật thuở xưa đă gia nhập vào Hàng Ngũ của những Vị Nirmanakayas.

          Nhưng muốn có ḷng khoan dung toàn vẹn, th́ trước hết chính con phải vứt bỏ hết thói dị đoan và mê tín.

          Tin Tưởng Dị Đoan có nghĩa là tin tưởng điều ǵ không đúng với Chánh Lư. Những chuyện dị đoan xưa nay bất cứ ở Xứ nào hay ở Giống Dân Tộc nào cũng đều có, thường thường là nhiều chớ không phải ít.

          Thí dụ: Một chuyện nhỏ mọn là một người lấy một cục đá để trên một cái bàn thờ gọi là Thờ Ông Tà rồi mỗi bữa tới thắp nhang, cúng lạy, cầu xin Ông Tà giúp đỡ khỏi đau ốm bệnh hoạn và làm ăn được may mắn, tiền của dồi dào. Có chỗ Ông Tà làm cho ai tới phá quấy bàn thờ bị đau ốm. Người ta rất sợ Ông Tà, nói rằng Ông Tà rất linh. Có chỗ Ông Tà giữ giùm rọ cá, ai tới bắt cá sẽ bị nhức đầu, sưng tay, ói mửa, người ta gọi là bị Ông Tà quật.

          Ông Tà linh thật, mà quyền năng của Ông Tà thật sự là những H́nh Tư Tưởng của những người tới sùng bái Ông. Mỗi ngày đều có cả chục người tới đó cúng kiến, vái lạy, những H́nh Tư Tưởng luôn luôn có những đồ ăn cho nên càng ngày càng trở nên mạnh mẽ, chúng nó sống rất lâu.

          Hiểu được sức mạnh của H́nh Tư Tưởng th́ biết rằng: Chùa nào, Miễu nào mà thiện nam, tín nữ thường tới lễ bái th́ Miễu đó, Chùa đó rất linh. Được nhiều người sùng bái chừng nào th́ Chùa, Miễu đó lại càng thêm linh hiển nhiều hơn chừng nấy.

          Thế nên, ta có thể nói trong những Chuyện Dị Đoan đều có một nguyên nhân là chánh lư, nhưng tại người ta hiểu lầm nên việc làm sai lạc kéo dài từ đời nầy qua đời kia, chớ không phải chỉ có một Thế Hệ mà thôi.

          Về Sự Mê Tín và Tin Tưởng Dị Đoan, tưởng nên nói rằng có nhiều Tín Đồ chỉ xem những sách vở của Đạo ḿnh, chớ chẳng dám đọc những sách vở của các Đạo khác, v́ sợ mất Đức Tin.

          Tôi xin nhắc lại rằng: Chân Lư có nhiều mặt. Tôn Giáo nầy chỉ tŕnh bày một mặt nầy của Chân Lư, c̣n Tôn Giáo kia đưa ra những lư luận về một mặt kia. Về h́nh thức th́ thấy không giống nhau thật, song bề trong là Tinh Hoa th́ chỉ là Một mà thôi. Ấy là Luật Trời.

          Nếu có thời giờ th́ cũng nên đọc những Kinh Sách của các Tôn Giáo để coi Chân Lư hiện ra cách nào, hầu mở mang thêm kiến thức của ḿnh.

          Vẫn biết ai nói cũng có lư cả, song có lư cao, có lư thấp. Ta nên công nhận lư cao và để qua một bên lư thấp. Đây là lẽ tự nhiên, bởi v́ mỗi Chu Kỳ mỗi khác, sự giải thích Luật Trời ở Thời Đại nào cũng phải sửa đổi cho hạp với sự hiểu biết và phong tục của Dân Chúng ở Thời Đại ấy. Rất đúng với câu: “Rượu Cũ trong những B́nh Mới.” 

          Tuy nhiên, phương pháp chuẩn bị các Sinh Viên có đủ những Đức Tánh cần thiết để bước vào Cửa Đạo đều vẫn giống in như nhau, bởi v́ chỉ có Một Qui Tắc mà thôi, ấy là Tấm Ḷng Phải Trong Sạch.

          Nếu giữ đúng Giới Luật của Đạo ḿnh th́ những Tín Đồ của Thiên Chúa Giáo, cũng như những Tín Đồ Hồi Giáo, Phật Giáo, Ấn Giáo, Ai Cập Giáo, Ba Tư Giáo đều giống nhau về hai phương diện Nhân Từ, Đức Hạnh tức là Tâm Tánh và sự Hành Động.

          C̣n những Chuyện Dị Đoan, Đạo nào cũng có.

 

MỘT  CÂU  CHUYỆN  TIN  DỊ  ĐOAN

 

          Đức Bà A. Besant có thuật một câu chuyện Tin Tưởng Dị Đoan như sau đây:

          “Thuở xưa, tại Ấn Độ có một vị Tu Sĩ sống một cuộc đời đạo hạnh nên được thiên hạ tôn kính. Ông có nuôi một con mèo rất mến ông, trọn ngày nó cứ lẩn quẩn ở một bên ông. V́ vậy mỗi lần ông làm lễ hay cúng kiến, ông phải đem cột nó dưới chân giường kẻo nó làm rộn ông. Người ta không biết điều ông làm nên ngỡ là mỗi lần làm lễ th́ phải bắt một con mèo cột dưới chân giường mới đúng phép.

          Sau khi ông qua đời, Cuộc Lễ Bái của ông tổ chức cũng lần lần theo thời gian mà mất dạng. Chỉ c̣n lại tục lệ muốn Cúng Kiến phải bắt một Con Mèo cột dưới chân giường.”

          Ấy tại Hiểu Lầm nên thành ra Tin Tưởng Dị Đoan. Cũng như Ngày Chúa Nhật là Ngày Chúa, Ngày Tinh Thần. Ngày nầy là Ngày để cho người ta lo lắng về Phần Tinh Thần của ḿnh.

          Nhưng trái lại, người ta lấy ngày nầy làm ngày ăn chơi, say sưa, nhọc xác, Phần Tinh Thần suy kém rất nhiều. Một khi có thói quen không phải dễ bỏ nó.

          C̣n câu chuyện Âm Ty Địa Ngục và sự h́nh phạt các Linh Hồn như: Cưa hai nấu dầu, cắt lưỡi, rút ruột, v.v… , cũng thuộc về những Chuyện Dị Đoan, nhưng rất khó mà phá những thành kiến cũ kỹ.

          Con phải hiểu rằng không có lễ bái nào là cần thiết cả; bằng không con sẽ tưởng rằng con giỏi hơn những người nào không hành lễ. Nhưng con đừng chê trách những người nào c̣n bấu víu vào lễ bái. Hăy để họ làm theo ư họ; miễn họ đừng xen vào việc của con là người đă biết Chân Lư, họ không được cố buộc con phải làm những ǵ mà con đă trải qua rồi. Hăy khoan dung và tử tế trong mọi trường hợp.

          Đời sống của Người Bà La Môn chính thống đầy những nghi lễ. Sớm mai thức dậy phải đọc một Đoạn Kinh, trước khi dùng bữa, trước khi tắm cũng phải đọc Kinh, nói tóm lại mỗi cử động đều phải đọc Kinh, thật là phiền phức vô cùng.

          Khi đứa nhỏ đúng 8 tuổi vị Đạo Sư (Gourou) phải làm Lễ Thụ Pháp cho nó, gọi là Upanayana rồi cho nó mang theo ḿnh trọn đời Một Sợi Dây Thiêng Liêng chứng tỏ Giai Cấp của nó và từ đó nó được hưởng những Đặc Quyền dành cho những Người Bà La Môn.

          Sợi Dây Thiêng Liêng đó nhắc nhở nó 3 điều sau đây:

          Tư tưởng phải trong sạch.

          Lời nói phải trong sạch.

          Việc làm phải trong sạch.

          Alcyone vốn thuộc về Hạng Bà La Môn cao cấp. Thân quyến Anh sợ Anh tiêm nhiễm Cách Giáo Dục Âu Tây sẽ quên mất phong tục cổ truyền nên bắt buộc Alcyone phải đi dự những Cuộc Lễ cử hành trong gia đ́nh thân tộc. Chơn Sư giải nghĩa cho Alcyone biết không có Cuộc Lễ Bái nào là cần thiết cả.

          Xin hiểu, ở đây Chơn Sư muốn nói những Cuộc Lễ Bái Không Khai Sáng và Không Giải Thoát Con Người được, như ta lầm tưởng.

          Thường thường Người Hành Lễ tưởng rằng ḿnh hiểu Đạo và cao hơn những người thường không biết hành lễ như ḿnh, v́ họ c̣n dốt nát, thấp thỏi. Nhưng c̣n một hạng người không hành lễ nữa, ấy là những Tu Sĩ Sannyasi.

 

TU    SANNYASI

 

          Khi Người Bà La Môn ly gia cắt ái, khoác áo Tu Sĩ Sannyasi vào ḿnh Đi Ta Bà, Anh cắt bỏ Sợi Dây Thiêng Liêng mà Anh mang theo ḿnh trong lúc làm Lễ Thụ Pháp Upanayana. Anh không Hành Lễ nữa, Anh không c̣n dính dấp với Hồng Trần.

 

CUỘC  HÀNH  LỄ  CỦA  NGƯỜI    LA  MÔN

 

          Cuộc Hành Lễ của Người Bà La Môn gồm 10 Giai Đoạn: 3 Giai Đoạn Chuẩn Bị và 7 Giai Đoạn Chánh Yếu.

 

3  GIAI  ĐOẠN  CHUẨN  BỊ

 

          1- Tắm Gội: Mỗi ngày Tắm Gội nhiều lần.

          Ở Ấn, mỗi buổi sớm mai và trước khi dùng bữa người ta tắm rửa ḿnh mẩy cho thật sạch.

          2- L’Achamana: Uống một chút nước trong ḷng bàn tay.

          3- La Mârjana: Lấy mấy ngón tay thấm nước rồi rảy vô mặt và trong ḿnh. Thật sự, sớm mai khi mới thức dậy đă phải làm công việc nầy rồi.

 

7  GIAI  ĐOẠN  CHÁNH  YẾU

 

          1- Prânâyâma: Điều tức.[60]

          2- L’Aghamarshana: Mong ước được che chở khỏi tội lỗi và tư tưởng tội lỗi.

          3- Le Manasâparikramana: Hướng tư tưởng về bốn Phương: Đông, Tây, Nam, Bắc và biết rằng ở Phương nào cũng có sự hiện diện của Thượng Đế.

          4- L’Upasthâna: Nhận biết Thượng Đế là cội rễ của Ánh Sáng, của Sự Sống và của sự Hiểu Biết Tất Cả.

          5- La Stuti: Xưng Tụng Công Đức Đức Thượng Đế.

          6- La Prârthanâ: Lời cầu nguyện.

          7- L’Upâsanâ: Chiêm Ngưỡng Thượng Đế trong lúc Đại Định.

          Alcyone đă thành một vị Tu Sĩ Sannyasi, tất cả những Nghi Lễ không c̣n cần thiết với Anh nữa. Nhưng đối với nhiều người th́ sự cúng kiến, lễ bái giúp cho họ phát sinh Ḷng Sùng Đạo, Tin Tưởng Đức Thượng Đế và dắt họ lần lần đi vào Con Đường Tinh Thần. V́ vậy Chơn Sư dặn Alcyone đừng lên án những người c̣n thích những Cuộc Lễ Bái. Nhưng nên biết những Cuộc Lễ Bái cũng có khi gây ra những ảnh hưởng không tốt vậy.

          Thế nên thuở xưa, Cổ Ấn Giáo cấm nhặt trong khi một đám đông dân chúng hội họp, vị Đạo Sư không được phép đọc một Câu Thần Chú hay một Câu Chân Ngôn nào cả, điều nầy không phải là không muốn cho những người đương nhóm họp được tiếp nhận những ảnh hưởng tốt lành; nhưng muốn tránh cho họ những tai hại về phương diện Tinh Thần, bởi v́ 3 Thể: Thân, Vía, Trí của họ bị những thứ rung động mạnh mẽ làm cho xao động dữ dội. Lư do là tại họ sống một đời quá tầm thường. V́ vậy Đức Bàn Cổ (Manou) đă ra một Đạo Luật qui định rằng: “Trong Cuộc Lễ Shraddha[61] chỉ được mời những người Bà La Môn thông minh và có đức hạnh đến dự mà thôi.”

          Dưới đây là một bằng chứng.

          Đức Leadbeater thuật lại rằng: Một bữa kia, Ngài đến dự Cuộc Lễ Shraddha tại Gaya. Ngài thêm lực của Ngài vô, tức th́ các vị Lễ Sư bị ảnh hưởng không tốt liền. Tại sao vậy?

          Ấy bởi những Câu Thần Chú của họ đọc có một sức mạnh phi thường. Nhưng tại họ không biết Huyền Bí Học cho nên họ đọc những Câu Thần Chú đó không khác nào cầm cây quạt phe phảy. Luồng gió sanh ra chỉ nhẹ nhàng. C̣n khi Đức Leadbeater thêm lực của Ngài vô th́ lực của Ngài biến sức mạnh của những Câu Thần Chú thành một trận dông thổi tới, đồ đạc bay tứ tung, người ta cũng muốn té nữa.

          Đức Bà Blavatsky cũng khuyên các Sinh Viên Huyền Bí Học chớ chen lộn vào đám đông người, nếu không có thiện cảm với họ. V́ hai lư do:

          1- Bởi ảnh hưởng thường không tốt của đám đông làm hư Cái Vía của Sinh Viên.

          2- Thần Lực của Sinh Viên có thể thêm sức mạnh cho các tánh xấu của họ, làm cho họ trở nên hung bạo hơn trước.

          V́ vậy nên tránh xa là điều hay hơn hết.

          Bây giờ con đă sáng mắt, nên một vài tín ngưỡng và lễ nghi cũ của con hồi trước dường như trở nên phi lư đối với con; mà đúng vậy có lẽ nó phi lư thật. Nhưng dù rằng con không c̣n tham dự lễ bái nữa, con vẫn phải kính trọng những việc nầy, v́ ḷng thương những tâm hồn trong trắng mà họ c̣n cho những việc đó là quan trọng. Những lễ bái nầy có vị trí của nó và có chỗ dùng của nó; chúng giống như những hàng gạch đôi giúp con viết ngay ngắn và đều đặn khi con c̣n nhỏ, cho đến khi nào con tự biết ḿnh viết thật giỏi mà không cần dùng chúng nữa. Có một lúc con đă cần chúng; nhưng bây giờ lúc đó đă qua rồi.

          Sáng mắt đây có nghĩa là khôn ngoan, hiểu biết, v́ người dốt không hiểu Luật Trời th́ cũng như người không thấy đường đi.

          Quả thật, khi ta có chút ít học thức và có những kinh nghiệm th́ ta thấy ta phải thương những người c̣n quí trọng sự Cúng Kiến, v́ trước kia ta cũng Mê Tín Dị Đoan như họ bây giờ vậy.

 

     SỰ  HỮU  ÍCH  CỦA  VÀI  CUỘC  LỄ  BÁI

 

          Có nhiều thứ Thần Lực từ Cơi cao ban xuống Hồng Trần và có những Nghi Lễ tương ứng làm trung gian tiếp nhận rồi truyền ra khắp nơi.

          Trong các Nghi Lễ nầy có Nghi Lễ Mi-Sa (Messe) và Lễ Ban Thánh Thể (Sainte Eucharistie) của Cơ Đốc Giáo do Đấng Ky Tô (Christ) lập ra. Ngài ban quyền năng cho vị Linh Mục đứng ra Hành Lễ, dầu bản tánh ông thế nào đi nữa, ông cũng làm Một Vận Hà đem Thần Lực ban rải cho những người tới Dự Lễ và luôn luôn cho dân chúng ở trong vùng lân cận Giáo Đường. Người ta gọi việc nầy là sự Ban Phát Ân Điển của Thượng Đế. Nó rất hữu ích cho sự mở mang Tinh Thần của cả trăm triệu Tín Đồ.

          Nhưng ban phát Thần Lực là một việc, c̣n tiếp nhận Thần Lực là một việc khác nữa. Sự tiếp nhận Thần Lực nầy nhiều hay ít vẫn tuỳ thuộc sự tinh vi nhiều hay ít của 3 Thể: Thân, Vía, Trí của Con Người và cách phản ứng của chúng nó.

          Điều nầy không khác nào việc ta nói chuyện với một người kia nếu điếc vừa vừa th́ nghe không rơ, tiếng được tiếng mất, c̣n như điếc quá sẽ không nghe ǵ hết.

          Một thí dụ khác nữa. Mặc dầu điện có sẵn, nhưng phải có cái máy phát điện mới truyền điện được. Nếu cái máy phát điện hư hay trục trặc th́ luồng điện bị cản trở hoặc yếu sức.

          Tôi nhấn mạnh về điểm nầy giúp quí bạn thấy sự Tinh Luyện 3 Thể: Thân, Vía, Trí cần thiết là dường nào cho sự tiến bộ của Con Người.

          Nói về đức tánh Khoan Dung, Đức Bà A. Besant đưa ra hai thí dụ đại ư như sau đây:

          Một đứa bé gái lấy giẻ làm ra một Con Búp Bế, nó bồng, nó đưa, nó  hát. Ta thấy chuyện nó làm bắt tức cười, ta nói nó khờ quá. Nhưng trong Trí đứa nhỏ nó thấy không phải Con Búp Bế bằng giẻ, mà là một Hài Nhi. Việc ca hát, bồng ẵm, nâng niu khai mở t́nh âu yếm của người mẹ đối với đứa con. Nó bảo vệ, săn sóc hài nhi c̣n yếu đuối. Điều nầy giúp nó phát triển mẫu tính.

          Nếu ta so sánh việc làm của đứa bé gái với sự hiểu biết của ta, những tín ngưỡng của ta trước kia, ta thấy hai chuyện có khác nhau chút nào đâu.

          Cũng như những người trong một vài bộ lạc bên Ấn Độ, họ lấy một miếng giẻ cột vào một nhánh cây làm Lễ Vật dâng cho Đức Thượng Đế. Người da trắng thấy điều nầy cười vỡ bụng, cho rằng đám dân nầy ngu dốt quá, c̣n dă man nên giữ măi những thủ tục dị đoan mê tín. Nhưng ta đừng vội chê bai món đồ cúng mà hăy xem xét Ḷng Chân Thành Sùng Đạo của họ, Tư Tưởng của họ, Cách họ Thờ Phượng Thượng Đế. Đó thật là điều đáng quí trọng.

          Có khi người ta lại gỡ lấy miếng giẻ quăng đi, cho là chướng mắt. Nhưng không biết rằng việc làm đó là một cử chỉ chứng tỏ chưa mở rộng ḷng nhân và không khôn khéo chút nào, bởi v́ họ có thể bị dân làng đánh đập hay giết chết.

          Trong quyển Thánh Ca (Bhagavad Gita) có câu nầy: “Bất cứ món nào mà người ta Thành Kính Cúng Dường cho Ta, dầu cho đó là một lá cây, một cái bông, một cái cây hay là chén nước lă đi nữa Ta cũng chấp nhận nó như là Lễ Vật của một Người Tôi hiến dâng cho Ta v́ Ḷng Sùng Tín.” (Bhagavad Gita IX-26).

          Một vị Thầy Cả có lần viết: “Khi tôi c̣n nhỏ tôi nói như một đứa trẻ, tôi hiểu như một đứa trẻ, tôi nghĩ như một đứa trẻ; nhưng khi tôi đă lớn tôi bỏ hết các thói trẻ con.” Những người nào đă quên tuổi ấu thơ của ḿnh và mất đi thiện cảm với trẻ thơ th́ không phải là người có thể dạy dỗ hoặc giúp đỡ chúng. Vậy hăy tỏ ra tử tế, dịu dàng, khoan dung với tất cả mọi người, dù họ là người Phật Giáo, Đạo Jain[62] hay Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo.

          Chơn Sư nhắc nhở chúng ta hăy nhớ lại lúc ta c̣n bé thơ, bởi v́ nhiều người đối với trẻ con rất khắc nghiệt. Khi nó phạm một lỗi nhỏ chửi mắng, đánh đập chớ không tha thứ. Họ sai lầm coi nó như là một người lớn như họ vậy. Họ quên rằng nó chưa đủ trí khôn, nó làm theo ư nó hiểu, và hồi c̣n nhỏ như nó th́ họ cũng làm như nó vậy, chớ không có khác ǵ cả. Hăy thử nghĩ một đứa 4, 5 tuổi hiểu việc đời bằng một người 35, 40 tuổi không?

          Phải dùng lời dịu ngọt, thanh tao dạy bảo nó từ chút. Chớ nên nóng nảy, quạu quọ mà dùng đ̣n bọng và những danh từ thô lỗ, cộc cằn, chửi bới làm hư hại Cái Vía và Cái Trí của nó; dầu ta không thấy hay không biết những hậu quả, ta cũng không sửa đổi Luật Trời được.

          Đứa nhỏ bị sự đối đăi hung bạo sẽ đâm ra sợ sệt rồi thành dối trá; dầu lớn lên học giỏi đi nữa, tánh t́nh nó cũng không được tốt, v́ nó bị nhiễm thói hư tật xấu từ hồi c̣n bé thơ. Tai hại nầy c̣n kéo dài tới kiếp sau nữa.

          Câu “Khi tôi đă lớn tôi bỏ hết các thói trẻ con” có nghĩa là: Khi ta đă trưởng thành, phải lo mở mang những đức tánh của “Thật Con Người,” như: Nhân từ, thành thật, khoan dung, vui vẻ, can đảm, ngay thẳng, mến yêu, hoà  nhă, tinh tấn, thanh bạch; nói tóm lại là sống một đời cao thượng, vị tha, có ư thức, chớ không c̣n sống một cách máy móc như hồi c̣n nhỏ.

          Vậy ta phải cố gắng thực hiện cho kỳ được những điều các vị Thánh Hiền đă chỉ bảo mới mong thoát ra khỏi tŕnh độ thấp kém của đứa trẻ thơ.

 

CÁCH    XỬ  VỚI  TÍN  ĐỒ  CÁC  TÔN  GIÁO

 

          Các Tôn Giáo lớn được sáng lập để mở mang Phần Tinh Thần của Quần Chúng và nhắc nhở Con Người đừng quên Bản Tánh Thiêng Liêng của ḿnh là Chơn Thần.

          Tín Đồ các Giáo Phái nên đối đăi với nhau hết sức hoà nhă, dầu rằng Tín Ngưỡng vốn bất đồng, nhưng Chân Lư vẫn là một.

          Hăy xem một Cái B́nh đựng nước Cam Lồ. Nước Cam Lồ là Chân Lư, c̣n Cái B́nh là Tôn Giáo.

          Người nào biết rơ Chân Lư sẽ không giữ Đạo nào cả, hoặc giả có thể nói anh là Tín Đồ của các Tôn Giáo, v́ anh kính trọng tất cả, nhưng vẫn giữ vững đức tin của ḿnh. Anh không thiết tha với nhăn hiệu bên ngoài, anh không làm phật ḷng ai cả. C̣n người thường chỉ thấy có một mặt mà thôi, cho nên cứ phê b́nh theo ư nghĩ của ḿnh, không chịu suy xét đủ các phương diện.

          Thí dụ như người Âu Châu thường trách Đức Bà A. Besant sao quá thiên về Ấn Giáo, c̣n những người ở Đông Phương lại cho Bà rất thích Công Giáo. Tại sao vậy?

          Bởi v́ khi Bà diễn thuyết cho những người Ấn nghe, Bà lấy Đạo Lư trong Kinh Sách Ấn như Phệ Đà (Védas), Upanishad hay là Bhagavad Gita ra giải và đọc những dẫn chứng bằng tiếng Phạn. Đây là điều mà các Người Ấn rất đẹp ḷng.

          Khi Bà nói về Phật Giáo Bà dùng những danh từ Phật Giáo và những lời của Phật dạy có ghi trong Kinh Phật.

          Nếu Bà thuyết pháp ở Tây Phương giữa một đám đông người Công Giáo Bà đem những đoạn nói về Chân Lư trong Kinh Thánh Tân Ước ra giảng. Bà không bao giờ đả phá Đức Tin của Tín Đồ Tôn Giáo nào cả; trái lại những lời Bà giải làm cho đức tin của họ càng thêm vững chắc. Tín Đồ hiểu Tôn Giáo ḿnh một cách rành rẽ hơn trước và phân biện được chẳng nhiều th́ ít phần nào là Chân Lư, phần nào là Dị Đoan.

          Bà là một Nhà Huyền Bí Học uyên thâm, lảu thông Tinh Hoa của tất cả những Đại Tôn Giáo trên Hoàn Cầu từ xưa đến nay.

          Cho đến bây giờ, trong giới Đạo Đức vẫn chưa có một người nào sánh kịp với Bà về tài hùng biện.

          Đại Tá Olcott cũng là một Diễn Thuyết Gia đại tài. Khi Ngài nói Đạo rồi th́ những người Ấn Giáo, những người Bạt-si (Parsis), Hoả Thần Giáo và những người Phật Giáo trong đám thính giả đều đồng thanh công nhận rằng Ngài đem cho Tôn Giáo của họ một ánh sáng mới mẻ.

         

L̉NG  KHOAN  DUNG  ĐẠI  ĐỘ  CỦA  THÁNH  SAINT  PAUL

 

          Thuở xưa, người ta trách Thánh Phao Lồ (Saint Paul) tại sao Ngài đồng hoá với mọi người ? Ngài viết đoạn nầy:

          “Mặc dầu đối với tất cả mọi người tôi vẫn được tự do, nhưng tôi tự làm tôi đ̣i cho tất cả để thâu phục một số đông người. Đối với người Do Thái, tôi như người Do Thái để thâu phục những người Do Thái; đối với những người tuân theo Luật Pháp, tôi là người tuân theo Luật Pháp để thâu phục những người tuân theo Luật Pháp; đối với những người không Luật Pháp, tôi là người không Luật Pháp để thâu phục những người không Luật Pháp, mặc dầu không phải tôi không tuân theo Luật Pháp của Đức Thượng Đế, bởi v́ tôi tuân theo Luật Pháp của Đấng Ky Tô (Christ). Tôi yếu đuối với những người yếu đuối để thu phục những người yếu đuối. Tôi làm giống như tất cả, tin rằng với cách đó, chắc chắn tôi cũng cứu vớt được vài người.”

                                                          (1- Corinthiens- 19- 22)

          Đối với chuyện nầy tôi chỉ nói một câu thôi:

          “Từ xưa đến nay, các Nhà Huyền Bí Học chân chánh đều hành động như thế, cả thảy đồng tuân theo một Định Luật mà thôi.”

          C̣n người đời tưởng sao cũng được.

         

MỘT  CÂU CHUYỆN  KHOAN  DUNG  RẤT    THÚ

 

          Trong quyển Talmud (Giải về Luật Pháp của Do Thái) có thuật một câu chuyện khoan dung rất lư thú như sau đây:

          “Một buổi chiều kia, một hành khách tới viếng ông Abraham đúng vào lúc theo Phong Tục tại Sa Mạc anh sẽ được tiếp rước và đăi ăn uống. Trước khi dùng bữa, Abraham bảo anh Xưng Tụng Công Đức của Thượng Đế. Anh từ chối nói rằng: “Tôi không biết Đức Thượng Đế.” Abraham nổi giận liền đuổi anh ra đồng cát, không cho một món ăn nào cả. Tới khuya, Thượng Đế hiện ra như thường bữa hỏi Abraham: “Người hành khách đâu rồi?” Abraham mới thưa: “Anh đó không chịu Xưng Tụng Công Đức của Thượng Đế nên tôi đă đuổi anh đi rồi.”

          Đức Thượng Đế bèn phán: “Ta đă chịu đựng nó 60 năm rồi, c̣n ngươi, ít ra ngươi cũng phải chịu đựng được nó trong một giờ chứ.”

          Đức Thượng Đế c̣n tha thứ, sao chúng ta lại không rộng ḷng khoan dung cho nhau?

 

4- HẠNH  VUI  VẺ

(Cheerfulness)

          Con phải vui vẻ trả Quả của con, dù thế nào cũng mặc, nhận lănh sự đau khổ như là vinh dự, bởi v́ nó chứng tỏ rằng các vị Thần Nhân Quả thấy con đáng giúp đỡ.

          Bà A. Besant nói đức tánh nầy, Titiksha, Bà dịch là “Chịu đựng” hay “Nhẫn nhục,” đó là tánh tiêu cực.

          Nhưng nói về Nhân Quả, có 3 thứ:

          1- Một thứ là hậu quả những sự hành động của chúng ta từ mấy kiếp trước.

          2- Một thứ là hậu quả những sự lầm lạc của chúng ta tạo kiếp nầy, gọi là Quả Báo nhăn tiền.

          3- Một thứ nữa là những sự đau khổ do những người đố kỵ, ganh ghét ḿnh nên gây ra cho ḿnh kiếp nầy, chớ không phải tại ḿnh làm quấy với họ trong quá khứ nên bây giờ họ trả lại. Tuy nhiên, không phải dễ mà phân biệt thứ Quả nầy, phải mở Huệ Nhăn mới tri ra nguyên nhân được.

          Trong đoạn nầy, Chơn Sư nói về những Quả của ta gây ra thuở xưa mà thôi.

          Quan điểm của Huyền Bí Học khác hẳn với quan điểm của người đời.

          Theo thế thường, ai ai cũng muốn trọn đời sung sướng, chớ không muốn chịu cực khổ. Nhưng khi bị những việc rắc rối đưa đến th́ than thân, trách phận, chớ không chịu nh́n nhận: Tại kiếp xưa ḿnh đă vụng Đường Tu và Thiên Địa Chí Công. Ḿnh gặt những ǵ ḿnh đă gieo.

          Chúng ta đă đầu thai cả ngàn, cả muôn kiếp rồi, mỗi kiếp đều phải trả một số Quả cũ và c̣n gây thêm một số Quả mới nữa. V́ thế luôn luôn c̣n những Quả Chồng Chất. Khi chúng ta hiến ḿnh vào Cửa Đạo th́ chúng ta cố gắng chia sớt Nghiệp Quả nặng nề của Trần Gian. Muốn làm được một phần nào của việc nầy th́ chúng ta phải nhẹ ḿnh, tức là trả được gần hết Quả của chúng ta đă gây ra. Tới bậc La Hán, cần phải trả sạch Quả Báo c̣n dư lại, khi làm một vị A Na Hàm (Anagamin) có thể vẫn chưa thanh toán hết các Quả của cá nhân ḿnh.

          V́ vậy cho nên, khi các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu thấy người nào Chân Tu liền cho Trả Quả. Cái đau khổ của người nầy nặng hơn cả chục lần cái đau khổ của kẻ khác. Nhờ vậy y tiến mau, bởi v́ y đă rảnh rang khi đă trả bớt nợ nần. Tục gọi là Nhồi Quả.

          Người không biết Đạo nói rằng: Tội nghiệp cho anh nầy Tu Hành mà vô phước quá. V́ quan niệm của người thường là Tu Hành để hưởng phước, được giàu sang, tấm thân sung sướng.

          Bởi thế có nhiều người phát nguyện Tu Hành được ít lâu khi gặp những sự thử thách đưa tới bỗng chịu không nổi, đâm ra chán nản rồi bỏ luôn, không ăn chay, niệm Phật nữa.

          Dù Nhân Quả có nặng đến mấy đi nữa, con cũng hăy cám ơn là đă không phải trả nặng hơn. Hăy nhớ rằng ngày nào mà Quả xấu của con chưa tiêu tan, và con chưa thoát khỏi nó th́ ngày đó con chưa giúp ích được cho Thầy bao nhiêu.

          Khi đau khổ, con người hồi tưởng lại lúc b́nh an sung sướng và tiếc rẻ. Nhưng nên nhớ rằng: Điều ǵ rồi cũng qua.

          Người biết Đạo nên nói như vầy: “Tôi rất mừng đă thanh toán một món nợ cũ, thật cũng may tôi trả có bao nhiêu đó, không nặng hơn.” Đừng quên rằng: Nếu Người Chí Nguyện c̣n một số Quả Báo phải trả, Chơn Sư không thâu nhận y được. (Xin đọc bài “Sự kinh nghiệm của Đức Leadbeater.”)

          Tại sao vị Đệ Tử c̣n Quả Báo phải trả sẽ không giúp ích cho Chơn Sư được nhiều?

          Bởi v́ Đệ Tử phải thay mặt Chơn Sư làm nhiều việc quan trọng và có khi cấp bách nữa. Nếu Đệ Tử phải Trả Quả e mất ngày giờ, tốn hao sức lực. Công việc của Chơn Sư e phải chậm trễ và không được hoàn thiện như ư Ngài muốn.

          Ta cũng nên nhớ rằng: Việc xin làm Kẻ Chí Nguyện hàm súc ư nghĩa: “Cầu xin được Trả Quả mau lẹ.” Ta sẽ được Nhồi Quả, nhưng phải có gan chịu đựng và chấp nhận mọi sự đau khổ, không hề than van. Đừng quên: Ta mắc nợ, không trả kiếp nầy th́ kiếp sau hay kiếp sau nữa cũng phải trả. Tốt hơn nên thanh toán ngay bây giờ đặng nhẹ ḿnh.

          Khi ta trả sạch Quả như vậy ta đă trút hết gánh nặng trên vai, tới chừng đó ta có thể để hết ngày giờ và tâm trí lo lắng cho công việc của Chơn Sư.

 

TINH  THẦN  AN  PHẬN

 

          Trong Quyển thứ 7 của Bộ “Học Cơ Tiến Hoá Theo Khoa Minh Triết Thiêng Liêng,” tôi giải về Tinh Thần An Phận đầy đủ hơn. Tôi xin chép ra đây cho quí bạn nào chưa xem. Đối với quí bạn đă xem, đây cũng là một dịp ôn lại những điều đă học hỏi giúp dễ nhớ. Xin quí bạn lượng thứ.

          “Lẽ dĩ nhiên muốn có Tinh Thần An Phận, phải thật biết cái nào là Định Mạng, cái nào là Tự Do Ư Chí, tức là thông hiểu Luật Nhân Quả một cách rành mạch.

          Định Mạng hay là Số Phận của ta kiếp nầy vốn do ta đă tạo ra nhiều kiếp trước và nhất là kiếp vừa rồi, ấy là Quả Muồi phải trả, không thế nào tránh khỏi.

          Ta lấy thân h́nh Nam hay Nữ, phải sanh vào một Gia Đ́nh thuộc về Quốc Gia nào, Chủng Tộc nào, được thương yêu chiều chuộng hay là bị ghét bỏ hành hạ, sức khoẻ dồi dào hay suy kém, trí hoá minh mẫn hay u mê đần độn, thân thế ta, sự nghiệp ta và những cơ hội đưa đến, dầu tốt, dầu xấu, vốn do Nghiệp Quả của ta gây ra với một số người khác, chớ nào phải do Tạo Hoá bất công trong sự sanh sản, cho nên có những người tài ba lỗi  lạc, cao sang quyền quí và những kẻ tầm thường ngu dại, dốt nát, bần hàn, khổ cực.

          Chúng ta ở trong một Thế Giới do Định Luật chi phối, v́ vậy những điều trái ngược đó không thể nào xảy ra bao giờ.

          Nếu đúng ngày trái chín muồi và rụng xuống th́ cũng phải đúng ngày giờ, chúng ta sẽ trả những ǵ mà trước kia chúng ta đă vay.

          Nhưng thường thường con người hay đổ lỗi cho Trời Đất, tại sao sinh ḿnh ra thua sút chúng bạn, chớ ít khi nh́n nhận tại nhiều kiếp trước những hành vi của  ḿnh dữ nhiều lành ít, cho nên đă tạo ra hoàn cảnh hiện tại.

          Chúng ta đă Gieo bây giờ phải Gặt, Giống nào theo Giống nấy.

 

SỰ  AN  PHẬN  GIẢI  NGHĨA  THEO  HUYỀN    HỌC

 

          Nhưng tại sao chúng ta phải An Phận? Bởi v́ khi chúng ta vui ḷng nhận lănh Nghiệp Quả th́ Cái Vía chúng ta giăn ra, lớn hơn trước nhiều, màu sắc lại thêm xinh đẹp, tư tưởng chúng ta giúp Cái Trí của những người ở chung quanh làm cho họ thêm phần phấn khởi.

          Trái lại khi những sự khó khăn, đau khổ[63] xảy tới chúng ta buồn bực, than van khiến Cái Vía chúng ta thắt lại làm cho trái tim ta nhiều khi bị đau nhói, tư tưởng của chúng ta gây ra những sự phiền hà nóng giận cho những kẻ ở gần bên chúng ta, bởi v́ tư tưởng truyền nhiễm.

          Như vậy trong lúc chúng ta chưa trả hết Quả cũ, lại c̣n đương nhiên gây thêm những Quả xấu mới khác nữa.

          Cứ tiếp tục như vậy măi từ kiếp nầy qua kiếp kia biết tới ngày  nào chúng ta thoát đoạ Luân Hồi tại Trần Thế.

          Một lẽ khác nữa: Ḷng bất măn làm nảy sinh trong Trí và Vía những lằn rung động rối ren, không đều đặn, khiến cho hào quang của hai Thể nầy chớp chớp như run rẩy, và xua đuổi một cách hung hăng những ảnh hưởng tốt lành đến gần con người.

          Những lằn rung động của những ảnh hưởng tốt lành tỏ ra điều hoà và có tiết điệu. Khi đụng vào các lằn rung động như gió lốc của Cái Vía và Cái Trí  chúng liền bị đẩy lui ra ngoài xa.

          Những lằn rung động xấu xa nầy lại c̣n hấp dẫn những ảnh hưởng của những Tinh Chất u buồn, làm tăng thêm điều tai hại đă có sẵn.

          C̣n sự An Phận phóng ra những lằn rung động điều hoà và dịu dàng. Trái với những lằn rung động chậm chạp, chúng hấp dẫn những Tinh Chất tinh anh và đem vào ḿnh những ảnh hưởng vui tươi, tốt lành làm cho Cái Trí và Cái Vía trở nên xinh đẹp.

          Hiểu được sự An Phận về phương diện Huyền Bí th́ con người sẽ vui ḷng trả Quả.

          Và An  Phận có nghĩa là: Chẳng oán trách Trời Đất, không giận hờn người, vật và chỉ lo thanh toán những món nợ nần đă vay khi xưa mà thôi.

          Khi chúng ta có được đặc ân kết thúc sổ kế toán ghi những món nợ thiếu ở tiền kiếp, khi chúng ta đă trang trải xong những món nợ ấy rồi, từ nay đă lật qua một trang mới của cuốn “Bộ Đời Lớn,” nơi đó không c̣n thấy những lỗi lầm của dĩ văng nữa.

 

PHẢI  CẢI   TẠO  HOÀN  CẢNH

 

          Chúng ta phải có Tinh Thần An Phận. Đúng vậy, tuy nhiên An Phận không phải cứ ở măi một chỗ, không dám hoạt động để sửa đổi hoàn cảnh; đừng nói: Tại Trời sinh tôi ra như vậy th́ tôi phải chịu chớ biết làm sao bây giờ. Hiểu An Phận như thế rất sai lầm. Có Định Mạng mà cũng có Tự Do Ư Chí giúp cải thiện đời sống của ta và đồng thời cũng tạo ra hoàn cảnh tốt cho kiếp sau nữa.

          Kiếp nầy là kết quả của kiếp trước, kiếp sau là kết quả của kiếp nầy. Ta hiểu chậm nhưng đừng biếng nhác, cứ lo học hỏi ngày nầy qua ngày kia, Trí Óc ta sẽ mở mang lần lần.

          Về phương diện sức khoẻ, ta phải giữ đúng Phép Vệ Sinh, dùng những thực phẩm tinh khiết và tập Thể Dục hằng ngày, có Tiết Độ trong mọi việc.

          Nếu không được khá giả ta nên cần cù làm việc và tiện tặn, không phải hà tiện, không tiêu xài vô lối, trong một thời gian sau ta có thể đủ ăn, đủ mặc.

          Ta cứ lo Tập Rèn Tánh Nết cho thật tốt, bằng cách sửa đổi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta trở nên chân chánh. Ta cố gắng không ganh tị, không ích kỷ và sẵn sàng giúp đỡ bất cứ là ai tuỳ khả năng và phương tiện của ta.

          Đó là những yếu tố giúp sửa đổi được phần nào số mạng của ta kiếp nầy và c̣n gây ra nhiều ảnh hưởng tốt đẹp cho kiếp sau nữa.

          Chúng ta phải bắt chước những Ghe Bầu Chạy Cấn: Gặp Gió Ngược mà vẫn Giương Buồm Chạy Tới được. Mới nghe qua thật là phi lư, nhưng đó sự thật 100 %, tôi đă thấy chuyện nầy tận mắt nhiều lần.”

 

  TƯỞNG  TẠO  NÊN  SẮC  ĐẸP

 

          Trong quyển “Nhân Quả” tái bản năm 1971 trang 25-26 và vài quyển khác, tôi có thuật hai trường hợp “Tư Tưởng tạo nên Sắc Đẹp.” Tôi xin chép ra sau đây để chứng minh rằng: Con người có thể sửa đổi được đôi chút Định Mạng, nghĩa là mặc dầu An Phận ta cũng có quyền tạo ra hoàn cảnh tốt đẹp cho ta và kẻ khác.

 

1- TRƯỜNG  HỢP  CỦA  CÔ RUTH  J.  WILD

 

          Cô Ruth J. Wild có một đứa con gái được giải thưởng trong một Cuộc Thi Sắc Đẹp có nhiều thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần đến dự, thuật lại chuyện của cô như vầy:

          “Trước khi sinh nở, tôi trải qua một thời kỳ khó khăn và đau khổ. Tôi ở lẻ loi một ḿnh, nhưng tôi nhất định đứa con của tôi sinh ra sẽ tuyệt đẹp.

          Tôi thường đến viếng Bảo Tàng Viện Brooklyn, ngồi ngắm nghía tượng Nữ Thần Vénus và Thần Adonis. Luôn luôn tôi đem theo ḿnh Cái B́a của một tờ Tạp Chí có một Đầu H́nh rất đẹp, do Nhà Mỹ Thuật Boileau vẽ ra, và trong Trí tôi luôn luôn h́nh dung đứa con của tôi sẽ sinh ra.

          Tới kỳ khai hoa tôi sinh ra một đứa con gái và quả nhiên, điều tôi mơ mộng và ước ao đă thành sự thật; nó đă làm ra một đứa nhỏ đẹp nhất trên đời.

          Mấy vị Bác Sĩ tuyên bố rằng: Từ đó đến giờ chưa thấy một đứa bé nào như nó. Có một Vị biết tôi nghèo khổ nên chịu cho tôi 20.000 đô la đổi bắt nó. Nhưng dầu cho đem hết vàng bạc trên Thế Gian để đổi lấy nó, tôi cũng chẳng chịu. Tôi biết tôi đă thành công. Tôi thấy gương mặt nó giống hệt Bức Tranh của Nhà Mỹ Thuật Boileau, c̣n h́nh vóc nó un đúc theo những lằn đẹp của những Thần Tượng mà tôi đă thường ngắm.”

 

2- TRƯỜNG  HỢP  CỦA  CÔ VIRGINIA KNAPP

 

          Trường hợp  thứ Nh́ là chuyện của Cô Virginia Knapp. Cô có một đứa con gái tên Dorothée, được giải thưởng Nữ Thần Vénus Mỹ Châu, trong Cuộc Thi Sắc Đẹp tại Madison Square Garden. Cô nói:

          “Trong khi có thai, tôi rất chú ư đến những Sắc Đẹp Thiên Nhiên và tôi thường năn nỉ Cảnh Vật cho con tôi được một phần Cái Đẹp của Tạo Hoá. Tôi dám chắc con tôi dung mạo đẹp đẽ là nhờ ư chí cương quyết của tôi trước khi sinh nó ra, chớ không phải tại Ḍng Giống.”

          Hai bài nầy chứng tỏ Cô Ruth J. Wild và Cô Virginia Knapp Tham Thiền mà hai Cô không biết ḿnh đă Tham Thiền. Sắc đẹp của hai đứa bé do quyền năng sanh hoá của ư chí tạo nên.

          Hăy tập sử dụng quyền năng của ư chí cho đúng phép, dầu chưa thấy kết quả hiện ra rơ rệt cũng đừng ngă ḷng. Cứ tiếp tục, vài chục năm sau sẽ thành một người mới, Tâm Thức càng ngày càng mở rộng ra lớn hơn trước và bước lần tới Cửa Đạo và không cần tưởng tới điều nầy nữa.

          Những người c̣n nhu nhược, không quyết đoán, thường hay làm theo lời người ta nói, chớ không tự ḿnh suy xét chín chắn, sẽ khó Học Đạo, dầu có Học cũng khó Tiến Mau; sợ e sẽ làm những chuyện mê tín, dị đoan hơn là nghe theo Chân Lư.

 

SỰ  AN  PHẬN  CỦA  CÁC  SINH  VIÊN  HUYỀN    HỌC

 

          Tôi vẫn biết: Những cơ hội học hỏi Huyền Bí Học theo bề ngoài có nhiều cách. Những Sinh Viên cư trú tại Đô Thị được dự những Cuộc Hội Họp có kỳ hạn đều đều để thọ lănh những Giáo Huấn cần yếu.

          Những Sinh Viên ở Đồng Quê không được hưởng ưu thế đó và những người sống lẻ loi, tản mác, chỉ nhờ những Thư Tín để học hỏi mà thôi.

          Nhưng số phần của mỗi người đều do Nghiệp Duyên định đoạt và sự bất măn chỉ làm cho tất cả những sự giúp đỡ khác bị đẩy lui và không đến được.

          Chúng ta nên biết rằng: Sinh Viên nào chuẩn bị đầy đủ th́ trong lúc Tham Thiền, ân huệ sẽ ban xuống và ban đêm trong lúc ngủ, sự Giáo Huấn cũng thường được đưa đến cho Cái Trí, hoặc giả Sinh Viên cũng có thể đi tới một chỗ kia để học hỏi chung với các bạn, mặc dầu sáng ra, thức giấc không nhớ chi cả.

          Sự cô đơn không làm trở ngại những phương thế giúp đỡ, nhưng ḷng bất măn dựng lên một bức tường không thể vượt qua.

          Tôi xin chép Qui Luật XII trong quyển “Người Phụng Sự” nói về Tinh Thần An Phận cho quí bạn xem.

 

QUI  LUẬT  XII

 

          “Các bạn hăy tránh sự tự thương thân xót phận.

          Vấn đề được xem xét trong Qui Luật XI là thuộc phạm vi những sự chiến đấu của Chơn Ngă nội tâm. Ở đây bạn phải giải quyết một vấn đề tương tự. Thương thân xót phận ḿnh là một sự cám dỗ quỉ quyệt, v́ trong giai đoạn tiến hoá mà bạn đang trải qua bây giờ, nhiều năm có thể dùng để cho Bản Ngă ở nội tâm của bạn được nhiều kinh nghiệm và trở nên khôn ngoan, và trong thời gian đó không có một điều ǵ đặc biệt thú vị xảy ra. H́nh như bạn sẽ bị bỏ rơi. H́nh như các Chơn Sư không trông thấy bạn nữa. Bạn vốn cô đơn. Những năng khiếu và tài ba của bạn, mà bạn tưởng là quí báu và muốn thấy được sử dụng h́nh như không được ai đếm xỉa tới. Bạn sẽ thấy những người Đệ Tử khác được người ta giao phó công việc, h́nh như họ được bề trên khen ngợi họ, c̣n bạn th́ bị bỏ qua một bên. Bạn nóng nảy v́ sự bất động nầy. Bạn muốn lao ḿnh vào những Phong Trào làm nổi bật cá nhân bạn lên. Gần như không thể tránh khỏi việc bạn tự so sánh với kẻ khác. Bạn bắt đầu thèm muốn những dịp đưa đến với các đạo hữu của bạn. Tánh ganh tị về của cải Vật Chất và những đức hạnh bề ngoài của đồng loại mà bạn đă thắng phục được, bây giờ nó lại làm cho bạn đau nhức trong ḷng. Một sự bất măn nặng nề khó chịu như một đám sương mù xâm chiếm bầu không khí Tâm Linh của bạn. Sự quán xét nội tâm khiến bạn hết sức nhạy cảm khi bị chỉ trích. Trước kia, bạn đă phải chiến thắng những sự quyến rủ của ngoại giới để trở nên lănh đạm với những sự vật của giác quan, và với những thú vui của Cơi Đời nầy hay của Thế Giới bên kia. Bây giờ đây bạn phải chiến thắng sự quyến rủ quỉ quyệt là cái ư muốn được người ta biết đến Giá Trị ḿnh ngay bây giờ hay là mai sau. Nếu bạn biết chắc chắn tự đáy ḷng ḿnh rằng sự bạn tự hiến dâng để phụng sự Nhân Loại là trọn vẹn và thành thật, và cái công việc đầu tiên của bạn là xem xét kỹ lưỡng về sự đó, th́ bạn phải kiên nhẫn chờ đợi lúc người ta cần dùng đến bạn trong cái trường hoạt động mà người ta đă huấn luyện bạn để làm việc nơi đó. Các vị Chơn Sư Minh Triết biết rơ hơn bạn nhiều về cái vị trí của bạn trong Đại Thiên Cơ. Bạn hăy chống chọi lại với sự than thân tủi phận. Bạn hăy biết cách giữ ǵn sự an phận nội tâm h́nh như bạn bị bỏ rơi. “Bạn đừng lao ḿnh vào trong những việc mà người ta gọi là việc thực tế của đời sống, những công việc xă hội, v.v…” Làm việc cho những công cuộc ấy th́ có lẽ rất tốt, nhưng bạn là một người mới bước chân vào Hàng Ngũ Chí Nguyện đang vào thời kỳ phát triển mà lại dùng những công cuộc ấy như một liều thuốc tê, hầu làm dịu sự bực tức của ḿnh hay như một liều thuốc phiện để giảm bớt những đau khổ của ḷng tự ái đă bị tổn thương, điều đó không thích hợp đâu.”

          Khi hiến thân cho Thầy, con xin được trả Quả gấp rúc, để làm sao trong một hay hai kiếp con trả xong Cái Quả mà đáng lẽ phải trải qua cả trăm kiếp mới hết. Nhưng muốn trả Quả một cách tốt đẹp nhất, con phải nhận lănh nó một cách hân hoan và vui vẻ.

          C̣n một điểm khác nữa, con phải dẹp mọi ư tưởng về quyền sở hữu.

          Theo Luật Trời, tới Cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy Con Người tại Dăy Địa Cầu nầy thành Tiên Thánh. Chúng ta vừa ở vào phân nửa Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư.

          Nếu không biết tu hành, Con Người không biết phải đầu thai mấy ngàn kiếp nữa mới thành Chánh Quả, thoát đoạ Luân Hồi và trả sạch những Quả Báo đă gây ra.

          Tôi tưởng cũng cần giải nghĩa sao là Cuộc Tuần Hoàn th́ quí bạn mới có thể hiểu.

 

SAO    CUỘC  TUẦN  HOÀN ?

 

          Con Người thuộc về Dăy Địa Cầu (Chaine Terrestre). Dăy Địa Cầu cũng như mấy Dăy kia như: Dăy Kim Tinh, Dăy Mộc Tinh[64] v.v… gồm 7 Bầu Hành Tinh. Trong 7 Bầu nầy có 3 Bầu làm bằng Chất Đặc là Đất Cát, nên con mắt thấy được, c̣n 4 Bầu kia làm bằng Chất Khí mảnh mai và nhẹ nhàng, có màu sắc, con mắt phàm không thấy được. Xin gọi tên 7 Bầu như sau đây:

          1- Bầu thứ Nhứt A (vô h́nh).

          2- Bầu thứ Nh́ B (vô h́nh).

          3- Bầu thứ Ba C (Hoả Tinh – Mars).

          4- Bầu thứ Tư D (Trái Đất – Terre).

          5- Bầu thứ Năm E (Thuỷ Tinh – Mercure).

          6- Bầu thứ Sáu F (vô h́nh).

          7- Bầu thứ Bảy G (vô h́nh).

          Ở mỗi Bầu đều có Bài Học cho Linh Hồn.

          Loài Người trước hết đầu thai ở Bầu thứ Nhứt A. Hết Học và Kinh Nghiệm ở Bầu thứ Nhứt A th́ qua Bầu thứ Nh́ B. Rồi tiếp tục như thế cho tới Bầu thứ Bảy G. Khi đi hết một Ṿng 7 Bầu, gọi là hết một Cuộc Tuần Hoàn (Une Ronde).

          Con Người phải đi 7 Ṿng như vậy (7 Rondes).[65] Khi hết Cuộc Tuần Huờn thứ Bảy Con Người thành Tiên, Thánh, tính ra không biết phải trải qua mấy trăm triệu năm của Trần Thế mới được trọn sáng, trọn lành. Đây là nói về sự tiến hoá b́nh thường và một cách tổng quát mà thôi, không thể nào đi sâu vào các chi tiết được, v́ không có sự tiết lộ nào cả về những sự sanh hoá các Loài Vật và sự thay h́nh đổi dạng.

          Khi làm Đệ Tử Chơn Sư và bước chân vào Cửa Đạo, Con Người đi rất mau. Bậc trung nội trong ṿng 14, 15 kiếp trở lại có thể lên tới bậc Siêu Phàm. Thời gian nầy cũng có thể thâu ngắn lại c̣n 9, 10 kiếp.

          Quí bạn nên biết:

          Những Định Luật chi phối sự Tiến Hoá những H́nh Dạng, những Định Luật chi phối sự Tiến Hoá Tâm Thc trong Vũ Trụ và trong ḿnh Con Ngưi vẫn in nhau, tc là một.

          Nh nhng Định Luật nầy, Hành Giả Yogi khai m đưc nhng quyền năng c̣n tiềm tàng trong ḿnh con người. Phương pháp luyện tập gọi là Yoga. Nhưng, tôi xin nhắc lại một lần nữa, phải học với những vị Chơn Sư hay là những Cao Đồ của Ngài để khỏi sợ những sự nguy hiểm có thể xảy đến.

          Nhưng trước khi được Chơn Sư dạy dỗ cần phải tập rèn tánh nết cho thật tốt và phải trả gần hết sạch Quả đă gây ra. Phải hiểu: Cách trả Quả cũ gây ra Quả mới. Nếu vui ḷng trả Quả sẽ mở mang được những đức tánh: Nhẫn nại, bền chí, nhẫn nhục, khoan dung, đại độ, quyết định.

          Nhưng có một điều hết sức khó là việc bảo tồn những cái chi thuộc về Quyền Sở Hữu của ḿnh. Điều nầy rất tế nhị, mỗi trường hợp mỗi khác, tuỳ hoàn cảnh, không phải cả thảy đều giải quyết in như nhau.

          Thí dụ như: Đọc Tiểu Sử Alcyone ta thấy kiếp trước Alcyone độc thân, đem tài sản cho Mizar để theo Phật. Trái lại, một người có gia đ́nh không thể thực hành như vậy được, bởi v́ con cái sẽ đói khát, thiếu thốn mọi bề.

          C̣n trường hợp khác, kẻ hung ác kiếm thế chiếm đoạt của cải ta, không lẽ ta lấy mắt ngó mà không chống cự.

          Cũng như kẻ nghịch xua quân đánh chiếm đất nước ta, ta phải chiến đấu, chớ nào phải khoanh tay rồi từ khước Quyền Sở Hữu của ta.

          Luật Nhân Quả có thể làm cho con mất những vật mà con quí chuộng hơn hết - hoặc ngay cả những người mà con thương yêu nhất. Ngay cả trong những trường hợp nầy con cũng phải Vui Vẻ - phải sẵn sàng chia ĺa với bất cứ cái ǵ và với tất cả mọi vật. Thường th́ Thầy cần Học Tṛ làm trung gian để chuyển di Thần Lực của Thầy sang những kẻ khác; Thầy sẽ không thể làm được việc đó nếu Học Tṛ rủn chí. Vậy phải có Hạnh Vui Vẻ.

          Nhưng nên hiểu ở đây, Chơn Sư nói có lẽ, chớ không phải luôn luôn như vậy, bởi v́ Nhân Quả của mỗi người mỗi khác, không phải cả thảy đều giống in nhau. Mà nhất là trong những trận chiến tranh biết bao gia đ́nh tan nát, sụp đổ, con mất cha, vợ mất chồng, bổn phận công dân phải hy sinh v́ tổ quốc, v́ quê hương, v́ công lư.[66]

          Sự việc đă đến, dầu tiếc rẻ cũng vô ích. Chúng ta phải thương yêu những chiến sĩ và giúp đỡ gia đ́nh họ tuỳ phương tiện, v́ nhờ họ đem tấm thân làm thành tŕ bảo hộ chúng ta, nên chúng ta mới được yên ổn làm ăn, khỏi bị địch quân bắt làm tôi mọi và giày xéo đất nước.

          Thật ra những người chết là những người chỉ bỏ xác thân nầy, chớ họ vẫn sống như hồi c̣n ở Cơi Trần, họ cũng hiểu biết, họ cũng có cảm t́nh như chúng ta vậy.

          Ta phải cầu nguyện cho họ mỗi ngày, nhưng chớ nên buồn bực, ngă ḷng và sầu muộn.

          Thường thường Chơn Sư dùng Đệ Tử làm một vận hà chuyển di Thần Lực của Ngài ban cho kẻ khác. Nếu Đệ Tử rủn chí, Cái Vía của y giống như một cái vỏ màu sắc xấu xa bao phủ y, Thần Lực không vô ḿnh y được.

          Ta không biết Chơn Sư dùng ta vào giờ phút nào, nên ḷng ta phải luôn luôn yên tịnh và vui vẻ.

          Thiết tưởng Người Chí Nguyện cũng nên biết trong Huyền Bí Học có hai thứ công việc, như tôi đă nói:

          1- Công việc của Chơn Sư đảm nhiệm.

          2- Công việc của Đệ Tử thực hành.

          Chơn Sư đảm nhiệm công việc tại Thiên Đ́nh.

          C̣n các vị Đệ Tử thực hành công việc ở Trần Thế.

          Các vị Cao Đồ nói: Lâu lâu nghe Ngài thốt ra câu nầy: “Ta không thành công.” Không phải Ngài không đủ quyền năng, nhưng v́ những điều kiện đặc biệt của Thế Gian.

          Có hai lư do chánh:

          1- Vị Đệ Tử (nói cho đúng thường là những Đệ Tử nhỏ) làm công việc sái với mạng lịnh của Ngài giao phó, v́ một nguyên nhân nào đó.

          2- Vị Đệ Tử bị những người khác cản trở, quấy rối, nên công việc thực hành không được trọn vẹn như ư muốn.

          Đây là những điều đáng tiếc, nhưng chúng ta cứ lo làm tṛn bổn phận và hết ḷng, c̣n kết quả thế nào cũng được. Không có ai làm nghịch với Thiên Cơ được, chung cuộc đâu cũng huờn đó. Con người làm mất thời giờ vô ích.

5- TÍNH  QUYẾT  CHÍ

(One-pointedness)

          Một điều mà con nhớ trước tiên là làm công việc của Thầy. Dù cho bất cứ điều ǵ khác có thể xảy đến cho con khi con làm công việc đó, con cũng đừng quên. Mà cũng không có việc ǵ khác có thể cản trở bước đi của con, v́ tất cả mọi việc hữu ích và vô tư lợi đều là công việc của Thầy, và con phải làm chúng v́ Thầy.

          Chơn Sư có một mục đích mà thôi là làm sao cho Thiên Cơ được thực hiện đúng ngày giờ của Đức Thượng Đế đă định sẵn. Ngài giải thích  cho các Đệ Tử biết những việc hữu ích và vô tư lợi đều là công việc của Ngài.

          Tại sao phải vô tư lợi? Bởi v́ việc hữu ích nào cũng có tánh cách thiêng liêng cả. Nếu thực hành để được lợi lộc th́ việc làm đó mất tánh cách thiêng liêng, v́ nó nhuộm màu ích kỷ và không c̣n trong sạch nữa.

          Thật ra tất cả những công việc ở dưới Trần dều thuộc về  7 Cung:

          Cung thứ Nhứt là Cung Hành Chánh – Uy Quyền.

          Cung thứ Nh́ là Cung Đạo Đức và Giáo Dục.

          Cung thứ Ba là Cung Thích Nghi, Đồng Hoá và coi về Chiêm Tinh Học.

          Cung thứ Tư là Cung Điều Hoà và Mỹ Lệ, Cung Mỹ Thuật.

          Cung thứ  Năm là Cung Quan Sát Tỉ Mỉ, Cung Khoa Học.

          Cung thứ Sáu là Cung Sùng Đạo.

          Cung thứ Bảy là Cung Pháp Môn, Phù Thuỷ.

          Mỗi Sanh Vật từ Tinh Chất, Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú cho đến Con Người và các vị Siêu Phàm đều thuộc về 1 trong 7 Cung, hoặc Cung thứ Nhứt, hoặc Cung thứ Nh́, hoặc Cung thứ Ba, mà cũng chịu ảnh hưởng của sáu Cung kia nữa.

 

CÔNG  VIỆC  CỦA  CÁC  ĐẤNG  CAO  CẢ

 

          Mỗi Cung đều do một Vị Đế Quân (Chohan) coi sóc và có những Vị Chơn Sư phụ tá.

          Chủ Tể của Cung thứ Nhứt: Cung Hành Chánh Uy Quyền là Đức Ngọc Đế.

          Chủ Tể của Cung thứ Nh́: Cung Đạo Đức và Giáo Dục là Đức Phật.

          Chủ Tể của 5 Cung c̣n lại từ Cung thứ Ba cho tới Cung thứ Bảy là Đức Văn Minh Đại Đế.

          Đại Diện cho Đức Ngọc Đế tại Cơi Trần là Đức Bàn Cổ (Manou).

          Đại Diện cho Đức Phật là Đức Bồ Tát.

          Nói về công việc của các Đấng Cao Cả, xin nhắc lại: Địa Cầu chia ra nhiều Khu Vực. Mỗi Khu Vực do một Đấng Cao Cả cai quản. Ngài coi sóc sự tiến hoá của các Nhân Vật trong Khu Vực của Ngài, từ những Tinh Chất, Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú cho đến Con Người và từ các Thiên Thần và Tinh Linh cho đến các Loài mà Con Người không hề tiếp xúc được.

          Từ Cơi Thượng Thiên Ngài ban Thần Lực cho Linh Hồn những Nhân Vật nầy để giúp họ tiến đến mức độ của Cơ Trời đă định sẵn cho họ trong mỗi Chu Kỳ.

          Thí dụ như có một Đấng Cao Cả chăm nom Âu Châu, một Vị khác coi sóc xứ Ấn Độ, v.v…

          Ta có thể nói rằng: Tất cả những kiến thức, tánh t́nh và hành động của Nhân Vật ở trong Địa Hạt của Đấng Cao Cả cai quản đều trải ra trước mắt Ngài như một cuốn sách mở ra. Không vậy th́ làm sao Ngài nâng cao tŕnh độ của họ lên tới mức của Thiên Cơ đă định sẵn trong mỗi Chu Kỳ.

          Biết lẽ nầy rồi ta mới hiểu ư nghĩa câu: Những việc hữu ích và vô tư lợi đều là công việc của Chơn Sư và con phải làm cho Ngài.

          Và con phải hết sức chú ư vào mỗi phần việc của con làm để cho nó thật hoàn hảo. Cũng vị Thầy Cả nói trên có viết câu nầy: “Dù làm việc ǵ con cũng phải làm một cách nhiệt thành như thể làm cho Thượng Đế, chớ không phải làm cho con người.” Hăy suy nghĩ con sẽ làm một công việc như thế nào nếu con biết rằng Thầy sắp sửa đến để xem công việc ấy; rồi con phải làm tất cả công việc của con đúng như cách đó. Những người hiểu biết hơn hết mới hiểu rơ trọn vẹn tất cả những ư nghĩa của câu ấy. Và c̣n một câu nữa có ư nghĩa giống như vậy và xưa hơn nhiều: “Dù tay con làm việc ǵ cũng vậy, con hăy làm nó với hết sức ḿnh.”

 

CHƠN    DẠY  ALCYONE  ĐỊNH  TRÍ

 

          Trong đoạn nầy, cũng như ở vài đoạn trước, Chơn Sư dạy Alcyone định trí, tức là tập làm chủ Cái Trí. Phương pháp nầy rất dễ dàng. Như tôi đă nói: Cứ tập trung tư tưởng vào việc làm thường ngày. Lần lần có Thói Quen th́ Định Trí không khó.

          Thật sự, con người thường hay chểnh mảng. Lúc làm việc hay lo ra, không muốn cái nầy cũng nhớ cái kia. Miễn là công việc rồi th́ thôi, ít chú trọng đến sự tinh xảo, hoàn thiện.

          Chơn Sư căn dặn Alcyone: Phải làm mọi việc cho khéo léo, đúng theo Huyền Bí Học, bởi v́ Đệ Tử sẽ thay mặt Chơn Sư làm những việc quan trọng. Nếu Đệ Tử không cẩn thận, bê trễ th́ hậu quả sẽ gây ra tại hại cho nhiều người. Ai làm hư công việc của Chơn Sư và sẽ mắc Quả nặng nề.

          Điều quan trọng nên nhớ:

          Mỗi Người là Một Phần Tử của một Khối Duy Nhất. Công việc của mỗi Người làm đều góp phần vào việc Tiến Hoá của Toàn Thể. Thế nên phải làm hết Bổn Phận để nó được Hoàn Thiện. Mỗi việc làm đều có hai phương diện hữu ích:

          1- Giúp cho ḿnh có kinh nghiệm, thêm sự hiểu biết mới, nhờ vậy ḿnh mau trở nên khôn ngoan hơn trước.

          2- Ḿnh giúp cho Thiên Cơ mau thành tựu.

          V́ vậy Chơn Sư mới bảo Alcyone: Phải vui ḷng mà làm, bởi v́ làm đó như làm cho Đức Thượng Đế.

          Thật sự, có nhiều người lánh nặng t́m nhẹ, thấy cái nào dễ th́ làm, cái nào khó để cho kẻ khác, không biết rằng: Cứ giữ thái độ đó 20  năm sau cũng không thấy tiến bộ, v́ trí hoá không mở mang, không khéo léo hơn trước, bởi lẽ không có kinh nghiệm, trong khi kẻ khác siêng năng, sốt sắng, đă vượt qua một khoảng đường 3, 40 cây số về phía đàng trước rồi.

          Chơn Sư dạy một phương pháp sửa chữa sự chểnh mảng của kẻ chí nguyện, ấy là:

          Phải tự hỏi: “Nếu chút nữa đây Chơn Sư đến xem xét việc của ta làm, Ngài có bằng ḷng không?”

          Phải làm việc với tư tưởng nầy, nghĩa là  phải cố gắng, phải làm hết sức ḿnh, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. C̣n việc thành công hay không thành công, điều đó không phải do ta định đoạt.

          Nói cho đúng, Người Đệ Tử phải thấy sự hiện diện của Chơn Sư ở trước mặt ḿnh luôn luôn. Điều nầy tránh cho Anh khỏi nhiều sự lỗi lầm, nếu Anh giữ được ư tưởng như thế măi. Sự hiện diện của Chơn Sư làm phấn khởi Ḷng Sùng Đạo và sự hăng hái làm việc Bổn Phận của Anh.

          Câu: “Những người hiểu biết hơn hết mới hiểu rơ trọn vẹn tất cả những ư nghĩa của câu ấy.”

          Ư nghĩa đó là thế nào?

          Đứng trước Thánh Dung, những ǵ thanh cao nhất trong ḷng ta đều biểu lộ ra, hào quang của Ngài làm nảy nở lớn ra những tánh tốt của ta, ta không thể tạo ra một tư tưởng xấu xa nào cả, dầu là hết sức nhỏ nhặt.

          Thử hỏi: Nếu ta biết Chơn Sư đương xem ta làm việc, ta có dám làm việc cẩu thả không, hay là hết sức cố gắng?

          Nếu chúng ta có ư nghĩ rằng Chơn Sư đang hiện diện trong pḥng ta làm việc, ắt ta thấy cái ǵ không xứng đáng cho Ngài để ư tới không bao giờ thâm nhập vào Tâm Trí ta được. Ảnh hưởng của sự Có Mặt Chơn Sư rất lớn lao trong sự thay đổi tánh t́nh của ta.

          Nói tóm lại, ta phải làm sao giữ được măi H́nh Ảnh Chơn Sư trong ḷng ta, lúc ta Tham Thiền cũng như lúc ta Hành Động. Được như thế, ta mới tiến hết sức mau lẹ và thật hiểu hết ư nghĩa của đoạn nầy.

          C̣n câu: “Dù tay con làm việc ǵ cũng vậy, con hăy làm nó với hết sức ḿnh,” căn dặn Đệ Tử phải tập trung tư tưởng vào việc đương làm. Nói một cách khác là làm chủ Cái Trí. Nếu đương làm mà lo ra th́ mất một phần sức mạnh của tư tưởng. Sợ e không phải một lần lo ra, mà cả chục lần như vậy. Công việc không thể hoàn thành đúng ngày giờ đă định, hoặc hoàn thành một cách hấp tấp.

          Xin lặp lại một lần nữa: Không Định Trí được, không làm chủ Cái Trí không bao giờ Tham Thiền có hiệu quả. Không nên để cái cày trước con trâu. Phải thực hành cho đúng phép mới thấy kết quả tốt đẹp.

          Hạnh Quyết Chí c̣n có nghĩa là không việc ǵ bao giờ có thể làm cho con rời bỏ Đường Đạo mà con đă bước vào, dù chỉ trong một phút thôi. Không nên để những sự cám dỗ, những thú vui Trần Tục, những t́nh cảm của Thế Gian làm cho con tách rời Đường Đạo. V́ con và Đạo phải là một; nên Đạo phải phù hợp thật nhiều với bản tính của con đến đỗi con đi theo nó mà không cần nhớ tới nó, và không thể rời nó được. Là một Chơn Thần, con đă quyết định như vậy; ĺa bỏ Đạo tức là ĺa bỏ chính con.

          Đấng Ky Tô (Christ) có nói: “Ta là Con Đường.” (Saint Jean XIV-6).

          Shri Krishna cũng nói: “Ta là Con Đường mà khách lữ hành phải nương theo đó mà đi.”

          Trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” cũng có câu:

          58- “Con không thể nào đi trên Đường Đạo, nếu con chưa trở nên Con Đường đó.”

          Thành Con Đường Đạo tức là Thành Đạo.

          Muốn bước đi trên Đường Đạo cần phải được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, Phàm Nhơn nhập Một với Chơn Nhơn. Mà muốn được Điểm Đạo lần thứ Nhứt phải hội đủ 4 Đức Tánh kể ra trong quyển “Dưới Chân Thầy” tới một mức độ đă qui định, chứ không phải chỉ có 4 Đức Tánh nầy là được Điểm Đạo liền.

          Lấy theo cuộc thi dưới Trần mà nói:

          4 Đức Tánh nầy, mỗi Đức Tánh phải được số điểm trung b́nh là 5/10 mới được chấm đậu.

          Nếu Đức Tánh Phân Biện có 3 hay 4/10 số điểm th́ Ḷng Từ Ái phải lên tới 6 hay 7/10 mới bù qua được. Trái lại, mỗi Đức Tánh có 2/10 hay 3/10 làm sao được thâu nhận vào Quần Tiên Hội.

          Một vị La Hán có nói: “Ai sống như lời dạy trong quyển “Dưới Chân Thầy” được trọn vẹn 10/10 th́ người đó sẽ đạt được Quả Vị Chơn Tiên.”

          Hiện giờ, tại Địa Cầu chỉ có quyển “Dưới Chân Thầy” giải rành rẽ những Đức Tánh cần thiết cho Người Chí Nguyện để bước vào Cửa Đạo. Tới phân nửa Cuộc Tuần Huờn thứ Năm cũng c̣n dùng nó nữa.

          Trong Đoạn “Tánh Quyết Chí” nầy, Chơn Sư dạy Alcyone phải cương quyết giữ vững lập trường, không bao giờ rời khỏi Đường Đạo.

          Xin nhắc lại, Thí Sinh luôn luôn sẽ gặp ở mỗi chặng đường những sự thử thách, những chướng ngại, những sự cám dỗ: Nào là Sắc Đẹp, nào là Tiền Tài, nào là Danh Vọng, nào là Uy Quyền, toàn là Những Miếng Mồi Thơm Ngon đem dâng tới miệng, khỏi cần đi t́m kiếm hay nài nỉ, van xin. Nhưng hăy giữ ḿnh. Dưới mỗi Miếng Mồi đều có một Lưỡi Câu. Đớp Mồi th́ Mắc Câu, không c̣n vùng vẫy được nữa. Rồi người ta dắt đi tới đâu phải đi theo tới đó, không cưỡng lại được. Đă mất tự do mà lại c̣n mang tai tiếng. Những chuyện như thế đă xảy ra từ xưa đến nay, không biết bao nhiêu lần. Hiện giờ chúng ta cũng đă thấy nhiều gương trước mắt. Bổn cũ cứ soạn lại.

          Những sự quyến rủ khi trổi lên những khúc nhạc du dương làm cho ḷng người đắm say, mê mẩn. Chúng đưa ra những lư lẽ xác đáng, rất đúng với  thực tế. Hăy coi chừng cạm bẫy của kẻ nghịch đă gài sẵn chờ ta. Phải là những người Đạo Cao, Đức Trọng đă trải qua nhiều kinh nghiệm mới có đủ những bằng chứng cụ thể để bác bỏ những luận điệu xảo quyệt của chúng và phá được bức màn vô minh đương che mắt người đời.

          Vật Chất có quyền năng cám dỗ phi thường, cho nên Chơn Sư căn dặn Alcyone đừng để cho những sự vui vẻ của Thế Tục, những sự luyến ái dưới Hồng Trần[67] làm cho con lạc bước. Ư chí không cứng cỏi th́ khó tránh được sự sa ngă, v́ Đường Đạo thập phần nguy hiểm hơn Đường Đời, không giữ vững thăng bằng e té xuống liền.

6- HẠNH  TIN  CẬY

(Confidence)

          Con phải tin Thầy con; con phải tin chính con. Nếu con đă trông thấy Thầy rồi th́ con sẽ hết ḷng tin Thầy từ kiếp nầy qua kiếp khác. Nếu con chưa thấy Thầy, con vẫn phải cố h́nh dung ra Ngài và tin tưởng Ngài, bởi v́ nếu không th́ ngay cả Ngài cũng không thể giúp con được. Nếu không hết ḷng tin cậy th́ từ ái và Thần Lực không thể truyền qua hết được.

          Tại sao phải có Ḷng Tin Cậy th́ Thần Lực mới truyền sang được?

          Ta hăy xem hai cây đờn, nếu lên dây đồng bậc với nhau mới hoà với nhau được. C̣n một bên thấp, một bên cao th́ không ăn rập được.

          Cũng thế, một tư tưởng nhập vào Trí ta được do hai lẽ:

          1- Cái Trí ta ở không. Ta không tưởng nghĩ điều chi hết.

          2- Cái Trí ta rung động theo một chiều hướng với tư tưởng đó.

          Khi một Cái Trí chứa đầy những tư tưởng từ bi, bác ái, thanh bai, cao thượng, những tư tưởng xấu xa, thấp hèn ở ngoài vừa đụng tới nó đă bị hất văng ra xa, không bao giờ nhiễm nó được.

          Thiên Đ́nh ngày đêm không ngớt ban ân huệ xuống Cơi Trần, nhưng hầu hết Nhân Loại không tiếp nhận được hoặc tiếp nhận một số rất ít, ấy tại ḷng người c̣n tràn trề dục vọng, hai thứ rung động không hạp với nhau, không thu hút nhau được.

          Hiểu được phương cách Huyền Bí của sự chuyển di tư tưởng mới biết Ḷng Tin Cậy rất cần thiết cho Người Chí Nguyện và Người Đệ Tử.

          Chúng ta không thể quan niệm đúng đắn Chơn Sư là thế nào. Ta chỉ dùng những danh từ: Toàn Năng, Toàn Thiện, Toàn Giác mà thôi.

          Chúng ta cũng khó tưởng tượng Ngài. Truyện Tàu thường trạng tả Tiên Trưởng như một ông già tóc bạc phơ, râu dài, chống gậy trúc.

          Sự thật không phải thế. Chơn Sư giữ đúng phép vệ sinh. Các Ngài ít khi dùng thực phẩm như chúng ta. Các Ngài lấy sanh lực Prana vô nuôi Cái Phách và Xác Thân một lượt nên không bài tiết như người thường.

          Có Vị 160 tuổi mà gương mặt c̣n trẻ như người mới 30 tuổi.

          Các Ngài không phải ở chung một chỗ với nhau. Có Vị ở Ấn Độ, có Vị ở Tây Tạng, có Vị ở Âu Châu, có Vị ở tại Ai Cập, có Vị ở Trung Hoa, cách xa nhau muôn dặm, nhưng Tâm Thức của các Ngài vẫn liên lạc với nhau. Trừ ra Mỹ Châu không có Vị Chơn Sư nào cả.

          Không thể nhận biết Chơn Sư khi ta gặp Ngài.

          Chơn Sư ít khi xuất hiện ra ngoài đời, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, trong trường hợp như thế, trừ ra Đệ Tử của Ngài, thiên hạ dầu gặp Ngài cũng không ai biết Ngài. Thấy Ngài, họ cũng tưởng Ngài như một người  thường nhưng có vẻ oai nghiêm và trầm tĩnh hơn.

          Muốn biết cấp bậc tiến hoá của ai, cần phải mở Huệ Nhăn xem coi Thượng Trí của y, như vậy sự xét đoán mới không sai lầm.

 

MỘT  PHƯƠNG   PHÁP  CẢM  THÔNG  ĐẾN  CHƠN 

 

          Nhưng có một phương pháp giúp kẻ chí nguyện đến gần Chơn Sư. Ấy là:

          Mỗi ngày, sớm mai sau khi thức dậy và rửa mặt xong xuôi rồi th́ ngồi lại tưởng như vầy trong 4, 5 phút:

          “Thấy ḿnh quỳ dưới chân của Chơn Sư và nói: Cầu xin Sư Phụ ban ân huệ xuống cho Tâm con sáng suốt, Trí con minh mẫn để Phụng Sự.”

          Khi làm một việc lành, một việc hữu ích nên nói: “Tôi nhân danh Sư Phụ mà làm việc nầy.”

          Thực hành những điều nói trên đây sẽ tạo một sự liên lạc giữa Chơn Sư và Kẻ Chí Nguyện. Khi Kẻ Chí Nguyện tưởng tới Ngài, ân huệ của Ngài ban sẽ theo đường liên lạc nầy mà nhập vào Trí Kẻ Chí Nguyện. Trong nhiều năm sau, có thể được Ngài thâu nhận làm Đệ Tử.

 

VIỆC  CHỌN  LỰA  VỊ  CHƠN    LÀM  THẦY  M̀NH

 

          Trong quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo” Đức Leadbeater có kể tên 7 Vị Đế Quân Chưởng Quản 7 Cung.

          1- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Nhứt là Đức Morya.

          2- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Nh́ là Đc Kouth Houmi.

          3- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Ba là Đc Venitien.

          4- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Tư là Sérapis.

          5- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Năm là Đc Hilarion.

          6- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Sáu là Đc Jésus.

          7- Đức Đế Quân Chưởng Quản Cung thứ Bảy là Đc Compte Saint Germain.

          Kẻ Chí Nguyện muốn chọn Vị nào làm Sư Phụ th́ lúc cầu nguyện nhớ đến Ngài và nhân danh Ngài mà làm những việc lành.

          Bởi v́ Đức Đế Quân K.H. sau làm Vị Bồ Tát của Giống Dân thứ Sáu, cho nên hiện giờ thường thường tất cả những Người Chí Nguyện đều do Ngài săn sóc, rồi sau khi họ thành Đệ Tử Chánh Thức, Ngài sẽ phân phát họ cho các Vị Đế Quân khác tuỳ theo Cung Mạng của họ.

 

PHẢI  TIN  CẬY  CHƠN 

 

          Vị Đệ Tử hết ḷng tin cậy Chơn Sư, v́ nhờ Ngài d́u dắt mà Anh mới có thể bước vào Cửa Đạo và tiến lên. Ngày sau, khi thành Chánh Quả rồi, Anh sẽ làm được những việc mà Chơn Sư hiện đương thực hành bây giờ đây.

          Con phải tự tin. Con nói rằng con tự biết ḿnh rơ lắm à? Nếu con cảm thấy như thế, th́ con chưa tự biết ḿnh đâu; con chỉ mới biết cái vỏ yếu ớt bên ngoài mà nó thường bị sa lầy. C̣n chính con - con người thật sự - là một Ánh Linh Quang trong khối lửa của Thượng Đế; và Thượng Đế - Đấng Toàn Năng - ở trong con, và do đó nếu con muốn th́ không việc ǵ mà con không thể làm được.

          Con hăy tự nhủ: “Người ta có thể làm được những ǵ mà con người đă có làm rồi. Tôi là con người, mà cũng là Thượng Đế trong con người nữa. Tôi có thể làm việc nầy, và tôi quyết định làm được.” V́ khi con đặt chân lên Đường Đạo, ư chí con phải cứng cỏi như thép đă trui vậy.

          Khi một người kia làm một việc quấy, ḿnh khuyên lơn y, y chữa lỗi với câu nầy: “Tại tánh tôi như vậy.”

          Trả lời như thế tức là anh chưa tự biết anh, anh cứ tưởng xác thân là anh mà thôi.

          Cái tánh của anh tức là tánh nết của 3 Thể: Thân, Vía, Trí hoạt động tuỳ theo trường hợp.

          Anh phải làm chủ 3 Thể, chớ không để 3 Thể làm chủ anh, sai khiến anh làm theo ư muốn của chúng. Anh nói: “Tại tánh tôi như vậy” tức là: Anh c̣n ch́u theo tánh của anh. Anh c̣n phục tùng chúng nó. Anh tự đắc rằng: Anh biết anh lắm. Nhưng, đúng như lời Chơn Sư nói: Anh chỉ biết cái vỏ bề ngoài thường vấy bợn nhơ mà thôi.

          Lớp vỏ đó là 3 Thể: Thân, Vía, Trí, chúng là khí cụ Trời sanh ra để cho anh sử dụng trong lúc anh c̣n ở trong ṿng Trần Tục.

          Anh không biết rằng: Anh là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Thượng Đế. Anh có đủ quyền năng của Thượng Đế, nhưng c̣n tiềm tàng trong ḿnh Anh. Chúng nó cần phải được phát triển, anh mới sử dụng chúng được, nhất là Ư Chí. Quyền Năng của Ư Chí thật là phi thường. Nếu Ư Chí cứng cỏi sẽ thành công, không ngay bây giờ cũng một thời gian sau. Về sự phát triển những quyền năng, tôi tưởng mỗi ngày chúng ta đều có cơ hội đưa đến.

          Thí dụ như: Đọc vài trang sách rồi suy nghĩ t́m hiểu ư của Tác Giả muốn nói chi, tức là tập mở Quyền Năng của Tư Tưởng.

          Bố Thí tuỳ phương tiện, tức là tập mở Ḷng Từ Bi, Bác Ái, diệt lần Tánh Tham Lam, Ích Kỷ, Chia Rẽ, v.v…

          Bỏ lần lần một tật xấu nào đó, như hút thuốc, uống rượu, hoặc nói chơi, cà rỡn ở mấy Quán Cà Phê, v.v…, tức là rèn luyện ư chí trở nên cứng cỏi. Phải đi từ từ, bước nào chắc bước nấy, đừng ham chạy mau vấp té bỏ cuộc.

          Tự Tín cũng có nghĩa là ḿnh Tin vào tài đức của ḿnh, ḿnh phải tự giải thoát cho ḿnh, ḿnh phải cởi bỏ những xiềng xích của ḿnh đă tự trói buộc ḿnh vào bánh xe Luân Hồi.

          Ḿnh phải làm việc nầy, chớ không ai làm thế cho ḿnh được. Vị Đạo Sư chỉ đường chánh cho ḿnh đi, nhưng ḿnh phải đi mới tới nơi, tới chốn.

          Ḿnh phải tự ḿnh giúp ḿnh trước, rồi Trời mới giúp ḿnh sau. Phải có tự lực rồi tha lực sẽ tiếp thêm được.

          Nếu đứng trước một việc mà ta chưa xem xét chi hết lại nói: “Tôi làm không được” chứng tỏ ta không c̣n nghị lực để thực hành; ta sẽ thất bại.

          Nhưng tự tín không phải kiêu căng tự phụ. Dầu sao con người cũng phải tự biết ḿnh về hai phương diện: Phàm Nhơn và Chơn Thần.

          Về phương diện Phàm Nhơn: Ḿnh tự biết tài ḿnh và sức ḿnh tới đâu, ḿnh sẽ làm được những ǵ?

          Về phương diện Chơn Thần: Ḿnh là một Vị Tiểu Thượng Đế, pháp lực vô biên. Nếu cương quyết ta sẽ làm được những việc phi thường.

          Mấy anh Bàng Môn cao cấp trường trai, tuyệt dục, ư chí cứng cỏi hơn sắt đá, cho nên tài phép rất cao cường. Nếu người thường cản trở công việc của họ, họ sẽ không ngần ngại sát hại những người đó cũng như đập một con muỗi không gớm tay.

          Mấy ảnh chỉ nhờ luyện tập Ư Chí, cho nên hoạch đắc được những quyền năng siêu việt nầy.

          V́ lư lẽ trên đây Chơn Sư bảo Alcyone: Muốn bước trên Đường Đạo ư chí phải cứng cỏi như thép đă trui và phải nhớ rằng: Điều nào con người đă làm, bây giờ con người cũng làm lại được. Đây có nghĩa là xưa kia đă có người làm Đệ Tử Chơn Sư và đă Đắc Đạo thành Chánh Quả bây giờ đây, nếu ta lo tu hành cũng sẽ được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử và sẽ Đắc Đạo thành Chánh Quả vậy.

          Nói tóm lại: Ḿnh tự tin cậy ḿnh hay hơn là nhờ ở người. Ḿnh tự cứu ḿnh chắc hơn là nhờ người cứu và cầu ở người.

IV -  HẠNH  BÁC  ÁI

(Love)

 

          Trong tất cả các đức tính Hạnh Bác Ái quan trọng hơn hết, v́ nếu một người nào có ḷng Bác Ái khá mạnh th́ Ḷng Bác Ái nầy sẽ buộc y phải có cả những đức hạnh kia, và nếu không có Hạnh Bác Ái th́ những đức tính kia sẽ không bao giờ được coi là đầy đủ. Người ta thường giải thích Hạnh Bác Ái là một ư muốn mănh liệt để được giải thoát khỏi ṿng Sinh Tử Luân Hồi và được hợp nhất với Thượng Đế. Nhưng nói theo cách ấy th́ nghe có vẻ ích kỷ và chỉ đem lại có một phần ư nghĩa mà thôi. Hạnh Bác Ái không có nhiều tham vọng như ư chí, ḷng quả quyết, sự quyết định.

          Trong quyển nầy Chơn Sư gọi Đức Tánh thứ Tư là Hạnh Bác Ái, chớ không dùng danh từ Moumouksha của Ấn Giáo có nghĩa là: Muốn thoát kiếp Luân Hồi.

          Tại sao vậy? Bởi v́ ta muốn thoát kiếp Luân Hồi để nhập Một với Thượng Đế. Mà Thượng Đế vốn là Từ Bi. Thế nên ta muốn nhập Một với Ngài ta phải mở rộng T́nh Thương.

          T́nh Thương làm nảy sanh nhiều đức tánh khác như: Can đảm, hy sinh, nhẫn nại, khoan dung, v.v…

          Điển h́nh là T́nh Thương của Người Mẹ.[68] Lúc đứa con đau nằm mê man trên giường, Người Mẹ chạy chân không bén đất, đi tới đầu nầy t́m thuốc, đi đến chỗ kia rước Thầy. Bỏ ăn, bỏ ngủ, miễn là con lành mạnh mẹ vui mừng. Nếu phải trèo non, lặn suối, nhảy vô nước lửa để cứu con thoát khỏi tay tử thần bà cũng không ngần ngại hy sinh tánh mạng ḿnh, như chuyện Alcyone dưới đây:

 

ALCYONE  CỨU  ĐỨC  BỒ  TÁT

 

          Năm 21.700 trước Tây Lịch Kỷ Nguyên, Alcyone đầu thai làm con gái của một vị Mục Sư ở miền Đông Ấn Độ rất có quyền thế.

          Tới 15 tuổi, Alcyone có chồng và hai năm sau sanh ra một đứa con trai rất ngộ nghĩnh. Một hôm, nhà Alcyone phát cháy, đứa nhỏ bị khói lửa bao phủ. Alcyone bèn nhảy vô pḥng bồng đứa nhỏ đem ra ngoài được b́nh yên, c̣n Alcyone bị phỏng nặng, chẳng bao lâu từ trần.

          Đứa nhỏ đó ngày nay là Đức Di Lạc Bồ Tát.

          Hiện giờ, khi các Hội Viên Thông Thiên Học nghe nói: Đức Bồ Tát sẽ mượn xác Krishnamurti để dạy Đạo th́ ngạc nhiên, không rơ v́ lư do nào Đức Bồ Tát lại chọn Krishnamurti, không dùng một người khác.

          Đó chẳng qua là Đức Bồ Tát muốn thanh toán món nợ Nhân Quả đă tạo ra giữa Ngài và Krishnamurti 21.683 năm trước[69] Tây Lịch Kỷ Nguyên.

          Trước đây, tôi đă nói: Nếu có mấy đức tánh tốt khác như: Ngay thẳng, mực thước, tiết độ, v.v… mà không có T́nh Thương th́ mấy đức tánh đó giống như nước đổ xuống cát bị rút đi mất hết, con người hoá ra gắt gỏng, kiêu hănh, không khác nào biển giá trên Hy Mă Lạp Sơn, khi Mặt Trời rọi vào chiếu ra muôn màu rực rỡ, nhưng v́ quá ư lạnh lẽo, nên không ai dám lại gần. Cũng không sưởi ấm được ḷng người. Chính là T́nh Thương làm cho trí hoá mở mang và xác thân hoạt động.

          Thánh Jean có nói: “Chúng ta biết rằng chúng ta đă trải qua từ sự chết đến sự sống, bởi v́ chúng ta Thương Mến anh em chúng ta. Kẻ nào không Thương th́ ở trong sự chết.[70] Kẻ nào không Thương, không biết Đức Thượng Đế.”[71]

          Thật đúng như vậy. Biết danh từ chuyên môn của Thông Thiên Học, hiểu Triết Học và Khoa Học, biết phân biện và sử dụng 2.401 thứ Tinh Chất, điều nầy tốt lắm, đáng khen. Nhưng chỉ có T́nh Thương làm ra Người Thông Thiên Học chân chánh mà thôi.

          Chơn Sư cho rằng giải nghĩa Moumouksha là mong mỏi thoát kiếp Luân Hồi là xen tánh ích kỷ vào và chỉ diển tả có một phần thôi.

 

HAI  CÁCH  THOÁT  KIẾP  LUÂN  HỒI

 

          Có hai cách thoát kiếp Luân Hồi:

          1- Thoát kiếp Luân Hồi trong một thời gian gọi là trạng thái Moksha.

          2- Được hoàn toàn giải thoát làm một vị Siêu Phàm.

 

1- THOÁT  KIẾP  LUÂN  HỒI  TRONG  MỘT  THỜI  GIAN:  TRẠNG  THÁI  MOKSHA

 

          Khi con người khắc phục được những t́nh cảm thấp hèn, chế ngự được những sự ham muốn xấu xa, không c̣n bị những tham vọng cá nhân lôi cuốn, lănh đạm với tất cả, không c̣n tham luyến Hồng Trần, cán cân Nhân Quả được Quân B́nh. Con người có thể về Thiên Đường, thoát đoạ Luân Hồi trong một thời gian khá lâu, từ cả muôn đến cả triệu năm, hưởng hoàn toàn hạnh phúc. Con Người ở vào trạng thái Moksha.

          Nhưng đây chỉ là sự thoát kiếp Luân Hồi tạm thời thôi. Ngày sau, khi Nhân Loại tiến tới tŕnh độ tiến hoá của anh th́ anh phải trở xuống Trần Gian đầu thai lại tiếp tục học hỏi, kinh nghiệm cho tới khi nào được hoàn toàn giải thoát.

 

2- THOÁT  KIẾP  LUÂN  HỒI  VĨNH  VIỄN

 

          Xin nhắc lại: Mục đích đă định sẵn cho Nhân Loại trong Chu Kỳ nầy là vào Hàng Siêu Phàm, làm một vị Chơn Tiên được 5 lần Điểm Đạo. Tới bậc nầy Con Người được phép từ giă Thế Gian. Nếu các Ngài muốn ở lại giúp đời mang lấy xác phàm nặng trịu, đó là tự ư các Ngài muốn, chớ không có Luật Phép nào bắt buộc các Ngài cả.

 

CHƠN    DẠY  CHÚNG TA  PHẢI  CƯƠNG  QUYẾT

 

          Chơn Sư dạy chúng ta phải Cương Quyết. Tánh Cương Quyết là trạng thái “Ư Chí” của Ngôi thứ Nhứt.

          Xin nhắc lại: 3 Ngôi của Con Người (Chơn Nhơn) có 3 Trạng Thái:

          1- Trạng Thái Ngôi thứ Nhứt Atma là Ư Chí.

          2- Trạng Thái Ngôi thứ Nh́ Bouddhi (Bồ Đề) là Minh Triết Bác Ái.

          3- Trạng Thái Ngôi th Ba Manas là S Hoạt Động hay là Trí Tuệ Sanh Hoá.

          Chơn Sư thuộc về Cung thứ Nh́ là Minh Triết Bác Ái.

          Nhưng Ngài bảo: Ư Chí phải Cứng Cỏi, phải Cương Quyết như Ngài thuộc về Cung thứ Nhứt.

          Đức Leadbeater nói rằng: Tôi nhớ, một ngày kia Alcyone tỏ ư muốn hoạch đắc một đức tánh nào đó. Chơn Sư bảo: “Con đừng ham muốn, v́ sự ham muốn không có sức mạnh, không có năng lực. Nếu con muốn có một đức tánh nào, phải Cương Quyết Rèn Luyện Nó và Thực Hành Liền.”

          Để tạo kết quả cho nó, ḷng quả quyết nầy phải chiếm tất cả bản chất của con để không c̣n chỗ cho một ư nghĩ nào khác. Thật vậy, nó là ư chí để được hợp nhất với Thượng Đế, không phải để con thoát khỏi sự mệt nhọc và khổ năo, mà để hành động cùng với Ngài và giống như Ngài v́ ḷng con thương Ngài thật tâm. V́ Thượng Đế là Bác Ái, nên nếu con muốn hợp nhất với Ngài th́ ḷng vị tha trọn vẹn cùng ḷng nhân từ phải được tràn ngập ḷng con.

          Đệ Tử Chơn Sư chỉ có một nguyện vọng mà thôi là Phụng Sự.

          C̣n người thường không tin tưởng chín chắn về một mục đích cao siêu nào cả. Họ bằng ḷng với số phận hiện thời, ước mong kiếp sau được sung sướng và thong thả hơn kiếp nầy, cùng thành công trong mọi việc làm ăn.

          Nếu ta bảo họ từ khước những sự vui thấp hèn, những sự ham muốn của cái “ta” nhỏ nhen, họ sẽ trả lời: Nếu tôi làm như vậy th́ tôi c̣n lại ǵ đâu? Họ nói rất đúng với trường hợp của họ.

          Đối với họ, làm sao cắt nghĩa cho họ biết Nhập Một với Thượng Đế là ǵ?

          Đức Leadbeater thuật câu chuyện sau đây: “Tôi có quen với một người tánh t́nh tốt và khôn ngoan. Anh khảo cứu Phật Giáo Bắc Tông trong một thời gian. Một ngày kia, anh lại nói với tôi: “Tôi không thâu thập được cái ǵ cả. Tôi tưởng không đáng nghiên cứu chút nào. Công việc nghiên cứu cũng thích thú như công việc khảo cổ, dường  như mục tiêu mà người ta hứa hẹn là nhập vào Tâm Đức Phật. Tôi không thấy việc nầy Đức Phật có được lợi chi chăng? C̣n riêng tôi, chắc chắn tôi không c̣n sống đâu.”

          Anh nầy không biết phương pháp khai mở Tâm Thức. Anh không biết rằng: Tâm Thức của Chơn Sư là một Điểm ở tại Cơi Niết Bàn hay Đại Niết Bàn, tuỳ theo cấp bậc. Điểm nầy chứa đựng toàn Cơi Niết Bàn hay Đại Niết Bàn. Nói một cách khác, toàn Cơi Niết Bàn hay Đại Niết Bàn đều ở trong Điểm nầy, cũng như tất cả mênh mông đại hải đều nằm trong một giọt nước biển, chứ không phải giọt nước biển tan mất trong đại dương. Thế là một chuyện lạ, ở Cơi Trần điều nầy là mâu thuẫn, nhưng sự thật là như thế đó.

          Phải lên đến Cơi Bồ Đề mới biết sự thật nầy, chớ ở Cơi Trần không sao diễn tả được. Nói về sự nhập Tâm Thức th́ nên biết có nhiều giai đoạn.

          Tâm của Đệ Tử nhập vào Tâm của Chơn Sư. Tâm của Chơn Sư nhập vô Tâm của Đức Thượng Đế Ngôi thứ Ba (Brahma).

          Tâm của Đức Bồ Tát và Tâm của Đức Phật nhập vào Tâm của Đức Thượng Đế Ngôi thứ Nh́ (Vishnou).

          Tâm của Đức Ngọc Đế nhập vào tâm của Đức Thượng Đế Ngôi thứ Nhứt (Shiva).

          Từ đó mới có sự liên quan mật thiết.

          Phải nhập vào Tâm Đức Thượng Đế rồi mới hành động như Đức Thượng Đế được.

          Chơn Sư nhấn mạnh về hạnh kiểm của Đệ Tử: Phải hoàn toàn vô tư lợi. Đừng lấy Đạo Đức làm nấc thang để bước lên Đài Vinh Hoa Phú Quí mà phải mang Quả nặng.

          Trong sự sinh hoạt hằng ngày, hạnh Bác Ái có hai nghĩa: Thứ nhứt, con hăy cẩn thận đừng làm hại sinh vật, thứ hai, con hăy luôn luôn canh chừng một cơ hội để giúp đỡ.

          Đoạn nầy nói về hai phương diện của một việc: Phương diện Thụ Động và phương diện Hoạt Động.

          Không làm đau khổ là Thụ Động, c̣n t́m dịp giúp đỡ là Hoạt Động.

          Như tôi đă nói: Xưa kia Đức Phật đă tóm tắt Giáo Lư của Chư Phật trong 4 câu:

          Lánh Dữ.

          Làm Lành.

          Rửa Ḷng cho Trong Sạch.

          Ấy là Lời Chư Phật dạy.

          4 câu có đủ: Thụ Động là Lánh Dữ, c̣n Hoạt Động là Làm Lành, và Rửa Ḷng cho Trong Sạch.

          Ngũ Giới thuộc về Thụ Động, c̣n Đạo Bát Chánh dạy Hoạt Động.

          Cuốn Thánh Ca (Bhagavad Gita) dạy sự hoạt động một cách tích cực.

          Người ta trạng tả Đức Thượng Đế như một Đại Hành Giả. Người nào mà không theo gương Ngài và không làm việc lợi ích cho đời, thực là sống rất vô ích và ở không là một tội lớn.

          Cuốn Thánh Ca cũng cảnh cáo con người phải sợ sự quên làm bổn phận, v́ nó là một tội, cũng như tội không làm tṛn sự uỷ thác. Đức Bà Blavatsky cũng dạy như thế.

          Vị Tu Sĩ Sannyasi chân chánh đă từ khước đời sống vật chất để sống một đời sống Tinh Thần luôn luôn phải làm những việc phước thiện, những sự hy sinh và chịu khổ hạnh.

          Bất cứ ở Tôn Giáo nào, Ấn Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, v.v…, đều có những Hạng Tín Đồ ngày đêm ở trong Pḥng Kín hay trong Liêu, họ Cầu Nguyện v́ Ḷng Sùng Đạo. Họ chiêm ngưỡng Đức Phật, Đức Bồ Tát hay Đức Thượng Đế, đúng với câu:

Xả Phú cầu Bần.

Xả Thân cầu Đạo.

          Họ tạo ra những Tư Tưởng Lành và gởi ra ngoài đời. Ban đêm họ có thể làm việc ở các Cảnh cao. Ta thấy họ không hoạt động, nhưng họ làm việc bằng Cái Trí, chứ không bằng tay chân. Công việc của họ rất mệt nhọc, người ngoài không ai biết, trừ ra những Nhà Huyền Bí Học. Họ đáng cho chúng ta kính mến. Họ không phải là những Hạng Tín Đồ biếng nhác, không làm việc, không chịu động tới móng tay. Hạng sau nầy nhờ Thiện Nam, Tín Nữ cung phụng những ǵ cần thiết cho đời sống. Hạng người đó chỉ là Tu Sĩ ở trong Bộ Y Phục của Giáo Phái mà thôi.

          Chúng ta phải có mắt tinh đời để phân biệt hai hạng Tu Sĩ nầy. Câu Tục Ngữ Pháp: “Cái áo không làm ra Thầy Tu,” thời đại nào cũng rất đúng.

          Nói tóm lại, dầu cho Xuất Gia hay là Cư Sĩ, chúng ta cũng phải t́m cơ hội để giúp đỡ, cứ tuỳ duyên, tuỳ phận, không ai bắt buộc chúng ta phải làm quá sức, chỉ có khuyên một điều là Làm Phải v́ Thương Đời, v́ Bổn Phận, chớ không phải trông mong người ta biết ơn, hay là v́ lợi lộc riêng tư.

          Như vậy, việc làm sẽ không buộc trói chúng ta vào bánh xe Luân Hồi.

          Trước hết, đừng làm hại ai. Trên đời có ba tội làm hại nhiều hơn các tội khác: Tội nói  hành, tội hung ác, và tin dị đoan, v́ đây là những tội nghịch với ḷng từ ái. Người nào muốn ḷng ḿnh chan chứa t́nh thương của Đức Thượng Đế phải luôn luôn để ư tránh ba tội ác nầy.

          Chơn Sư bảo: Đừng làm đau khổ, tức là Ngài nhắc lại một lần nữa: Phải Làm Lành, Lánh Dữ, bởi v́ điều ác mới làm cho người và vật rên siết, thở than.

          Khi nghe nói tới những điều làm hại hơn hết, th́ con người liền nghĩ ngay tới những trận chiến tranh tàn khốc làm cho cả muôn, cả triệu người chết chẳng toàn thây, thành tŕ sụp đổ, nhà cửa tan hoang, vườn ruộng tiêu điều, gia đ́nh ly tán, muôn phần khổ sở, cơ cực lầm than.

          Nhưng tôi xin nói: Chơn Sư nhấn mạnh về những nguyên nhân gây ra những sự đau thương vô hạn.

          Ta thử nghĩ, nếu diệt ngay nguyên nhân lúc đầu tiên làm sao nó sanh ra những hậu quả được.

          Những trận chiến tranh đâu phải là nguyên nhân, chúng là hậu quả. Nguyên nhân sanh ra chúng là tánh t́nh ác độc, tham lam, ích kỷ, thất đức, bất nhân.

          Nhưng trước kia, chiến tranh là hậu quả th́ bây giờ thành nguyên nhân làm cho sanh linh đồ thán.

          Giải về Nhân Quả tôi thường nói: Nhân nầy sanh ra Quả kia, rồi Quả kia lại sanh ra Nhân nọ. Nhân Quả chằng chịt và nối tiếp nhau măi, từ đời nầy qua đời kia, cả muôn cả triệu năm như vậy cho tới ngày nào nhân loại biết thương yêu nhau như anh em ruột rà, thực hiện t́nh huynh đệ đại đồng, diệt tánh ích kỷ, chia rẽ, thèm muốn, ganh tị, ngày đó mới thấy được cơi đời hoàng kim, thái b́nh thạnh trị.

          Tuy nhiên, nói về chiến tranh, ta thấy thường thường lâu lắm, có khi 1, 200 năm mới có giặc giă nổi lên một lần.

          C̣n những chuyện nói hành, nói vu, mê tín dị đoan th́ xảy ra hằng bữa trước mắt ta.

          Chúng là nguyên nhân gây ra những tai hại lớn lao, có thứ c̣n kéo dài tới kiếp sau nữa.

          V́ thế Chơn Sư dạy: “Chúng là những Tội Trọng, nghịch với Ḷng Từ Ái.”

          Bởi v́ Đức Thượng Đế Đại Từ, Đại Bi cho nên ai có ḷng thương Ngài cần tránh 3 Tội Trọng vừa kể ra trên đây.

          Hăy xem tật nói hành là như thế nào. Nó bắt đầu bằng một tư tưởng xấu, và điều đó tự nó là một tội rồi. V́ trong mỗi người và mỗi vật đều có chỗ tốt và chỗ xấu. Chúng ta có thể làm cho cái tốt hoặc cái xấu mạnh hơn bằng cách nghĩ đến nó, và theo cách ấy ta có thể giúp đỡ hoặc gây trở ngại cho sự tiến hoá; chúng ta có thể thuận theo ư Thượng Đế hay nghịch lại Ngài. Nếu con nghĩ điều xấu của kẻ khác, con đang làm ba việc quấy một lượt:

          1. Con đang gieo rắc quanh chỗ con ở đầy những tư tưởng xấu xa, thay v́ những tư tưởng tốt lành, và do đó con đang làm cho đời khổ năo nhiều thêm.

          2. Nếu đúng người đó có điều xấu xa mà con nghĩ, th́ con đang làm cho nó mạnh và nuôi dưỡng tánh xấu đó; và như vậy th́ con đang làm cho anh em con trở nên xấu xa thay v́ tốt lành hơn. Nhưng thường th́ người ta không có điều xấu đó, mà chỉ tại con tưởng tượng thôi; và rồi tư tưởng độc ác của con xui giục cho anh em con làm quấy, v́ nếu y chưa trọn lành con có thể làm cho y giống in như trí con đă tưởng cho y vậy.

          3. Con làm cho Trí con tràn đầy những tư tưởng xấu thay v́ những tư tưởng tốt, và như thế con cản trở sự tăng trưởng của con, và làm cho ḿnh có h́nh ảnh xấu xí, đau thương thay v́ đẹp đẽ và đáng yêu, đối với những ai có thể thấy được điều nầy.

          Tại sao Chơn Sư gọi tư tưởng xấu là một tội trọng?

          Ở đây tôi phải lặp lại một lần nữa một cách sơ lược về quyền năng của tư tưởng.

          Khi ta tưởng nghĩ th́ Cái Trí ta rung động, và tạo ra hai hiệu quả:

          1- Những làn sóng tư tưởng.

          2- Một h́nh tư tưởng.

          H́nh tư tưởng là một sinh vật. Nó cũng sống, cũng hoạt động, cũng mạnh, cũng yếu và cũng chết như con người.

          Nếu ta tưởng tới măi một việc từ ngày nầy qua ngày kia, H́nh Tư Tưởng của việc nầy sẽ mạnh mẽ và sống lâu, bởi v́ nhờ mỗi ngày ta cho nó đồ ăn là sức mạnh của tư tưởng.

          Trái lại, nếu ta tưởng tới việc đó có một lần thôi th́ H́nh Tư Tưởng nầy không có đồ ăn, nó sẽ yếu rồi lần lần tan ră thành Chất Thượng Thanh Khí hay là Chất Trí Tuệ đă cấu tạo nó. H́nh Tư Tưởng nầy đă chết.

          Tư Tưởng vâng theo ư muốn ta. Nếu ta tưởng tới người nào th́ tư tưởng ta liền đi tới người đó tức khắc.

          Khi ta tưởng tới tánh xấu của ai th́ ta tự hại ta trước kế đó ta hại người.

 

TA  HẠI  TA  TRƯỚC

 

          Tại sao vậy? Bởi v́ khi ta tưởng tới tánh xấu nào đó, Cái Trí ta thu hút Chất Trí Tuệ Xấu ở ngoài hạp với nó vô ḿnh ta, đồng thời một phần Chất Trí Tuệ Tốt trong trí ta bay ra ngoài, tức là ta hại ta trước.

          Nếu ngày nầy qua ngày kia, ta cứ tưởng xấu cho người ta măi, Cái Trí ta chứa đầy những Chất Khí Xấu, màu sắc đen tối. V́ vậy cho nên Chơn Sư nói người có mắt Thánh nh́n vô Cái Trí sẽ thấy một cảnh tượng xấu xa, đau khổ, chớ không phải đẹp đẽ, vui tươi.

 

TA  THÊM  SỰ  KHỔ  CHO  ĐỜI

 

          Tư Tưởng Xấu của ta c̣n đến xúi giục những người ở chung quanh Tưởng Quấy như nó.

          Bởi lẽ đó Chơn Sư nói: Ta thêm sự khổ cho đời. Không khác nào lửa đương cháy, ta không đem nước tưới mà lại thêm dầu vô th́ biết tới bao giờ nó mới tắt.

          Ta làm tŕ hoăn sự tiến hoá của ta và tŕ hoăn luôn sự tiến hoá của kẻ khác.

 

TA  LÀM  HẠI  KẺ  KHÁC

 

          Khi ta tưởng tới tánh xấu của ai, Tư Tưởng Xấu của ta tới người đó thêm sức cho tánh xấu của y, làm cho y càng ngày càng trở nên xấu hơn trước. Đồng thời nó c̣n làm sống lại và nảy nở những mầm của tánh xấu khác, đồng loại với nó.

          C̣n một tai hại khác nữa là: Trong trường hợp mà anh kia không có thật tánh xấu như ư ta tưởng th́ tư tưởng của ta tới xúi giục anh gây ra những tội lỗi, ta hại người vô tội.

          Người đời không biết, chớ Nhân Quả không dung tha đâu.

          Đức Leadbeater có nói rằng: Ngài đă thấy nhiều trường hợp, một Tư Tưởng Xấu hướng về một người kia xúi giục y làm những việc quấy mà hiệu quả kéo dài trong nhiều kiếp sau.

          Tôi xin kể một thí dụ khác.

          Một người kia muốn trả thù, nhưng y chưa hành động. Nếu có một tư tưởng khoan dung hay từ bi lọt vô Trí y, làm mát ḷng y, y sẽ bỏ ư định đó. Nhưng không may, một tư tưởng hung dữ tới đánh thức ư tưởng báo oán, tức th́ y hành động liền. Y có thể thành người sát nhân bị luật pháp trừng trị.

          Thật sự, người sát nhân không phải là y, mà chính là người sanh ra tư tưởng ác độc đó.

          Chúng ta chưa có Huệ Nhăn nên không biết và không sợ hậu quả của những tư tưởng hung bạo, ác độc. Chính chúng nó xúi giục con người gây ra chiến tranh, giặc giă, chiếm đất, giành dân, cướp giựt của cải, sát hại lẫn nhau v́ miếng ăn, v́ đất ở, v́ chỗ đứng, v́ nơi ngồi.

          Chúng nó là cội rễ, là nguyên nhân, c̣n những biến cố xảy ra là hậu quả mà thôi.

          Trong đoạn nầy Chơn Sư nói đến những nguyên nhân, cho nên Ngài dạy cho Alcyone biết 3 Tội Lớn làm hại hơn mọi việc là: Tội Nói Hành, Tội Hung Ác và Tin Dị Đoan. Ngài bảo phải chặt đứt gốc rễ, đừng để nó trổ bông sanh trái.

          Vẫn không bằng ḷng với cái hại mà y đă gây ra cho chính y và nạn nhân của y, người nói hành c̣n cố hết sức lôi kéo những người khác dự phần vào tội lỗi của y. Y sốt sắng đem câu chuyện độc ác của y kể cho họ nghe; và mong rằng họ sẽ tin bằng thật; và họ hùa với y gieo rắc những tư tưởng xấu xa lên nạn nhân đáng thương hại đó. Rồi việc nầy được tiếp tục ngày nầy qua ngày khác, và không phải một người làm mà là cả ngàn người làm. Bây giờ con mới thấy đây là một tội ác thấp kém, và ghê sợ đến thế nào chưa? Con phải hoàn toàn tránh nó. Đừng bao giờ nói xấu ai; đừng nghe ai nói xấu người khác; và hăy dịu dàng nói: “Có lẽ điều nầy không đúng, và nếu có đúng đi nữa, tốt hơn là đừng nói đến nó.”

          Chơn Sư nhấn mạnh điều nầy cho Alcyone thấy rằng: Người nói hành luôn luôn kéo kẻ khác vô chia tội với họ. Quả của họ gây nên thành ra Cộng Nghiệp.

          Khi chúng ta nghe một câu chuyện như thế, chúng ta hăy trả lời một cách nhỏ nhẹ như vầy: “Tốt hơn, chúng ta nên chấm dứt câu chuyện đó, bởi v́ khi con người chưa trọn lành luôn luôn làm những việc tội lỗi. Chúng ta nên tội nghiệp họ mà thôi.”

          Như vậy, chúng ta không làm mất ḷng kẻ nói hành, chúng ta khéo xử sự, chớ không phản đối họ, không cho họ quấy tránh gây ra những điều phiền phức khác nữa. Thật sự những chuyện “Ngồi lê đôi mách” từ xưa đến nay, nước nào cũng có, nhất là phái nữ. Chuyện không nói có, chuyện ít xích ra nhiều, 1 đồn 10, 10 đồn 100, 100 đồn 1.000, chuyện bằng mũi kim không bao lâu thành ra trái núi.

          Tháng nầy qua năm nọ, cả ngàn, cả muôn tư tưởng quấy tới khuấy rối người bị nói hành, làm cho y trở nên xấu xa thậm tệ. Nếu y không có được vài tánh tốt che chở, những tư tưởng ác độc nầy c̣n hại đời thêm khổ nữa.

          Nhưng xin nhắc: Có một điều rất khó tránh khỏi, ấy là trường hợp đem bàn tán sự hành động của một vài Hội Viên làm hại Hội về phương diện nầy hay về phương diện khác.

          Ở thời đại nào cũng có những chuyện như thế. Đâu có phải mỗi việc đều êm đềm như nước chảy qua cầu.

          Dầu sao chúng ta cũng phải cố gắng tránh việc nói hành thiên hạ và phải “Tu Cái Miệng” để khỏi mang nhiều điều phiền phức về sau.

          C̣n về tính hung ác có hai loại: Cố ư và vô ư. Cố ư hung ác tức là chủ tâm gây đau đớn cho một sinh vật khác; đó là tội lớn nhất trong các tội, là việc làm của yêu quỉ hơn là của con người. Con sẽ nói rằng không có ai đi làm một việc như vậy; nhưng mà người ta đă thường làm như thế; và hiện nay hằng ngày họ vẫn đang làm. Những Tra Khảo Viên đă làm ác; nhiều Kẻ Tu Hành đă nhân danh Tôn Giáo ḿnh để làm ác. Những Người Giải Phẫu sinh thể (mổ xẻ thú vật c̣n sống để thí nghiệm) làm ác; nhiều Nhà Giáo có thói quen làm ác. Tất cả những người nầy cố bào chữa sự tàn nhẫn của ḿnh bằng cách nói rằng đó là tục lệ; nhưng không phải v́ có nhiều người phạm một tội mà tội đó không c̣n là một tội nữa. Luật Nhân Quả không kể đến tục lệ; và Quả Báo của điều ác là điều đáng ghê sợ nhất. Ở Ấn Độ không thể bào chữa được chút nào về những tục lệ hung ác đó, v́ ai nấy đều biết rơ bổn phận ḿnh không được làm hại. Những kẻ nào viện cớ v́ mục đích “thể thao” thích sát hại loài vật của Trời sinh ra, sẽ phải bị Trời phạt về tội hung ác.

          Thầy biết con sẽ không làm những việc như thế; và v́ ḷng thương Thượng Đế nên khi gặp dịp con sẽ minh biện để phản đối họ. Nhưng trong lời nói cũng có sự hung ác như trong việc làm. Người nào thốt ra một lời với ư định làm hại người khác cũng phạm tội hung ác. Con cũng không được phạm điều nầy; nhưng đôi khi một lời nói bất cẩn cũng gây tai hại như một lời nói cố ư ác vậy. Vậy con phải đề pḥng tránh sự hung ác vô ư.

          Sự vô ư hung ác thường xảy ra v́ sự thiếu suy nghĩ. Người nầy quá thèm khát, tham lam đến đỗi không bao giờ nghĩ đến điều khổ mà y gây ra cho người khác bởi trả lương quá hẹp ḥi, hoặc bởi để cho vợ con y thiếu thốn. Một người khác chỉ nghĩ đến dục vọng của y và ít quan tâm tới bao nhiêu Linh Hồn và thể xác mà y đă phá hoại để thoả măn dục vọng nầy. Một người nữa v́ muốn tránh một vài phút phiền phức mà không trả lương cho thợ thuyền đúng ngày, và không hề nghĩ đến những sự khó khăn mà y gây cho họ. Biết bao sự đau khổ gây ra chỉ v́ tính bất cẩn, v́ quên không nghĩ đến hậu quả của một việc làm sẽ gây ra cho kẻ khác như thế nào. Nhưng Nhân Quả không bao giờ quên, và không kể đến sự kiện mà người đó lảng quên. Nếu con muốn bước vào Đường Đạo, con phải nghĩ đến Hậu Quả của những điều con làm, nếu không con sẽ phạm tội vô ư hung ác.

          Mỗi ngày ta đều có phạm tội ác vô tâm như: Đi đạp lên một con kiến làm nó chết, làm găy một nhánh cây, v.v…, những tội ngoài ư muốn của ta, tội nầy rất nhẹ, khó tránh khỏi.

          Chừng nào ta quyết tâm làm cho kẻ khác đau khổ ta phạm tội cố ư ác như chửi mắng, đánh đập, làm nhục người, v.v….

          Kẻ Tả Đao bêu đầu tội nhân không mang tội cố ư ác, nếu y chỉ thi hành mệnh lịnh của bề trên; có thể nói rằng y vô ư ác. Y phạm tội cố ư ác chỉ khi nào y thích ư giết, vui mà giết người. Hai trường hợp nầy vẫn khác nhau.

 

NHỮNG  TỘI  ÁC  CỦA  TÔN  GIÁO  GÂY  RA

 

          Đọc lại Sử Sách Cổ Ấn Độ, nhất là những cuốn Phệ Đà (Vedas), ta thấy khi Giống Dân Aryen, tổ tiên Giống Da Trắng bây giờ, tràn xuống đồng bằng Ấn Độ tàn sát dân chúng Ấn Độ thuở xưa, chỉ v́ đám dân nầy phạm một tội lớn là sự thờ phượng và cách tế lễ không giống như họ. Những người Aryen nói: “Phải tiêu diệt bọn nầy đừng cho chúng c̣n sống trên mặt đất nữa.”

 

KINH  THÁNH  CORAN    CÂY  GƯƠM

 

          Khi xưa, những người Hồi Giáo chinh phục xong nước nào họ đưa cho dân bổn xứ hai món: Một cây gươm và một cuốn Kinh Thánh Coran.

          Nếu lấy cuốn Kinh Coran tức là trở thành Tín Đồ Hồi Giáo tánh mạng sẽ an toàn, bằng không sẽ bị cây gươm chặt đầu lập tức.

 

THIÊN  CHÚA  GIÁO    

 

          Đọc Lịch Sử các Tôn Giáo, ta thấy nhiều chuyện đau thương. Nhưng c̣n làm người th́ ai ai cũng vẫn lầm lạc không nhiều th́ ít. Miễn là biết phục thiện là rất tốt.

          Tôi xin kể vài chuyện điển h́nh. Thí dụ như:

          Sự tàn phá Thư Viện và Trường Alexandrie, việc sát hại Nữ Giáo Sư Hypathie, những cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân đánh những người Hồi Giáo và những người Albigeois, v.v….

          Đó là những việc đă xảy ra cả ngàn năm rồi. Hiện giờ, chúng ta đương ở vào ¾ của Thế Kỷ 20, con người đă văn minh nhưng những cuộc đổ máu vẫn c̣n, không biết tới chừng nào mới chấm dứt.

          Người ta nhân danh Đức Thượng Đế Đại Từ, Đại Bi sát hại Đồng Loại, những bạn Đồng Đạo, Đồng Tín Ngưỡng với ḿnh. Than ôi!

 

NHỮNG  NGƯỜI  GIẢI  PHẪU  SINH  THỂ

 

          Nói cho đúng, người ta mổ xẻ thú vật để học hỏi hầu áp dụng sự hiểu biết vào việc trị bịnh cho con người. Mục đích rất tốt, nhưng hành động lại làm cho sanh vật đau đớn. Thường thường sau khi giải phẫu, người ta bỏ con thú, không săn sóc tới nó, nên hầu hết đều chết hoặc trong lúc giải phẫu, hoặc một thời gian sau, như vậy là mang tội làm ác.

          Đức Leadbeater kể lại Ngài biết một vị Bác Sĩ giải phẫu, Hội Viên Thông Thiên Học. Ông nầy thấy trong ḿnh con người có vài cái ống, xin gọi là mạch, rất mảnh mai, thường hay đứt. Nếu đem hai đầu mạch may lại th́ chừng lành chỗ may bị bít, mạch không lưu thông được nữa. Ông suy nghĩ ra một cách, bắt những chó hoang đem về cho ăn uống tử tế, chừng chúng nó khoẻ mạnh ông cho chúng ngửi thuốc mê và giải phẫu. Ông thí nghiệm phương pháp của ông với một số chó, sau khi giải phẫu, ông nuôi dưỡng chúng rất tử tế, chúng đều lành mạnh.

          Ông đă thành công. Ông tuyên bố kết quả những sự thí nghiệm của ông. Ngày nay, khắp hoàn cầu đều dùng phương pháp của ông và lấy tên ông để gọi việc nối lại những thứ mạch đă đứt.

          Có nhiều thứ giải phẫu thú vật rất vô ích. Nếu mở được Thần Nhăn các Bác Sĩ sẽ trị bịnh ngay tận gốc. Chỉ có một điều là phương pháp luyện tập theo Huyền Bí Học đ̣i hỏi phải trường trai, tuyệt dục hay tiết dục và ra công trong một thời gian.

          Thường thường người độc thân dễ luyện hơn người có gia đ́nh.

          Hiện giờ bên Pháp, Bác Sĩ J. P. Crouzet vừa t́m ra một phương pháp luyện tập Thần Nhăn, nhưng chưa được cao lắm. Tôi có đọc qua và thấy không phải dễ thực hành.

 

ĐÁNH  ĐẬP  HỌC  TR̉

 

          Điều nầy thật khó. Tôi biết những khổ tâm của các bạn đồng nghiệp.[72]

          Một Lớp Học 40 tṛ là 40 Linh Hồn khác biệt nhau về sự tiến hoá. Có đứa siêng năng, sáng láng, biết vâng lời; đứa biếng nhác, tŕ độn; đứa lại ham chơi; đứa ưa nói chuyện; đứa hay hiếp đáp chúng bạn, v.v… Ông thầy phải mệt nhọc, rầy la, có khi phải nặng lời và dùng roi vọt.

          Phần nhiều, không bị đ̣n chúng không sợ, không học, khi Đốc Học hay Thanh Tra xuống xét lớp, thấy học tṛ không giỏi liền quở trách.

          C̣n đánh đ̣n th́ mắc tội làm ác, thật khó giữ vẹn hai bề. Ngày nay, việc Giáo Dục có bề dễ dàng về phần Ngôn Ngữ, song vẫn c̣n chỗ khó khăn về vài phương diện khác. Điều đáng tiếc là có nhiều thanh niên thiếu lễ độ đối với những ông Thầy đă khai sáng chúng nó.

          Nên biết rằng ông Thầy dầu xưa hay nay cũng vậy, là người có nhiệm vụ mở mang tâm trí cho dân chúng.

          Chúng ta phải biết ơn mấy ông Thầy cũ của chúng ta, nhất là những vị dạy ở bậc Tiểu Học, bởi v́ nếu không có Tiểu Học th́ không sao có được Trung Học và Đại Học. Chớ nên một bên khinh, một bên trọng.

 

SĂN  BẮN  THÚ  VẬT

 

          Thú vật là đàn em nhỏ của chúng ta. Trước khi chúng ta đi đầu thai làm người, chúng ta đă làm thú vật.

          Không nên sát hại thú vật một cách vô cớ. Chúng nó có sự tiến hoá riêng của chúng nó, nếu giết chúng nó trong khi chúng nó chưa học xong bài học, chúng nó chưa kinh nghiệm đúng mức, th́ Hồn Khóm của chúng nó không thâu thập được những sự tiến bộ đáng lẽ phải có.

          Chúng nó cũng có vợ con, cũng biết thương yêu con cái như chúng ta vậy.

          Chim trống, chim mái tha mồi về nuôi chim con mới nở, chó mẹ nhảy táp ai muốn bắt con nó mới đẻ. T́nh mẫu tử của thú vật đâu kém t́nh mẫu tử của con người.

          Vậy:

Đầu cành chim đậu xin đừng bắn,

                                    Trong ổ con đương ngóng mẹ về.

          Nói về Ḷng Nhân Từ có hai câu nầy nên nhớ:

                                 Làm lành thả cá dưới ao,

                                 Có đức nuôi nai trên núi. (Không săn bắn).

          Chúng ta đang ở trong ṿng Luật Pháp của Thượng Đế. Chúng ta v́ vui mà giết thú vật ắt sẽ bị Quả Báo trả lại về tội làm ác. Dầu lư luận cách nào cũng vô ích. Nói cho đúng phép, một con thú dữ như cọp, beo đi thong thả giữa rừng, ta không nên giết nó. Nếu nó tấn công ta th́ ta phải tự vệ; bắn chết nó, không tội chi cả.

          Nếu cọp, beo, sư tử, sói, heo rừng, v.v… vào làng xóm bắt thú vật, phá hoại mùa màng, v.v… ta có bổn phận trừ khử chúng nó. Dầu giết cả trăm con cũng vô tội.

          Trừ ra vài trường hợp đặc biệt, chúng ta không nên sát hại cầm thú.

 

SỰ  HUNG  ÁC  TRONG  LỜI  NÓI

 

          Trước đây tôi có giải: Lời nói phải chân chánh, dễ thương, dịu dàng, hữu ích, nên không lặp lại ở đây. Tôi chỉ thêm rằng: Khi chưa học Đạo, chưa biết Luật Trời, ta ghét ai liền muốn làm nhục họ, mắng nhiếc họ, và có khi hăm hại họ nữa, đặng đă nư giận. Nay đă biết Luật Nhân Quả phải tránh mấy việc nầy. Phải gieo Nhân lành, dầu ai nói cái chi hay tưởng cái chi cũng vậy. Nhất là phải có độ lượng trong lời nói, v́ có khi vô t́nh lời nói của ta làm đau khổ kẻ khác. Phải thận trọng. Thật khó, nhưng ta phải tập, v́ mục đích của nhân loại là đi đến trọn sáng, trọn lành. Luật Tiến Hoá cứ thúc đẩy ta đi tới măi, nhưng rất chậm chạp, nếu ta cứ ch́u theo nó. Ta có quyền đi mau, ta cầm số mạng ta trong tay ta. Đừng quên rằng: Chính ta quyết định số mạng của ta trước, do tư tưởng, ư muốn, lời nói, và việc làm của ta, rồi Trời tuỳ theo đó định số phần của ta sau. Chớ không phải Trời muốn cho ai khôn ngoan th́ người đó khôn ngoan, muốn cho ai ngu dốt th́ người đó ngu dốt. Trời Đất rất công b́nh và vô tư.

          Tin rằng: Tại Ư Trời muốn nên ta phải chịu khổ cực chớ không phải tại Căn Quả của ta, tức là nói rằng Đức Thượng Đế vốn độc tài muốn làm chi th́ làm và không có ḷng từ bi. Sự thật không phải như vậy. Tin những điều trái với chánh lư tức là tin dị đoan, c̣n nghe lời người ta nói trái với chánh lư tức là mê tín.

 

NHỮNG  NGƯỜI  THAM  LAM,  BỎN  SẺN

 

          Thuốc đắng dă tật, lời thật trái tai. Mặc dầu lời khuyên một cách khôn khéo, con người cũng ít khi chịu phục thiện, thường không nhận lỗi ḿnh hầu sửa đổi cái dở ra cái hay, cái xấu ra cái tốt, viện lư lẽ nầy, lư lẽ kia đặng bào chữa cho ḿnh.

          Người biết xử thế, trọng nghĩa khinh tài, người thường th́ trọng tài khinh nghĩa. Chúng ta ở trong ṿng Vật Chất phải nương theo Vật Chất để sống; nhưng đừng quá quí trọng Vật Chất đi quá mức trung b́nh. Không nên phung phí tiền bạc; tiện tặn rất tốt, nhưng quá tiện tặn thành ra rít róng, bỏn sẻn, chỉ biết thương đồng tiền không đoái hoài tới ai cả. Cho đến vợ con trong nhà thiếu ăn, thiếu mặc, cũng trối kệ.

          Xin lặp lại một lần nữa: Con người phạm tội lỗi là v́ Không Biết hay là Quên Phứt Ḿnh là Chơn Thần có bổn phận làm những việc lành mà thôi. V́ thế con người măi lo thoả thích những điều ḿnh ham muốn và ít khi đoái hoài tới kẻ khác.

          Hăy thử nghĩ điều nầy:

          Ai làm việc cũng trông tới cuối tháng lănh lương để tiêu xài trong gia đ́nh. Nếu v́ một lẽ ǵ mà sự phát lương trễ một, hai ngày sẽ có nhiều người gặp những sự khó khăn như: Không tiền đi chợ, không tiền cho con ăn sáng đi học, không tiền mua gạo, không tiền mua thuốc khi nửa đêm rủi đau ốm, bịnh hoạn, v.v… Phải chạy đầu nầy, đầu kia vay mượn, bị tiếng nặng, tiếng nhẹ đủ điều. Gia đ́nh đông con càng lo nhiều về tiền bạc. Có thiếu thốn mới biết cái nghèo nàn không khác nào một hiểm hoạ.

          Cho hay việc phát lương trễ do nhiều nguyên nhân, có khi bất khả kháng, song thiết tưởng nếu những người có trách nhiệm phát lương cố gắng làm xong công việc của ḿnh sự trễ nải sẽ ít khi xảy ra.

          Nếu có sẵn lương mà không phát, đó là một việc đáng buồn hơn nữa.

 

ĐỪNG  LÀM    HOẠI  THỂ  XÁC  CỦA  KẺ  KHÁC

 

          C̣n một thứ tội ác phải tránh xa là dùng tiền bạc và quyền thế dụ dỗ hay cưỡng ép vợ con người ta vào đường tội lỗi để toại ḷng dục vọng trong giây phút. Luật Nhân Quả Báo Ứng không bao giờ sai chạy, vợ con ḿnh sẽ trả Quả đó.

          Nếu ḿnh không muốn kẻ khác làm cho ḿnh đau khổ, ḿnh đừng làm cho kẻ khác phải khóc than. Xin xem bài thi của ông Địch Nhơn Kiệt làm thuở xưa như sau, khi bị nữ sắc đến trêu ghẹo.

Mỹ sắc nhân gian tối lạc xuân,

                                        Ngă dâm nhân phụ, phụ dâm nhân.

                                    Nhược tương mỹ sắc tư vong phụ,

                                    Biến thể thơ toàn diệt sắc tâm.[73]

          Có một điều tưởng phải nhắc nhở nhiều lần người ta mới nhớ là:

          Tất cả những tư tưởng, ư muốn, lời nói và việc làm, cùng là y phục của mỗi người, từ kiếp nầy qua kiếp kia, đều có ghi trên Chất Tiên Thiên Dĩ Thái làm ra những h́nh ảnh gọi là Tiên Thiên Kư Ảnh (Clichés Akasiques). Ai có Huệ Nhăn đều thấy cả. Làm sao giấu các Đấng Chí Tôn Nam Tào Bắc Đẩu được.

          V́ vậy Chơn Sư nói: “Dầu cho con người có quên đi nữa, Quả Báo cũng không hề quên đâu và bảo Alcyone phải nhớ đến Hậu Quả của những việc anh làm, hầu tránh những tội vô ư ác.”

          Dị đoan là một mối hại to lớn khác, và đă gây ra nhiều điều hung ác khủng khiếp. Người nào làm nô lệ cho nó sẽ khinh miệt những ai thông hiểu hơn ḿnh, lại cố buộc họ làm theo như ư ḿnh.

          Ở mấy đoạn trước tôi đă giải nhiều về Thói Dị Đoan. Người Tin Tưởng Dị Đoan đă có thành kiến, không công nhận lẽ phải, cứ theo tục lệ.

          Tôi xin kể một câu chuyện Dị Đoan lâu đời ở nước ta là tục Làm Gà ra mắt Mồng Ba Tết.

          Ngày đó, hầu hết nhà nào cũng đều cúng cả. Có vài triệu con gà bị hy sinh. Tôi thường hỏi tại sao phải làm gà cúng, th́ người ta trả lời: Để nó thế mạng cho ḿnh. Ra mắt đầu năm th́ tai qua nạn khỏi. Tôi nói: Thánh Thần không có dùng máu huyết của thú vật. Không phải không cúng cho các Vị đó ăn khiến các Ngài làm ra tai hoạ.[74] Nếu phải trả Quả Báo th́ dầu có trốn được ở đường nầy khi qua đường kia cũng mắc, không chạy đâu cho khỏi cả. Ông Thần nào phù hộ được con người cho tai qua nạn khỏi th́ ông đó lớn hơn Ông Trời.

          Thử hỏi mấy người cúng gà đầu năm từ tháng Giêng cho tới tháng Chạp năm đó không bị bịnh hoạn đau ốm, không tốn hao tiền của, không bị tai nạn phải chăng?

          Đem con gà thế mạng cho ḿnh, che mắt được các Đấng Chí Tôn Nam Tào Bắc Đẩu ư? Mấy người làm gà ra mắt Mồng Ba chắc là Trường Sanh Bất Tử, miễn là cứ mỗi năm bắt một con gà để cúng, đủ rồi chăng?

          Người bày ra tục lệ nầy thuộc về bọn Buôn Thần Bán Thánh.

          Cũng như bày ra tục Đốt Giấy Tiền Vàng Bạc và Làm Kho Tàng, Nhà Mả. Giấy Tiền, Vàng Bạc đốt cháy ra tro bụi; tin rằng Hồn Ma dùng Tiền Văng Sinh và Giấy Tiền Vàng Bạc để xài dưới Âm Phủ hay là kiếp sau được giàu có. Đó là Tin Dị Đoan, Tin những chuyện phi lư.

          Nhiều độc giả của Bộ Truyện Tây Du Diễn Nghĩa, nhất là phụ nữ, tin có thật chuyện Vua Đường Thái Tôn bị Hồn Ma Rồng Bạch kiện nên xuống Âm Phủ hầu Diêm Vương. Vua bị những Oan Hồn Uổng Tử níu kéo nên phải mượn 18 Kho Vàng Bạc của hai vợ chồng Trương Lương gởi dưới Âm Phủ, bằng cách mỗi ngày đốt giấy tiền vàng bạc, phân phát cho chúng, chúng mới để cho Vua đi thong thả. Chừng trở về Dương Thế, Vua Thái Tôn bèn sai Huất Tŕ Cung chở vàng bạc tới Phủ Khai Phong trả cho Trương Lương.

          Nên biết rằng Đức Trần Huyền Trang có trốn qua Tây Vức năm 629, ở tại Ấn Độ 15 năm, viếng 128 nước. Kể thời gian đi một năm và thời gian về một năm, cuộc hành tŕnh của Ngài kéo dài  17 năm. Quyển của Ngài viết là Đại Đường Tây Vức Kư, sau ông Ngô Thừa Ân viết Bộ Tây Du Diễn Nghĩa giải về 3 Thể của con người. Tam Tạng tượng trưng cho Chơn Nhơn có 3 Thể:

          Sa Tăng tượng trưng cho Xác Thân.

          Bát Giái tượng trưng cho Cái Vía, tham mê vật dục như con heo.

          Tôn Ngộ Không tượng trưng cho Hạ Trí, kiêu căng, tự phụ, không  coi Trời vào đâu. Nó giống như con khỉ nhảy nhót trên cành.

          Khi xem Truyện, phải hiểu ư của Tác Giả muốn nói chi, chớ chẳng phải nhắm mắt tin càn không phân biện.

          Tới ngày nay cũng có người tin rằng Tề Thiên Đại Thánh có thật, chỉ v́ có một lần Cơ Bút cho một bài thi đề tên Tề Thiên Đại Thánh.

          Nếu ta suy nghĩ một chút biết ngay Trần Huyền Trang có thật, c̣n chuyện Tề Thiên Đại Thánh là chuyện người đời sau đặt ra để vừa giải trí, vừa dạy Đạo một lượt.

          Nên suy xét kỹ lưỡng kẻo mắc hoạ mê tín và tin dị đoan.

          Nhưng nếu ta mê tín, một ḿnh ta chịu đừng lôi cuốn kẻ khác cũng tin như ta vậy. Làm như thế ta thêm một bóng tối cho đời, thay v́ ánh sáng Chân Lư. Ta sẽ mắc tội với Trời, v́ ta làm cho đời mê muội.

          Hăy nghĩ đến sự tàn sát khủng khiếp gây ra bởi thói dị đoan đ̣i hỏi phải giết thú vật để cúng tế, và bởi c̣n một thói dị đoan hung ác hơn nữa cho rằng con người cần phải ăn thịt. Hăy nghĩ đến các hậu quả mà dị đoan đă gây ra cho hàng dân bị áp bức trong nước Ấn Độ yêu quí của chúng ta, và xem coi điều tệ hại nầy gây ra sự nhẫn tâm độc ác như thế nào ngay cả trong hạng người đă biết t́nh hữu ái rồi. Bị thúc giục bởi thói dị đoan mộng mị nầy, loài người đă nhân danh Thượng Đế từ bi phạm nhiều tội ác. Do đó hăy cẩn thận đừng để một mảy may dấu vết dị đoan nào vương lại trong ḷng con.

          Con phải tránh ba trọng tội nầy v́ chúng có hại cho tất cả sự tiến hoá, v́ chúng nghịch lại với ḷng bác ái.

          Cả triệu năm trước ở Châu Atlantide, những người theo bọn Bàng Môn Tả Đạo luôn luôn giết thú vật và con người đem tế lễ những Hung Thần, Ác Quỉ của họ thờ phượng. Tục lệ đó truyền cho tới ngày nay. Khi Cúng Đ́nh th́ làm heo, ḅ, có chỗ cúng Tam Sanh là: Heo, dê, ḅ.

          Bây giờ ta hăy xét coi: Thánh Thần không có dùng thực phẩm của chúng ta. Các Ngài đâu có thích máu huyết nhơ bẩn, hôi hám. Các Ngài cũng có xác thân như chúng ta, song không phải làm bằng Chất Hồng Trần nên không cần dùng thịt cá để nuôi nó. Các Ngài lấy sanh lực Prana để dưỡng xác thân khi c̣n cần nó. Thần Thánh chứng ḷng thành của chúng ta, chứ không cần đồ cúng của chúng ta. Dầu mâm cao cỗ đầy mà làm cho lấy lệ ấy là che mắt Thế Gian.

          Nếu chỉ thắp một cây nhang, cúng một chén nước lă nhưng có Ḷng Sùng Tín Trời Đất vẫn chứng cho.

          Trước khi Phật ra đời, ở Ấn Độ người ta giết thú vật để cúng tế, nhất là tại Đền Thờ Nữ Thần Kali. Mà Kali là ai? Tôi phải nói vài lời về Trạng Thái Âm của Ba Ngôi, quí bạn sẽ biết có hai Kali.

 

3  TRẠNG  THÁI  ÂM    DƯƠNG  CỦA  3  NGÔI

 

          Ta biết rằng: 3 Ngôi của Đức Thượng Đế là:

          1- Ngôi thứ Nhứt: Shiva (Si Hoa).

          2- Ngôi thứ Nh́: Vishnou (Quich Nu).

          3- Ngôi thứ Ba: Brahma (Phạn Vương).

          Mỗi Ngôi đều có hai Trạng Thái: Trạng Thái Dương và Trạng Thái Âm.

          Trạng Thái Âm gọi là Shati, tức là Quyền Năng. Trong sách nói tượng trưng cho Quyền Năng nầy là Người Đàn Bà Nội Trợ, tức là Người Vợ.

          3 Trạng Thái Dương có tên là: Shiva, Vishnou và Brahma.

          C̣n 3 Trạng Thái Âm là:

          1- Trạng Thái Âm của Shiva có tên là Kali hoặc Dourga hay là Parvati.

          2- Trạng Thái Âm của Vishnou là Lakshmi.

          3- Trạng Thái Âm của Brahma là Brahmi hay là Sarasvati, Saravati hoặc Sarasrat.

          Tàu gọi 3 Trạng Thái Âm hay là Quyền Năng Shati của Ba Ngôi là Diêu Tŕ Kim Mẫu.

          Xin nhớ Trạng Thái Âm đây không phải là một Người Nữ, một Người Đàn Bà.

          Các Hạng Thiên Thần không có đàn ông, đàn bà, nam hay nữ như con người. Không có chuyện giao hợp như con người lầm tưởng.

 

NÊN  PHÂN  BIỆT  HAI  KALI

 

          Nên phân biệt hai Kali.

          1- Kali thứ Nhứt là Trạng Thái Âm của Thượng Đế Shiva.

          2- Kali thứ Nh́ là một H́nh Tư Tưởng của mấy anh Hắc Diện Đại Vương ở Châu Atlantide thuở xưa tạo ra. Sinh vật nầy cũng giống con người, rất quỉ quyệt và có tài phép.

          Sau khi Châu Atlantide bị nhận ch́m xuống biển nó trốn khỏi và chạy qua Ấn Độ xưng là Kali, trổ Phép Thần Thông làm cho dân bổn xứ thấy nên kiêng sợ. Họ phải lập Đền Thờ thờ nó cho tới ngày nay. Phải cúng kiến nó với máu huyết thú vật. Ở Ấn Độ đă có nhiều người tu hành lầm tưởng H́nh Tư Tưởng Kali nầy là Trạng Thái Âm của Đức Shiva, cũng gọi là Kali hay là Đức Mẹ Thế Giới.

 

          TRÊN  THIÊN  Đ̀NH  KHÔNG    SỰ  SANH  SẢN  NHƯ    THẾ

 

          Đọc chuyện Phong Thần thấy nói Long Kiết Công Chúa, con của Bà Diêu Tŕ Kim Mẫu, độc giả tưởng rằng: Ở trên Thiên Đ́nh cũng có sự sanh sản như ở Trần Thế. Không bao giờ có điều đó.

          Tôi có nói các Hạng Thiên Thần không có nam hay nữ, sự sanh sản không giống như con người bây giờ. Các Thiên Thần có đường tiến hoá riêng biệt, cho nên không có sự tiết lộ nhiều về đời sống của các Ngài, chỉ nói một cách tổng quát thôi, v́ điều nầy không có ích chi cho con người.

          Nên biết Truyện Phong Thần của Lục Tây Tịnh viết ra cốt ư khuyên những người tu hành phải Khiêm Tốn, nếu ỷ ḿnh có Phép Thần Thông làm nghịch ḷng Trời sẽ không khỏi tay Tử Thần.

          Những danh từ: Hồng Quân Lăo Tổ, Thái Thượng Lăo Quân, Nguơn Thỉ Thiên Tôn, Thông Thiên Giáo Chủ, Nhiên Đăng, Bạch Hạt Đồng Tử, Long Kiết Công Chúa, Kim Quang Thánh Mẫu, v.v… là tên của những Nhân Vật tượng trưng chớ không có thật.

          Kim Quang trận là trận của Quang Tuyến Giết Người chiếu vào ḿnh con người làm da thịt tan ra tro bụi.

          Quảng Thành Tử mặc áo Tiên Y làm bằng chất cản điện nên Quang Tuyến không vô ḿnh được.

          Hồng Quân Lăo Tổ đồng nghĩa với Les Seigneurs de la Flamme, những Đấng Chí Tôn ở Kim Tinh xuống Địa Cầu giúp cho con người khai mở trí khôn 16 triệu rưởi năm trước. Trong Huyền Bí Học gọi là những Vị Agnisvattas Pitris. Trong đó có Đức Ngọc Đế và 3 Vị Độc Giác Phật, Đệ Tử của Ngài, hiện giờ c̣n ở tại Bồng Lai (Shamballah), ấy là 4 Vị Koumaras. Chính Đức Ngọc Đế lập ra Quần Tiên Hội.[75]

          Lấy Lịch Sử mà nói: Đời Chu 1050 – 256 kể tới nay 1974 mới có: 1050 + 1974 = 3024 năm.

          Nhân Loại có mặt tại Địa Cầu 300 triệu năm rồi. Nếu nói mới có Phong Thần hồi Đời Chu th́ 300 triệu năm trước không có Thần phải chăng?

          Như vậy Truyện Phong Thần có thật hay không? Nếu tin là có thật th́ sự tin nầy có phải là Mê Tín và Tin Dị Đoan không?

 

     TẠI  SAO    SỰ  SANH  ĐẺ  NHƯ  NGÀY  NAY ?

 

          Nên biết rằng Linh Hồn không có Nam hay Nữ. Mà muốn biết tại sao có sự sanh đẻ Con Người như ngày nay, phải hiểu 3 Giai Đoạn chính của sự Tiến Hoá  Tinh Thần. Ba Giai Đoạn đó là:

          1- Giai Đoạn thứ Nhứt: Đi Xuống – Tinh Thần nhập vô Vật Chất đặng sanh hoá. Tinh Thần thường bị Vật Chất lấn áp.

          2- Giai Đoạn thứ Nh́: Giữ vững thăng bằng.

          Tinh Thần và Vật Chất chiến đấu với nhau tranh Ngôi Bá Chủ. Bắt đầu cán cân chênh lệch, khi Tinh Thần thắng, khi Vật Chất thắng. Cuối cùng Tinh Thần áp đảo được Vật Chất, tạo ra sự quân b́nh.

          3- Giai Đoạn thứ Ba: Đi Lên - Phản bổn huờn nguyên.

          Tinh Thần bắt đầu đi lên. Tinh Thần thắng phục Vật Chất rồi Tinh Thần hoá nó lần lần. Đây là lúc con người vào Đường Đạo và cuối cùng tiến đến mục đích đă định sẵn cho con người trong Vũ Trụ nầy. Con người thoát đoạ Luân Hồi và vào Hạng Siêu Phàm được 5 lần Điểm Đạo.

 

SỰ  SANH  HOÁ  GIỐNG  DÂN  THỨ  NHỨT,  THỨ  NH̀    PHÂN NỬA  ĐẦU  TIÊN  CỦA  GIỐNG  DÂN  THỨ  BA

 

          Trên Dăy Địa Cầu chúng ta, ở mỗi Bầu Hành Tinh phải có 7 Giống Dân Chánh. Mỗi Giống Dân Chánh sanh ra 7 Giống Dân Phụ. Mỗi Giống Dân Phụ c̣n sanh ra 7 Nhánh nữa. Thế nên có tất cả: 7x7x7 = 343 Nhánh.

 

GIỐNG  DÂN  THỨ  NHỨT

 

          Giống Dân thứ Nhứt và Giống Dân thứ Nh́ không có da thịt như bây giờ. Thân h́nh làm bằng Chất Dĩ Thái đặc lại. Không có Nam, Nữ. Có hai cách sanh sản:

          1- Cách thứ Nhứt: Ban đầu nứt ḿnh ra hai phần bằng nhau, sau một phần lớn, một phần nhỏ.

          2- Cách thứ Nh́: Hoặc thân ḿnh mọc những mầm,  mỗi mầm rớt ra thành một người.

 

     GIỐNG  DÂN  THỨ  NH̀

 

          Giống Dân thứ Nh́ thân h́nh có ṭng có tụi, Giống nửa Người, nửa Thú.

          Cũng có hai cách sanh sản:

          1- Cách thứ Nhứt: Cũng nứt ḿnh ra làm hai hay mọc những mầm.

          2- Cách thứ Nh́: Thân ḿnh càng ngày càng cứng rắn, không c̣n nứt ḿnh ra làm hai được nữa. Thân ḿnh tiết ra một chất nhớt như giọt mồ hôi, màu trắng đục rồi nổi lên thành một cục, càng ngày càng cứng và có h́nh dạng. Mỗi cục rớt ra thành một người.

          Người ta gọi họ là Giống do Mồ Hôi sanh ra. Họ Bán Nam, Bán Nữ, song hai bộ phận sanh dục mới tượng, chớ chưa thành h́nh rơ ràng. Có lẽ người ta gọi họ là Bộ Nắp.

 

GIỐNG  DÂN  THỨ  BA

 

          Thân h́nh cứng rắn hơn trước.

          Có hai cách sanh sản: Noăn Sanh và Thai Sanh. Chia ra làm 3 Giai Đoạn:

 

     GIAI  ĐOẠN  THỨ  NHỨT
NOĂN  SANH

 

          Nhánh thứ Nhứt: Cũng do những giọt mồ hôi sanh ra. Khởi sự thấy Bán Nam, Bán Nữ.

          Nhánh thứ Nh́: Những giọt mồ hôi trở nên cứng và giống như một cái trứng. Con người thành h́nh trong trứng. Trứng bể, con người ra ngoài Bán Nam, Bán Nữ rơ rệt.

 

GIAI  ĐOẠN  THỨ  NH̀

 

          Qua Nhánh thứ Ba: Con người cũng ở trong trứng, song cái vỏ càng ngày càng mỏng. Cái trứng bể, con người ra ngoài, thân h́nh nở nang đầy đủ và giống như gà con, đi được, chạy được. Thật sự Bán Nam, Bán Nữ.

          Tới Nhánh thứ Tư: Khi cái trứng nở, con người ra ngoài, thấy hai bộ phận sanh dục bắt đầu chênh lệch, một cái lớn, một cái nhỏ.

          Lần lần, về sau đứa nhỏ sanh ra th́ thấy Nam hay Nữ rơ rệt.

          Từ ngày phân chia Nam, Nữ tới ngày nay đă được 16 triệu rưởi năm rồi. Lúc Nhánh thứ Tư gần tàn, hài nhi sanh ra yếu đuối, không c̣n đi đứng được nữa.

 

GIAI  ĐOẠN  THỨ  BA
THAI  SANH

 

          Tới Nhánh thứ Năm: Trứng ở trong ḷng người mẹ.

          Qua Nhánh thứ Sáu và Nhánh thứ Bảy: Sự sanh sản như ngày nay mới thành ra đại đồng.

          Tuy nhiên, mỗi Giống Dân đều c̣n giữ một phần của Bộ Sanh Dục của Giống kia.

          V́ vậy cho nên ngày nay mới thấy có những chuyện Đàn Ông hoá ra Đàn Bà, Đàn Bà biến thành Đàn Ông. Tôi có kể vài chuyện trong quyển “Sự sanh hoá các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu.”

          Dường như Tạo Vật lâu lâu ôn lại những việc đă làm một lần, cho nên mới có những người Đàn Bà đẻ Trứng, những người Lại Cái và sự biến đổi Đàn Ông ra Đàn Bà hay ngược lại.

 

LINH   HỒN  QUA  BẦU  HÀNH  TINH  NÀO  TH̀ THÂN  H̀NH  ĐƯỢC  LÀM  RA  BẰNG  CHẤT  KHÍ  ĐĂ  CẤU  TẠO  HÀNH  TINH  ĐÓ

 

          Thí dụ: Dăy Địa Cầu chúng ta bây giờ đây. Dăy Địa Cầu gồm 7 Bầu Hành Tinh.

          1- Bầu thứ Nhứt A làm bằng Chất Thượng Thanh Khí thấp hay là Chất Trí Tuệ thấp (Matière Mentale Inférieure).

          Linh Hồn phải đầu thai ở Bầu A trước nhất. Tại đây Thân H́nh Con Người phải làm bằng Chất Thượng Thanh Khí thấp. Như vậy Con Người mới học hỏi, kinh nghiệm và hoạt động tại Bầu Hành Tinh nầy được.

          2- Qua Bầu Hành Tinh thứ Nh́ B làm bằng Thanh Khí cũng gọi là Chất Tinh Quang (Matière Astrale) th́ Thân H́nh Con Người cũng phải làm bằng Chất nầy mới hoạt động ở Bầu nầy được.

          3- Qua Bầu thứ Ba C: Hoả Tinh.

          4- Qua Bầu thứ Tư: Trái Đất.

          5- Qua Bầu thứ Năm: Thuỷ Tinh làm bằng Chất Hồng Trần th́ thân H́nh Con Người phải được làm bằng Chất Hồng Trần nầy, nghĩa là có da, có thịt, có xương như bây giờ.

          Nhưng ngày sau Con Người bỏ Bầu Trái Đất qua Bầu Thuỷ Tinh, xương không cứng như bây giờ mà là Xương Sụn (Cartilage), sự sanh đẻ rất dễ dàng, bởi ở Bầu Thuỷ Tinh Chất Dĩ Thái nhiều hơn Chất Đặc, Chất Lỏng và Chất Hơi. Đứa trẻ được sanh ra th́ mở nhăn quang của Cái Phách, ḍm thấu dưới đất cát, thấy được những hột mọc rễ và thành ra cây cách nào.

          6- Khi qua Bầu thứ Sáu F: Làm bằng Chất Thanh Khí hay là Chất Tinh Quang, thân H́nh Con Người làm bằng Chất Tinh Quang.

          7- Qua Bầu thứ Bảy G: Làm bằng Chất Thượng Thanh Khí thấp, thân H́nh Con Người được làm bằng Chất nầy.

          Xin nói lại một cách khác.

          Bầu thứ Nhất A và Bầu thứ Bảy G ở tại Cơi Hạ Thiên (Plan Mental Inférieur).

          Bầu thứ Nh́ và Bầu thứ Sáu F ở tại Cơi Trung Giới, Cơi Dục Giới hay là Cơi Tinh Quang (Plan Astral).

          Bầu thứ Ba C (Hoả Tinh), Bầu thứ Tư D (Trái Đất), Bầu thứ Năm E (Thuỷ Tinh) ở tại Cơi Hồng Trần (Plan Physique).

          Không biết sự sanh hoá Con Người trên 4 Bầu: Bầu thứ Nhứt, thứ Nh́, thứ Sáu và thứ Bảy là thế nào.

          Chỉ biết qua những Cuộc Tuần Hoàn sau, thứ Năm và thứ Sáu khi Con Người trở lại 3 Bầu Hành Tinh: Hoả Tinh, Trái Đất, Thuỷ Tinh thân h́nh Con Người chứa đựng Chất Dĩ Thái càng ngày càng nhiều, cho nên càng ngày càng nhẹ nhàng.

          Qua Cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy, khi trở lại 3 Bầu nầy không c̣n sự giao hợp và sự sanh hoá như bây giờ nữa. Con Người sẽ sanh hoá như Giống Dân thứ Nhứt và thứ Nh́ vậy, v́ thân h́nh làm bằng Chất Dĩ Thái chớ không phải làm bằng Chất Hồng Trần như bây giờ.

          Có lẽ bạn sẽ nói: Đoạn nầy không ăn nhập chi với chuyện dị đoan. Tôi xin nói rằng: Các vấn đề đều liên quan mật thiết với nhau. Tôi muốn giải rành rẽ cho quí bạn thấy rằng: Thiên Thần không có nam, nữ, thật sự không có những Vị Thánh Mẫu, chỉ có những Tượng Trưng cho những người chưa quan niệm được Luật Trời. Quí bạn suy nghĩ sẽ thấy: Con Người là Linh Hồn, không có nam, nữ. Nếu ngày nay có đàn ông, đàn bà là tại Vật Chất càng ngày càng cứng rắn không thể sanh hoá như thời  kỳ đầu tiên. Sự Giao Hợp chỉ là một phương tiện để  hoàn thành một mục đích, chớ không phải là Mục Đích. Muôn vàn tội lỗi và những bịnh hoạn truyền tử lưu tôn làm hư hoại ṇi giống đều do sự vô minh, sự không hiểu rơ sự sanh hoá Con Người.

          Xin quí bạn đừng quên rằng: Quí bạn không phải là Xác Thân nầy, quí bạn sử dụng Xác Thân như một khí cụ trong một thời gian thôi. Quí bạn đầu thai tại Cơi Trần để tiến hoá, nếu quí bạn chịu khó xem xét những người mà quí bạn gặp gỡ và những việc đă xảy ra trước mặt th́ quí bạn thấy đâu đâu cũng có sự tiến hoá về phương diện nầy hay phương diện khác.

          Dầu quí bạn bơ thờ, không lo cho tương lai, quí bạn cũng phải theo Luật Tiến Hoá mà đi tới. Điều hay hơn hết là học rành rẽ Luật Trời rồi nương theo đó mà hành động sẽ tiến hoá mau lẹ.

          Bây giờ xin tiếp tục giải về tai hại của sự mê tín.

 

ĐỨC  PHẬT    ĐỨC  SANKARACHARYA  DIỆT  TRỪ  THÓI    TÍN  GIẾT  THÚ  VẬT  ĐỂ  CÚNG  TẾ

 

          Khi Đức Phật ra đời[76] Ngài cải cách Bà La Môn Giáo. Ḷng Đại Từ, Đại Bi của Ngài cảm hoá dân chúng càng ngày càng nhiều. Cho nên việc đem Thú Vật tế Thần Thánh càng ngày càng giảm đi. Ngày nay chỉ c̣n một số rất ít người tuân theo tục lệ cổ truyền nầy mà thôi.

          Đức Từ Bi, Bác Ái của Phật biểu lộ ra trong Tín Điều thứ Nhứt của Phật Giáo như sau đây:

          Người ta dạy các hàng Phật Tử phải có ḷng khoan dung, đại độ và thương yêu tất cả mọi người như anh em, bất cứ là ai, và hết sức nhân từ với Loài Vật.

 

ĐỨC  SRI  SANKARACHARYA

 

          Sau khi Đức Thích Ca thành Phật, từ điển của Quả Địa Cầu rất tốt.[77]

          Đức Ngọc Đế liền sai một Vị Độc Giác Phật giáng trần, lấy xác phàm tên là Sri Sankaracharya trên 2.000 năm nay. Đức Sankaracharya cải cách Ấn Giáo, làm sống lại Giáo Lư của Đạo nầy nên đức tin của Tín Đồ càng thêm vững chắc. Ngài lập Trường Triết Học Advaita (Độc Nhất Vô Nhị) và vài Trung Tâm Đạo Đức gọi là Mathas. Ngài cấm việc giết Thú Vật để cúng tế.

          Đức Sankaracharya c̣n thực hành nhiều công việc Huyền Bí trên mấy Cơi cao liên quan đến tương lai của Ấn Độ, tức là vận mạng người Ấn Độ hiện giờ và mai sau.

          Năm 33 tuổi Ngài vào một Cái Động rồi mất tích luôn.

          Giáo Phái Sankaracharya ngày nay vẫn c̣n bên Ấn Độ; ông Paul Carton có đề cập đến trong quyển “Ấn Độ Huyền Bí” được dịch là “Đông Phương Huyền Bí.”

 

KHÔNG  PHẢI  ĂN  THỊT  MỚI  SỐNG

 

          Thế thường người ta tưởng phải ăn thịt cá mới sống. Nhưng sự thật không phải thế. Tôi xin kể nhiều gương xưa và nay, ăn rau trái vẫn khoẻ mạnh cho quí bạn nghe.

 

THUỞ  XƯA

 

          Homère, 9 Thế Kỷ trước Chúa Giáng Sinh, cho ta biết rằng thực phẩm của Giống Dân gọi là Hipomologue ở phía Bắc Hy Lạp là rau trái, bánh sữa và sữa ngựa.

          C̣n những người ở phía Nam Hy Lạp gọi là Lotophages và Tín Đồ của Đức Pythagore vẫn trường chay.

          Những Dân Lao Động và Thuỷ Thủ ở Ai Cập ăn ṛng dưa gang, hành tây, đậu tằm (fève), biển đậu (lentille), chà là và bắp.

          Những Người Phu Mỏ ở Nam Mỹ Châu không bao giờ ăn thịt, họ vác trên vai những đồ nặng 200 cân, leo lên thang đứng sửng từ 80 tới 90 thước bề cao, mỗi ngày 12 lần mà không tỏ dấu mệt mỏi.

          Những Người Phu Khuân Vác ở Salonique và Constantinople, Kinh Đô Thổ Nhĩ Kỳ, ăn cơm chiên với trái táo, uống nước lă hay là Limonade vẫn rất mạnh mẽ và nhanh nhẹn.

          30 triệu Người Bà La Môn trường trai từ nhỏ đến lớn, bây giờ và tới mai sau vẫn không dùng thịt cá.

 

ĐỜI  NAY

 

          Tín Đồ nhiều Tôn Giáo trường trai.

          Những Người Hounza[78] ở miền Bắc Cachemire ăn ṛng rau trái, lâu lâu họ mới dùng một chút thịt mà thân thể vẫn tráng kiện. Từ nhỏ đến lớn họ không hề biết đau và sống rất lâu. Họ giữ đúng phép vệ sinh hơn chúng ta.

          Khi đàn bà có thai vợ chồng tách riêng ra. Tới khi đứa nhỏ trên 3 tuổi vợ chồng mới xum hợp lại.

          Điều nầy các nước gọi là Văn Minh chưa thực hành được.

 

NHỮNG  THÚ  ĂN  CỎ    TRÁI  CÂY

 

          Những thú ăn cỏ như: Voi, trâu nước, trâu rừng, trâu nhà, ḅ, ngựa rất dẻo dai.

          Nếu bắt cọp, beo, sư tử là loài thú ăn thịt ra kéo cày làm ruộng ngoài nắng như trâu, ḅ nội trong 3 ngày th́ chắc chắn chúng nằm bẹp xuống, đi hết nổi.

          Nói về sức mạnh trâu cổ và trâu rừng đâu có sợ cọp. Người ta đă gặp nhiều lần cọp bị trâu cổ hay trâu rừng chém ḷi ruột.

          Loài khỉ như khỉ đột, giả nhân ăn ṛng trái cây và mật ong mà sức mạnh phi thường. Giả nhân bẻ găy ṇng súng như ta bẻ chiếc đũa.

          Vậy hăy phá tan thành kiến: Cần ăn thịt mới sống và mới mạnh, c̣n ăn rau trái th́ ốm yếu, bạc nhược.

          Nói cho đúng, nếu không biết cách ăn th́ dầu ăn mặn cũng yếu đuối vậy.

          Chơn Sư vạch rơ cho chúng ta thấy cho đến đỗi ở Ấn Độ dân chúng đă biết t́nh hữu ái và đối đăi tử tế với thú vật cũng không tránh được việc bị sự mê tín, dị đoan ám ảnh.

          V́ thế, chúng ta phải tập mở ḷng từ bi càng ngày càng thêm rộng lớn. Tôi nói: Phải tập cho có Thói Quen, sau mới làm những việc nhân từ dễ dàng.

 

OAI  LỰC  CỦA  L̉NG  TỪ  BI

 

          Tiện đây tôi xin chép 3 Đoạn của tôi đă ghi trong quyển “Học Cơ Tiến Hoá” cho quí bạn xem.

          “Không được thù ghét một điều ǵ. Phải thâu gồm tất cả trong phạm vi của t́nh yêu thương. Dù bề ngoài của mọi sự vật có đáng ghê tởm đến đâu chăng nữa điều đó cũng không quan hệ ǵ, v́ Sự Sống và T́nh Thương ngự nơi Trung Tâm của Vạn Vật. V́ vậy Người Đệ Tử đang học hỏi không loại trừ một vật ǵ ra ngoài Ḷng Từ Bi của ḿnh. Anh bao hàm mọi sanh linh trong Tấm Ḷng Thương Yêu của ḿnh và chú ư đến sự nhạy cảm của chúng. Anh thành người bạn của Vạn Vật, anh Thương Yêu tất cả những Sinh Vật, dầu là những Sinh Vật mà người đời gọi là Vô Tri, Vô Giác[79] v́ tất cả đồng là con của Thượng Đế, ngày nay ở vào tŕnh độ Kim Thạch, rồi sau tiến lên Thảo Mộc, tới Cầm Thú và Con Người như chúng ta hiện thời.

          Con Người với Ḷng Dạ Nhân Từ có thể đi qua rừng sâu mà không bị nguy hiểm. Y có thể đi vào hang thú dữ mà không bị vồ, có thể lấy tay bắt rắn, v́ Tấm Ḷng tràn ngập T́nh Thương nên không nh́n thấy ở đâu là thù hận cả. T́nh Thương phóng những tia sáng ra khắp cơi đời và thu hút mọi vật để Phụng Sự Chúng chớ không phải để hại chúng, v́ do sự thu hút nầy làm thức tỉnh T́nh Yêu chớ không phải ḷng hận thù nơi Vạn Vật.

          V́ vậy con cọp lăn ḿnh dưới chân Nhà Tu Sĩ Yogi (Dô Ghi) như một người bạn thân, con vật hung dữ nhất mang con đến gởi cho Vị Thánh Nhân nhờ Ngài che chở và cứu giúp, v́ thế cho nên tất cả mọi Sinh Vật đều đến với người có Ḷng Nhân Đức Thương Yêu, v́ Vạn Vật cũng có một nguồn cội thiêng liêng. T́nh Yêu là thiêng liêng và khi nào Con Người Thương Yêu trọn vẹn th́ y thu hút Vạn Vật.”

          Có bạn hoài nghi, khi đọc đoạn nầy sẽ nói: Đây là lư luận mà thôi. Tôi xin tŕnh bày hai bằng chứng cụ thể: Một thuộc về đời xưa và một mới xảy ra  năm 1970 tại Ấn Độ.

 

CHUYỆN  THỨ  NHỨT :  VUỐT  VE  RẮN  HỔ  MANG

 

          Trong quyển “Đông Phương Huyền Bí” trang 227, ông Paul Brunton có thuật chuyện ông gặp một con rắn trong cḥi của ông như sau đây:

          “Khi vừa mở khoá cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào, có một vật cựa quậy dưới đất và cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im lặng của nó và tiếng huưt nhỏ như tiếng sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nh́n thấy rơ đó là vật ǵ, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một con rắn ở trong cḥi. Trong một lúc, tôi cảm thấy trong ḷng rối loạn v́ sợ hăi và không biết phải làm thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nh́n con rắn không chớp mắt và nó cũng vừa phùng mang, vừa giương hai mắt nh́n lại tôi.

          Sau cùng, tôi định tỉnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi t́m một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy dập xương sống, bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua th́nh ĺnh xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nh́n yên lặng của y làm cho tôi bớt sợ hăi và lấy lại sự b́nh tĩnh. Y đến gần cḥi tranh, với cái nh́n thoáng qua, y đă thấu rơ t́nh h́nh và thản nhiên bước vào cḥi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ư đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa, tôi lại băn khoăn sợ hăi, v́ mặc dầu y không có khí giới, y vẫn đưa hai tay về phía con rắn.

          Con rắn  hả miệng và le cái lưỡi dài như h́nh mũi chĩa tḥ ra, thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia. Trong khi đó, có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vă chạy tới. Trước khi họ đến gần cḥi tranh, người khách lạ đă khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó, trong khi con rắn cuối đầu sát đất và nằm êm rơ!

          Nó không c̣n phùng mang và le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến gần và làm cho nó giựt ḿnh. Khi ấy, nó bèn quảy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó nhanh nhẹn ḅ ra khỏi cḥi tranh và trong khoảnh khắc đă biến dạng trong khu rừng rậm.

     -“Đó là một con rắn hổ mang!” Một trong hai người mới đến sau b́nh phẩm. Người nầy là một thương gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm Đạo Viện để chiêm ngưỡng Đức Tôn Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn, một cách không chút sơ sệt. Y bèn giải thích:

     -“À, đó là Đạo Sĩ Ramiah, y là một trong những Đệ Tử cao cấp nhất của Đức Maharichi. Y là một tay có bản lĩnh khá lắm!”

     Trước khi từ giă, tôi hỏi y (Đạo Sĩ Ramiah) về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉm cười và viết bút đàm câu trả lời:

     “Có ǵ mà phải sợ! Tôi đến gần nó với Tấm Ḷng Lành, không nuôi tư tưởng ác, và với một T́nh Bác Ái đối với tất cả chúng sinh.”

 

CHUYỆN  THỨ  NH̀ :  MỘT  CHUYỆN  PHI  THƯỜNG

 

Trong số xuất bản ngày 9 Janvier 1970 (9-01-1970), tờ Ấn Độ Thời Báo (Hindustan Times) có đăng h́nh một du khách lại gần chuồng của một con cọp trắng tên Rajah trong Vườn Bách Thú Delhi, tḥ tay vô song sắt vuốt ve con cọp, nó liền hết gầm ngừ.

          Phóng viên tờ Ấn Độ Thời Báo nói: Du khách mỉm cười và kêu tên con cọp: “Nầy Rajah!”

          Du khách bước sang qua chuồng hai con cọp vàng, chúng giành nhau để cho anh mơn trớn, không khác nào hai con chó con. Rồi du khách đến chuồng một con báo Nam Mỹ. Con báo lại gần anh để cho anh rờ rẫm, nó cạ ḿnh vào song sắt coi bộ thích thú lắm.

          Phóng viên tờ Ấn Độ Thời Báo lại nói: Khi tôi thử đụng tới con báo th́ nó quay đầu lại, rống lên một tiếng dữ tợn hăm he.”

          Các bạn muốn biết du khách đó là ai?

     - Ấy là ông Francis Brunel, cả nước Pháp và nhiều nơi đều hiểu biết tiếng, ông là cựu Tổng Thư Kư Hội Thông Thiên Học Pháp Quốc.

     Ông giải thích rằng: Loài dă thú có một thái độ như thế là nhờ t́nh thương của ông ban rải cho chúng và chúng cảm biết t́nh thương nầy. Ông nói: “Không có sự sợ sệt giữa tôi và chúng. Tôi không sợ chúng, mà chúng cũng không sợ tôi.” Đi tới đâu ông cũng đề cao sự kính trọng thiên nhiên và bất cứ sự sống nào, ông cũng nói về sự cần thiết cấp bách chận đứng sự bốc lột vô liêm sĩ mà người ta đang thực hiện bây giờ đây.

     Theo lời phóng viên th́ ông Francis Brunel dự định lập ở Ấn và ở Pháp một Trường Đại Học kiểu mới gọi là Trường Đại Học của Sự Sống chuyên khảo cứu về Thiên Nhiên.

     (Tạp chí The Theosophist (Người Thông Thiên Học) của Đức Sri Ram tháng 3 năm 1970).

     Về sự luyện ḿnh Sinh Viên có trước mặt một thời gian vô tận vô biên để thực hành lư tưởng của ḿnh.

     Quí bạn biết rằng Định Luật Thiên Nhiên vốn bất di bất dịch. Sức mạnh của quí bạn tung ra nhất định thế nào cũng phát sanh những kết quả và mỗi hạt giống mà quí bạn đă gieo trồng chắc chắn sẽ đơm bông kết trái loại nào theo loại nấy, và sau nầy quí bạn sẽ gặt hái được cái kết quả tương đương chớ không ǵ khác được.

     Nói về Đức Từ Bi, Bác Ái, tôi xin thuật chuyện hai vị Tu Sĩ ở tại Alexandrie cho quí bạn nghe.

 

TẤM  GƯƠNG  TRONG  SẠCH
CHUYỆN  HAI  VỊ  TU    TRẺ  TUỔI    ALEXANDRIE

 

          Tục truyền rằng: Có hai vị Tu Sĩ trẻ tuổi ở trong một Đạo Viện Công Giáo tại sa mạc phía Nam Alexandrie, nổi tiếng là rất tinh tấn và rất Thánh Thiện.

          Một hôm, hai người đang hát lễ, Viện Trưởng bèn mở Huệ Nhăn xem coi hai vị nầy nhờ cái chi mà được thiên hạ ngợi khen vô cùng.

          Ông thấy:

          Anh thứ Nhứt bao ḿnh bằng một lớp thuỷ tinh sáng rỡ. Những tư tưởng thấp hèn, những sự cám dỗ đê tiện, những sự lung lạc ô trược vừa đụng tới vỏ nầy rớt xuống liền. Cái Trí anh không bị đều chi khuấy rối nên tâm anh được thanh tịnh. Như vậy, không khác nào anh ẩn ḿnh trong một cái thành đồng, vách sắt, những mũi tên ở ngoài bắn vô đều rớt xuống đất găy ngang.

          Anh thứ Nh́ khác hẳn. Ḷng anh tràn ngập T́nh Thương Đức Thượng Đế. Anh ban rải Đức Từ Bi, Bác Ái cho tất cả chúng sinh khắp bốn phương, tám hướng. Thế nên, Tâm anh rất trong sạch và yên tịnh, không có một mảy bợn nhơ nào tới nhiễm nó được.

          Viện Trưởng mới nói: Chính là anh sau nầy mới thật gần nước Thiên Đường hơn anh kia.

          Vậy ta hăy bàn thử về hai trường hợp nầy.

 

TRƯỜNG  HỢP  CỦA  ANH  THỨ  NHỨT

 

          Anh thứ Nhứt biết Huyền Bí Học hay không?

          Chẳng rơ. Nhưng có thể nói rằng anh có đọc hay nghe nói việc làm một lớp vỏ tư tưởng để bao ḿnh khi đến gần một đám đông, trước khi đi ngủ hoặc tham thiền hay là ở vào một trường hợp đặc biệt nào đó.

          Lớp thuỷ tinh sáng rỡ là một h́nh tư tưởng thanh cao, trong trắng. Nó che chở anh như một cái áo giáp, tên đạn bắn vô không phủng.

          Nhưng cũng như những khí cụ khác ở ngoài, có thể tới một ngày kia nó sẽ mất đi, v́ một lư do nào đó, bởi v́ anh c̣n trẻ tuổi và không luyện tập tánh t́nh, chưa có kinh nghiệm nhiều trên Đường Đời cũng như trên Đường Đạo.

          Biết đâu anh sẽ phải đương đầu với những sự thử thách và những chướng ngại vật dựng lên. Kết cuộc như thế nào? Không thể đoán trước được.

          Thí dụ: Lớp vỏ tư tưởng nầy bảo hộ anh trọn đời. Sau khi anh thác, nó sẽ tan ră. Kiếp sau trở lại Cơi Trần, anh cũng vẫn trơ trọi và phải chiến đấu một ḿnh.

 

TRƯỜNG  HỢP  CỦA  ANH  THỨ  NH̀

 

          Anh thứ Nh́ thực hành đúng như lời dạy trong Huyền Bí Học. Tâm Đạo Đức của anh mở rộng, anh không nhờ Cái Vỏ bảo hộ nó, mà vẫn được yên tịnh, thanh bạch.

          Không ai dám nói trước rằng anh tránh khỏi những sự thử thách, nhưng ta có thể đoán rằng: Anh vượt qua chúng rất dễ dàng.

          Ḷng Sùng Đạo của anh sẽ theo anh từ kiếp nầy qua kiếp kia, và những quả tốt của anh đă tạo ra sẽ kết thành một chiếc bè từ đưa anh qua Bờ Giác.

          Thiết tưởng Người Tu Hành nên noi theo gương của anh.

          Nhưng không phải chỉ nên tránh điều xấu mà thôi; con phải tích cực làm việc lành nữa. Trong ḷng con phải tràn ngập ư muốn nhiệt liệt phụng sự cho đến đỗi con luôn luôn t́m cách giúp đỡ hết thảy các loài ở chung quanh con; không phải chỉ cho loài người mà thôi; mà cho cả thú vật và cây cỏ nữa. Con phải giúp đỡ trong những việc nhỏ hằng ngày để tạo thói quen đến khi có việc lớn cần làm, con không bỏ lỡ cơ hội hiếm có đó.

          Một lần nữa, Chơn Sư nhắc lại cho Alcyone nhớ: Phải lánh dữ và phải làm lành, tức là thụ động và hoạt động một lượt. Ngài nhấn mạnh về sự giúp đỡ trong những công việc hằng ngày cho có thói quen, chừng gặp những trường hợp lớn lao đưa tới sẽ không bỏ dở, nếu không có thói quen ắt sẽ thối chí.

          Thói quen rất trọng hệ trong sự đào luyện tánh t́nh. Thí dụ: Người kia có thói quen sớm mai phải dùng cà phê sữa, mỗi buổi sáng đúng 6 giờ 30 anh ra ngồi tiệm. Cũng như thói quen hút thuốc, uống rượu. Tại con người tập, chớ Trời nào bắt buộc con người sanh ra phải uống rượu và hút thuốc bao giờ. Một khi có thói quen rồi không phải dễ bỏ đâu.

          Cũng như sau khi nhập ngũ, người ta tập cho anh lính mới phải tuân theo kỷ luật, phải chịu cực nhọc, phải vác ba-lô nặng nề, phải chạy, phải nhảy, phải gan dạ, phải chịu đựng những sự khổ cực, gian lao, coi cái chết nhẹ như lông hồng, hầu khi ra trận dầu cho đạn bay như mưa cũng phải tuân theo mạng lịnh của cấp chỉ huy; tấn, thối đều có trật tự, đúng phép.

          Người Học Đạo và Hành Đạo lo phụng sự nhân loại cũng như anh lính lo phụng sự quê hương.

          Anh phải tự chiến đấu với bản thân, không khác nào anh lính ở giữa chiến trường chiến đấu với kẻ nghịch.

          Nhưng ta nên biết có hai hạng người phụng sự: Một hạng phụng sự trong sự hoạt động bên ngoài. Một hạng phụng sự trong sự thụ động, bên ngoài không thấy làm ǵ hết mà bên trong vẫn hoạt động với trí óc.

          Thí dụ như: Hạng Bà La Môn thuở xưa và những người thuộc về nhóm Thần Bí của Cơ Đốc Giáo.

          Hồi Đời Thượng Cổ, những người Bà La Môn bên Ấn Độ là những người hướng đạo Tinh Thần của Quốc Gia. Các vị ấy hiến ḿnh cho sự thờ phượng, cúng tế, học hỏi kinh kệ đem giáo hoá dân chúng. Những người thương gia giàu có cúng dường cho những người Bà La Môn, bởi v́ mấy vị nầy làm công việc thiêng liêng thế cho họ. Những người Bà La Môn cũng như các hàng Phật Tử Chân Chánh không thẹn thuồng khi nhận lănh những thực phẩm và y phục của người cho.

          Trong Cơ Đốc Giáo vẫn có những “Nhà Ḍng” lo cầu nguyện cho người chết. Những người nầy cho rằng: Người sống và người chết c̣n chung đụng với nhau và làm ra một Tập Đoàn. Cầu nguyện cho người chết là làm cho Tập Đoàn một việc thiết thực c̣n quan trọng hơn sự trồng tỉa. V́ vậy họ ngửa tay lănh đồ bố thí mà không thấy xấu hổ chút nào, c̣n những người bố thí lại cảm thấy ḿnh được cái vinh hạnh giúp đỡ người Chân Tu.

          Họ đă phát nguyện sống thanh bần, trinh khiết và vâng lời. Họ là những Tu Sĩ Chân Chánh đáng cho chúng ta kính nể. Đừng trách họ sao không làm lụng. Đừng lên án họ như các Nhà Cách Mạng Pháp năm 1789 gọi những Nhà Triết Học, những Văn Sĩ là những kẻ làm biếng, không làm chi ích lợi cho đời, hoặc bắt họ ra đập đá ngoài đường.

          Về Thanh Bần, Trinh Khiết và Vâng Lời, tôi xin chép những lời của Huynh Ch. Lazenby nói về 3 đức tánh đó trong quyển “Người Phụng Sự” trang 65-69 và 102-103 cho quí bạn xem.

 

THANH  BẦN

 

          “Bạn đă thắng được những sự quyến rủ, những trở lực đặt trước Phàm Ngă bạn, bạn đă thệ nguyện vâng lời Đức Thượng Đế ngự nơi tâm ḿnh, nguyện theo Tiếng Nói Vô Thinh mà không đi sái hướng, tiếng nói nầy là một thứ Nhăn Quan Tinh Thần bên trong, nó khiến bạn phân biệt được điều ǵ là Chân Chánh trong khi làm tṛn Bổn Phận do cái Lư Tưởng Phụng Sự Nhân Loại của bạn bắt phải làm.

          Bạn đă khấn nguyện Sống Thanh Bần, nghĩa là bạn đă không coi một thứ ǵ là của riêng của cá nhân bạn, nó đă kể như riêng biệt với nhân loại, bởi v́ cái Cá Nhân ấy và tất cả những ǵ liên thuộc đến nó đều đă được Hiến Dâng Tuyệt Đối cho Lư Tưởng Phụng Sự Nhân Loại. Bạn đă hy sinh đời bạn và Định Luật Tinh Thần đă bắt đầu động tác. Khi khấn nguyện Sống Thanh Bần, bạn đă nhận định rằng những vật sở hữu của bạn không phải chỉ  là tiền bạc và của cải vật chất mà thôi, nhưng cũng là những đức hạnh, những sự thành công, những tài năng, những năng bẩm thiên phú, những năng khiếu của bạn, quyền lợi bạn và tất cả những phần thưởng do Luật Nhân Quả ban cho v́ những cố gắng trong quá khứ của bạn. Bạn đă đặt tất cả những kho tàng nầy tại những nấc thang của Linh Điện,[80] và Chơn Thần Nội Tâm ngự trong trái tim tất cả mọi người đă chấp nhận sự cung hiến của bạn. Khi từ bỏ mọi tư tưởng sở hữu riêng tư, bạn đă hợp nhất với Chơn Ngă ấy và bạn luôn luôn kết hợp với nó một cách có ư thức.

 

TRINH  KHIẾT

 

          Bạn đă khấn nguyện Trinh Khiết, nghĩa là bạn đă nhất định coi Thân Thể ḿnh như một Đền Thờ của Chơn Ngă hằng sống đời đời, nó trong sạch và có thể chấp nhận được trong tất cả những cơ quan, trong tất cả những bộ phận. Bạn đă nhận định rằng chỉ có cái ǵ phát sinh tự cái tâm con người mới có thể làm cho y cao thượng hay là hèn hạ, và do đó bạn đă quyết định in trên đối tượng và giữ ở đó một h́nh hài tương ứng với những nhu cầu càng ngày càng lớn của nhân loại. Với tư cách một người phụng sự tự hiến dâng để phục vụ đời sống liên tục của nhân loại, bạn không được kiếm cách vượt khỏi giai đoạn mà ở nơi đó bạn c̣n cần có một Xác Thân, nhưng trái lại, bạn phải rán giữ Xác Thân nầy cho sạch sẽ, tinh khiết, mạnh mẽ, sáng ngời, vô bịnh tật, một dụng cụ hiệu nghiệm và thích ứng với sự phục vụ. Bạn đă nhận rằng mỗi người là một động nhân có trách nhiệm và tự do, và y hoàn toàn định đoạt tương lai của chính ḿnh, dù tốt hay xấu. Chân Lư nầy đă giải thoát bạn ra khỏi những thành kiến của những Tôn Giáo Công Truyền, với những lư thuyết nhờ cậy người khác đền tội hộ, với những núi Golgotha nơi ngoại giới và những danh từ thiêng liêng một khi xướng lên sẽ cứu rỗi được bạn. Không có Đấng Cứu Thế nào ngoài cái uy lực linh động của Chân Lư và Bác Ái trong trái tim của mỗi người. Những Vị mà người ta đồng ḷng kêu là những Đấng Cứu Thế chỉ là những vị Nam hay Nữ do Ḷng Bác Ái và Chân Lư mà nhận được Vạn Vật Nhất Thể; Đời Sống Vĩnh Cửu và Trường Sanh Bất Tử. Những Giáo Lư của các Ngài chỉ một nẻo đường nó dẫn dắt bất cứ ai theo nó đến sự cứu rỗi Linh Hồn, v́ ai cũng phải tự ḿnh cứu rỗi lấy ḿnh bằng cách tự giải thoát ra khỏi những sự cản trở và những ảo tưởng của chính Phàm Ngă của ḿnh tạo ra. Tuy nhiên tất cả những Đấng Cứu Thế ấy đều đồng ḷng nói rằng không ai có thể tự cứu rỗi khi lo riêng cho một ḿnh ḿnh, mà chỉ có thể tự cứu rỗi bằng cách hy sinh để cứu rỗi kẻ khác.

          Sự trinh khiết chân chánh là nh́n những cơ năng sinh dục, năng lực sinh dục và cơ quan sinh dục của mọi người nam, nữ với một con mắt tinh khiết và minh bạch, sáng sủa cũng như khi xem coi sự nẩy búp măng của lá hay khi coi đàn ong bay từ bông hoa nầy sang bông hoa khác, khi xem coi sự bừng nở của những mầm non hay bất cứ h́nh thức nào của sự đơm hoa kết trái trên Địa Cầu.

          Các bạn không phải đă sanh ra trong tội lỗi và các bạn không phải đă hoài thai trong sự bất chánh. Nếu những tư tưởng của bạn lành mạnh, cao thượng và thành thực, cái quyền năng sanh hoá của bạn sẽ làm cho sức khoẻ của bạn dồi dào và những đứa con do tư tưởng của bạn, do những cảm xúc sinh dục của bạn và do thể xác của bạn sanh ra cũng sẽ là những đứa con của Ánh Sáng, thân thể chúng nó sẽ tráng kiện và tánh t́nh tốt đẹp.

          Trinh Khiết, không có thói chiếm hữu riêng cho ḿnh và vâng lời Chơn Ngă nơi nội tâm từ nay, đó là những điều kiện thiết yếu của sự tiến bộ vị lai của bạn.”

 

VÂNG  LỜI

 

          Thưa Chúa Tể của Sự Tiến Bộ, Chúa Tể của bọn người đang tiến, Đức Gia Tô chói rực rỡ ánh sáng Từ Bi, ở nơi nầy với tất cả ḷng từ tốn và thành thực của con, con xin tự nguyện hiến dâng cho Ngài để phụng sự Ngài trong những công việc của nhân loại đang tiến hoá. Xin Ngài sử dụng con cách nào hay hơn hết để phục vụ đời sống của tất cả những kẻ mà con sẽ gặp.

          Cầu xin những nhược điểm của con sẽ là những sự cảnh cáo và quyền năng của con sẽ là một nguồn Thần Lực cho tất cả những Linh Hồn đang gặp những nỗi khó khăn. Cầu xin không bao giờ, v́ sợ hăi hay kiêu ngạo, v́ tự đắc hay nhút nhát, con lại từ chối, không vâng lời một huấn lệnh nào do Ngài ban cho con, hỡi Đức Cha Nội Tâm của Ánh Sáng. Cầu xin sao cho con không bao giờ do dự đứng cạnh người nào kém tiến hoá nhất, không bao giờ có một sự khiêm nhường giả dối khi thuyết tŕnh Chân Lư đúng như Ngài đă tỏ lộ cho con, dù con đứng trước các Vị Đại Thánh, các Vị Đại Nhăn Thông của Ngài cùng các Vị Chơn Sư Minh Triết và Phụng Sự. Xin Ngài hăy tăng trưởng ḷng thương yêu của con cho đến mức nó bao trùm mỗi người con của Ngài trong sự thiện cảm và thông hiểu, và xin Ngài làm cho con mất hết mọi yếu tố cứng rắn ngăn cản không cho con được dễ uốn nắn trong tay Ngài. Xin Ngài hăy nhồi luyện tư tưởng và ư muốn của con, những Thể: Xác, Vía, Trí của con, cùng hết thảy những kiếp sống vị lai của con để con có thể vâng lời một cách ngoan ngoăn hơn trước đối với Định Luật Từ Ái và Phụng Sự của Ngài. Thưa Chơn Sư, con là tôi tớ của Ngài, Xin Ngài hăy sử dụng con.

          Bởi v́ nếu con chí quyết hợp nhất với Thượng Đế, điều nầy chẳng phải dành riêng cho phần con, mà để con có thể trở thành một vận hà xuyên qua đó t́nh thương của Ngài có thể ban rải cho anh em con.

          Mục đích của quyển sách nầy là để dạy con người Sống một Đời Sống Thiêng Liêng gọi là Đời Sống Thông Thiên Học, tức là Thương Chúng Sanh một cách đậm đà, thâm thuư, thiết tha với việc lo Phụ Tá Thiên Cơ, giúp nhân loại tiến hoá và trong khi Phụng Sự quên mất Cái Ta nhỏ nhen nầy.

          Muốn làm một vận hà để chuyển di Thần Lực của các Đấng Cao Cả, tấm ḷng phải trong sạch, tư tưởng phải thanh bai, cao thượng. Cái Trí của người Đệ Tử không khác nào cột dây thép gió để thâu nhận những làn sóng điện vậy.

          Người thường khó làm một vận hà, v́ lẽ Tâm Thức chưa mở mang ở mấy Cơi Cao và 3 Thể : Thân, Vía, Trí cũng chưa được trong sạch lắm.

          Có một điều tôi tưởng các nhà tu hành nên biết là: Đức Thái Dương Thượng Đế vốn Toàn Năng, Toàn Giác, Vô Sở Bất Tại, nghĩa là đâu đâu cũng có sự hiện diện của Ngài. Về điểm nầy các Vị Cao Đồ của Chơn Sư nói rằng: Mỗi lần ta sanh ra một tư tưởng lành th́ Đức Thái Dương Thượng Đế đáp ứng lại bằng cách ban liền Thần Lực xuống cho ta. Tại sao Đức Thái Dương Thượng Đế lại biết ta sanh một tư tưởng lành? Ấy tại Tâm Thức của Ngài bao trùm Thái Dương Hệ nầy. (Xin đọc lại bài “Câu chuyện ông Ouddalaka dạy con.”)

          Cũng như Đức Ngọc Đế cai quản Địa Cầu chúng ta, Tâm Thức Ngài cũng bao trùm Thế Gian. Không có một con kiến chết hay là một sự bất công nào xảy ra mà Ngài không hay, không biết. Nhưng Ngài Đại Từ, Đại Bi để cho Nhân Quả định đoạt và dạy khôn Con Người để đem Con Người vào đường chánh.

          Xin nhắc lại: Vị Chơn Sư coi sóc địa phận mà chúng ta đang ở đây cũng vẫn biết những sự hành động của ta như một cuốn sách mở ra vậy. Người chưa tu hành không nói làm chi, chớ như ta đă biết Đạo mà c̣n để cho Vật Chất lôi cuốn, thật là đáng tiếc lắm vậy.

          Người nào đă nhập Đạo rồi th́ đời sống không phải cho chính ḿnh mà là sống cho kẻ khác; y đă quên ḿnh để có thể phục vụ cho kẻ khác, y giống như cây viết trong tay Thượng Đế, nhờ đó tư tưởng của Ngài tuôn xuống và biểu lộ nơi Cơi Trần, và nếu không có cây viết nầy th́ những tư tưởng đó không thể tuôn xuống được; mà đồng thời y cũng là cây viết sống động của Ngọn Lửa Thiêng, toả khắp Thế Gian Ḷng Bác Ái Thiêng Liêng hằng chan chứa trong ḷng y.

          Minh Triết khiến con giúp đỡ được người khác, Ư Chí dẫn đường cho Minh Triết, và Ḷng Bác Ái gợi lên Ư Chí. Đó là những đức hạnh của con.

          Người Nhập Đạo ở đây là những người Đệ Tử đă được Điểm Đạo từ 1 tới 4 lần, chớ không phải những người tu hành mà đời tôn làm Tổ Sư, nhưng chưa được vào hàng Tứ Thánh.

          Khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, vị Đệ Tử được vào Quần Tiên Hội.

          Người Nhập Đạo biết được Cơ Trời nên đă diệt tánh chia rẽ, không c̣n cho ḿnh khác biệt với người khác. Người Nhập Đạo có sự liên lạc với Quần Tiên Hội, mà Quần Tiên Hội thay mặt Đức Thượng Đế để phổ độ chúng sinh. V́ vậy Chơn Sư nói: Người Nhập Đạo là ng̣i viết trong tay Đức Thượng Đế và làm trung gian để phô diễn tư tưởng của Ngài.

          Phải là Nhân Viên của Quần Tiên Hội mới nói được câu: “Toả khắp Thế Gian Ḷng Bác Ái Thiêng Liêng hằng chan chứa trong ḷng Y.”

          Ư Chí, Minh Triết và Bác Ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế. Và con, nếu con muốn dâng ḿnh phục vụ Ngài, con phải biểu lộ ba đức hạnh đó trong đời.

          Đức Leadbeater nói: “Đây là mục đích rất cao thượng. Cầu xin độc giả đạt được mục đích nầy cũng như Alcyone đă thành công vậy.”

 

TRẠNG  THÁI  CỦA  ĐỨC  THƯỢNG  ĐẾ  THEO KINH  SÁCH  ẤN

 

          Theo Kinh Sách Ấn th́ 3 Ngôi của Thượng Đế có 3 Trạng Thái khác nhau:

          1- Trạng Thái của Ngôi thứ Nhứt Shiva là Ư Chí – Uy Quyền (Volonté – Pouvoir).

          2- Trạng Thái của Ngôi thứ Nh́ Vishnou là Minh Triết – Bác Ái (Sagesse – Amour).

          3- Trạng Thái của Ngôi thứ Ba Brahma (Phạn Vương) là Trí Tuệ Sanh Hoá (Intelligence Créatrice).

          Như thế th́ 3 Trạng Thái: Ư Chí, Minh Triết, Bác Ái trong “Dưới Chân Thầy” vốn thuộc về có hai Ngôi mà thôi.

          Ư Chí – Uy Quyền là Trạng Thái của Ngôi thứ Nhứt Shiva.

          Minh Triết – Bác Ái là Trạng Thái của Ngôi thứ Nh́ Vishnou.

          Alcyone không đề cập đến Trạng Thái của Ngôi thứ Ba là Trí Tuệ Sanh Hoá, có lẽ là bởi v́ Con Người chưa có đủ quyền năng sanh hoá như Thượng Đế.

          Huynh chỉ nhấn mạnh về Ḷng Bác Ái để Phụng Sự với một ư chí cương quyết mà thôi. Huynh nói: Ư Chí, Minh Triết, Bác Ái là 3 Trạng Thái của Thượng Đế, chớ không quả quyết Bác Ái là Trạng Thái của Ngôi thứ Ba.

          Vậy chớ nên hiểu Ư Chí, Minh Triết, Bác Ái là 3 Trạng Thái của 3 Ngôi.

 

HAI  TRẠNG  THÁI  CỦA  CUNG  THỨ  NH̀

 

          Cũng như Ngôi thứ Nh́, Cung thứ Nh́ cũng có hai Trạng Thái: Minh Triết và Bác Ái.

          1- Đức Phật Minh Triết (Bouddha de Sagesse) là Đức Thích Ca hiện thời.

          2- C̣n Đức Phật vị lai sẽ là Đức Phật Bác Ái (Bouddha de Compassion). Ấy là Đức Di Lạc Bồ Tát.

          Trong ṿng 6, 700 năm nữa, khi Giống Dân thứ Sáu sanh ra, Ngài mới thành Phật và giao quyền Bồ Tát cho Đức Đế Quân K.H.

          C̣n Đức Thích Ca không biết Ngài sẽ về đâu. Nếu muốn làm một Vị Ngọc Đế cai quản một Bầu Hành Tinh Ngài phải đổi qua Cung thứ Nhứt và phải được 9 lần Điểm Đạo.

          Tôi xin chép ra đây hai bài Phụng Sự. Bài Phụng Sự thứ Nhứt vốn của Đức Bà Annie Besant. Bài Phụng Sự thứ Nh́ vốn của Huynh Lazenby, trích trong quyển “Người Phụng Sự.”

 

BÀI  PHỤNG  SỰ  THỨ  NHỨT

 

          “Tất cả những ai có ḷng mộ Đạo đều đi t́m kiếm Chơn Sư, v́ do đó họ trở thành những Người Tự Hiến Dâng cho Công Việc Phụng Sự.

          Quần Tiên Hội là để Phụng Sự Thượng Đế và các Vị Thiên Tôn phụ tá Ngài trong việc Cai Trị Vũ Trụ chúng ta.

          Các Chơn Sư thâu nhận Đệ Tử để một khi được các Ngài giúp đỡ, họ có thể Phụng Sự một cách đắc lực hơn. Các Ngài chọn Đệ Tử trong nhóm người cố gắng Phụng Sự và có nguyện vọng Phụng Sự hoàn hảo hơn. V́ thế cho nên tất cả chúng ta đều phải dự một phần hoạt động vào Công Việc Phụng Sự, hoặc bằng cách nầy, hoặc bằng cách khác. Tất cả chúng ta đều phải có công việc làm trong thế giới bên ngoài.

          Thế nên tất cả ba Con Đường: Sùng Tín, Trí Tuệ, Hành Động đều là những Con Đường Phụng Sự. Tất cả đều dắt dẫn đến Công Việc Phụng Sự toàn hảo Công Nghiệp của Quần Tiên Hội trong Thế Giới chúng ta hay những Hệ Thống Thiêng Liêng khác, tức là những Bầu Hành Tinh khác trong khắp cả Thái Dương Hệ.

          Vậy chúng ta hăy đi trên Con Đường mà chúng ta có thể theo đuổi. Điểm chót của Con Đường là: Công Việc Phụng Sự, Phụng Sự trong Hàng Ngũ Quần Tiên Hội, Pḥ Trợ, Bảo Trợ Thế Giới chúng ta.

          Bởi thế chúng ta sụp qú dưới chân các Đấng Phụng Sự Thế Gian và cầu xin nơi các Ngài sự giúp đỡ và hướng dẫn; nhờ những điều nầy mà chúng ta đạt được mục đích.”

 

LỜI  CẦU  CHÚC  CỦA    ANNIE  BESANT

 

          “Hỡi các Huynh Đệ của tôi! Huynh Đệ khởi sự bắt tay vào một công việc vô cùng vinh quang mà cũng cực kỳ khó khăn. Cầu xin Huynh Đệ sớm thấy được Ánh Sáng mà Huynh Đệ t́m kiếm và Sư Phụ tác thành cho Huynh Đệ được sanh ra Lần thứ Nh́.”[81]

ANNIE  BESANT

 

BÀI  PHỤNG  SỰ  THỨ  NH̀

 

          “Quần Tiên Hội do những Vị Phụng Sự Nhân Loại hợp thành, không ai có thể là Nhân Viên Quần Tiên Hội, nếu không Hiến Dâng Đời Ḿnh để Phụng Sự Loài Người. Mỗi Nhân Viên đều thệ nguyện Giúp Đỡ Nhân Loại trong cuộc hành tŕnh xa xôi và Dạy Dỗ Con Người trải qua các Giống Dân, về những điều cần thiết ở mỗi chặng liên tiếp của con đường tiến hoá. Kẻ ít tiến hoá nhất của Nhân Loại cũng là kẻ đáng cho ta quan tâm đến, và những nhu cầu của y cũng phải được những người bạn chân chánh của ḍng giống người chú ư tới. Đời sống Nhân Loại tiến hoá qua 14 Nhánh Dân Phụ, mỗi Nhánh Dân Phụ lại chia làm 7 Tiểu Chi hay là Họ. Quần Tiên Hội cũng chia ra nhiều Khu Vực tương đương như vậy.[82] Mỗi Họ trong các Nhánh Dân Phụ được coi sóc và d́u dắt bởi một Nhóm Người Phụng Sự có nhiệm vụ che chở và soi sáng cho Họ ấy.

          Như thế, những phương pháp dạy dỗ tính chất các bài phải học rất khác nhau. Những lư tưởng rất khác biệt, nhưng tất cả đều cần thiết cho Đời Sống Nhân Loại đang tiến hoá. Minh Triết là biết dùng học thức một cách đúng đắn. Phải thâu thập kiến thức rồi tiêu hoá nó, đồng hoá nó, sau phải dùng kiến thức ấy Phụng Sự Nhân Loại. Khi một người đă hiểu một lư tưởng cao cả hơn và hiểu một quan niệm về Thế Gian thích hợp với những h́nh thức của sự sống mà Nhân Loại phải đạt tới để tiến lên một bước nữa, người ấy như đem rọi vào đời sống của y một h́nh ảnh của cái lư tưởng mà y đang tượng trưng, bởi v́ tất cả những ǵ mà người ta gieo mầm trong tâm và trí con người đều đơm bông kết trái dưới h́nh thức của sự hành động. Những Người Ấy là những Vị Bồ Tát, hay là sự hiện thân của Bát Nhă, hay là Minh Triết, và ở mỗi Họ khác nhau trong những Nhánh Dân Phụ của Giống Dân Chánh, thỉnh thoảng người ta thấy những Vị Bồ Tát ra đời. Đối với con cháu Loài Người, các Ngài là những Kiểu Mẫu.

          Những người ích kỷ, vô lương tâm thường tụ hợp xung quanh các Ngài và t́m cách ngăn cản các Ngài hành động. Họ dùng những phương tiện khác nhau. Có khi họ dạy những huynh đệ họ, những kẻ ít có bản ngă vững chắc, rằng Đức Bồ Tát cao thượng quá, không thể làm gương cho kẻ tầm thường được, hoặc họ biến đổi Ngài thành một Vị Thần Linh, một Vị Thượng Đế phải thờ phụng; như thế họ làm cho Đức Bồ Tát tách xa, rời khỏi đời sống thực tế, xa cách những ai cần nghe lời Ngài dạy bảo; hay là họ giết Ngài đi, xuyên tạc, phá hoại Giáo Lư của Ngài, gán cho Ngài lời nói làm lợi lộc cho những mục đích ích kỷ của họ; ư nghĩa những lời nói xuyên tạc nầy hoàn toàn trái ngược hẳn với nhiệm vụ và lư tưởng của Ngài.

          Một trong những nhiệm vụ của các Nhân Viên Quần Tiên Hội là che chở Chân Lư thoát khỏi tay các Tăng Lữ của những Tôn Giáo Công Truyền, những kẻ tàn bạo ấy giống như Bạo Chúa Hérode ngày xưa, lúc Đức Gia Tô giáng sinh, đă cho rượt đuổi và giết chết các hài nhi. Nhờ vậy, lư tưởng của Đức Bồ Tát được giữ ǵn và truyền cho các đời sau, mặc dầu có những sự công kích của đám Tăng Lữ ích kỷ. Khi thấy Chân Lư thoát khỏi bàn tay tham lam của họ, bọn nầy, liền xây dựng những Nhà Thờ, Đền, Chùa, giống như những con nhện giăng tơ để hút máu lũ con mồi, mới đây là những huynh đệ của họ nhưng không ích kỷ bằng họ; có lẽ những huynh đệ nầy rất muốn được nếm mật ngọt của Chân Lư mà Đức Bồ Tát tượng trưng.

          Chỉ cần một hay là hai định nghĩa nữa là xong mục “Vào Đề” nầy.

          Một nhà Huyền Bí Học có thể là một Sinh Viên học hỏi những Khoa Học Huyền Bí hoặc là một người có Pháp Thuật sử dụng trong những Cảnh Giới khách quan và chủ quan, sự hiểu biết của y về những năng lực tiềm tàng của Con Người và Thiên Nhiên.

          Sinh Viên khảo cứu về Huyền Bí Học có thể ích kỷ hay vô tư lợi. Y có thể t́m cách phát triển cá nhân y do sự luyện tập tự chủ gắt gao trong tất cả những thành phần của Linh Hồn y, hay là có thể y mong muốn Cơi Thiên Đàng mở cửa trong ḷng tất cả mọi người và t́m cách mở cửa Cơi Thiên Đàng ở chính bản thân y nhờ sống một cuộc đời luôn luôn giúp đỡ kẻ khác, một cuộc đời cảm hứng bởi những tư tưởng Từ Bi Bác Ái. Ở trường hợp sau đây, chẳng bao lâu, y sẽ nhận thấy rằng tất cả của cải và uy quyền của Thế Gian nầy sẽ được mang đến cho y, đây là sự ban thưởng thêm cho y, dù y không c̣n lưu tâm đến sự đó một cách đặc biệt. Như vậy, người ta có thể chia Sinh Viên Huyền Bí Học ra làm hai hạng, một hạng mong mỏi có những kiến thức và một hạng muốn thành những người hữu dụng; hai hạng nầy, càng ngày càng đi tới th́ sự tiến bộ và sự phát triển của họ càng khác xa nhau. Cuốn sách nầy viết ra đây không phải để cho những người ham có những kiến thức và nếu độc giả thuộc về hạng nầy, tốt hơn hết là hăy dẹp cuốn sách nầy lại một bên. Nhưng nếu họ muốn giúp đỡ đồng loại đang chiến đấu trong sự dốt nát và sự hỗn độn, nếu họ muốn phát triển những Thần Lực, và những khả năng của Linh Hồn để đạt được mục đích giúp đời ấy, th́ cuốn sách nầy sẽ giúp ích cho họ vậy.

          Cuốn sách nầy cũng như một bản toát yếu những Qui Luật mà ai muốn làm Kẻ Phụng Sự Nhân Loại phải tuân theo; người ta ví Nhân Loại như Trẻ Mồ Côi không người săn sóc, những Người Phụng Sự nầy muốn phát triển Linh Hồn để có thể thành những dụng cụ hữu ích mà Đức Thượng Đế có thể sử dụng để giúp con người tiến hoá. Những Qui Luật nầy, nếu được tuân theo, sẽ dẫn Thí Sinh đến địa vị Nhân Viên của Quần Tiên Hội và sẽ làm cho họ được liên lạc trực tiếp với những Vị Phụng Sự, các Ngài đă từ nhiều thế kỷ Hiến Dâng cả Thể Xác lẫn Tâm Hồn mưu cầu hạnh phúc cho Nhân Loại. Những Qui Luật nầy được lập thành dành cho những ai muốn gặp và muốn biết các Chơn Sư Minh Triết, các Ngài đang coi sóc và che chở Nhân Loại trên con đường tiến hoá. Có một nhóm gồm những Người Phụng Sự hiến ḿnh Phục Vụ Đời Sống Cao Cả, khi Đời Sống nầy biểu lộ qua những con người của các quốc gia và các xứ sở. Đời Sống Cao Cả nầy chỉ là một mà thôi. Đó là cái ánh sáng mà mỗi người đều mang ở trong Tâm Ḿnh. Những Đấng Cứu Thế là những Nhân Viên của Quần Tiên Hội, thỉnh thoảng xuất hiện trong đời sống công cộng của Nhân Loại để tiết lộ Con Đường Chánh Đạo và chỉ Con Đường mà những ai theo nó sẽ hết Mê Muội và hết Điên Cuồng. Con Đường nầy có thể dẫn Con Người đến Ánh Sáng Quang Minh của Tri Giác, Ánh Sáng nầy giúp y thoát ra khỏi những hạn định của chất hữu hoại, chết chóc để về ở một cách có ư thức trong Cơi Trường Sanh Bất Tử.”

LAZENBY

 

                   Ch đi lời dạy của Chơn Sư,

                   Ŕnh xem ánh sáng ẩn tàng.

                   Lắng nghe hầu nhận được mạng lịnh của Ngài,

                   Dầu ở chính giữa băi chiến trường.

                   Chủ ư từ nét dấu của Ngài,

                   Trên đám đông quần chúng.

                   Nghe tiếng th́ thầm của Ngài,

                   Xuyên qua những lời ca hát vang rền của Thế Tục.

          Đọc 8 câu nầy, thấy Kẻ Chí Nguyện làm Đệ Tử phải để tâm trí yên lặng đặng nghe Mạng Lịnh của Chơn Sư, cũng có thể gọi là Tiếng Nói Vô Thinh và t́m cách thấy được Ánh Sáng Ẩn Tàng. Ánh Sáng nầy là Ánh Sáng Chân Lư, là Sự Sống, là Chơn Thần, là Thượng Đế, bởi v́ sự hiện diện của Ngài ở khắp mọi nơi.

          Thuở xưa, Đức Bồ Tát, ngày nay là Đức Phật Thích Ca, lâm phàm tại Ai Cập, Ngài lấy tên là Tehouti, hoặc Thoth, sau người Hy Lạp gọi là Hermès Trismegiste.[83]

          Ngài dạy như vầy: “Đâu đâu cũng có Ánh Sáng. Ánh Sáng là Thượng Đế vốn ở trong Tâm của Con Người, nó cũng là Chơn Nhơn, mặc dầu người đời không biết tới Nó. Ánh Sáng là Sự Sống của Con Người, Nó ở trong ḿnh Vạn Vật.”

          Ngài bảo Tín Đồ lặp lại câu: “Tôi là Ánh Sáng. Ánh Sáng là tôi.”

          Nói cho đúng, muốn nhận được Mạng Lịnh của Chơn Sư phải có sự liên lạc với Ngài, tức là làm Đệ Tử Chánh Thức của Ngài. Chớ người thường chỉ để trí óc lo cho sự sanh sống Vật Chất hằng ngày, chưa mở mang Tâm Thức làm sao nghe được Lời Dạy Dỗ, mặc dầu Tiếng Nói của Ngài vang rền.

          Nói tóm lại, người đời không thể thực hành được những lời nói trong 8 câu nầy, tuy nhiên cũng nên đọc cho biết để chuẩn bị trước mà thôi.

 

CHUNG

         

 

 

                   Trông Thầy nhỏ phước phán lời lành,

                   Sáng ẩn, ŕnh xem, bỏ lợi danh;

                   Lặng lẽ mong nghe Ngài hạ lịnh,

                   Quản bao giữa đám cạnh cùng tranh;

                   Chăm chăm trong dấu chốn Linh Đài,

                   Thoát tục mặc dù Thế mỉa mai;

                   Văng vẳng lời vàng Thầy khuyến thiện,

                   Ngoài tai rộn rực tiếng Trần Ai.

                   Ông LÊ  THÀNH LONG (Bà Rịa – Thích Nôm)      

                                      *******************

 

 

 

 

         

          Tôi lấy ư nghĩa 8 câu chữ Pháp đặt ra một bài Tứ Tuyệt như vầy:

                             Đạo không rời bước, chẳng ĺa ḿnh,

                             Chi sá phồn hoa cảnh sắc thinh.

                             Chăm chỉ xem qua từ nét dấu,

                             Nghe Thầy dạy dỗ chữ đinh ninh.

                                                BẠCH  LIÊN


TOÁT  YẾU  DƯỚI  CHÂN  THẦY

DƯỚI  CHÂN  THẦY  DẠY  ĐẠI  ĐỊNH    SỐNG  THIỀN

 

          Tầm Đạo là t́m những quyền năng biến đổi Con Người ra một Vị Siêu Phàm trước ngày giờ đă định sẵn cho Nhân Loại trong Vũ Trụ nầy, chứ không phải luyện tập những Phép Thần Thông như sai Thần, khiến Quỉ, kêu mưa, hú gió, xuất Vía, xuất Hồn.

          Quyền năng đó vốn ở trong ḿnh Con Người. Ấy là Tâm Thức phát triển càng ngày càng thêm rộng lớn và cao siêu.

          Muốn mở mang Tâm Thức, trước nhất phải lo Rửa Sạch Phàm Tâm, phải Tự Chủ, phải Khắc Kỷ, phải Chế Ngự 3 Thể: Thân, Vía, Trí, phải Tinh Luyện Chúng rồi lo Phụng Sự với Tấm Ḷng Vị Tha.

          “Dưới Chân Thầy” là quyển sách Đạo quí báu nhất trên đời, khuôn khổ tuy nhỏ mà những lời dạy trong đó có một tầm mức quan trọng và rộng lớn vô cùng. Nó nói một chút ít về mặt lư thuyết, nhưng đề cập rất nhiều về phương diện thực hành. Trong đó chỉ cho các bạn độc giả biết những điểm chánh liên quan với nhau và rất cần thiết cho sự Tu Tâm Luyện Tánh như sau đây:

          1- Trời có một cái Cơ mà Cơ đó là Sự Tiến Hoá. Vậy Con Người sanh ra ở Cơi Trần để Tiến Hoá.

          2- Muốn Tiến Hóa phải dẹp những chướng ngại dựng lên cản trở bước đường của Hành Giả.

          3- Những chướng ngại đó là những tánh xấu của 3 Thể: Thân, Vía, Trí mà Phật Giáo gọi là Tam Độc: Tham, Sân, Si. Chúng là những ảo ảnh, án mắt Con Người không cho thấy sự thật.

          4- Phương pháp diệt trừ những chướng ngại đó là ở mỗi giờ, mỗi phút, phải hết sức chú ư vào những Tư Tưởng, Ư Muốn, Lời Nói và Việc Làm để hướng dẫn chúng vào Con Đường Từ Thiện và Chân Chánh hầu Phụng Sự được Lợi Ích Hữu Hiệu và Vô Tư Lợi.

          5- Thế th́ “Dưới Chân Thầy” dắt quí bạn đi từ chỗ “Định” đến chỗ “Đại Định” và “Sống Thiền” bằng cách Hành Động mà quí bạn không ngờ vực chút nào.

          Nói một cách khác, “Dưới Chân Thầy” dạy quí bạn Tu trong sự Hành Động ở giữa Chốn Phồn Hoa Đô Hội, khỏi vào Chùa tụng Kinh, niệm Phật.[84]

          6- Có Hành Động quí bạn mới thấy rơ những chỗ c̣n khuyết điểm để bồi bổ lần lần trở nên khôn ngoan và cao thượng hơn trước.

          7- Như vậy, Đại Định và Sống Thiền bằng sự Hành Động khai sáng cho quí bạn mau hơn việc ngồi trầm tư mặc tưởng mỗi ngày hai lần, mỗi lần nửa giờ, cả năm như vậy mà chung cuộc không đem lại kết quả tốt đẹp như Hành Giả mong muốn.

          Nói cho đúng lư, dầu cho đọc cả chục quyển Thiền Luận và Tịnh vài chục năm mà không t́m ra Mối, không biết Định Trí, không biết Suy Tư và không biết Ư Muốn không tốt từ đâu sanh ra và không có Phương Pháp Sửa Trị Chúng th́ cũng uổng công vô ích. Mới vừa ngồi xuống tâm đă loạn động, nhớ Đông, nhớ Tây, muốn làm cái nầy, toan bỏ cái kia, hối tiếc những việc đă qua và lo nghĩ những điều sẽ tới, quên mất vấn đề chánh phải giải quyết. Rốt cuộc có thâu thập được cái chi tốt đẹp đâu mà gọi là Ngộ.

          Một vị La Hán có nói: “Ai thực hành đúng 100% những Lời Dạy trong quyển “Dưới Chân Thầy,” người đó sẽ là một Vị Siêu Phàm.”

          Không khác nào quyển “Thánh Ca Bhagavad Gita,” quyển “Dưới Chân Thầy” dạy Karma Yoga, tức là Yoga của Con Đường Hành Động, những điều mà ai ai cũng có thể thực hành được, không nhiều th́ ít, nếu cố gắng và bền chí.

          Quả thật, trong Chu Kỳ nầy, tự chủ là một việc cực kỳ khó khăn, nhưng không phải là không thể làm được nếu con người cương quyết. “Chí công mài sắt, chầy ngày nên kim.”

          Cho hay, nếu Đắc Đạo thành Chánh Quả dễ như trở bàn tay, th́ Ngôi Vị Chơn Tiên không có giá trị ǵ  hết.

 

TOÁT  YẾU  VỀ  4  ĐỨC  TÁNH

 

          “Dưới Chân Thầy” dạy chúng ta 4 điều sau đây:

          1- Lánh Dữ.

          2- Làm Lành.

          3- Rửa Ḷng cho Trong Sạch.

          4- Phụng Sự với tánh cách Vô Tư Lợi.

         

4  ĐỨC  TÁNH :  HẠNH  PHÂN  BIỆN,  HẠNH  KHÔNG  HAM  MUỐN,  HẠNH  KIỂM  TỐT    HẠNH  BÁC  ÁI  ĐỀU  LIÊN  QUAN  MẬT  THIẾT  VỚI  NHAU

1- VỀ  HẠNH  PHÂN  BIỆN

 

          Trước nhất, Con Người phải Tự Biết Ḿnh. Phải biết Ḿnh là Chơn Thần, chứ không phải là Xác Thân hữu h́nh, hữu hoại  nầy và cũng phải biết Con Người xuống Cơi Trần để tiến hoá. Muốn tiến hoá cần thực hành đúng theo Thiên Cơ. Phải lánh dữ và làm lành. Và muốn làm lành cần phải biết điều nào phải, điều nào quấy, điều nào tà, điều nào chánh, điều nào hữu ích nhiều, điều nào hữu ích ít. Tức là phải biết Phân Biện.

 

2- VỀ  HẠNH  KHÔNG  HAM  MUỐN

 

          Phân Biện xong, phải tập Dứt Bỏ những cái giả tạm, những ư muốn đê tiện, thấp hèn, quyến rủ Con Người vào đường tội lỗi và buộc trói Con Người vào bánh xe Luân Hồi từ kiếp nầy qua kiếp kia. Phải t́m cái vĩnh viễn, trường tồn và loại bỏ những cái phù du, ảo mộng chỉ dùng được trong một kiếp người mà thôi.

          Đây quả thật là Chân Thành Đoạn Tuyệt.

 

3- VỀ  HẠNH  KIỂM  TỐT

 

          Phân Biện và Đoạn Tuyệt xong, liền thấy: Muốn thành một người hoàn toàn, Tâm và Trí phải mở mang một lượt với nhau đầy đủ. Tư Tưởng, Ư Muốn, Lời Nói và Việc Làm phải ở dưới quyền điều khiển của Con Người. Chúng nó phải hết sức Chân Chánh và hướng về Con Đường Từ Thiện. Nói một cách khác là Hạnh Kiểm phải Thật Tốt.

 

4- VỀ  HẠNH  BÁC  ÁI

 

          Có Hạnh Kiểm Tốt sẽ Phụng Sự Đắc Lực và Vô Tư Lợi.

          Tất cả những hành động phải xây dựng hạnh phúc cho Nhân Loại.

 

NÓI  TÓM  LẠI

 

          Muốn Phụng Sự đắc lực và vô tư lợi, Hạnh Kiểm cần phải Thật Tốt.

          Muốn cho Hạnh Kiểm Thật Tốt phải Đoạn Tuyệt những sự ham muốn sái quấy, thấp hèn.

          Và muốn Đoạn Tuyệt những sự ham muốn sái quấy thấp hèn cần phải biết Phân Biện, tức là hiểu rơ điều nào dữ, lành, tà, chánh, hữu ích nhiều, hữu ích ít.

          Sống theo những lời dạy trong quyển “Dưới Chân Thầy” tức là cầm vận mạng của ḿnh trong tay và tương lai sẽ được bảo đảm.

 

NHỮNG  ĐIỂM  CHÁNH  TRONG  QUYỂN  “DƯỚI  CHÂN  THẦY”

 

          Tôi soạn ra sau đây những Điểm Chánh trong quyển “Dưới Chân Thầy.” Quí bạn đọc những Điểm Chánh thiên nào nên xem lại thiên đó. Như vậy, quí bạn sẽ dễ nhớ những lời dạy của Chơn Sư dạy và đem ra thực hành, bởi v́ ngày nào cũng có những cơ hội đưa đến. Đạo quí ở nơi Hành chớ không phải ở nơi Thuyết.

          Phải dùng “Dưới Chân Thầy” như một tấm gương để soi ḿnh mỗi ngày. Nếu thấy chỗ nào chưa được sạch nên gội rửa liền.

          Nếu Kinh Thành Ba Lê không phải xây dựng một ngày, một bữa mà hoàn tất, ta đây cũng vậy: Phải tu hành nhiều kiếp, mỗi kiếp đều cố gắng bước lên cao tới một ngày kia mới Đắc Đạo thành Chánh Quả, thành một Vị Siêu Phàm.

          Nước chảy đá ṃn, không ai cản trở được Luật Tiến Hoá.

 

LỜI  TỰA  CỦA  ĐỨC    A. BESANT

 

          “Dưới Chân Thầy” là quyển đầu tiên của một em c̣n thơ, nhưng Xác Phàm em nhỏ, chớ Linh Hồn em không nhỏ đâu.

          Em viết rất chậm chạp và một cách khó khăn những lời của Chơn Sư dạy, v́ năm ngoái (1909) em chưa giỏi tiếng Anh như bây giờ (1910).

          Nếu noi theo gương nầy và giữ vẹn những lời giới răn, độc giả sẽ đặt những bước đầu tiên trên Đường Đạo, cũng như tác giả đă bước vào đó vậy.

 

KÍNH  TẶNG  NHỮNG  AI    CỬA

 

          Gơ Cửa đây là gơ Cửa Đạo.

          Giới Đạo Đức có câu: “Hăy kiếm ngươi sẽ gặp, hăy gơ Cửa người ta sẽ mở.” (St Matthieu Chap VII, 7)

 

BA  CÂU  CẦU  NGUYỆN

 

          Cơi Trần nầy là Cơi Giả, Cơi Tối Tăm và Cơi của Sanh, Lăo, Bịnh, Tử.

          Cơi Niết Bàn mới thật là Cơi Chân, Cơi Sáng Suốt và Cơi Trường Sanh Bất Tử.

          Ba câu Kinh nầy vốn ở trong quyển “Brihad Aranyaka Upanishad” viết bằng chữ Bắc Phạn (Sanscrit).

 

LỜI  NÓI  ĐẦU  CỦA  ALCYONE

 

          Mấy Lời Nầy vốn của Sư Phụ tôi dạy tôi. Nhờ Ngài giúp tôi mới bước vào Cửa Đạo. Những Lời của Sư Phụ tôi hữu ích cho anh nếu anh tuân theo.

          Phải chăm chỉ từng dấu, từng nét, bởi v́ Chơn Sư không nói hai lần.

 

4  ĐỨC  TÁNH

1- HẠNH  PHÂN  BIỆN

 

          1- Những mục đích thật.

          Phân biện Sự Chân và Sự Giả, từ khi mới bước vào Đường Đạo, tức là được Điểm Đạo Lần thứ Nhứt cho tới khi đi mút Đường Đạo, thành một Vị Siêu Phàm được 5 Lần Điểm Đạo.

          Chỉ trong Đường Đạo mới có dạy những điều đáng thu lănh mà thôi.

          Giàu Sang và Quyền Thế là hai tước lộc dùng được lâu lắm là một đời. V́ thế chúng nó là mộng ảo.

          Trên Thế Gian chỉ có hai hạng người: Những người hiểu biết và những người không hiểu biết.

          Hiểu biết đây là hiểu biết Cơ Trời đối với Con Người. Cơ đó là Sự Tiến Hoá. Sự hiểu biết nầy mới là trọng đại, c̣n sắc da và ṇi giống của Con Người là điều không quan hệ. Sự tốt đẹp và sự vinh diệu của Con Người là hợp tác với Thiên Cơ, đồng hoá với Thiên Cơ và giúp cho Thiên Cơ mau thành tựu.

          Phải cương quyết làm lành và làm việc cho Cơ Tiến Hoá chớ không v́ quyền lợi riêng tư.

          Người thuận theo lẽ Trời là một phía với Tiên Thánh, dầu y là người nước  nào, hay giữ Đạo nào cũng không hề chi cả.

          Bởi Vạn Vật Nhất Thể cho nên điều chi Trời muốn, điều đó sẽ làm đẹp ḷng mọi người.

          Phải phân biện điều lành với điều dữ, điều hữu ích với điều vô ích, hữu ích nhiều với hữu ích ít, thực với hư, ích kỷ với vô tư lợi.

          Người nào muốn theo Chơn Sư nhất định làm lành với bất cứ giá nào.

          2- Cách sanh hoạt của 3 Thể.

          Con Người khác hơn những Thể của Nó. Ta phải phân biệt chúng  nó và tự biết ḿnh là chủ của chúng.

 

XÁC  THÂN

 

          Khi Xác Thân muốn  điều chi, ta hăy ngưng lại và suy nghĩ coi có phải thật ta muốn điều đó không?

          Ta là Thượng Đế, ta chỉ muốn điều nào Thượng Đế muốn mà thôi.

          Nhưng phải đi sâu vào Nội Tâm mới t́m được Đức Thượng Đế.

          Phải nuôi dưỡng Xác Thân với những thực phẩm tinh khiết, đúng phép vệ sinh, săn sóc nó thật kỹ lưỡng, hết sức sạch sẽ, không bắt nó làm việc quá sức.

          Phải có một Xác Thân tinh khiết và tráng kiện mới có thể luyện tập để bước vào Cửa Đạo được.

          Vậy Con Người phải làm chủ Xác Thân, chớ không để Xác Thân sai khiến Con Người.

 

CÁI  VÍA

 

          Cái Vía ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liền liền.

          Nó muốn Con Người nóng nảy, giận hờn, nói những lời nặng nề, tham lam, ganh tị, ngă ḷng, rủn chí và nhiều điều khác nữa.

          Phải phân biện điều nào là ư muốn của Con Người, và điều nào là ư muốn của Cái Vía.

 

CÁI  TRÍ

 

          Cái Trí xúi giục Con Người kiêu căng, chia rẽ, khinh khi thiên hạ và nghĩ tới sự tiến hoá riêng tư của ḿnh, thay v́ lo công việc của Chơn Sư.

          Nó phá Con Người và làm cho không Thiền Định được. Con Người phải phân biện, nếu không sẽ thất bại.

          3- Điều lành và điều dữ.

          Huyền Bí Học không công nhận có sự thoả hiệp giữa điều lành và điều dữ. Phải làm việc lành, không nên làm việc ác, mặc t́nh ai nói sao cũng được.

          Áp dụng một cách khôn ngoan vào đời sống hằng ngày những Luật Trời vừa khám phá ra. Nhân nhượng cho kẻ khác những việc không trọng hệ. Ăn ở cho dễ thương, tử tế và hoà nhă. Để cho thiên hạ trọn quyền tự do như quyền tự do ḿnh đang hưởng.

          Không nên xét đoán theo giá trị bên ngoài những sự việc. Làm một chuyện nhỏ mọn mà hữu ích cho công việc của Chơn Sư hay hơn thực hành một việc theo ư nghĩ của Thế Tục họ cho là rất tốt.

          Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt đẹp, cao quí và hữu ích. Nhưng nuôi Linh Hồn họ lại càng tốt đẹp, cao quí và hữu ích hơn. Người giàu nuôi được Xác Thân, chỉ có người hiểu biết nuôi được Linh Hồn mà thôi.

          C̣n không biết bao nhiêu điều phải học hỏi trong Đường Đạo. Ngay bây giờ, trước hết phải học món nào giúp ḿnh hữu ích hơn hết cho thiên hạ. Phải hiếu học, bởi v́ người hiểu biết mới có thể giúp đời một cách khôn khéo. Người dốt nát chắc chắn làm hại nhiều hơn là làm lợi.

          4- Phải hết sức ngay thật.

          Phải hết sức đúng đắn trong tư tưởng, trong lời nói và việc làm.

          Người nào bị dị đoan chi phối không tiến hoá được.

          Chớ nên cho một ư kiến đúng đắn bởi v́ nhiều người cho nó là đúng đắn hay là v́ thiên hạ đă xét đoán nó mấy thời đại rồi, hoặc thấy nó ở trong một cuốn sách gọi là sách Thánh. Phải tự ḿnh xét xem ư kiến đó hữu lư hay không?

          Người nào muốn đi trên Đường Đạo phải tập tự ḿnh suy tưởng.

          Phải trừ khử trọn vẹn thói dị đoan, v́ nó là một chướng ngại và là một tai hoạ lớn lao nhất trên Thế Gian.

          Không nên gán cho kẻ khác những điều không có thật. Đừng nghi ngờ người kia có ư muốn hại ḿnh, muốn nhục mạ ḿnh, bởi v́ y nói với ḿnh một cách xẳng xớm, quạu quọ. Mỗi Linh Hồn đều có sự lo lắng riêng và thường thường chỉ lo cho một ḿnh y. Có lẽ v́ bị ai chọc tức nên y mắng xối ḿnh cho đă nư giận.

          Sự nóng giận nào cũng là điên cuồng.

          Chừng nào làm Đệ Tử Chánh Thức của Chơn Sư mới có thể đem tư tưởng ḿnh so sánh với tư tưởng Thầy ḿnh. Nếu hai tư tưởng không phù hợp phải sửa đổi tư tưởng ḿnh lập tức.

          Không nên nghĩ hay nói điều ǵ theo ư ḿnh, khi biết rằng Chơn Sư không thể nói hay nghĩ như vậy. Phải nói thật đúng, đừng khoác lác, phóng đại.

          Chỉ có Thầy mới biết rơ tư tưởng của Học Tṛ ḿnh mà thôi.

          Đừng lặp lại một câu chuyện có hại cho kẻ khác. Dầu câu chuyện đó có thật, cũng đừng nói tới mới thật có ḷng dạ nhân từ.

          Không nên phô trương những điều ḿnh “thật sự không có.”

          Tinh Quang của Chân Lư bị sự giả trá ngăn cản không cho nó soi sáng ḷng ta được.

          5- T́nh Bác Ái và Sự Sống Thiêng Liêng.

          Phải biết điều nào không ích kỷ và điều nào ích kỷ.

          Sự ích kỷ có thiên h́nh vạn trạng. Diệt nó ở phương diện nầy nó liền tái sanh dưới phương diện khác.

          Phải lo giúp đỡ kẻ khác cho đến đỗi trong trí ta không c̣n ngày giờ nghĩ đến cá nhân ḿnh nữa.

          Phải phân biện Đức Thượng Đế ở trong thân các Loài Vật, dầu cho chúng nó thật xấu xa hay là dường như xấu xa.

          Ta có thể giúp kẻ khác, v́ ta với họ đồng chung có Sự Sống Thiêng Liêng.

          Hăy học cách đánh thức Sự Sống Thiêng Liêng trong tâm kẻ khác, như vậy mới cứu họ khỏi tai hại.

 

2- HẠNH  KHÔNG  HAM  MUỐN

 

          1- Dứt tuyệt ḷng ham muốn.

          Đứng trước Thánh Dung, tất cả mọi sự ham muốn đều tiêu tan, ngoại trừ việc muốn sao cho được giống như Ngài vậy.

          Khi hiểu tại sao tiền bạc và uy quyền không đáng ra công chiếm hữu ta sẽ hết ham muốn chúng nó.

          2- Chỉ có một điều ham muốn tốt hơn hết.

          Đừng mong mỏi được về Thiên Đàng hay là thoát đoạ Luân Hồi.

          Không diệt hết các sự ham muốn sẽ không rảnh rang để lo lắng công việc của Chơn Sư.

          Đừng ham muốn thấy kết quả công việc ḿnh làm hoặc thấy ḿnh đă giúp ai tới mức độ nào, hoặc muốn người ấy biết ơn ḿnh.

          Phải làm lành v́ ưa mến việc lành, phải làm việc v́ ưa thích làm việc. Phải xả thân giúp đời v́ thương đời và không làm ǵ khác hơn nữa.

          3- Những Phép Thần Thông.

          Đừng ham những Phép Thần Thông.

          Cưỡng bách luyện tập chúng nó sẽ mang các thứ phiền năo.

          Người có Phép Thần Thông hay khoe ḿnh, tưởng ḿnh không lầm lạc, y thường bị bọn Ma Quái gạt gẫm. Ngày giờ luyện tập mấy Phép đó nên dùng vào việc giúp đời, hay hơn.

          Khi Tâm Thức Con Người mở mang, tự nhiên y sẽ có Phép Thần Thông.

          Nếu Chơn Sư thấy Phép Thần Thông hữu ích cho Đệ Tử, Ngài chỉ y cách luyện tập, khỏi lo sợ tai hại.

          4- Những sự ham muốn nhỏ nhen.

          Chớ nên có ư khoe ḿnh xuất sắc hay tỏ ra thông minh.

          Đừng ham nói. Trước khi nói hăy suy nghĩ xem lời nói có hội đủ 3 đức tánh nầy không: Chân Chánh, Dễ Thương, Hữu Ích. Nếu không th́ nên làm thinh.

          Đừng ham nói những chuyện tầm phào, phù phiếm, vô vị.

          Tập có thói quen nghe hơn là nói.

          Bốn đức tánh phải tập cho được là: Tri, Cảm, Nguyện, Mặc. Đức tánh thứ tư Mặc (Nính Thinh) là khó tập hơn hết.

          5- Hăy lo lắng việc nào có can hệ với ḿnh.

          Đừng xen vào việc thiên hạ, việc nào người ta làm được hay tin được hăy để cho người thực hành theo ư họ muốn.

          Phải trọng quyền tự do của kẻ khác. Không nên kích bác khi họ sử dụng quyền tự do của họ.

          Thấy ai làm ác với trẻ con hay là thú vật phải ngăn cản.

          Nếu lănh phần giáo dục người nào phải chỉ lỗi của y một cách dịu dàng, nhỏ nhẹ.

 

3- HẠNH  KIỂM  TỐT

 

          1- Tự Kiểm Soát Thể Trí.

          Chế ngự Cái Trí để cho tư tưởng luôn luôn được yên lặng và thanh tịnh.

          Những điều hữu ích của Cái Trí yên tịnh:

          a- Đương đầu với những sự thử thách và khó khăn trên Đường Đạo.

          b- Chịu đựng dễ dàng những sự buồn bực xảy ra hằng ngày.

          c- Tránh lo lắng những sự nhỏ mọn làm mất ngày giờ của nhiều người. Hăy coi những việc ở ngoài xảy đến như sầu năo, rối rắm, bịnh tật, tốn hao, không quan hệ chi cả. Chúng là kết quả những việc làm từ kiếp trước, phải vui ḷng chịu đựng.

          Hăy nhớ rằng mọi khổ năo trên Thế Gian đều tạm thời.

          Hăy nghĩ đến những chuyện làm bây giờ. Chúng chỉ định số phần của chúng ta trong tương lai.

          Đừng buồn bực hay rủn chí, v́ nó làm ô nhiễm kẻ khác và gây ra sự khó khăn cho đời sống của họ.

          Phải chú ư vào mỗi việc làm để được hoàn thiện.

          Phải có sẵn nhiều tư tưởng tốt đẹp, để khi Cái Trí ở không liền tưởng tới chúng nó.

          Mỗi ngày hăy dùng trí lực ḿnh làm những việc tốt lành và hướng về Cơ tiến hoá.

          Hăy ban rải những tư tưởng yêu thương cho người đang buồn bực hay đau khổ cần sự giúp đỡ.

          Chớ nên kiêu căng, v́ dốt nát sanh ra tánh tự phụ.

          Người khôn ngoan biết rằng chỉ có Trời mới là lớn và việc lành nào cũng do Trời làm ra.

          2- Tự Kiểm Soát trong Hành Động.

          Muốn giúp đời, tư tưởng phải biến thành hành động.

          Phải cần mẫn làm những việc hữu ích.

          Phải để mỗi người giải quyết công việc của y theo ư y muốn. Nếu cần hăy sẵn sàng giúp đỡ, song không can thiệp.

          Đừng lănh những trách nhiệm mới. Phải làm cho xong công việc ta đang đảm đương. Phải làm công việc hằng ngày giỏi hơn kẻ khác, v́ đó cũng nhân danh Sư Phụ mà làm.

          3- Đức Khoan Dung.

          Thật t́nh kính trọng tín ngưỡng của kẻ khác như tín ngưỡng của ḿnh.

          Tôn Giáo nào cũng là một con đường dắt đến Thượng Đế.

          Cần thông hiểu mọi việc để giúp được tất cả mọi người.

          Phải trừ khử thói mê tín và tin tưởng dị đoan.

          Không có cuộc lễ bái nào là cần thiết, nhưng đừng lên án những người c̣n thích những cuộc lễ bái.

          Đừng để bị kẻ khác bắt buộc ḿnh phải trở lại chỗ ḿnh đă đi qua.

          Phải thương những tâm hồn chất phác vẫn cho những cuộc lễ bái là quan trọng.

          Những cuộc lễ bái giống như những hàng đôi giúp người mới tập viết. Chừng viết giỏi rồi sẽ không nhờ chúng nó nữa.

          Một Vị Đại Huấn Sư viết câu nầy: “Khi tôi c̣n nhỏ tôi nói như một đứa trẻ, tôi hiểu như một đứa trẻ, tôi nghĩ như một đứa trẻ; nhưng khi tôi đă lớn tôi bỏ hết các thói trẻ con.”

          Không thể dạy dỗ và giúp đỡ các trẻ thơ nếu ta quên lúc ấu thơ của ḿnh và không có thiện cảm với chúng nó.

          Hăy cư xử với mọi người một cách nhân từ, hiền hậu, khoandung, dầu họ giữ Đạo nào cũng vậy.

          4- Hạnh Vui Vẻ.

          Phải vui ḷng trả Quả. Phải cám ơn các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu đă không cho ḿnh trả nhiều hơn số đó, v́ Các Ngài thấy ḿnh đáng giúp đỡ.

          Ngày nào Nhân Quả chưa tiêu tan, ngày đó ta chưa giúp ích cho Chơn Sư được bao nhiêu. Phải vui ḷng nhận lănh Quả, bởi v́ Hiến Ḿnh vào Công Việc của Chơn Sư tức là Xin Được Nhồi Quả, làm sao trong một, hai kiếp Trả Sạch Quả Xấu, nếu không cả trăm kiếp mới trả hết.

          Hăy diệt ư muốn báo thù khi bị mất cái chi thuộc về quyền sở hữu của ḿnh. Nếu v́ Nhân Quả hăy sẵn sàng vui ḷng chia ĺa với những người nào hay là vật nào mà ḿnh quí chuộng hoặc yêu thương nhất.

          Nếu ta ngă ḷng rủn chí, Chơn Sư không thể nào dùng ḿnh làm trung gian để truyền sang Thần Lực cho kẻ khác.

          5- Hạnh Quyết Chí.

          Phải làm mỗi phần việc cho khéo léo.

          Tất cả những việc làm hữu ích và vô tư lợi đều là công việc của Ngài.

          Vị Đại Huấn Sư khi năy có viết câu nầy: “Dù làm việc ǵ con cũng phải làm một cách nhiệt thành như thể làm cho Thượng Đế, chớ không phải làm cho con người.”

          Phải làm việc với ư nghĩ: “Chút nữa đây, Chơn Sư sẽ đến xem công việc của ta làm.”

          Câu sau đây cũng một ư nghĩa: “Dù tay con làm việc ǵ cũng vậy, con hăy làm nó với hết sức ḿnh.”

          Khi bước vào Đường Đạo rồi không nên để cho cái chi khiến ta bỏ Đạo, dầu trong giây phút thôi.

          Ĺa Đạo tức là tự chia ĺa ḿnh vậy.

          6- Ḷng Tin Cậy.

          Phải tin cậy Chơn Sư và tự tin cậy ḿnh nữa. Không tin cậy Chơn Sư, Ngài không thể giúp ta được.

          Phải tự biết Ḿnh là một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế, chứ không phải những lớp vỏ bên ngoài thường vấy bợn nhơ.

          Đức Thượng Đế pháp lực vô biên ở trong Ḿnh Ta, nếu Ta có Chí Khí th́ chuyện nào ta cũng làm được cả.

          Phải tự nói: “Tôi là Con Người mà tôi cũng là Thượng Đế ở trong ḿnh Con Người nữa.”

          Muốn bước vào Đường Đạo ư chí phải cứng cỏi như thép đă trui vậy.

 

4- HẠNH  BÁC  ÁI

 

          1- Thoát kiếp Luân Hồi.

          Đức Từ Bi đứng đầu trong các đức tánh tốt phải có.

          Hợp nhất với Thượng Đế để hoạt động với Ngài và như Ngài.

          Muốn đạt được mục đích nầy phải mở rộng t́nh thương và không hề có một mảy may tư lợi.

          2- Ḷng Từ Ái trong sự sinh hoạt hằng ngày.

          Có hai nghĩa:

          a- Tránh cho khéo đừng làm Sinh Vật đau đớn.

          b- Phải chực hờ cơ hội để giúp đỡ.

          Ba tội làm hại hơn hết v́ nghịch với Ḷng Từ Ái: Tội Nói Hành, Tội Hung Ác và Tin Dị Đoan.

          3- Tội Nói Hành.

          Tưởng tới tánh tốt hay tánh xấu tức là tăng cường sức mạnh của nó.

          Tưởng tới tánh xấu của kẻ khác phạm 3 tội một lượt:

          Một là: Tạo chung quanh chỗ ta ở những tư tưởng xấu xa sẽ gây khó khăn cho kẻ khác. Ta thêm một nỗi khổ cho đời.

          Hai là: Tăng cường tánh xấu của người mà ta nghi ngờ, nếu y có sẵn tánh xấu đó. Bằng không, tư tưởng xấu của ta sẽ xúi giục y sanh ra tật xấu như ư ta nghĩ.

          Ba là: Sanh ra trong Trí những h́nh tư tưởng thấp hèn, màu sắc đen tối. Người có mắt Thánh nh́n vào thấy một cảnh tượng xấu xa, u buồn chớ không đẹp đẽ, vui tươi.

          Người nói hành lôi kéo nhiều người khác vô chia sớt tội ác với y. Tất cả tạo ra Cộng Nghiệp.

          Hăy trả lời một cách nhỏ nhẹ với người nói hành: “Có lẽ điều này không đúng, và nếu có đúng đi nữa, tốt hơn ta đừng nói đến nó.”

          4- Tội Hung Ác.

          Có hai thứ: Cố Ư Ác và Vô Ư Ác.

          Cố Ư Ác là quyết định làm cho Sinh Vật đau đớn. Nhiều người hay làm ác như:

          Những vị Pháp Quan của Toà Án Tôn Giáo thuở xưa.

          Những vị Tra Tấn. Những vị Giáo Chức.

          Những người Tu Hành nhân danh Đạo ḿnh làm những việc bất nhân, thất đức.

          Những người giải phẫu sanh thể Thú Vật.

          Những người săn bắn Chim Chóc và Thú Vật vô tội, viện cớ v́ lư do thể thao.

          Những lời thô tục, cộc cằn, mắng nhiếc, nhục mạ.

          Lời nói vô t́nh không lượng trước làm cho kẻ khác đau ḷng là phạm tội Vô Ư Ác.

          C̣n nhiều tội ác khác nữa, xin kể vài trường hợp điển h́nh thôi:

          V́ tham lam bỏn sẻn bỏ đói vợ con và trả tiền công hẹp ḥi.

          Muốn được toại ḷng ḿnh, đă không quan tâm tới Linh Hồn và Thể Xác bị ḿnh làm hư hoại.

          Không trả lương cho thợ thầy đúng ngày.

          C̣n không biết bao nhiêu tội ác khác nữa, v́ tánh vô ư thức gây ra những sự khổ đau cho kẻ khác.

          Dầu cho con người có quên đi nữa, Quả Báo cũng không hề quên.

          5- Tin Dị Đoan.

          Tin Dị Đoan là mối hại rất lớn.

          Có nhiều phương diện:

          Giết thú vật đem cúng tế.

          Tưởng rằng Con Người phải cần ăn thịt để sống.

          Dân chúng Ấn Độ bị sự Tin Dị Đoan đem lại đau khổ rất nhiều, mặc dầu đă hiểu biết T́nh Huynh Đệ hữu ái.

          Phải tránh: Tội Nói Hành, Tội Hung Ác và Tin Dị Đoan, chúng là 3 trọng tội, v́ nghịch với Ḷng Từ Ái và cản trở mọi sự tiến hoá.

          6- Phụng Sự.

          Cần mẫn làm việc lành.

          Trong ḷng phải tràn ngập ư muốn Phụng Sự. Giúp đỡ tất cả, từ Con Người cho tới Cầm Thú và Cây Cỏ.

          Tập có thói quen giúp ích trong việc nhỏ mọn hằng ngày, sau sẽ không bỏ qua việc lớn lao khi có cơ hội đưa đến.

          Người Nhập Đạo không sống riêng cho ḿnh mà sống cho kẻ khác. Anh làm một vận hà đem Đức Từ Bi của Thượng Đế ban rải cho chúng sanh. Anh là một ng̣i viết trong tay của Đức Thượng Đế. Ngài dùng anh để phô diễn tư tưởng của Ngài cho Thế Gian biết. Anh cũng là một bó đuốc linh động toả ra khắp Cơi Trần, T́nh Thương của Đức Thượng Đế chan chứa trong ḷng anh.

          Có Minh Triết mới giúp đỡ được, nhưng Ư Chí điều khiển Minh Triết,và Bác Ái linh cảm Ư Chí.

          Ư Chí, Minh Triết, Bác Ái là 3 Trạng Thái của Thượng Đế. Nếu anh muốn tham gia vào Công Việc của Ngài, anh phải phô trương 3 Đức Tánh đó cho đời thấy.

 

TIỆN  ĐÂY  TÔI    VÀI  LỜI  NGỎ  CÙNG  QUÍ  BẠN  ĐỘC  GIẢ

 

          Sau khi đọc quyển nầy nếu quí bạn thấy nó chưa giúp ích được quí bạn phần nào, xin quí bạn hăy cất nó kỹ lưỡng vào tủ. Đến một ngày  kia, hoặc 5, 3 năm, hoặc 9, 10 năm sau, khi quí bạn xông pha trên đường đời dẫy đầy gió bụi đă chồn chân mỏi gối, hay là chán chê sự cạnh tranh danh lợi hỗn tạp và bất chánh, quí bạn hăy lấy nó ra xem lại.

          Tới chừng đó quí bạn thấy nó là một vị Hướng Đạo Tinh Thần chân chánh, cao thượng, lo mưu cầu hạnh phúc cho quí bạn và chỉ đường ngay nẻo thẳng cho quí bạn đi từng bước, khỏi sợ lạc qua những thung lũng mà hai bên lề đầy những vực sâu, hố thẳm. Rồi quí bạn sẽ vững ḷng tiến tới. Chẳng bao lâu, một chân trời mới vô cùng tốt đẹp sẽ mở rộng ra trước mặt quí bạn. Quí bạn hăy kinh nghiệm trong một thời gian quí bạn sẽ thấy những lời nói trên đây không sai ngoa.

          Chúc quí bạn mau thành công rực rỡ.


PHỤ  TRƯƠNG

TẠI  SAO  TÔI  VIẾT  PHỤ  TRƯƠNG  NẦY ?

 

          Giữ ǵn và luyện tập cho thân thể được khoẻ mạnh, tráng kiện là một điều đáng quí trọng, nhưng nó chỉ là một phương diện thôi.

          C̣n hai phương diện nữa là:

          Tâm Tánh thật tốt và

          Trí Hoá mở mang, tức là thông minh, sáng suốt.

          Hội đủ 3 phương diện nầy sẽ thành một người hoàn toàn có thể bước vào Cửa Đạo.

          Chắc chắn quí bạn biết rơ: Học Đạo không khác nào đi vào một khu rừng rậm, dài thăm thẳm và rộng lớn cả muôn, cả triệu cây số. Nếu không có Người Hướng Đạo Chân Chánh giúp đỡ dắt dẫn sẽ lạc đường và đừng trông mong thoát ra ngoài được an toàn.

          “Dưới Chân Thầy” là Cây Kim Chỉ Nam. Nó vạch ra một Con Đường Ngay Thẳng và Vắn Tắt. Hành Giả noi theo đó mà đi th́ sẽ tới Mục Đích đă nhắm và mau lẹ, không sợ nguy hiểm nào cả.

          Tuy nhiên, muốn đi theo Con Đường nầy th́ phải Khắc Kỷ, Tự Chủ.

          Thế nên, tôi viết Phụ Trương nầy, đưa ra Chương Tŕnh Học Tập để Tự Giác. Đây là Toát Yếu giúp quí bạn nhớ lại những điều phải thực hành cũng như học ôn vậy.

          Quí bạn phải xem lại những quyển giải nhiều về vấn đề nầy.

 

CHƯƠNG  TR̀NH  HỌC  TẬP  ĐỂ  TỰ  GIÁC

 

          Gồm hai phần:

          1- Phần Lư Thuyết.

          2- Phần Thực Hành.

 

1- PHẦN    THUYẾT

 

          Phải học rành rẽ:

          a- Mục đích Sự Sanh Hoá Thái Dương Hệ nầy và Sự Thành Lập 7 Cơi Trời.

          b- Ḿnh tự biết Ḿnh.

          Bản tánh Thiêng Liêng của Con Người.

          Chơn Thần và 7 Thể của Nó.

          Sự liên quan mật thiết giữa 7 Thể và 5 Cơi Trời. (Từ Cơi Niết Bàn cho tới Cơi Trần).

          Phương pháp tinh luyện 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

          Luật Tư Tưởng, Luật Luân Hồi, Nhân Quả, Hy Sinh.

          c- Phụng Sự với Tấm Ḷng Vị Tha.

 

TẠI  SAO  PHẢI  HỌC  TRỜI  TRƯỚC ?

 

          Tại sao phải học Trời trước? Nếu quí bạn suy nghĩ một chút sẽ hiểu liền.

          Phải học Trời trước, bởi v́ trước có Trời Đất, sau mới có Con Người và Vạn Vật.

          Trời và Người liên quan mật thiết với nhau. Hiểu Trời th́ biết được Người.

          Thường thường người ta gọi Trời là khoảng Không Gian trắng xanh, mù mịt, mây bay, gió thổi và ban đêm các Sao mọc đầy.

          Theo Huyền Bí Học, khoảng Không Gian nầy là Cơi Hạ Giới Hư Không (Plan Physique Cosmique) chứa đựng tỷ tỷ Thái Dương Hệ gọi là Sông Thiên Hà.

          Trên Cơi Hạ Giới Hư Không c̣n 6 Cơi Vô H́nh cao hơn nữa. (Sau sẽ học tới).

          Vấn đề Trời và Người tôi có giải sơ lược trong Bộ “Học Cơ Tiến Hoá theo Khoa Minh Triết Thiêng Liêng “ của tôi. Ở đây tôi xin nói Toát Yếu về sự luyện tập 3 Thể, v́ nó cực kỳ quan trọng và rất cần thiết cho đời sống hằng ngày. Làm chủ được 3 Thể sẽ cầm vận mạng của ḿnh trong tay và sẽ bước vào Cửa Đạo mau chóng.

 

2- PHẦN  THỰC  HÀNH

 

          Xem lại đoạn: Tự ḿnh thức tỉnh ḿnh trước.

          Luyện tập: Mở đường thông thương giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn.

          Cách thức tỉnh Sự Sống Thiêng Liêng.

          Mỗi ngày mỗi công phu. Từ 7 năm sắp lên mới bắt đầu thấy kết quả tốt đẹp hiện ra. Phải bền chí, phải có gan dạ. Mặc dầu chưa thấy Tâm Trí mở mang nhiều, cũng đừng nửa chừng bỏ cuộc.

          Hăy nhớ lại sự học tập nơi Trường. Mỗi ngày phải mỗi tới lớp học, cuối năm thứ 12 thi lấy bằng Tú Tài toàn phần.

          Cũng thế đó, nếu ta gieo giống phải chờ một thời gian nó mới mọc lên cây, và trổ bông, sanh trái.

          Phải thực hành đúng Luật Pháp ắt sẽ thành công. Kết quả đến mau hay chậm, tuỳ theo sự cố gắng nhiều hay ít, thế nào cũng có.

          Nên ghi nhớ vào ḷng: Kiếp nầy là kết quả của kiếp trước. Kiếp sau là kết quả của kiếp nầy. Nếu kiếp nầy không gieo trồng kiếp sau có chi để gặt hái.

 

TOÁT  YẾU  VỀ  SỰ  LUYỆN  TẬP  3  THỂ    

 

          “Dưới Chân Thầy” đă dạy: ”Nếu không có một Thể Xác hoàn toàn tinh khiết và mạnh khoẻ, con sẽ không kham nổi công việc tập luyện khó nhọc, không thể chịu đựng sự cố gắng không ngừng.”

          Vậy những lời Toát Yếu sau đây sẽ giúp ích được quí bạn trong sự Tu Tập. Đây cũng là một dịp ôn lại những điều đă học về 3 Thể: Thân, Vía, Trí, không phải là chuyện vô ích mất ngày giờ đâu. Quí bạn nên nhớ câu châm ngôn khắc trên ngưỡng cửa của Thánh Điện Delphes: “Ngươi hăy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế.”

 

1- VỀ  XÁC  THÂN

 

          Muốn khoẻ mạnh phải giữ đúng Phép Vệ Sinh. Tránh xa ca lâu, tửu quán, không uống một nhỏ rượu, không hút một điếu thuốc, nói chi tới việc dùng các thứ ma tuư. Phải có tiết độ trong mọi việc, nhất là trong sự giao hợp. Đừng để sắc dục cám dỗ làm cho thân thể bạc nhược, về sau sẽ hối hận suốt đời.

          Phải dùng thực phẩm tinh khiết: Rau trái chứa nhiều sinh lực và loại ra thịt cá, tuy bổ dưỡng, nhưng nhiễm từ điển và tánh t́nh thú vật.

          Nhưng muốn trường trai phải tập lần lần,[85] đừng dứt ngang thịt cá có thể đau ốm, bịnh hoạn, bỏ chay lạt ăn mặn lại như trước.

 

PHẢI  HẾT  SỨC  SẠCH SẼ

 

          Phải hết sức sạch sẽ từ trong thân thể cho tới y phục bên ngoài. Tắm gội hằng ngày, trừ ra lúc đau ốm. Móng tay, móng chân cần cắt ngắn và rửa sạch liền khi bị đóng đất.

 

TẬP  THỂ  DỤC

 

          Tập Thể Dục rất tốt, ở tuổi nào cũng nên tập. Muốn thấy hiệu quả phải tập thường xuyên mỗi ngày. Phải lựa những cử động hạp với tuổi tác và sức khoẻ. Đừng tập quá sức.

 

TẬP  YOGA

 

          Quí bạn nào muốn tập Yoga, tôi xin hiến 6 Tư Thế dưới đây đă kinh nghiệm từ xưa đến nay. Chúng đem lại sức khoẻ cho Hành Giả chớ không có hại chi cả.

          Tập liên tiếp 6 Tư Thế, từ 2, 3 bận tới 6, 7 bận, tuỳ theo tuổi tác và sức khoẻ. Phải để bụng trống khi tập. Nếu có thể, mỗi ngày tập 2 lần, tuỳ tiện về giờ khắc. Đừng tập cho tới mệt.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẢI  ĐỀ  PH̉NG

 

          Tôi thấy trong Hatha Yoga có nhiều tư thế người Ấn Độ tập được là nhờ tánh cách di truyền và từ điển của Thể Xác, c̣n người xứ ḿnh tôi tưởng không nên tập.

          Có nhiều Tư Thế rất nguy hiểm, ngoài các vị Đạo Sư không ai biết những di hại của chúng. Tập 1, 2 lần rồi thôi, hay lâu lâu tập một lần sẽ không thấy chi lạ cả. Nhưng nếu tập thường ngày, trong ṿng 1, 2 năm, con mắt sẽ mờ, bởi v́ hạch mũi và hạch óc bắt đầu bịnh. Bạn nào gặp nhằm trường hợp nầy nên ngưng liền. Đừng tập nữa phải mang hại, không phương cứu chữa. Con mắt mở trao tráo mà không thấy đường.

 

2- VỀ  CÁI  VÍA

 

          Cái Vía là một Thể như Xác Thân. Các Tế Bào[86] của nó làm bằng Chất Thanh Khí hay là Chất Tinh Quang (Matière Astrale).

          Nó cũng cần dùng đồ ăn để nuôi nó. Đồ ăn đây là Ư Muốn và T́nh Cảm.

          Muốn cho Cái Vía trở nên tinh khiết phải nuôi dưỡng nó với những Ư Muốn và T́nh Cảm trong sạch, nhân từ, vị tha, thương mến, hoà nhă, công b́nh, tức là tập những tánh tốt.

 

3- VỀ  CÁI  TRÍ

 

          Cái Trí đây là Hạ Trí, cũng là một Thể làm bằng 4 Chất  Trí Tuệ hay là Chất Thượng Thanh Khí thấp của Cơi Hạ Thiên. Nó vẫn nhờ Tư Tưởng để phát triển, v́ Tư Tưởng là đồ ăn của nó. V́ thế những Tư Tưởng cao thượng, từ bi, bác ái, chân chánh, ngay thật, thành tín, can đảm, hy sinh, phụng sự giúp nó trở nên tinh khiết.

 

SỰ  THAY  ĐỔI  CHẤT  KHÍ  TRONG  HAI  THỂ  VÍA    THỂ TRÍ

 

          Xin nói nguyên tắc chung.

          Mỗi lần ta tưởng hay muốn những điều thiện, Chất Khí Xấu trong Cái Vía và trong Cái Trí của ta đối lập với những Điều Thiện Đó xuất ra ngoài, rồi Chất Khí Tốt hạp với những Điều Thiện Đó ở ngoài nhập vô trong Cái Trí và Cái Vía của ta để lấp chỗ trống.

          Hiểu như vậy ta biết trọn ngày, mỗi giờ đều có những sự thay đổi Chất Khí làm ra Cái Phách, Cái Vía và Cái Trí của ta.[87]

          Nếu ta nuôi măi những Tư Tưởng và Ư Muốn Cao Thượng từ ngày nầy qua ngày kia, Cái Vía và Cái Trí  của ta chứa toàn là những Chất Khí Tốt. Chúng sẽ chiếu ra nhiều màu sắc đẹp đẽ và thâu nhận được những lằn rung động từ các Cảnh Cao của hai Cơi Thượng Giới và Trung Giới tuôn xuống một cách dễ dàng.

          Nhờ như vậy ta mở mang Tâm Thức mau lẹ.

 

TỰ  THẮNG  M̀NH    MỘT  VIỆC  CỰC  KỲ  KHÓ  KHĂN

 

          Làm chủ được 3 Thể: Thân, Vía, Trí và điều khiển chúng vào Con Đường Thánh Thiện là ḿnh đă Tự Thắng. Thành công ắt sẽ được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử.

          Những điều nầy là việc cực kỳ khó khăn, khó hơn cả trăm lần chuyện leo lên tột đỉnh Hy Mă Lạp Sơn, bởi v́ cả ngàn kiếp rồi ta để cho 3 Thể: Thân, Vía, Trí của ta sai khiến ta, ta nghe theo lời chúng.

          Bây giờ ta bắt buộc chúng phải vâng theo mạng lịnh của ta th́ chúng sẽ ương ngạnh, v́ quen tánh bất phục tùng đă lâu lắm rồi. Chắc chắn lúc ban sơ trong 10 lần, sẽ thất bại hết 8 lần, c̣n 2 lần sau sẽ cầm cự trong giây lát rồi cũng rút lui. Quả thật, lúc nói ta thường bảo: Tôi làm chủ 3 Thể, nhưng mà tới chừng thực hành th́ 3 Thể làm chủ lại ta mà ta không ngờ.

          Nhưng hăy cố gắng, cần bền chí và cương quyết, sự thành công chỉ là vấn đề thời gian.

          Ta thường nghe có người nói: “Thật sự Nó mạnh hơn tôi.”

          Vậy xin hỏi: Nó là ai? C̣n Tôi là ai?

          Nó là Cái Vía hay là Cái Trí, thường thường là Cái Vía. C̣n Tôi là Con Người, là Phàm Nhơn đây.

          Cái Vía thuyết phục Cái Trí và xúi giục Con Người nghe theo nó làm những điều nó ưa thích. Con Người dầu biết quấy cũng không cưỡng lại được. Chừng thực hành rồi, khi đó sẽ hối tiếc, nhưng sự việc đă qua.

          Câu châm ngôn khắc trên ngưỡng cửa Thánh Điện Delphes: “Ngươi hăy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế” là Chân Lư ngàn đời bất diệt. Nó chỉ đường lối cho con người phải đi để tiến mau. Nó c̣n áp dụng từ Dăy Hành Tinh nầy qua Dăy Hành Tinh kia, chớ chẳng phải riêng ǵ Dăy Địa Cầu nầy mà thôi.

          Nhưng tại sao khi ḿnh tự biết ḿnh, ḿnh sẽ biết được Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế?

          Bởi v́ Con Người là Tiểu Thiên Địa. Con Người có 3 Ngôi như Đức Thượng Đế và trong ḿnh Con Người có đủ những Chất Khí đă tạo lập Vũ Trụ Càn Khôn.

          Thế nên các Vị Thánh Nhân luôn luôn căn dặn Con Người phải tự học ḿnh cho thật rành rẽ, đó là điều cần thiết hơn hết.

          Nhưng cũng đừng quên rằng thật Con Người là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế, chớ không phải là Xác Thân, không phải là Cái Vía hay là Cái Trí. Ba Thể: Thân, Vía, Trí chỉ là 3 lớp vỏ bên ngoài bao bọc Con Người và thường vấy bùn nhơ mà thôi. Chúng để cho Con Người dùng trong một thời gian.

          Nếu Con Người không lo Tự Tỉnh, không lo luyện tập khắc kỷ ngay bây giờ, e cho 15, 20 kiếp sau cứ sống theo Thế Tục ắt cũng không tiến xa được bao nhiêu.

          C̣n những ai trong thời gian nầy ra sức thực hành những lời dạy trong quyển “Dưới Chân Thầy,” khi hội đủ những điều kiện do Luật Trời qui định, tức th́ Cửa Đạo sẽ mở rộng rước vào.

          Sự tiến hoá của hai hạng người nầy khác nhau rất xa, như một Trời, một vực.

 

PHƯƠNG  PHÁP  RÈN  LUYỆN  TÁNH  T̀NH  THEO  LỜI  DẠY  CỦA  ĐỨC    A.  BESANT

 

          Trong quyển “Đời Sống Huyền Bí của Con Người” trang 61-64, Đức Bà A. Besant có chỉ Phương Pháp Rèn Luyện Tánh T́nh. Tôi xin chép ra đây quí bạn xem và thực hành.

          “Theo một Định Luật của Thiên Nhiên, khi Trí Khôn chú ư vào một Đức Tánh nào th́ Đức Tánh đó sẽ dần dần thành một phần tử của Tánh Nết ḿnh; về sau Đức Tánh ấy biểu lộ một cách tự động, không khó nhọc chút nào. Vậy một người có thể tự ư ḿnh xây dựng tánh nết ḿnh một cách thích đáng, chỉ cần hành động đúng với Luật đó, tuân theo nó và kiên tâm tŕ chí tuỳ theo những sự kinh nghiệm đ̣i hỏi.

          Đây là phương pháp phải theo. Chư huynh hăy t́m hiểu tánh nết ḿnh và chư huynh hăy ngừng lại ở một nhược điểm của ḿnh như thiếu thành thực, hèn nhát, hay nóng giận, hay là một tật xấu hoặc một thói xấu tệ hại nào đó. Khi chư huynh thấy ḿnh thường sa ngă trước tật xấu xa đó, thí dụ nếu một người làm trái ư chư huynh, chư huynh liền nổi giận, nếu chư huynh phải đương đầu với một sự nguy hiểm, chư huynh lại tỏ ra hèn nhát, nếu chư huynh gặp một sự khó khăn chư huynh lại nói dối để thoát thân; chư huynh hăy dẹp tất cả mọi việc đó qua một bên và đừng nghĩ đến chúng nữa. Chư huynh hăy nhấn mạnh vào cái Tánh Tốt Đối Lập và đừng bao giờ nghĩ đến tật xấu. Mỗi khi Cái Trí trụ vào một nhược điểm nào ắt nhược điểm đó sẽ tăng trưởng, v́ tư tưởng đă thêm sức cho nó; nó c̣n măi, thay v́ biến mất đi. Dầu chư huynh chỉ hối tiếc thôi, Sinh Lực của Tư Tưởng cũng khiến cho nhược điểm hoá ra mạnh mẽ; sự hối tiếc của chư huynh tăng cường cho nhược điểm và làm cho nó bám chặt vào tánh nết ḿnh. Hăy để nó lại ở phía sau. Đừng bao giờ chư huynh để cho Trí ḿnh ngưng lại nơi đó, dù chỉ trong một lát thôi, nhưng chư huynh hăy nghĩ đến Tánh Tốt Đối Lập. Chỉ th́nh ĺnh nghĩ đến Tánh Tốt: Không đủ đâu. Mỗi sáng ngủ dậy, trước khi đi ra ngoài và xen lẫn với người đời, chư huynh hăy định trí trong năm ba phút vào Tánh Tốt mà chư huynh muốn xây dựng, tuỳ theo sức chú ư của ḿnh. Mỗi sáng chư huynh hăy làm như vậy một cách kiên nhẫn, đừng nghỉ một ngày nào; nếu không, H́nh Tư Tưởng mà chư huynh muốn có sẽ tan ra và huờn lại Chất Thượng Thanh Khí như trước. Rồi mỗi ngày, một cách tự nhiên, chư huynh lại phạm vào cái lỗi mà chư huynh đang t́m cách sửa chữa; chư huynh đừng lo chi điều đó, chư huynh cứ tiếp tục định trí mỗi buổi sáng, chư huynh hăy tập trung Tư Tưởng vào Tánh Tốt mà chư huynh muốn có. Thí dụ chư huynh đang t́m cách hoạch đắc Tánh Kiên Nhẫn, buổi sáng chư huynh nghĩ đến Tánh Đó, trong ngày hôm đó, nếu có ai làm cho chư huynh bực ḿnh, chư huynh sẽ đáp lại một cách quạu quọ, nhưng trong khi đang trả lời, chư huynh bỗng nghĩ rằng: “Ôi tôi muốn được Kiên Nhẫn biết bao!” Điều nầy không quan hệ ǵ cả. Khi nào chư huynh đă tham thiền về Tánh Kiên Nhẫn được 4, 5 ngày, th́ ngay khi những lời nói tức giận tự miệng chư huynh sắp thốt ra, chư huynh tự nhủ: “Tôi muốn Kiên Nhẫn.” Chư huynh cứ tiếp tục một cách Bền Chí, và chẳng bao lâu, Tư Tưởng Kiên Nhẫn sẽ hiện ra trước khi câu trả lời sắc bén được thốt ra. Cứ bền chí mà tiếp tục như thế, kết quả sẽ thu thập được nhanh hay chậm là tuỳ theo sự chú ư của chư huynh, tuỳ theo Quyền Lực của Tư Tưởng chư huynh, nhưng chẳng sớm th́ muộn, tánh hay tức giận sẽ biến mất và sẽ có Tánh Kiên Nhẫn thay thế vào. Chư huynh sẽ nhận thấy rằng chư huynh tự động lấy sự kiên nhẫn đáp lại sự khiêu khích, lấy sự dịu dàng mà đáp lại sự tức giận. Chư huynh đă xây dựng nơi ḿnh tánh tốt mong muốn. Chư huynh có thể tham thiền nhiều cách, chư huynh tuỳ theo sự khéo léo của ḿnh mà tự phác hoạ cho ḿnh một chương tŕnh. Khi c̣n trẻ, tôi hay tức giận, nên một trong những phương pháp ưa thích của tôi là cố gắng làm tượng trưng Tánh Kiên Nhẫn; trong khi tôi tham thiền, chư huynh không hề gặp Một Vị Thánh Mẫu nào như tôi vậy. Dù ngoài giờ tham thiền ra, tánh tôi có như thế nào đi nữa, nhưng trong giờ tham thiền, tôi là một người hoàn toàn triệt để, tuyệt đối Kiên Nhẫn. Trong Trí, tôi tưởng tượng xung quanh tôi có đủ những người đáng ghét, những người đáng bực ḿnh nhất mà tôi đă biết; rồi trong Trí tưởng tượng, tôi phác họa một cách quá đáng những cử chỉ khiêu khích của họ, và cùng một lúc, tôi cũng t́m cách tăng trưởng Tánh Kiên Nhẫn của tôi theo cái đà đó. Tôi tưởng tượng trong Trí một tấn bi kịch nhỏ trong đó người ta làm hết cách để chọc giận tôi, tôi trả lời những sự khiêu khích đó như là một Griselda[88] kim thời. Sau một thời gian, tôi nhận thấy rằng khi tôi gặp những người đó, họ không c̣n thể nào làm cho tôi nổi giận được nữa. Tôi tự hỏi rằng: “Sao trước kia tôi cho họ là những người đáng ghét!” Một cách vô tâm, nhờ những sự cố gắng của tôi, Tánh Kiên Nhẫn đă trở thành một phần tử cố hữu của Hạnh Kiểm tôi. Chư huynh hăy làm thử coi, v́ một kinh nghiệm bé nhỏ do chư huynh làm có giá trị bằng 100 bài diễn thuyết được nghe trong sự ngờ vực, không tin là đúng. V́ Định Luật là bất di bất dịch, lẽ tự nhiên thế nào chư huynh cũng thành công. Theo lối đó chư huynh có thể hoạch đắc hết tánh tốt nầy đến tánh tốt nọ, cứ chú ư đến mỗi nét đặc biệt cho đến khi chư huynh thấy ḿnh giống với lư tưởng của ḿnh thêm được đôi chút; tuy bây giờ chư huynh c̣n ở xa lư tưởng, nhưng rồi chư huynh cũng biết rằng ḿnh đang leo lên núi và lư tưởng ở trên đỉnh núi đang chiếu sáng rực rỡ và v́ thế cho nên chư huynh không chịu dừng lại nhịp bước ở chân núi. Tôi không đủ thời giờ để đưa ra những thí dụ khác nữa.”

          Trong quyển “Con Đường của Người Đệ Tử,” Bà A. Besant nói về cách tinh luyện những dục vọng thấp hèn của Con Người. Bà có đưa ra thí dụ như sau:

          1- Sự nóng giận.

          2- T́nh yêu.

          3- Sự tham lam.

          Tưởng quí bạn cũng nên xem qua, nhưng chỉ đọc suông, chưa đủ. Muốn thí nghiệm phải thực thi những lời của Bà chỉ dạy trong một thời gian, đừng gián đoạn, chờ coi kết quả thế nào, rồi sẽ tin. Những sự thí nghiệm nầy không có hại, chúng đem lại lợi ích lại cho quí bạn là quí bạn trau giồi tánh nết ra tốt đẹp, làm cho kẻ khác cảm mến và quí bạn chỉ tốn công mỗi ngày chừng 10 phút thôi, không tiêu hao tiền bạc chi cả.

 

HỌC  GIÁN  TIẾP    HỌC  TRỰC  TIẾP

 

          Trước khi chấm dứt câu chuyện luận bàn về những Đức Tánh, tôi tưởng cũng nên nói vài lời về sự Học Gián Tiếp và Học Trực Tiếp.

          Huyền Bí Học gồm hai phần: Phần Lư Thuyết và Phần Thực Hành.

          Có hai cách học: Học Gián Tiếp và Học Trực Tiếp.

 

PHẦN    THUYẾT

 

          Vài Chương đầu của Phần Lư Thuyết dạy:

          Sự thành lập Thái Dương Hệ.

          7 Cơi Trời, 7 Thể của Con Người.

          Sự liên quan giữa 7 Thể với 5 Cơi Trời.

          Sự sanh hoá các Loài Vật.

          Màu sắc của Cái Trí, Cái Vía.

          Tánh nết của 3 Thể: Thân, Vía, Trí.

          Những H́nh Tư Tưởng.

          Luật Luân Hồi, Nhân Quả, Hy Sinh, Luật Tuần Hoàn, v.v…

 

HỌC  GIÁN  TIẾP

 

          Ta học Phần Lư Thuyết một cách gián tiếp. Ta hiểu bằng trí độ, dầu có thuật lại hay viết ra cũng không được rành rẽ, bởi v́ không có đủ danh từ để diễn tả cho đúng với ư tưởng cao siêu.

          Nói một cách khác là “Mua trâu vẽ bóng.” Ta thấy con trâu vẽ, chớ không thấy con trâu thật ra sao.

          Một lẽ khác nữa, sách Huyền Bí Học thường dùng những danh từ bóng dáng, tượng trưng. Hiểu theo nghĩa từng chữ sẽ lầm ngay. Phải có bí quyết mới thật biết ư nghĩa về chuyện đó.

 

PHẦN  THỰC  HÀNH

 

          Phần Thực Hành cực kỳ nguy hiểm. Phải học với một Vị Chơn Sư hay là một vị La Hán để tránh những tai họa xảy ra.

          Phải trường trai, tuyệt dục, trau giồi hạnh kiểm cho thật tốt để khơi Luồng Hoả Hầu Kundalini.

          Luyện sái cách sẽ đốt cháy nhiều chỗ trong thân ḿnh, kế trong một thời gian sau bỏ mạng, máu ra ở khoé mắt, mũi và miệng. Sự nguy hại c̣n kéo dài tới kiếp sau nữa.

 

HỌC  TRỰC  TIẾP

 

          Biết cách dẫn Luồng Hoả đúng với Cung Mạng của ḿnh sẽ mở được những quan năng siêu việt ở trong Cái Phách, Cái Vía, Hạ Trí, Thượng Trí, Kim Thân và Tiên Thể, gọi là có Thần Nhăn, Thiên Nhăn, Huệ Nhăn, Phật Nhăn và thấy được 5 Cơi Trời với những nhân vật hoạt động tại mấy Cơi đó.

          Nhưng thấy chưa đủ, phải vào mấy Cơi đó học hỏi và kinh nghiệm mới biết được Cách Sanh Hoá những H́nh Hài.

          Như vậy gọi là Học Trực Tiếp.

          Muốn vào Cơi Trung Giới phải biết sử dụng Cái Vía.

          Muốn vào Cơi Hạ Thiên phải biết sử dụng Hạ Trí.

          Muốn vào Cơi Thượng Thiên phải biết sử dụng Thượng Trí.

          Muốn vào Cơi Bồ Đề phải biết sử dụng Thể Bồ Đề hay là Kim Thân.

          Muốn vào Cơi Niết Bàn phải biết sử dụng Tiên Thể hay là Thể của Atma.

          Nói tóm lại, ở Cơi nào phải sử dụng Thể nấy, tạm gọi chung là biết Xuất Vía,[89] Xuất Hồn.

          Khi trở về nhập Xác, tỉnh lại liền nhớ tất cả những điều ḿnh đă thấy hay là đă thực hành ở các Cơi đó, chứ không quên hết như những giấc chiêm bao mộng mị.

          Tuy nhiên, phải được làm Đệ Tử Chơn Sư và vào Hàng Tứ Thánh mới thực hiện được những điều vừa kể ra trên đây.

          Tôi tưởng cũng phải nói thêm rằng: Bất cứ ở Cơi nào, trong sự học  hỏi, chúng ta luôn luôn phải nhờ những Vị đă có nhiều kinh nghiệm ở Cơi đó chỉ bảo những điều quan trọng, nhờ vậy chúng ta sẽ ít lầm lạc và sẽ tiến mau, không mất thời giờ. Câu: “Không Thầy đố mầy làm nên” ở thời đại nào cũng đúng cả.

          Điều nên biết: Khi được 5 lần Điểm Đạo, Chơn Tiên tạo ra được thân h́nh của Vạn Vật. Thí dụ như: Việc làm một cái hột và một cái trứng. Cái hột đem gieo xuống đất sẽ mọc lên cây và trổ bông sanh trái; cái trứng đem ấp sẽ nở ra con.

          V́ vậy cho nên Chơn Tiên được phép dự vào sự Sanh Hoá một Dăy Hành Tinh.

          Nói cho đúng, công việc tạo ra H́nh Thể của Muôn Loài Vạn Vật là phận sự của các Thiên Thần và các Tiểu Thần gọi là Tinh Linh hay là Ngũ Hành (Esprits de la Nature). Nhưng phải mở Thần Nhăn mới thấy họ thi hành phận sự một cách hết sức chu đáo, không cẩu thả như nhiều người thế chưa ư thức được rằng: Việc làm hữu ích nào cũng là Thiêng Liêng và cũng Có Ư Nghĩa cả.

          Trong quyển “Các Hạng Thiên Thần” tôi có nói về cách làm việc của vài Hạng Tinh Linh gọi là Tiểu Thần để tạo ra những Cây Cỏ, Bông Hoa.

          Trong quyển “Sự Sanh Hoá các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu” tôi có thuật chuyện các Thuỷ Thần lấp một phần nhỏ nhít của biển Đại Tây Dương. Xin chép đoạn đó ra đây:

          “Quần đảo Acores, thuộc địa Bồ Đào Nha, ở Đại Tây Dương, vốn là chót núi cao của Châu Atlantide thuở xưa.

          Ở đây có Hải Đăng Capelinhos đặt tại mũi Fayal. Ngày 27-9-1957, cách Hải Đăng 1.500 thước, một Hoả Diệm Sơn từ dưới biển phun lên cả tỷ tỷ tấn Phún Thạch và tới tháng 11 năm 1957, tức là 40 ngày sau, làm ra một Cù Lao nối liền với mũi Fayal.

          Tới tháng 7 năm 1958, tức là 9 tháng sau, Hải Đăng Capelinhos không c̣n ở tại bờ biển nữa, mà lại ở chính giữa đất liền và phân nửa bị chôn vùi dưới đống tro tàn Phún Thạch.

          Trước kia Núi Lửa ở dưới biển, cách mặt nước 100 thước và cách bờ biển 1.500 thước. Bây giờ nó thành một Ngọn Núi ở trên mặt đất cao 350 thước và tiếp tục phun lửa.

          Vấn: Ư Huynh thế nào? Đó có phải là một hiện tượng Thiên Nhiên chăng?

          Đáp: Đúng vậy. Nhưng tại sao việc nầy xảy ra tại mũi Fayal, chớ không xảy ra ở nơi khác? Tại sao có một Cù Lao nổi lên dính liền với mũi Fayal? Đây há không phải là một việc đă có tính toán trước rồi sao? Chớ đâu có phải là một việc t́nh cờ.

          Nhưng tôi xin lưu ư Huynh về hai điểm nầy, mà ít ai tưởng tới.

          Điểm thứ Nhứt: Núi Lửa cách mặt nước 100 thước. Nó ở ngoài biển, chớ không phải ở trong đất liền. Phải làm sao cho những Phún Thạch dính liền với nhau thành một khối cứng rắn, không bị nước đùa trôi, núi lửa mới trồi lên khỏi mặt biển được.

          Điểm thứ Nh́: Núi Lửa cách mũi Fayal 1.500 thước và trong khoảng 1.500 thước nầy bề sâu của biển bao nhiêu? Có chỗ mấy trăm thước mà biết đâu cũng có chỗ mấy ngàn thước. Phải lấp từ đáy biển lên tới mặt nước mới làm ra một Cù Lao được và như tôi mới nói: Điều cần nhất là Phún Thạch dính liền với nhau và đừng bị nước đùa trôi đi mất. Chắc chắn là trên Cơi Trần không một ai làm được việc nầy cả, mà Thiên Nhiên trong ṿng 9 tháng đă thực hiện được một công tác vĩ đại ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

          Thấy việc nầy, ta biết được sự thành lập một Đại Lục không phải là một sự khó khăn đối với các Vị Thiên Thần.

          Vấn: Huynh công nhận Thần Quyền sao?

          Đáp: Tôi công nhận Thần Quyền, song tôi không ỷ lại vào Thần Quyền. Công nhận Thần Quyền và ỷ lại vào Thần Quyền là hai việc khác nhau rất xa. Chúng ta phải vận dụng tất cả những khả năng của chúng ta, tức là trông cậy vào Tự Lực rồi Tha Lực mới có thể giúp chúng ta và được hay không, điều đó c̣n tuỳ theo Nhân Quả của chúng ta nữa.

          Đây là một sự thật hiển nhiên không ai chối căi được. Nhưng người ta chỉ thấy hiện tượng mà không tri ra được nguyên nhân.

 

LỜI  CẦU  CHÚC  CỦA  TÔI

 

          Vậy cầu xin quí bạn sống một đời sống cao thượng, thanh bạch, vị tha đúng như lời dạy trong quyển “Dưới Chân Thầy.”

          Ngày nào quí bạn được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử Chánh Thức, ngày đó Chơn Sư sẽ trông nom quí bạn từ kiếp nầy qua kiếp kia và chọn chỗ cho quí bạn đi đầu thai. Luôn luôn Ngài giúp quí bạn tiến mau, trong ṿng 14 hay 15 kiếp, quí bạn có thể thành một Vị Siêu Phàm và sẽ thực hành cho Nhân Loại điều mà Chơn Sư hiện đang làm bây giờ đây v́ hạnh phúc của Quần Sanh.

Lành thay! Lành thay!

 

HẾT

 

 

 

 

 

CHÂN  THÀNH  TRI  ÂN

 

          Quư vị trợ giúp việc ấn loát các sách Thông Thiên Học.

             Lê Thành Lân. – Lê Văn Hai và gia đ́nh. – Lê Văn Thạnh và gia đ́nh. – Lư Trọng Văn và gia đ́nh. – Nguyễn Thị Luận. – Lê Minh Triết + Bích. – Lê Minh Đức + Châu – Lê Minh Nguyệt + Anthony. – Huỳnh Hữu Đức. – Margarette Whatley. – Khuê + Hải. – Những Vị Vô Danh. – Nguyễn Thị Dục Tú. – Một nhóm bạn anh Lân.  – Nguyễn Kinh Lư. – Ngô Tố Hoa. – Lê Hồng Hạnh.  – Một nhóm bạn Văn ở Hăng Sysco. – Lư Phước Lạc và gia đ́nh. – Đặng Văn Tiên + Huê. – Trương Lệ Chi. – Nhóm TTH ở Sydney (Úc). – Châu Thị Hồng Yến. – Lâm Hữu Lễ. – Julia Ngô. – Nguyễn Kim Oanh. – Nguyễn Vinh. – Một nhóm bạn Chị của Văn. – Jimmy Phan. – Phạm Xuân Dũng. – Nguyễn Tâm. – Nguyễn Ngọc Anh. –  Phạm Thị Lựu. – Phạm Thị Ngọc Dung. – Nguyễn Thuỷ. – Thích Nữ Liễu Nhiên. – Thích Tịnh Măn. – T. Caroline Besancon. – Mạch Quế Lan. – Anh Ngọc Huệ. – Ất Chiêu Nguyễn N. Anh. – Richard Hồ. – Phan Quang Trường. – Zella Balch. – Nguyễn Hạnh Trang. – Huỳnh Mạng. – Huỳnh Tom. – Nguyễn Thị Quư. – Kimberly Shropshire. – Chị Lâm Ngọc Anh. – Lê Thành Nhơn. – Nguyễn Thị Hà. – Chu Đôn. – Lư Thị Châu. – Nguyễn Thị Lan. – Lâm Xuân Hương. – Nguyễn Thành Nhân. – Liêm Whatley. – Nguyễn Thị Minh Phương. – Trần Quan. – Lê Trung. – Nguyễn Hữu Chương. – Dương Hoàng Tuấn và gia đ́nh. – Hồ  Văn Xách và gia đ́nh. – Lê Thị Tiền. – Lê Minh Tâm. – Nguyễn Minh Tuấn. – Lê Minh Nhật + Hằng + Bé Hiếu. – Lê Minh Dũng. – Lâm Quang Khải. – Lâm Phước Đông. - Nguyễn Mộng Thu. – Ông, Bà Chung Hữu Thế.

           

          Mọi chi tiết xin liên lạc:

- Nguyễn Trung Nghĩa,   58 Krotona Hill,  Ojai, CA 93023.

- Điện Thoại: (805) 640-0637.    - E-mail: nghia@thongthienhoc.org

 



[1] Ngoài 3 quyển nầy, c̣n 2 quyển nữa của Đức Bà A. Besant viết, ấy là: Con Đường Của Người Đệ Tử và Trước Thềm Thánh Điện. Mời quí bạn nên xem 2 quyển đó.

[2] Huynh John Coats đắc cử Chánh Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Quốc Tế cuối năm 1973 thế cho Đức Sri Ram từ trần.

[3] Đức Bồ Tát hiện kim là Đức Di Lạc. Trong ṿng 6, 700 năm nữa Ngài sẽ làm một Vị Phật Từ Bi.

[4] Vô minh.

[5] Alcyone tức là Krishnamurti.

[6] Đây là 7 Cơi của Thái Dương Hệ (Les 7 Plans du Système Solaire).

[7] C̣n 7 Cơi cao siêu của Hư Không nữa (Les Plans Cosmiques).

[8] Xin xem quyển “Cách Tu Hành.”

[9] Tiếc thay! V́ nhân tâm biến đổi, ngày nay các Tôn Giáo không c̣n Khoa Bí Truyền nữa, không khác nào Cái Xác vẫn ngồi trơ trơ đó, mà Phần Hồn đă đi đâu mất rồi.

            V́ thế mà các Tôn Giáo không giải nghĩa được nhiều hiện tượng Thiên Nhiên, làm cho các Nhà Khoa Học không c̣n tin tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần.

            Trong Thế Kỷ thứ 19, Khoa Học Vật Chất Vô Thần bành trướng một cách cực kỳ mau lẹ. Con Sóng Nghịch Luân Hăm Doạ Nhận Ch́m 2 Châu Âu, Mỹ Xuống Dưới Đáy Biển Sâu, như số phần của Châu Ắt Lăn Tích (Atlantide) 80 ngàn năm trước đây.

            Muốn cứu văn T́nh Thế, năm 1875 Thiên Đ́nh cho phép phổ biến khắp Thế Gian Vài Chương Đầu gọi là Hạ Bí Pháp của Khoa Minh Triết Thiêng Liêng (Théosophie = Sagesse Divine), dịch ra Việt Ngữ là Thông Thiên Học, cốt ư dạy con người biết được Bản Tánh Thiêng Liêng của ḿnh và phải thực hành những điều cần thiết để tiến mau lẹ.

            Minh Triết Thiêng Liêng là Luật Sinh Hoá Vũ Trụ Càn Khôn. Nó cũng là Cội Rễ các Tôn Giáo, các Khoa Học, các Triết Học, được dịch là Thông Thiên Học làm cho nhiều người hiểu lầm Thông Thiên Học là một Tôn Giáo mới.

[10] Thuở xưa, người ta dạy Khoa Học trong các Đạo Viện. Nhưng về sau, v́ một lẽ riêng, Khoa Học tách rời Đạo Đức.

            Từ Thế Kỷ thứ 16, Khoa Học bắt đầu bành trướng lại cho tới ngày nay phát triển rất mau lẹ, nhưng trở thành Vô Thần.

[11] Có chỗ nói Kalki là Đấng Cứu Thế thứ 10. Đấng Cứu Thế thứ 9 không có tên, trong Kinh Sách Ấn chỉ để là Mleccha, có nghĩa là man ri, mọi rợ, ngoại bang.

            Chữ Mleccha ở đây muốn nói Đấng Cứu Thế thứ 9 không phải sanh ra ở Ấn, mà ở một nước khác. Có chỗ cũng nói Đấng Cứu Thế thứ 9 là Đức Phật và Đức Chúa (Le Christ).

[12] Trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” có câu nầy:

            Câu 66: “Con hăy trợ giúp và cộng tác với Thiên Nhiên, rồi Thiên Nhiên sẽ coi con là một trong những tay sáng tạo và tùng phục con.” Thật là đúng với sự thật.

[13] Biết Đạo mà không Hành Đạo th́ chưa thuận theo lẽ Trời.

[14] Xin xem tới “Câu chuyện ông Uddhalaka dạy con hay là đâu đâu cũng có Đức Thượng Đế.”

[15] Nguyên tắc: Chất khí ở Cơi cao th́ rung động mau lẹ, màu sắc tốt đẹp và chun thấu qua chất khí làm mấy Cơi thấp dưới nó.

            Tỷ như: Chất khí làm Cơi Niết Bàn chun thấu qua 4 chất khí làm ra 4 Cơi dưới là: Cơi Bồ Đề, Cơi Thượng Giới hay Trí Tuệ, Cơi Trung Giới và Cơi Hạ Giới hay là Cơi Hồng Trần.

            V́ vậy mà 7 Cơi ở chung một chỗ được.

[16] Bởi v́ Thượng Trí chứa đựng những Nguyên Nhân ngày sau sinh ra những Hậu Quả. Nhân đây có nghĩa là Nguyên Nhân.

[17] Tôi xin nêu ra một bằng chứng cụ thể cho quí bạn nghe. Những người thường ăn thịt chó, đi tới xóm nào gặp chó th́ chó áp lại sủa. Tại sao vậy? Con chó biết y giết đồng loại của nó ư? Không bao giờ có điều đó. Chính là từ điển của chó nhiễm đầy ḿnh anh ta. Con chó đánh hơi nên sủa liền.

[18] Sữa nầy do một thứ cây gọi là cây sữa ḅ (Arbre vache) tiết ra. Thứ cây nầy mọc rất nhiều ở rừng núi Ấn Độ, có lẽ bên Trung Hoa, Mỹ Châu, Úc Châu đều có, song tại người ta chưa biết.

[19] Nửa Thế Kỷ trước, tôi có đọc một bài báo nói thuở xưa, những người ở Mễ Tây Cơ ăn ṛng gạo lứt và muối đen và sống cả trăm năm.

[20] Hiện nay ở tại các Chợ Mỹ đều có bán nồi nấu cơm gạo lứt.

[21] Có hai thứ ích kỷ: Ích kỷ thấp hèn và ích kỷ cao thượng.

            a- Chỉ lo cho bản thân ḿnh và gia đ́nh ḿnh được no ấm, sung sướng mà bóc lột kẻ khác, làm khổ cho nhiều người là ích kỷ thấp hèn.

            b- C̣n lo tu hành Đắc Đạo để cứu nhân độ thế là ích kỷ cao thượng.

            Nếu không Tự Giác (tức là ích kỷ) th́ làm sao Giác Tha được. Kẻ đui dắt người mù có ngày cả hai té xuống mương rạch chết hết. Chỉ có sửa đổi mục đích để quyền lợi lớn lao của toàn thể trên quyền lợi nhỏ nhít của cá nhân th́ tánh ích kỷ sẽ biến thành tánh vị tha và kết một Bè Từ đưa con người qua Bờ Giác.

            Nói cho tột lư, tất cả chúng ta đều ích kỷ, không nhiều th́ ít, nhưng phải tập tánh ích kỷ cao thượng, bỏ tuyệt thói ích kỷ thấp hèn.

[22] Người tu tŕ phải ăn chay trường, nếu c̣n ăn mặn th́ phạm Giới Sát Sanh, trái với lời Phật đă dạy.

[23] Thể Vía hay Tinh Quang Thể (Corps Astral). Astral do chữ Astre là Tinh Tú mà ra.

[24] Lương Tâm là ǵ? Nó ở tại chỗ nào trong ḿnh chúng ta? Nếu nói Lương Tâm biết được Con Người làm quấy nên quở trách th́ Lương Tâm phải cao hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn Con Người. Mà tại sao Lương Tâm lại có tiếng nói?

            Vậy Lương Tâm là một Người phải không? Có phải là Chơn Nhơn không? Hay là Phàm Nhơn có nhiều kinh nghiệm? Không biết nói sao cho đúng với sự thật, ở đây phải tuỳ theo trường hợp.

[25] Tuy nhiên có 7 Đại Đức Tánh cần thiết và quan trọng nhất, có thể tập được nội trong kiếp nầy. Thành công th́ sẽ được vào hàng Đệ Tử Chơn Sư.

            7 Đại Đức Tánh cần thiết ấy là: 1- Từ Bi. 2- Bác Ái. 3- Cương Quyết hay là Trung Thành. 4- Nhẫn Nhục hay là Bền Chí. 5- Tự Tín hay là Can Đảm. 6- Trong Sạch (Thanh Khiết). 7- Kiên Gan hay Cần Mẫn, Tận Tuỵ.

[26] Quí bạn muốn có đủ chi tiết xin đọc quyển “Le Fantôme des Vivants” (Hồn Ma Người Sống) của ông Hector Durville từ trang 249-300.

[27] Câu sau nầy trong Tam Tự Kinh rất đúng:

            “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện. Tánh tương cận, tập tương viễn. Cẩu bất giáo, tánh năi Thiên. Giáo chi đạo, quí dĩ chuyên.”

            Nghĩa xuôi: Phàm con người lúc cha mẹ mới sanh ra, bổn tánh tự nhiên Trời phú cho, mọi người giống nhau và hiền lành cả. Từ 3 – 5 tuổi sấp lên mới tập tánh riêng khác nhau xa. Bởi vậy, nếu cha mẹ chẳng dạy dỗ, thả lỏng để con muốn làm chi tuỳ ư, th́ ắt hoá ra ngu hèn, lung lăng quen nết, mất tánh lành mà Trời đă phú cho.

            C̣n dạy th́ phải lấy Chánh Đạo mà dạy, nhưng nhờ có chuyên cần mới nên.  

[28] Trong quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” Qui Tắc 20 có câu nầy:

            “Hăy t́m Đạo bằng cách nghiên cứu những Định Luật sinh tồn, những Định Luật thiên nhiên, những Định Luật siêu nhiên.”

            Những Định Luật sinh tồn là những Định Luật chi phối 3 Cơi: Cơi Trần, Cơi Trung Giới và Cơi Hạ Thiên. 3 Cơi nầy là Trường Tiến Hoá của người thường.

            Những Định Luật thiên nhiên là những Định Luật chi phối 2 Cơi: Thượng Thiên và Bồ Đề. 2 Cơi nầy là Trường Tiến Hoá của những Vị đă được Điểm Đạo từ 1 tới 4 lần gọi là Tứ Thánh.

            Những Định Luật siêu nhiên là những Định Luật chi phối Cơi Niết Bàn. Cơi Niết Bàn là Trường Tiến Hoá của những Vị Siêu Phàm.

            Quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” để dùng từ Hạng Đệ Tử cho tới Bậc Bồ Tát (7 lần Điểm Đạo).

[29] Xin xem 3 quyển nầy:

            1- Chuyện Hồn Ma Cô Katie King và Nhà Bác Học Anh William Crookes.

            2- Lá Thư của Người Chết.

            3- Những Kỳ Quan của Thần Linh Học (Les Merveilles du Spiritisme par Dr. J. Ph. Crouzet). Có 75 tấm h́nh. Những H́nh Hồn Ma chụp rất rơ.

[30] Sự hiểu biết của ta chỉ là một giọt nước trong mênh mông đại hải.

[31] Hiện giờ có nhiều thanh niên nam nữ, học sinh Trung Học, nghe người ta Thuyết Đạo cách nào không biết mà muốn bỏ học đi tu. Có tṛ vô lớp lơ lơ là là, có tṛ Giáo Sư hỏi bài không trả lời, tức là Tịnh Khẩu. Các tṛ đó lầm to vậy. Đạo là Luật Sanh Hoá Càn Khôn Vũ Trụ vô tận vô biên, chớ không phải ở trong Mấy Câu Kinh, Vài Bài Kệ đâu. Không phải Đi Ta Bà 5, 6 năm hay Tham Thiền vài chục tháng mà thành một Vị Siêu Phàm.

            Nếu trí hoá chưa mở mang, học thức kém cỏi, không phân biệt được điều nào là Chân, điều nào là Giả, điều nào Tà, điều nào Chánh th́ sẽ lạc qua Đường Bàng Môn, dị đoan mê tín một cách dễ dàng. 15, 20 năm sau không thấy kết quả tốt đẹp th́ sẽ chán ngán, nhưng ăn năn đă muộn. Không thành Tiên, không thành Phật, tương lai không được bảo đảm, sợ c̣n bị lợi dụng đủ cách là khác. Rất uổng một đời xuân xanh.

            Tôi khuyên các bạn trẻ đó nên suy nghĩ kỹ lưỡng những lời nói trên đây, và cố gắng học cho thành tài. Học tới Đại Học càng tốt. Học giỏi chừng nào, càng dễ hiểu Chân Lư chừng nấy. Hiểu rồi mới nương theo Chân Lư, tu tâm luyện tánh để bước mau tới Cửa Đạo. Đừng quá vội tin. Hăy coi chừng lưỡi dao dính mật. Đừng nếm, e cho phải đứt lưỡi có ngày. 

[32] Khoa Học cũng cho rằng: Sự tác dụng tạo ra Cơ Quan.

[33] Tôi tưởng Phật nói đây là những Thầy Phàm, chớ không phải Tiên Thánh, tức là Chơn Sư.

[34] Xin xem Bài “Tập Tánh Kiên Nhẫn” của Đức Bà A. Besant chỗ Phụ Trương.

[35] Xin đọc quyển “Chơn Sư và Đệ Tử” của tôi.

[36] Chỗ hủng của Trái Tim là Luân Xa ở gần Trái Tim, đây là lời nói bóng gió.

[37] Xin xem quyển “Chơn Nhơn và Phàm Nhơn.” Phải mở Huệ Nhăn mới thấy được Chơn Nhơn.

[38] Atma hay Atman đồng nghĩa. Atma là tiếng Bắc Phạn (Sanscrit), c̣n Atman là tiếng Nam Phạn (Pali). Atman có nghĩa là Ngôi thứ Nhứt của Chơn Thần, cũng có nghĩa là Chơn Thần nữa, tuỳ theo chỗ.

[39] Khi nói Ḷng Từ Bi, Bác Ái của tôi bao la, bát ngát, vô tận, vô biên, phải tưởng tượng thấy Ḷng Từ Bi của ḿnh bao trùm 5 Châu Thế Giới. Nên có bản đồ Trái Đất hay một Quả Địa Cầu để trước mặt. Tham Thiền cách nầy Tâm Thức lần lần mở rộng. Sẽ có kết quả tốt đẹp trong một thời gian sau.

[40] Trong quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo,”phần thứ nhứt có những qui tắc: 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 như sau đây:

            Qui tắc 9: Chỉ nên ham muốn cái ǵ ở nơi con.

            Qui tắc 10: Chỉ nên ham muốn cái ǵ ỏ ngoài con.

            Qui tắc 11: Chỉ nên ham muốn cái ǵ không thể đạt được.

            Qui tắc 12: Chú thích.

            Qui tắc 13: Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.

            Qui tắc 14: Hăy ham muốn sự an tịnh một cách nhiệt thành.

            Qui tắc 15: Hăy ham muốn những vật sở hữu trên tất cả mọi việc.

            Sau khi đọc quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” của hai vị Đại Đức A. Besant và Leadbeater, quí bạn sẽ thấy 7 Qui Tắc nầy và những lời dạy của Chơn Sư về “Hạnh Không Ham Muốn” và “An Phận” bổ túc lẫn nhau, chớ không phản đối nhau.

            Quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” nghĩa lư sâu xa, người c̣n Thế Tục không thể chấp nhận được.

[41] Phải làm một Vị Bồ Tát rồi mới lên địa vị Phật. Không có ai tu một kiếp mà thành Phật được bao giờ. Có chăng là ở trong trí tưởng tượng.

[42] Cung thứ Nh́, bậc cao hơn hết là địa vị Phật được 8 lần Điểm Đạo. Thế nên mới có hai chữ Vô Thượng; Vô Thượng đây là đối với Cung thứ Nh́, tại Trần Thế không bậc nào cao hơn nữa. Nhưng c̣n nhiều bậc cao hơn Phật và thuộc Cung thứ Nhứt.

[43] Bản chép cho tôi như thế, song không biết có đúng với nguyên văn hay không.

[44] Bài “Cơi Trần, Cơi Tiên” vốn của Giáng Kiều khuyên Tú Uyên.

[45] Chàng là Tú Uyên.

[46] Bản chánh những bức thơ nầy hiện giờ cất trong Bảo Tàng Viện tại Luân Đôn. Đức Jinarajadasa có cho xuất bản 2 quyển nhan đề “Những bức thơ của các Vị Chơn Sư Minh Triết”(Lettres des Maitres de la Sagesse). Những bức thơ nầy khác hơn những bức thơ của Chơn Sư gởi cho Sinnett,  bản chánh để tại Adyar.

[47] Bản chánh chữ Anh là “Những trang nhật kư cũ” (Old diary leaves).

[48] Những người Lapons ở xứ Laponie, phía Bắc Na Uy (Norvège) thuộc miền Bắc.

[49] Xin xem quyển “Hồn Ma Người Sống” (Le Fantome des Vivants) trang 143.

[50] Lúc Xuất Vía mà Cái Vía bị đánh tan ră th́ Xác Thân ở Cơi Trần chết tốt.

[51] 25 Đức Tánh nầy tôi có kể trong Bộ “Học Cơ Tiến Hóa Theo Khoa Minh Triết Thiêng Liêng,” Quyển 4.

[52] Tỷ như Sấm Trạng Tŕnh, Giảng Ông Bán Khoai, Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh, những lời Tiên Tri của Nostradamus, v.v… Người ta bàn tán rất nhiều theo ư ḿnh hiểu, nhưng cuối cùng không thấy xảy ra những việc của họ tiên đoán. Điều nầy v́ 2 lư do:

            Lư do thứ nhứt: Hoặc do Thiên Đ́nh đă sửa đổi số mạng của dân chúng do Quả Tốt của họ gây ra.

            Lư do thứ nh́: Luôn luôn Sấm Giảng đều nói bóng dáng và tượng trưng, nếu không có bí quyết th́ không hiểu, cũng như không có ch́a khoá để mở cửa vậy.

            Vậy quí bạn chớ nên quá tin những lời bàn tán về Sấm Giảng và nhất là lời nói về tương lai. Coi bói có thể nói trúng quá khứ 80, 90 %, c̣n tương lai không chắc trúng tới 20 %. Tương lai ở nơi Trời mà cũng ở nơi ta. Lo làm việc phước đức, giúp người tuỳ phương tiện th́ ta sửa đổi ít nhiều số mạng của ta.

[53] Ta có thể thanh toán một số nợ 1.000 $ bằng cách trả tiền 5 lần, mỗi lần 200 $ hoặc 10 lần, mỗi lần 100 $, v.v… Nhân Quả cũng vậy. Một số Quả mà ta phải trả có thể chia ra 5, 7 lần, tuỳ theo sức ta, Thiên Đ́nh không bắt buộc trả một lần cho hết.

[54] Hào quang vốn do Cái Vía và Cái Trí của con người tạo ra.

[55] Trong lúc bắt tay nhau ta cũng phải cầu nguyện như vậy.

[56] Đây là đem áp dụng nguyên tắc: Hai tư tưởng đối lập với nhau không thể ở chung một chỗ với nhau và cùng chung một lúc trong Trí ta. Hễ cái nầy đến th́ cái kia phải đi. Thế nên khi trong Trí ta nảy sanh tư tưởng giả dối th́ ta phải nghĩ liền: “Tôi luôn luôn chân thật.” Nói trong ḷng vài lần như vậy, tư tưởng chân thật xua đuổi tư tưởng giả dối trong Trí ta mà không nhọc mệt lắm.

[57] Bài Tựa quyển “Dưới Chân Thầy” Đức Bà A. Besant viết hồi tháng 12-1910, c̣n Alcyone sanh ngày 11-5-1895, tới 1910 mới 15 tuổi. Chơn Sư dạy Alcyone năm 1909, lúc ấy ông 14 tuổi.

[58] Phật Giáo cũng có 3 Ngôi: 1- A Di Đà (Amitabha). 2- Quan Âm (Avalokiteshvara). 3- Thế Chí (Tashishi).

[59] Trong đó có Đức Phật Thích Ca. Danh từ Phật có 2 nghĩa:

            1- Giác: Sáng Suốt.

            2- Ngôi Thứ trên Thiên Đ́nh, Chủ Tể Cung Thứ Nh́.

[60] Xin nhớ: Học với một vị Đạo Sư.

[61] Shraddha có 2 nghĩa: Đức Tin, câu Cầu Nguyện và ở đây là Lễ Cầu Nguyện cho người chết.

[62] Người giữ Đạo Jain khi xưa là một Nhánh của Ấn Giáo, Đạo nầy lấy sự hoà b́nh làm mục đích, bốn biển là anh em.

[63] Chớ nên tưởng rằng mỗi lần ta bị đau khổ đều do kiếp trước ta Gieo Nhân Chẳng Lành. Không phải luôn luôn như vậy. Có thể ngày nay ta bị nhiều người làm cho ta đau khổ v́ một lư do nào đó, hoặc tánh ích kỷ, hay là v́ quyền lợi cá nhân của họ. Cũng có khi v́ ta tính toán sai lầm. Muốn t́m ra nguyên nhân đầu tiên, do ở kiếp hiện tại hay ở kiếp quá khứ phải nhờ Huệ Nhăn xem xét. Chúng ta chớ nên ức đoán điều chi cả. Gặp đau khổ th́ cứ lo giải trừ mà thôi.

[64] Theo Huyền Bí Học có 7 Dăy Hành Tinh (Chaine Planétaire) hữu h́nh và xoay chung quanh Mặt Trời. Ấy là:

            1- Dăy Kim Tinh (Chaine de Vénus). 2- Dăy Mộc Tinh (Chaine de Jupiter). 3- Dăy Thuỷ Vương Tinh hay Hải Vương Tinh (Chaine de Neptune). 4- Dăy Hoả Vương Tinh (Chaine de Vulcain). 5- Dăy Thổ Tinh (Chaine de Saturne). 6- Dăy Thiên Vương Tinh (Chaine d’Uranus). 7- Dăy Trái Đất (Chaine de la Terre).

            Mỗi Dăy Hành Tinh gồm 7 Bầu Hành Tinh, có cái hữu h́nh, có cái vô h́nh. (Xin xem quyển “Sự Sanh Hoá các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu và quyển 9 Bộ Học Cơ Tiến Hoá theo Khoa Minh Triết Thiêng Liêng của tôi).

[65] Xin nhắc lại: Ở đây nói theo Huyền Bí Học, khác hơn Khoa Thiên Văn, xin quí bạn miễn nghị.

[66] Những người hy sinh cho tổ quốc thác rồi lên Cơi Trung Giới được những người pḥ trợ vô h́nh giúp đỡ. Họ sẽ đầu thai mau lẹ và tiến lên một vài bậc cao hơn người thường.

            Xin nhớ rằng: Không phải quân lính ra trận đều chết hết. Nếu thật vậy th́ chiến tranh đă chấm dứt từ lâu rồi. Người nào tới số chết mới chết, số bị thương mới bị thương, không tới số th́ vẫn b́nh an vô sự, v́ có Thiên Thần che chở. Tục rằng: Đạn tránh người, chớ người không tránh đạn được. Rất đúng.

            Đừng quên rằng: Dầu ở hậu cứ hay nằm nhà, tới số chết cũng chết vậy, chạy đâu cho khỏi. Đừng sợ chết, đừng trốn tránh bổn phận và hăy nhớ măi: Nước mất th́ nhà tan. Phải có can đảm chiến đấu bảo vệ xứ sở quê hương khỏi bị quân nghịch chiếm đóng.

[67] Xin xem Đoạn “Đừng làm hư hại thân thể kẻ khác” trong Chương “Điều Hung Ác.”

[68] Chơn Sư thương Nhân Loại cũng như Người Mẹ thương đứa con duy nhất của ḿnh.

[69] Trong kiếp thứ Nh́ của 30 Tiền Kiếp của Alcyone do Đức Leadbeater thuật lại.

[70] Saint Jean – III – 14.

[71] Saint Jean – IV – 8.

[72] Tôi đă phục vụ trong Sở Giáo Huấn 36 năm, dạy từ Tiểu Học tới Trung Học, đă về hưu 18 năm rồi. Tôi có thể nói biết rơ tánh t́nh của trẻ em.

[73] Ông Dewaca, Lương Y của Phật, có một người chị tên Thirima nhan sắc tuyệt trần. Cô rất nhân từ và thường cúng dường cho Phật. Nhiều vị Đệ Tử nhỏ của Phật đem ḷng thầm thương, trộm nhớ, song chẳng dám nói ra.

            Một bữa kia, cô Thirima phát bịnh rồi từ trần. Muốn dạy Đệ Tử một bài học hay, nên hai ngày sau khi cô Thirima chết, Phật dắt Đệ Tử đến thăm.

            Than ôi! Đâu c̣n môi son, má phấn, mặt liễu, mày hoa, cá lặn, nhạn sa, nghiêng thành đổ nước. Trước mắt chỉ c̣n là một thân h́nh tiều tuỵ, xám ngắt, cứng đờ. Trong vài giờ đây, nó sẽ thành ra đóng tro tàn dưới ngọn lửa hồng thiêu đốt. Nếu đem chôn như phong tục nhiều nước khác th́ nó sẽ ră ra nước, hôi hám vô cùng. Chẳng may mà bay hơi ra ngoài, th́ chắc chắn ai nấy đều phải bịt mũi rồi ùa chạy đi hết. Cát Bụi phải trở về với Cát Bụi. Ảo ảnh của Vật Chất án mắt con người như thế đó! Hăy nh́n xem sự thật. Ví như tham thiền đă lâu mà không chế ngự được t́nh dục, chỉ c̣n dùng phương pháp nầy mà thôi. Đúng với câu: “Biến thể thơ toàn diệt sắc tâm.”

[74] Trừ ra bọn Ma Quái, bọn Hung Thần.

[75] Trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư nầy, theo Phép th́ Con Người chỉ mở mang Cái Vía, tức là T́nh Cảm mà thôi. Qua Cuộc Tuần Hoàn thứ Năm, Con Người mới mở Trí. Nhưng khi phân nửa Giống Dân thứ Ba sanh ra rồi th́ Đức Ngọc Đế và các Vị Đại Thánh từ Kim Tinh xuống. Các Ngài mở mang Trí Hoá Con Người và nhờ các Ngài mà cả triệu Con Thú mới có Thượng Trí được đi đầu thai làm Người trước khi cánh cửa Thiên Nhiên đóng lại giữa Người và Thú, nghĩa là sau đó Con Thú không được đi đầu thai làm Người nữa.

            Nói tóm lại, Con Người đă mở Trí trước một Cuộc Tuần Hoàn, cho nên ngày nay mới được văn minh như thế nầy.

[76] Đức Leadbeater nói rằng: Cho tới ngày nay, 2.500 năm đă trôi qua, mà người có Thần Nhăn lại Bồ Đề Đạo Trường vẫn thấy từ điển của Đức Phật c̣n chói sáng rực rỡ như Mặt Trời. Nhiều Vị Đại Thiên Thần c̣n ở giữ chốn đó và tắm gội trong ṿng hào quang nầy.

[77] Đức Di Lạc Bồ Tát sai 3 Vị La Hán xuống Trần đầu thai. Hai Vị ở Trung Hoa là Đức Lăo Tử và Đức Khổng Tử, c̣n một Vị ở Hy Lạp là Đức Pythagore, ngày nay là Đức Đế Quân K.H.

            C̣n Đức Bồ Tát, Ngài cũng lâm phàm tại Ấn Độ lấy tên là Krishna.

[78] Les Hounza, un peuple qui ignore la maladie par Ralph Bircher (Traduit par Gabrielle Godet).

[79] Loài nào cũng biết cảm xúc cả, tỷ như: Ngọc Uyên Ương lại gần nhau th́ xáp lại khít nhau.

[80] Xin đọc quyển “Trước Thềm Thánh Điện.”

[81] Tức là được Điểm Đạo Lần thứ Nhứt. Xin quí bạn đọc quyển Tân Ước (Tin Lành của Thánh Jean).

            Đức Jésus trả lời với Nicodeme:

            “Thật vậy, thật vậy, Ta nói điều đó với ngươi, nếu con người không sanh ra một lần nữa (tức là sanh ra Lần thứ Nh́) th́ nó không thấy được nước của Đức Chúa Trời.” (Jésus lui répondit: En verité, en verité, jete le dis, si un homme ne nait de nouveau, il ne peut voir le royaume de Dieu). (Jean -3-(3))

            Nhưng Nicodeme không hiểu nên nói với Ngài: “Làm sao mà con người sanh lại được, khi nó đă già rồi?” (Jean -3-(4))

            Hiểu rồi th́ biết Chân Lư vẫn một.

           

[82] 14 Nhánh Dân Phụ nầy là:

            7 Nhánh của Giống Dân thứ Tư là GiốngAtlantes, tổ tiên Giống Da Trắng bây giờ.

            Giống Da Trắng hiện thời là con cháu của Nhánh thứ Tư, thứ Năm của Giống Dân thứ Năm Aryen. Nhánh thứ Sáu của Giống Dân thứ Năm đă sanh ra rồi, song chưa đủ số để thành lập một quốc gia.

            Nhân loại c̣n trải qua 7 Nhánh của Giống Dân thứ Sáu và 7 Nhánh của Giống Dân thứ Bảy nữa trước khi điêu tàn. (Xin xem quyển “Sự sanh hoá các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu.”)

[83] Trismegiste là 3 lần lớn hơn.

[84] Tục rằng: “ Nhất Tu Thị. Nhị Tu Non,” rất đúng. Lăn lóc với đời mà giữ ḷng trong sạch, không bị Sắc, Tài, Danh, Lợi cám dỗ mới thật là Chân Tu. Trái lại, nếu chưa dập tắt Lửa Ḷng mà sống ẩn ḿnh trên Non Cao Động Thẳm, không bị những thử thách quấy rối th́ rất ung dung, tự tại. Tu như vậy rất dễ, nhưng khi trở ra Thành Thị th́ e cho sự vấp ngă khó tránh khỏi.

[85] Tôi có nói nhiều trong mấy quyển của tôi đă xuất bản.

[86] Xin mượn danh từ Tế Bào để dễ hiểu, thật ra cách cấu tạo nó không có tiết lộ ra, không phải làm bằng Vật Chất như da thịt của Xác Thân.

[87] C̣n các Tế Bào trong Xác Thân 7 năm mới thay đổi hết một lần.

[88] Griselda là người đàn bà gương mẫu về Đức Kiên Nhẫn và vâng lời ch́u lụy chồng. Bà là vợ của Hầu Tước Saluzzio. Hầu Tước bắt bà làm những công việc khổ sở mệt nhọc, bà luôn luôn tuân theo không bao giờ than van hay oán trách. Trong cuốn Decameron của Boccacio và cuốn Canterbury Tales của Nhà Văn Hào Chaucer cũng có thuật chuyện nầy.

[89] Có cách Xuất Vía và có Thần Nhăn khác hơn sự dẫn Luồng Hoả Hầu, song c̣n thấp.