Annie besant và c.w. leadbeater
Dịch giả : CAO NGÂN HÀ
GIẢNG
lý TIẾNG NÓI VÔ THINH
(TALKS ON THE
PATH OF OCCULTISM,
VOLUME 2:
THE VOICE OF THE
SILENCE)
Nhóm
Hội Viên Thông Thiên Học Hải Ngoại
hiệu
đính và xuất bản tại Hoa Kỳ.
2004KROTONA
2004
PHẦN THỨ
NHỨT TIẾNG NÓI
VÔ THINH
CHƯƠNG 2
NHỮNG NĂNG LỰC
CAO SIÊU VÀ NĂNG
LỰC THẤP THỎI
CHƯƠNG 5
TIẾNG NÓI VÀ
NHỮNG LỜI CẢNH GIÁC
CỦA NÓ
CHƯƠNG 6
CÁI NGÃ VÀ
CÁI ÐẠI NGÃ..
CHƯƠNG 10
HÃY TRỞ NÊN
ÐƯỜNG ÐẠO
CHƯƠNG 1 CÁNH CỬA ÐƯỢC MỞ RỘNG
CHƯƠNG 2 KHOA HỌC
CỦA TRÍ NÃO
VÀ MINH TRIẾT CỦA
TÂM HỒN
CHƯƠNG 6
CON ÐƯỜNG CỦA
BẬC LA HÁN..
CHƯƠNG 1
NHỮNG ÐỈNH CỦA
PHÁP BA LA
MẬT ÐA
CHƯƠNG
5 CỬA THỨ NĂM VÀ
THỨ SÁU
CHƯƠNG
7 CON ĐƯỜNG CỦA BẬC
ARYA
MỤC LỤC
PHẦN THỨ
NHỨT TIẾNG NÓI
VÔ THINH
CHƯƠNG 1 Lời Tựa
CHƯƠNG 2 NHỮNG
NĂNG LỰC CAO SIÊU VÀ NĂNG LỰC THẤP THỎI
CHƯƠNG 3 KẺ
PHÁ HOẠI SỰ THẬT
CHƯƠNG 4
CÕI THẬT VÀ CÕI GIẢ
CHƯƠNG 5
TIẾNG NÓI VÀ NHỮNG LỜI CẢNH GIÁC CỦA NÓ
CHƯƠNG 6
CÁI NGÃ VÀ CÁI ÐẠI NGÃ
CHƯƠNG 7 BA
GIAN PHÒNG
CHƯƠNG 8
ÐỨC MẸ THẾ GIỚI
CHƯƠNG 9
BẢY THỨ ÂM THANH
CHƯƠNG 10
HÃY TRỞ NÊN ÐƯỜNG ÐẠO
CHƯƠNG 11 CON ÐƯỜNG DUY NHẤT
CHƯƠNG 12
NHỮNG BƯỚC SAU CÙNG
CHƯƠNG 13
MỤC ÐÍCH
PHẦN THỨ HAI HAI CON
ĐƯỜNG
CHƯƠNG 1
CÁNH CỬA ÐƯỢC MỞ RỘNG
CHƯƠNG 2
KHOA HỌC CỦA TRÍ NÃO VÀ MINH TRIẾT CỦA TÂM HỒN
CHƯƠNG 3
SỐNG LÀ HÀNH ÐỘNG
CHƯƠNG 4
CON ÐƯỜNG HUYỀN BÍ
CHƯƠNG 5
BÁNH XE ÐỜI
CHƯƠNG 6
CON ÐƯỜNG CỦA BẬC LA HÁN
PHẦN THỨ BA
CHƯƠNG 1 NHỮNG
ÐỈNH CỦA PHÁP BA LA MẬT ÐA
PHẦN THỨ NHỨT
TIẾNG NÓI VÔ THINH
C.W.L.- Dù đứng trên quan điểm thiển cận
hay hoàn toàn hữu hình để khảo sát nội dung, bút pháp và nguồn gốc của nó,
quyển “Tiếng
Nói Vô Thinh”[1] [1] vẫn là một trong các tác phẩm đặc
sắc nhất của Vvăn
Cchương
Thông Thiên Học, và khi nghiên cứu cẩn thận hơn, căn cứ trên sự sưu tầm sáng
suốt hơn, chúng ta vẫn giữ nguyên niềm thán phục đó. Chúng ta sẽ không phạm
phải lỗi lầm khi xem nó như một bản Thánh Thư, dù
phải chấp nhận một cách không đắn đo từng chữ. Trong chốc lát chúng ta sẽ thấy
cũng chẳng phải vì quyển sách nầy có nhiều sai lầm nhỏ nhặt, hoặc những ngộ
nhận không đáng kể mà bị bỏ qua. Trái lại, ai người nào vì
lý do trên,
xem tác phẩm nầy như không đáng tin cậy và sai lạc, sẽ phạm
phải một lỗi lầm còn khó dung thứ hơn.
Bà Blavatsky bao giờ cũng sẵn sàng
nhìn nhận và ngay cả nhấn mạnh đến sự
kiện có nhiều chỗ thiếu chính xác trong tất cả những tác phẩm của Bbà.
TrongVào thời gian ban đầu,
khi chúng tôi gặp vài đoạn văn không rõ ràng như thế, tự nhiên chúng tôi kính
cẩn gác qua một bên, vì nghĩ rằng đây là một trong các điều không chính xác đó.
Sự Những nghiên cứu sâu xa hơn đã chứng tỏ cho chúng
tôi thấy rằng một trong số những trường hợp lạ lùng, Bà Blavatsky đều có lý
cả. Không bao lâu, nhờ kinh nghiệm trợ giúp, chúng tôi đã tỏ ra
cẩn thận nhiều hơn về phương diện nầy và tin cậy vào kiến thức uyên bác phi
thường và toàn diện của Bbà
trong nhiều vấn đề khác nhau và ít ai biết. Tuy nhiên không phải là như nhiều sinh
viên hời hợt nghi ngờ có một ý nghĩa ẩn tàng ( nào
đó ) trong một chữ in sai rõ rệt,
như nhiều sinh viên hời hợt. Nhưng chúng ta cũng không ngần ngại
nhìn nhận rằng Bbà
là Nnhà
Ssáng
Llập
vĩ đại và uyên thâm về Huyền Bí Học của chúng
ta và cũng
có thể viết sai một chữ Tây Tạng hoặc dùng sai một thuật ngữ Anh Văn.
Bà nói về nguồn gốc của quyển
sách trong Llời
Ttựa.
Ban đầu những lời giải thích nầy hơi khó chấp nhận, nhưng những sự sưu tầm mới
đây làm giúp cho chúng ta ta
trở nên dễ hiểu hơn nhiều. Người ta thường gán cho những lời của Bbà
một ý nghĩa vượt quá tư tưởng của Bbà
; do đó có những sự phán quyết lạ lùng sẵn sàng nảy sinh, nhưng
khi kết hợp lại tất cả những lời phê phán trên, người ta mới
thấy rằng những sự phàn nàn ấy đều vô căn cứ.
Bà nói : “Các
Những
trang sách đây trích ở “Kim Huấn Thư,” một trong
những tác phẩm phát cho những sinh viên Huyền Bí Học ở Ðông Pphương.
Kiến thức trong quyển nầy bắt buộc phải truyền thụ trong Ttrường
mà Ggiáo
Llý
đã được nhiều Nnhà
Thông Thiên Học chấp nhận. Nhờ thuộc lòng nhiều những Llời
Ggiáo
Hhuấn
nầy, nên tôi phiên dịch khá dễ dàng.”. Và
ở chỗ nơi khác Bbà
nói: “Tác phẩm mà tôi đem ra dịch đây thuộc về bộ sách trong đó tôi cũng rút
lấy những Tthi
Kkhúc
của “Kinh
Dzyan,”
dùng làm căn bản cho bộ Giáo Lý Bí Truyền.”. Bà
còn nói thêm : “Quyển Kim Huấn Thư có khoảng chín
chục 90 Ttiểu
Lluận
riêng biệt.”.
Trước hết, sự giải
thích của chúng tôi vượt quá tư tưởng của Bà Blavatsky, chúng tôi tưởng rằng ở
Ðông Pphương
tác phẩm nầy được giao cho tất cả các sinh viên Huyền Bí Học của Trường thuộc
về Quần Tiên Hội, mà ở đây kiến thức trong sách đã phổ biến. Do đó khi gặp
những Nnhà
Huyền Bí Học tiến bộ cho rằng không hề nghe nói đến quyển “Kim Huấn Thư,” chúng tôi
rất ngạc nhiên và sẵn sàng nhìn nhận sự lầm lạc, cũng như
tự hỏi xem những lời giáo huấn ấy có chân chánh không. Nhưng từ đó chúng tôi
học được nhiều sự việc, mà trong đó, vài điều đã khai sáng
tỏ hơn lúc đầu.
Ðối với mấy đoạn trong “Kinh Dzyan” cũng thế, càng quen thuộc với bản văn và tính cách độc đáo của nó, chúng ta càng hiểu nó một cách rõ ràng hơn, không riêng gì quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” hay bất cứ tác phẩm nào khác, thật ra tất cả không thể phát sinh từ một nguồn gốc.
Nguyên bản của “Kinh Dzyan” ở trong
tay Ðấng Tôn Nghiêm, Chủ Tể Quần Tiên Hội, không ai thấy được, không người nào
biết nó có từ bao giờ, nhưng người ta tin rằng Pphần
Tthứ
Nnhứt
( nghĩa là Ssáu
Đđoạn
Đđầu
) đã có từ thời kỳ trước Dãy Ðịa Cầu của chúng ta. Người ta cũng
tin rằng đây không phải là một lịch sử, nhưng đây là một loạt chỉ dẫn, hơn nữa
là một thể thức chứ không phải là một câu chuyện thành lập Vũ Trụ. Trong Viện Bbảo
Ttàng
của Quần Tiên Hội có tồn trữ một bản, chính bản đó (có lẽ là quyển
sách cổ nhất của Thái Dương Hệ chúng ta) Bà Blavatsky và nhiều vị Đđệ
Ttử
của Bbà
trông thấy,
và Bbà
đã mô tả một cách thật linh hoạt trong bộ “Giáo Lý Bí Truyền.” Tuy nhiên
quyển sách có trình bày vài đặc điểm mà Bbà
không đề cập đến. Những trang sách dường như chứa từ điện thật mạnh, vì chỉ cần
lật ra một
trang để xem, chúng ta cũng thấy hiện ra trước mắt những biến cố đượcthật trần thuật, đồng thời người xem
nghe như có một sự mô tả nhịp nhàng về biến cố ấy bằng chính ngôn ngữ của y,
đúng như ngôn ngữ có thể diễn đạt ý tưởng của Ttác Ggiả.
Bản văn không chứa một chữ nào mà chỉ có những biểu tượng.
Nắm được tất cả những lời
chỉ dạy nầy rồi,
chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi biết có một tác phẩm khác cũng có cùng
nguồn gốc với những đoạn “Thánh Kinh Dzyan” và sự xúc
động đầu tiên của chúng tôi là tin tưởng vào một sự sai lầm kỳ lạ phải
đã
xảy ra . Sự mâu thuẫn dị thường ấy cũng kích
thích chúng tôi khám phá ra Ttác Ggiả
thật của bộ “Kim
Huấn Thư”
: Vviệc
ấy được hoàn thành, tất cả sẽ
được giải bày một cách thật đơn giản.
Những đoạn Ttiểu
Ssử
khác nhau về Bà Blavatsky cho chúng ta biết rằng Bbà
đã lưu trú ba năm tại Tây Tạng và trong một lần khác Bbà
đã cố gắng đi vào Vvùng
Ccấm
Đđịa
nầy, nhưng không thành công. Trong một cuộc du hành khác, dường như Bbà
đã lưu ngụ tại một Đđạo Vviện
trên Dãy Hy Mã Lạp Sơn lúc ấy do một vị Ðệ Tử của Ðức Thầy Morya cai quản. Theo
tôi dường như vùng nầy ở Népal chớ không phải Tây Tạng, nhưng khó xác định là ở
đâu. Nơi đây Bà Blavatsky rất chuyên cần học tập và đạt được một sự phát triển
tâm linh phi thường. Trong thời kỳ đó Bbà
học thuộc lòng được nhiều thiên khảo luận khác nhau mà Bbà
đã đề cập đến trong lời tựa. Những sinh viên ở Đđạo
Vviện
đặc biệt nầy đều phải học như Bbà
và quyển Kkinh
có những đoạn đã trích ấy được xem như vô cùng quý báu và thiêng liêng.
Ðạo Vviện
nầy tối cổ. Nó được sáng lập vào những thế kỷ đầu của Kkỷ
Nnguyên
Thiên Chúa bởi do Nnhà Ttruyền
Ggiáo
và canh tân vĩ đại của Ðạo Phật. Ngài thường được biết dưới danh hiệu Arya-
sanga. Người ta quả quyết rằng Đđạo Vviện
ấy đã có từ hai đến ba thế kỷ trước Ngài. Dù sao đi nữa lịch sử của Đđạo
Vviện
liên quan đến chúng ta bắt đầu từ khi Ðức Aryasanga tạm trú ở đó. Ngài là người
có một năng lực phi thường, một kiến thức uyên bác và đã tiến xa trên Thánh
Ðạo.Trong một kiếp trước, Ngài là Dharmajyoti, tức là một trong các tín đồ
nhiệt thành của Ðức Phật, và sau đó, Ngài mang tên Kleinias, là một trong những
vị cao đồ của Ðức Thầy Kouthoumi (,
trong một kiếp Ngài là Ðức Pythagoras)e.
Sau khi Ðức Pythagorase bỏ
xác, Kleinias sáng lập tại thành Athens một Ttrường
chuyên nghiên cứu Ttriết
Llý
của Thầy mình. Chắc chắn nhiều hội viên Thông Thiên Học hiện nay đã lợi dụng
được cơ hội đó. Vài thế kỷ sau, Ngài tái sinh mang tên Vasubandhu Kanushika ở
Peshawar, sau đó được gọi là Purushapura. Khi được nhận vào Giáo Hội Tăng Già,
Ngài lấy tên là Vô Trước ( Asanga ) “Nngười
đã cởi bỏ các dây
chướng ngại.”.
Khi Ngài đã cao niên, các môn đồ Ngài sùng mộ Vvị
thủ lãnh của họ mới tôn xưng Ngài bằng danh hiệu dài hơn là Aryasanga - dưới
biệt danh nầy Ngài thường được biết đến như một Nnhà
Ttrước
Ttác
và Nnhà
Ttruyền
Ggiáo.
Người ta nói rằng Ngài đã đạt được một tuổi thọ thật cao, nếu truyền thuyết nầy
đúng, Ngài đã sống gần đến 150một trăm
năm mươi tuổi và từ trần ở Rajagriha.
[NTN1] Sách vở của Ngài để
lại thật dồi dào : Ttác
phẩm chánh trong số đó được nhắc đến là bộ “Du Già Sư Ðịa Luận” (Yoggacharya
Bhumishastra ( Du
Già Sư Ðịa Luận ).
Ðức Aryasanga đã sáng lập ra Ttrường
“Du
Già Phật Giáo”
(Bhoudiste
Yogacharya of Buddhism ).
Hình như Tôn Ggiáo
nầy bắt đầu bằng sự cố gắng dung hợp Phật Giáo với hệ thống Ttriết
Llý
vĩ đại của Yoga, hoặc có thể mượn ở giáo lý Yoga những gì có thể sử dụng và
giải thích theo lối Phật Giáo. Ngài đã từng du lịch nhiều và giữ một vai trò
then chốt trong việc canh tân Phật Giáo. Tiếng tăm của Ngài lừng lẫy ở điểm tên
tuổi Ngài được kể chung với uy danh của Ðức Nagarjuna ( Long
Thọ ) và Ðức Aryadeva (
Ðại Thiên ). Ba vị nổi tiếng nầy là ba Nngôi
Mmặt
Ttrời
của Phật Giáo, nhờ công nghiệp truyền bá ánh sáng và sự vinh quang của Ðạo Phật
trên Tthế
Ggian.
Ðức Aryasanga sống khoảng 1.000một ngàn
năm sau Ðức Phật. Các học giả Tây Pphương
không đồng ý về điểm nầy, nhưng không ai tin rằng Ngài sống vào thế
kỷ thứ bảy sau Thiên Chúa. Ðối với chúng ta, trong Hội Thông Thiên Học, Ngài được biết đến
như một Nnhà
Cchỉ
Ggiáo
nhã nhặn, kiên nhẫn và nhân từ. Ðó là Ðức Thầy Djwal Koul. Ngài có một địa vị
đặc biệt đối với chúng ta, vì ở thời kỳ vài người trong chúng ta hân hạnh được
biết Ngài, nghĩa là cách đây 40bốn chục
năm, Ngài còn chưa đạt được đến mục đích tiến hóa cuối cùng của nhân loại và
được Ðiểm Ðạo ở cấp bậc Chơn Tiên. Như thế trong tất cả những Ðức Thầy của
chúng ta, Ngài là người duy nhất trong kiếp sống nầy, mà chúng tôi được biết trước khi
Ngài trở thành Chơn Tiên, vào lúc Ngài còn là Ccao Đđồ
của Ðức Thầy Kouthoumi.
Sự kiện Ngài đã du nhập Phật Giáo vào xứ Tây Tạng trong kiếp sống của Ngài là
Aryasanga, có thể giải thích tại sao trong kiếp nầy Ngài chọn xác thân người
Tây Tạng. Cũng có thể còn vài sự liên hệ hay sự trói buộc của Nhân Quả mà Ngài
muốn chấm dứt trước khi nhận sự Ðiểm Ðạo sau cùng, tức quả vị Chơn Tiên.
Trong Mmột
trong các cuộc
du hành Ttruyền
Ppháp
lớn lao của Ngài trong kiếp sống mang tên Aryasanga, Ngài đã đến Đđạo
Vviện
ấy ở Hy Mã Lạp Sơn và lưu ngụ tại đó. Ngài ở ltại
đây gần một năm, giáo hóa Ttăng
Ssĩ,
thành lập Giáo Hhội
chung trong một vòng thật rộng lớn của xứ ấy và biến Đđạo
Vviện
thành một trung tâm đầu não của sự canh tân tín ngưỡng. Ngài đã lưu lại đây một
di tích và một truyền thống còn tồn tại đến ngày nay. Trong số Tthánh
tích của Ngài, người ta còn giữ lại một quyển Kinh với một niềm tôn kính vô
biên : Đđó
chính là bản văn mà Bà Blavatsky gọi là “Kim Huấn Thư.” Dường như
Ðức Aryasanga đã làm thành một loại sách tóm lược hay tập hợp những câu trích
dẫn mà Ngài ghi lại trong đó tất cả những gì Ngài cho là hữu ích cho Mmôn
Đđồ
của Ngài,
và Ngài bắt đầu với những Tthi Đđoạn
của “Kinh
Dzyan”
- không phải bằng những biểu tượng như trong nguyên bản, nhưng bằng chữ viết.
Ngài cũng trích nhiều câu khác, mà một đoạn rút trong tác phẩm của Ðức Long Thọ
(Nagarjuna ), như Bà Blavatsky đã cho biết. Sau
khi Ngài ra đi, các Mmôn Đđồ
của Ngài thêm vào quyển sách ấy một loạt các bài tường trình (
đúng hơn, được rút gọn )
về những bài thuyết pháp của Ngài : Đđó
là những “Ttiểu
Lluận”
mà Bà Blavatsky đã đề cập đến.
Trong kiếp trước, chính Alcyone đã
soạn lại và thêm vào quyển “Kim Huấn Thư” những bản
trần thuật về các bài thuyết pháp của Ðức Aryasanga mà ba bài đã hợp
thành vấn đề chúng ta hiện đang nghiên cứu. Vậy nhờ Alcyone cẩn thận biên soạn
chúng ta mới có tác phẩm nhỏ vô giá nầy, cũng như trong kiếp sống hiện tại
chúng ta mang ơn người qua quyển sách nhỏ có nhan đề “Dưới Châơn
Thầy.”
Kiếp trước Alcyone bắt đầu từ năm 624 sau Thiên Chúa và trải qua tại vùng Bắc
Ấn. Trong kiếp đó Alcyone được thu nhận vào Giáo Hội Tăng Ggià
Phật Giáo lúc còn rất trẻ. Cậu bé quyến luyến Aryasanga một cách nồng nhiệt và
được Ngài dẫn đến Đđạo Vviện
ở Népal, nơi đây Ngài để cậu trợ giúp và điều hành sự nghiên cứu của Giáo Hhội
do cậu cải tổ và chăm sóc. Trong vòng hai năm, Alcyone đã hoàn tất các chức vụ
trên trong sự thành đạt lớn lao nhất.[2] [2].
Nếu cho rằng quyển “Tiếng Nói
Vô Thinh”
cùng nguồn gốc với những đoạn “Kinh Dzyan,” chính vì lý do duy nhất là nó được rút
trong cùng một bộ sách. Chúng ta cũng không nên quên rằng, nếu trong các thiên
luận giải nầy, chúng ta có một phần đẹp đẽ thuộc Ggiáo
Llý
của Ðức Aryasanga, tất nhiên nó cũng phải bị tô điểm bởi thành kiến của những
người tiếp nhận nó. Họ hiểu sai về Nnhà Ccải
Ccách,
ít nhất trong vài đoạn họ đã không nắm được ý nghĩa thật sự của nó. Khi xét kỹ
tác phẩm, chúng ta sẽ thấy trong đó rải rác những đoạn diễn tả những cảm thức
mà Ðức Aryasanga ít khi biểu lộ, do đó chứng tỏ một sự thiếu hiểu biết không
thể quy trách cho Ngài.
Như bạn đã thấy, Bà Blavatsky đề cập
đến việc phiên dịch những câu châm ngôn ấy đã gây ra vài vấn đề thú vị. Thật ra
chúng ta biết rằng Bbà
chỉ biết duy nhất một thứ ngôn ngữ ở Ðông Pphương
là tiếng Á Rập. “Quyển sách
được viết bằng thứ chữ xa lạ đối với tôi ;
tôi cũng không biết thứ ngôn ngữ được sử dụng. Ðó có thể là tiếng Bắc Phạn
(Sanskrit ), Nam Phạn ( Pali ),
hoặc là thổ ngữ Prakrit hay
tiếng Népal, Tây Tạng, những chữ viết không phải là thứ chữ hay dùng hiện nay.” Ít ra
gần như chúng ta có thể tin chắc rằng trên Tthế Ggian,
Bà Blavatsky không thể biết thứ chữ viết cũng như ngôn ngữ đã được sử dụng.
Ðối với nhữngmột người có khả năng vận dụng Thể
Trí một cách tự do, muốn hiểu một quyển sách có những phương pháp không hề
giống với sự đọc sách thông thường. Phương pháp đơn giản nhất là đọc trong trí
của những người đang nghiên cứu tác phẩm,
nhưng phương pháp nầy có thể bị bác bỏ là làm như thế không đạt được ý nghĩa
thật sự, mà đó là ý nghĩa hiện ra ở người nghiên cứu, ý nghĩa nầy có thể khác
với ý nghĩa trong sách. Phương pháp thứ hai là quan sát hào quang của quyển
sách ; thuật ngữ trên cần phải có vài lời
giải thích cho những người chưa hiểu biết về khía cạnh Hhuyền
Bbí
trong Tthiên
Nnhiên.
Về phương diện nầy, một thủ bản xưa hơi khác với một quyển sách hiện đại. Nếu
công việc làm ban đầu không phải do chính Ttác Ggiả,
thì trong mọi trường hợp bản văn sẽ được một người khác chép lại. Người ấy có
một trình độ học thức và thông minh nào đó, y hiểu được đề tài quyển sách, và
về điểm nầy lại có ý kiến riêng của y trong đó. Chúng ta nên nhớ rằng bản văn
thường được chép bằng một mủi nhọn là phương pháp cũng chậm chạp và cần cù gần
như điêu khắc. Vậy người viết đã in tư tưởng của y trên bản văn một cách mạnh
mẽ.
Do đó mọi thủ bản, dù mới thực hiện, luôn luôn được bao phủ bằng hào quang của Cái Trí giúp chúng ta hiểu ý nghĩa tổng quát của quyển sách, hoặc hơn nữa hiểu được ý kiến của một người về ý nghĩa và về giá trị của thủ bản ấy. Mỗi khi có người đọc, hào quang của Cái Trí ấy gia tăng, và nếu thủ bản ấy được nghiên cứu một cách đúng đắn, dĩ nhiên sự gia tăng đó thật là đáng kể và có giá trị lớn lao. Một quyển sách được nhiều người đọc thường biểu lộ một hào quang thăng bằng, rộng rãi hơn và được bổ túc bởi những ý kiến đối nghịch của chính những độc giả ấy. Phép trắc lượng tinh thần một quyển sách như thế thường cung cấp một kiến thức khá đầy đủ về nội dung của nó, nhưng với một phần ngoại biên khá quan trọng, nó lại phô bày những ý kiến không có trong sách, những ý kiến dị biệt của nhiều độc giả.
Ðối với quyển sách được in ra cũng gần giống như thế, trừ ra lúc đầu không có người sao chép lại. Vậy lúc ban sơ trong nghề in, thường quyển sách chỉ biểu lộ vài tư tưởng rời rạc của người đóng sách và bán sách. Ngoài ra, ở thời đại chúng ta dường như ít có những độc giả nghiên cứu một cách chuyên tâm và đúng đắn như những bậc tiền bối. Ðó là lý do những hình tư tưởng bao bọc quyển sách hiện đại ít khi chính xác và rõ ràng như những hình tư tưởng bao bọc các thủ bản cổ.
Một phương pháp thứ ba đòi hỏi những
năng lực thuộc loại siêu đẳng là ngồi hoàn toàn xa cách quyển sách hay thủ bản
và liên lạc với Ttác Ggiả
bằng Cái Trí. Nếu quyển sách được viết bằng ngoại ngữ, đề tài của quyển sách
không được hiểu biết và không hề có chút hào quang nào để cung cấp những chỉ
dẫn hữu ích, thì chỉ còn việc đi trở ngược lại lai lịch của nó, để tìm xem nó
được sao chép lại từ tác phẩm nào (hoặc in tùy theo trường hợp
) và như thế xác định xuống đến Ttác Ggiả
của nó. Nếu đã biết đề tài của một quyển sách, thì có thể dùng một phương pháp
ít tẻ nhạt hơn là trắc lượng tinh thần đề tài đó, tức tiếp xúc với những luồng
tư tưởng tổng quát liên hệ đến nó và do đó tìm ra Ttác
Ggiả
và những gì y đã suy tư. Trong một ý nghĩa nào đó, tất cả những tư tưởng liên
hệ đến một đề tài được nêu ra ở những địa phương được tập trung chung quanh
một điểm trong không gian, đến đỗi gặp điểm đó người ta có thể tiếp xúc với tất
cả những luồng tư tưởng quy tụ chung quanh đề tài, mặc dù, dĩ nhiên là những
luồng tư tưởng nầy liên quan đến hàng triệu dòng tư tưởng thuộc về đủ thứ vấn
đề khác nhau.
Giả sử trong thời kỳ đó Bbà
Blavatsky đã
có đủ năng lực về Hhuệ Nnhãn,
Bà Blavatsky có thể dùng một trong những
phương pháp trên để hiểu ý nghĩa của những thiên khảo luận tạo thành quyển “Kim Huấn
Thư,”
song thiếu bằng cớ làm sao bảo đảm rằng công việc của Bbà
là một sự phiên dịch. Nhưng cũng có thể còn vài lý do khác khá xa xôi. Hiện
nay, trong Đđạo
Vviện
trên Hy Mã Lạp Sơn đó không ai nói được tiếng Âu Châu, nhưng ít ra 40 bốn
chục năm đã trôi qua từ khi Bà Blavatsky lưu trú tại đó, phải có
nhiều sự thay đổi xảy ra. Người ta biết rằng thỉnh thoảng, nhưng rất hiếm, có
những sinh viên Ấn Ðộ đã đến thọ giáo ngay tại nguồn suối hiểu biết cổ xưa đó,
và nếu chúng ta giả sử rằng cuộc thăm viếng của một trong những sinh viên đó
trùng hợp với việc lưu ngụ của Bbà,
thì cũng có thể người ấy biết vừa tiếng Anh vừa lẫn ngôn ngữ của thủ bản kia
hoặc ít ra y biết được tiếng của một người cư ngụ trong Đđạo
Vviện,
như thế y có thể tự đọc thủ bản ấy và do đó đã đọc cho Bà Blavatsky nghe.
Sau cùng, và hơi kỳ
lạ, Bbà
cũng có thể lãnh hội Giáo Llý
nêu trên bằng tiếng mẹ đẻ của Bbà.
Có nhiều Bbộ
Llạc
Phật Giáo, có thể thuộc nguồn gốc Thát Ðát, đã định cư khá đông đảo ở Nga Âu,
trên bờ sông Volga. Vả lại, hình như nhiều người dù sống rất xa cách xứ Tây
Tạng, nhưng vẫn luôn luôn xem nơi đó như Tthánh
Đđịa
của họ và thỉnh thoảng đã thực hiện những cuộc hành hương trên vùng đất ấy. Ðôi
khi những người hành hương lưu ngụ tại đây trong nhiều năm, vì là tín đồ trong
các Đđạo
Vviện
ở Tây Tạng hay Népal và vì một trong các người ấy có thể đồng thời nói tiếng
Nga và chính thổ ngữ Mông Cổ của họ, nên ở đây chúng ta lại thấy một phương
cách mới mà Bà Blavatsky có thể thông hiểu được những người khách trọ của Bbà.
Dĩ nhiên dù trong những trường
hợp nào chúng ta cũng không thể chờ đợi đúng bài thuyết pháp do chính Ðức
Aryasanga giảng cho các Đđệ Ttử
của Ngài. Trong tập sách cổ nầy, chúng ta không có lời giảng của Ngài, mà chỉ
có những gì do các Đđệ Ttử
Ngài giữ lại, và từ sự ghi chép đó, hiện nay chúng ta chỉ có trước mắt bản dịch
của một bản dịch hoặc bản tóm lược ấn tượng tinh thần tổng quát do ý nghĩ tạo
ra. Dĩ nhiên, đối với Ðức Thầy của chúng ta hay đối với chính Ttác
Ggiả,
không có gì dễ dàng hơn là dịch một cách trực tiếp và chính xác ra tiếng Anh,
nhưng vì Bà Blavatsky tuyên bố rõ ràng rằng chính Bbà
đã thực hiện bản dịch, cách làm việc ấy không được thừa nhận một cách hiển
nhiên.
Ðồng thời, sự tường thuật đã cho
chúng ta mục kđích
sự hoàn thành nhanh chóng công việc, khiến cho chúng ta nghĩ rằng có một sự phù
trợ nào đó đã giúp Bbà,
mà có thể chính Bbà
cũng không hay. Bà Bác sĩ Besant đã viết về vấn đề nầy như sau :
“Bà
viết ở tại Fontainebleau. Tôi thường ở kế bên Bbà
khi Bbà
làm việc ; tôi ngồi trong phòng lúc Bbà
viết. Tôi biết Bbà
không dùng đến quyển sách nào cả. Bà viết không ngừng trong nhiều giờ, dường
như hoàn toàn viết theo trí nhớ hoặc đọc trong một bản văn vô hình. Ðến chiều Bbà
cho tôi xem bản thảo mà tôi đã thấy Bbà
viết khi tôi ngồi bên Bbà
và nhờ tôi hoặc các bạn khác sửa gidùm
tiếng Anh, vì Bbà
nói với chúng tôi là Bbà
viết quá mau nên cú pháp chắc phải sai lạc. Nhưng trong bản văn ấy chúng tôi
chỉ sửa đổi vài chữ và nó vẫn là áng văn tuyệt tác.”.
Sau cùng, có thể Bbà
dịch quyển sách ấy ra tiếng Anh trước, trong lúc Bbà
lưu trú tại Đđạo
Vviện,
khi ở Fontainebleau Bbà
đã đọc bản dịch ấy từ một khoảng xa, việc mà trong nhiều trường hợp khác tôi đã
thấy Bbà
thường làm.
Sáu Ttrường
Pphái
Ttriết
Hhọc
Ấn Ðộ mà Bbà
đã đề cập đến trong trang đầu của Llời Ttựa,
là các Ttrường
Pphái
Nyaya, Vaiseshika, Sankhya, Yoga, Mimamsa và Vedanta. Bà cho chúng tôi biết
rằng mỗi Vvị
Giáo Cchủ
đều có phương pháp riêng, mà họ thường giữ gìn rất cẩn mật. Ðó là điều tự
nhiên, vì họ không muốn chịu trách nhiệm do phương pháp của họ gây ra ở những
hạng người không đủ tư cách vàì thiếu
chuẩn bị, nếu phương pháp bị tiết lộ sẽ không thể tránh được sự bất lợi. Ở Ấn
Ðộ không có một vị Ðạo Sư nào xứng đáng với danh hiệu ấy mà không trông nom Đđệ
Ttử
ở bên mình ; như thế khi đưa ra cho y những
phương pháp thực tập, Nngười
có thể canh chừng hiệu quả của chúng và Nngười
sẽ cho ngưng ngay tức khắc sự luyện tập, nếu thấy sai lạc. Trong Kkhoa
Pháp Mmôn,
đây chính là một tục lệ cổ xưa; người ta không thể chối cãi được, đây cũng
chính là phương cách duy nhất để tiến bộ một cách nhanh chóng và an toàn thật
sự. Công việc đầu tiên và khó khăn nhất của người Đđệ
Ttử
là chấm dứt những sự lộn xộn chi phối y, loại trừ những quyền lợi thứ yếu và
chủ trị những tư tưởng vẩẫn
vơ, y phải hoàn thành việc ấy bằng cách dùng ý chí khốâng
chế những Hhạ
Tthể
của y trong nhiều năm.
Tác Ggiả
cho chúng ta biết rằng nếu những hệ thống huấn luyện của các Ttrường
Bbí
Ggiáo
ở bên nầy Ddãy
Hy Mã Lạp Sơn khác nhau, thì ở bên kia chúng đều giống nhau. Chúng ta hãy để ý
đến danh từ Bbí
Ggiáo
ở đây, vì ta biết rằng trong Tôn Ggiáo
Ccông
Ttruyền
có những sự xấu xa và sự luyện tập những Pphù Pphép
Ttà
Đđạo
thật tệ hại trên triền núi phía Bắc hơn là phía Nam. Có lẽ chúng ta không nên
dùng thành ngữ “bên kia Ddãy
Hy Mã Lạp Sơn” theo nghĩa tượng trưng hơn là theo nghĩa Đđịa
Llý
một cách chật hẹp, vì nhiều người cho rằng chính trong những trường hợp được
các Ðức Thầy của chúng ta thừa nhận, sự huấn luyện mới giống nhau. Ðó là điều
rất đúng trong một nghĩa nào đó - một ý nghĩa quan trọng hơn cả - nhưng không
giải thích rõ
có thể gây sự hiểu lầm cho độc giả. Tất cả đều giống nhau có nghĩa là đời
sống đức hạnh phải là con đường duy nhất hướng dẫn sự phát triển Hhuyền
Bbí
và sự chiến thắng dục vọng là phương sách giải thoát duy nhất. Có nhiềunghĩa
là Ttrường
Hhuyền
Bbí
trong đó đời sống đạo đức bó buộc những hạn chế vô ích. Các Ttrường
hợp ấy dạy về hình thức phát triển tâm linh nhưng không chút quan
tâm đến việc sử dụng vào việc gì những kiến thức mà sinh viên đã thu hoạch
được. Nhiều Ttrường
khác lại quả quyết rằng phải thỏa mãn mọi dục vọng để đi đến chỗ chán ngán hầu
đạt đếnược
trạng thái dửng dưng. Không có Ttrường
hợp nào chủ trương các ý kiến trên
được Quần Tiên Hội cai quản. Trong tất cả những Ttrường
được thiết lập có liên quanhệ đến Quần Tiên Hội, dù rất xa
xưa, một đời sống trong sạch và một mục đích cao thượng cũng vẫn là điều kiện
tiên quyết và cần thiết.
Trong đoạn kế đó có hai điều sai lầm
nhỏ nhặt mà tôi đã đề cập đến. Tác Ggiả
cho biết : “Người ta cho rằng tác phẩm Tthần
Bbí
gọi là Paramartha do các vị Nagas truyền lại cho Nagarjuna ( Long
Thọ ).”.
Tác phẩm vĩ đại của Long Thọ có nhan đề là Prajna Paramita[3] [3] chớ không phải Paramartha, có
nghĩa là Ttrí
Hhuệ
đưa đến bờ bên kia. Bộ Kkinh
nầy không luận giải về Paramartha satya hay Ttâm Tthức
giúp bậc hiền giả chiến thắng mộng ảo. Như chúng tôi đã đề cập ở phía
trước, Long Thọ là một trong ba vị Huấn Sư vĩ đại của Phật Giáo vào đầu kỷ
nguyên Thiên Chúa. Người ta cho rằng Ngài mất vào năm 180 sau Thiên Chúa. Những
Nnhà
Thông Thiên Học ngày nay biết Ngài dưới danh hiệu Ðức Thầy Kouthoumi.
Ðôi khi khiến Ttác
Ggiả
Đđạo
Ggiáo
Ccông
Ttruyền
cho rằng Ngài là đối thủ của Ðức Aryasanga, nhưng khi biết những sự liên hệ mật
thiết đã kết hợp hai Ngài trong những kiếp trước ở tại Hy Lạp và thêm một lần
nữa trong kiếp nầy, thì chúng ta thấy ngay không thể có một sự đối nghịch như
thế. Rất có thể khi hai Ngài qua đời những Mmôn Đđệ
của Ngài đã
tạo ra sự tương phản trong Ggiáo
Llý
của các Ngài, như những Đđệ Ttử
nhiệt thành song ít sáng suốt thường làm. Nhưng chúng ta thấy bằng cớ về sự hòa
thuận hoàn toàn ở hai vị Huấn Sư do sự kiện Ngài Aryasanga trân trọng giữ gìn
một phần lớn những tác phẩm của Ðức Long Thọ mà Ngài đã sao chép lại trong tập
sách trích dẫn của Ngài để dạy các Đđệ Ttử.
Tuy nhiên không chắc chắn rằng Kinh
Bát Nhã Ba La Mật Ða là tác phẩm của Ðức Nagarjuna, vì theo truyền thuyết bộ
Kinh được các vị Nagas hay Thần Rắn truyền lại cho Ngài. Bà Blavatsky cho rằng
đây là danh hiệu của những Vvị
được Ðiểm Ðạo thuở xưa. Có lẽ Bbà
có lý, mặc dù còn một lý do khác có thể rất thú vị. Tôi đã khám phá rằng người
Aryen gọi Nagas hay Rắn là một trong những Bbộ Llạc
lớn hay Ttôn
Ttộc
Ggiống
Ddân
Pphụ
Toltèque của người Atlante mà xưa kia khi ra trận họ mang một cái cây có con
rắn vàng quấn chung quanh để thay cho cờ hiệu. Cây ấy có thể là Tổ Vvật
(Totem) hay biểu tượng của Bbộ Llạc
hoặc chỉ là biểu hiệu của một đại gia đình. Bộ Llạc
hay Tthị
Ttộc
nầy là người Atlante, họ đã giữ một vai trò quan trọng trong việc xâm chiếm xứ
Ấn Ðộ thuở xưa và những vùng đất thuộc phía Đđông
Nnam
Bbán
Đđảo.
Những Bbộ
Llạc
gọi là Nagas cũng được kể trong số Tthổ Ddân
Tích Lan khi VBijaya
và những người đồng hành với người đổ bộ lên đó. Vậy người ta có thể giải thích
truyền thuyết khi cho rằng Ðức Long Thọ tiếp nhận bộ Kinh ở một Ggiống
Ddân
rất xưa. Nói cách khác, bộ Kinh đó chính là một bản văn của người Atlante. Nếu
người ta nghi ngờ có vài đoạn trong Kinh Upanishads phát sinh từ một nguồn gốc,
thì cũng có sự ngạc nhiên về nét tương đồng của các Ggiáo
Llý
được nhận thấy trong một trang sách như thế của Bà Blavatsky.
Kinh Gnyaneshwari (viết là
Dhyaneshwari trong lần xuất bản thứ nhứt) không phải là một tác phẩm bằng tiếng
Bắc Phạn . Nó được viết bằng tiếng Marathi vào thế kỷ
thứ 13 thuộc kỷ nguyên chúng ta.
Ở trang kế đó, chúng ta thấy Ttrường
Pphái
Yogyacharya
(đúng hơn là Yogachara ) thuộc Pphái
Ðại Thừa ( Mahayana )
được đề cập đến. Tôi có nói đến ý đồ quan điểm của
Ðức Aryasanga, nhưng chúng ta nên bàn vài lời về điểm thật rắc rối là vấn đề
Thừa ( Yanas ),
tưởng cũng không
vô ích. Giáo Hội Phật Giáo hiện đại chia ra làm hai Ttông
Pphái
là Bắc Tông và Nam Tông. Bắc Tông bao gồm trong các nước Trung Hoa, Nhật Bản và
Tây Tạng. Nam Tông thịnh hành ở Tích Lan, Miến Ðiện, Kampuchia. Phật Giáo Bắc
Tông chọn Ðại Thừa ( Mahayana )
và Nam Tông theo Tiểu Thừa ( Hinayana
), nhưng muốn xác nhận điều ấy phải hiểu nghĩa của danh từ gây ra
nhiều sự tranh luận. Yana ( Thừa )
có nghĩa là cổ xe vmà
người ta đồng ý rằng đó là nghĩa áp dụng vào Pháp (Dhamma) hay Bbổn
Pphận
hay Luật , như chiếc thuyền chở chúng ta xuyên
qua biển đời để đến Niết Bàn (Nirvana). Tuy nhiên có năm lý thuyết liên quan
đến nghĩa thật của chữ Yana chúng ta đang xét :
1. Ðó là sự thích hợp với thổ ngữ
của vùng viết ra bài Pháp (the Law ).
Theo giả thuyết thì Ðại Thừa dùng tiếng Bắc Phạn ( Sanskrit
), Tiểu Thừa dùng tiếng Nam Phạn ( Pali
). Theo tôi, lý thuyết nầy dường như không đứng vững.
2. Hina dường như có nghĩa là trung
bình, hoặc dễ dàng hay nhỏ. Vậy người ta có thể xem Hinayana như con đường bậc
trung, hoặc dễ dàng hơn để đưa đến giải thoát, có kiến thức tối thiểu và hạnh
kiểm tốt cũng đạt được mục đích. Ðại Thừa (Mahayana )
là giáo lý toàn diện và có tính cách Ttriết
Llý
hơn, bao gồm thêm nhiều kiến thức liên quan với những loại cao cả trong Tthiên
Nnhiên.
Dĩ nhiên là sự giải thích nầy bắt nguồn từ Ðại Thừa.
3. Ðạo Phật luôn luôn tôn trọong
các Tôn Ggiáo
khác, xem tất cả như những con đường đưa đến giải thoát, mặc dù nó cho rằng
phương pháp do Ðấng Giáo Chủ khai sáng là con đường ngắn nhất và vững chắc
nhất. Vậy Phật Ggiáo
được coi như Ðại Thừa ; và Tiểu Thừa gồm có Bà La Môn Giáo (
Brahmanism ), Hỏa Giáo ( Zoroastrianism
), Kỳ Na Giáo ( Jainism
) và tất cả những Tôn Ggiáo
khác trong thời đó được định nghĩa theo công thức ấy.
4. Hai lý thuyết chỉ là hai trình độ
của một chủ thuyết duy nhất - Tiểu Thừa ( Hinayana
) dành cho hạng Shravakas hay Thinh Văn và Ðại Thừa (
Mahayana ) dành cho những sinh viên tiến bộ
hơn.
5. Không nên hiểu chữ Yana một cách
rõ rệt theo nghĩa thứ nhứt là “cổ xe”, nhưng nên hiểu theo nghĩa thứ hai gần
tương đương với tiếng Anh là chữ “career” (sự nghiệp). Theo sự giải thích nầy,
Ðại Thừa ( Mahayana ) đề
nghị với con người thực hiện “sự nghiệp vĩ đại” và trở nên một vị Bồ Tát (
Bodhisattva ) và hy sinh cho hạnh phúc của Tthế
Ggian.
Trái lại Tiểu Thừa (Hinayana )
chỉ chứng tỏ một “tiểu sự nghiệp” là điều chỉnh đời sống thế nào để đạt đến mục
đích của mình tức Ccõi
Niết Bàn (Nirvana ).
Phật Ggiáo
Bắc Tông đối với Nam Tông cũng như Công Ggiáo
đối với Tin Lành trong Thiên Chúa Giáo. Phật Giáo Bắc Tông giống như Công Ggiáo.
Nó hoằng diễn giáo lý của Ðức Phật. Chẳng hạn nó chấp nhận một phần tốt lành
của việc thờ cúng cổ xưa ở trong xứ, như sự cúng kiến để tỏ lòng sùng kính
những Ttinh
Llinh
trong Tthiên
Nnhiên
hoặc những sức mạnh trong Tthiên
Nnhiên
được Tthần
Tthánh
hóa. Khi những Nnhà Ttruyền
Ggiáo
Đđạo
Thiên Chúa đến những xứ theo Phật Giáo Bắc Tông, họ thấy những cuộc tế lễ thật
giống như sự cúng tế của họ thì họ cho rằng đó là một sự bắt chước do Mma
Qquỷ
xúi giục, và khi họ được chứng minh rõ ràng những cuộc tế lễ ấy
đã có trước kỷ nguyên Thiên Chúa, họ lại nói rằng đó chính là “đoán trước mà
bắt chước.”.
Trong các Kinh Đđiển
Phật Giáo cũng như trong Kkinh
Ssách
của các Tôn Ggiáo
khác, người ta thấy có nhiều mâu thuẫn. Phật Giáo Nam Tông căn cứ trên vài văn
bản, và vì sợ xa nguyên bản nên không tìm hiểu Kkinh
Ssách
khác hoặc là những phần thêm vào nguyên bản. Do đó Pphái
nầy không quảng bác bằng Phật Giáo Bắc Tông. Như đây là một thí dụ
: Trong những bài thuyết pháp, Ðức Phật của chúng ta luôn luôn đả
phá ý niệm phổ biến trong thời bấy giờ là Bbản Nngã
có thể trường tồn. Cũng như trong những người Thiên Chúa Giáo ý niệm cho rằng Bbản
Nngã
chúng ta bất diệt bao giờ cũng rất phổ thông. Nhưng khi Ngài dạy rằng những sự
vật đồng hóa với con người không có gì trường tồn, Ngài cũng tuyên bố một cách
không lầm lạc về những điều liên hệ đến những kiếp sống liên tiếp của chúng ta.
Ngài mượn thí dụ những kiếp trước ;
và một vị Vua hỏi Ngài ký ức tiền kiếp giống cái chi, Ðức Phật trả lời rằng
: “Việc đó giống như người ta nhớ lại đã làm gì hôm qua và những
ngày trước đó đi xuống làng nầy hay làng kia.”.
Tuy nhiên ngày nay Pphái
Nam Tông dạy chỉ có Nnghiệp
còn lại thôi, còn Chơn Ngã thì không tồn tại. Như con người sau khi đã gây ra
trong kiếp sống một số Nghiệp, kế đó y chết đi, không có gì còn lại ở y, rồi
khi sinh ra, một người khác phải chịu Nghiệp Quả mà hắn không tạo ra.
Khi Phật Giáo Nam Tông dạy rằng chỉ
có Nghiệp trường tồn, đồng thời Ttông
Pphái
nầy cũng đề cập đến việc đạt Niết Bàn. Do đó nếu bạn hỏi một vị Ðại
Sư tại sao ông quy y Phật, ông sẽ trả lời “Ðể vào Niết Bàn.”.
Nếu bạn hỏi thêm : “Phải trong kiếp nầy không?”.
Ông sẽ không ngần ngại trả lời : “Ồ
! không, phải nhiều kiếp mới được.”.
Cũng thế, khi chấm dứt bài thuyết pháp, một vị Ssư
chúc thính giả như sau : “Cầu xin Quý Liệt Vị sớm nhập Niết
Bàn.”.
Nếu bạn hỏi ông có phải họ vào Niết Bàn trong đời nầy không, ông đáp
: “Không, phải nhiều kiếp nữa.”.
Vậy mặc dù giáo lý trái ngược lại, sự tin tưởng thực tế trong đời sống cá nhân
vẫn tồn tại.
Bà Blavatsky đã dành hết hai trang
để bàn về vấn đề những loại chữ khác nhau được dùng trong các Ðạo viện ở Hy Mã
Lạp Sơn. Ở Âu Châu và Mỹ Châu, mẫu tự La Mã rất thịnh hành, đến nỗi được sử
dụng phổ thông, nhưng đối với những độc giả Tây Pphương
cần phải được giải thích rằng ở Ðông Pphương
lại khác hẳn. Mỗi thổ ngữ Ðông Pphương
như Tamil, Telugu, Cinghalais, Malayalam, Hindi, Gujarati, Canarese, Bengali,
Birman, Nepalais, Tây Ttạng,
Thái Llan
và nhiều thổ ngữã
khác nữa đều có mẫu tự riêng và chữ viết đặc biệt của nó. Một người dùng một
trong các thứ thổ ngữ nầy khi y trưng dẫn một bản văn nước ngoài, y sẽ sử dụng
chữ viết của nước y. Cũng thế khi một nhà văn Anh trưng dẫn một câu văn Ðức hay
văn Nga, thì chắc chắn y không viết câu ấy bằng chữ Ðức hay chữ Nga, nhưng viết
bằng chữ La Mã. Khi đề cập đến một thủ bản Ðông Pphương
bao giờ cũng phải xét đến hai điều là ngôn ngữ và chữ viết. Cả hai phải luôn
luôn trùng hợp nhau.
Ở Tích Lan, nếu tôi quan sát một
quyển Kinh bằng lá buông, hầu hết được trình bày bằng chữ Cinghalais rất đẹp,
nhưng không có gì giống ngôn ngữ Cinghalais. Nó có thể hoàn toàn giống Pali,
Sanskrit hay Elu ; đối với thứ chữ khác cũng có thể
như thế. Do đó khi nói rằng những lời giáo huấn ấy đôi khi được viết bằng chữ
Tây Tạng, có thể Bà Blavatsky muốn nói rằng chữ ấy là chữ Tây Tạng, nhưng không
nhất thiết là đúng ngôn ngữ Tây Tạng. Tôi không bao giờ có cơ hội được thấy
những ký hiệu bí mật lạ lùng mà Bbà
đã mô tả, trong đó những màu sắc và thú vật biểu thị những chữ. Cũng trong đoạn
ấy Bbà
đề cập đến 30
ba mươi chữ đơn của mẫu tự Tây Tạng.
Ngược lại, làm sao giải thích khi Bbà
nói đến 33 ba
mươi ba chữ đơn sau đó. Nếu không kể 4 bốn
nguyên âm trong đó, thì chỉ có 30 ba mươi chữ,
và trong trường hợp ngược lại, dĩ nhiên có 34 ba mươi bốn chữ
chứ không phải 33ba mươi ba.
Còn về chữ kép, số lượng của nó lại thay đổi. Một quyển văn phạm mà tôi có
trước mắt cho biết có trên 100 một trăm chữ,
nhưng chắc Bà Blavatsky chỉ muốn nói đến những chữ thông dụng.
Bà nói đến một trong các phương pháp
viết chữ Trung Hoa khiến tôi nhớ đến một kỷ niệm thú vị. Trong khi tôi lưu ngụ
tại Tích Lan, có hai vị Tăng Ssĩ
từ Trung Hoa đến viếng chúng tôi. Họ không nói được thứ ngôn ngữ nào cho chúng
tôi hiểu họ. May thay có vài sinh viên trẻ người Nhật Bản ở bên chúng tôi, nhờ
sáng kiến phối hợp tuyệt diệu của Ðại Tá Olcott mà theo đó mỗi Ttông
Pphái,
Nam và Bắc Pphương
đã gởi vài Ttân
Hhọc
Ttăng
đến để tìm hiểu đường lối giáo lý của nhau. Mấy vị Ttăng
Ssĩ
trẻ nầy không hiểu được một thứ tiếng nào khi nghe các vị Ssư
Trung Hoa nói, nhưng nhờ phương tiện bút đàm, họ có thể trao đổi ý kiến với
nhau. Ðối với người Nhật những ký hiệu ( chữ
) viết ra cũng có nghĩa ( như
Trung Hoa ) nhưng đọc khác. Cũng thế một người
Pháp và một người Anh, đều hiểu hoàn toàn một dãy số, dù người nầy đọc “un,
deux, trois”, còn người kia đọc “one, two, three.”.
Ðối với những
nốt nhạc người ta cũng có thể nói giống như thế.
Cuộc đàm thoại của tôi đối với các
vị Ssư
thật lạ lùng và thú vị. Trước hết mỗi câu hỏi của tôi đều được bạn đồng sự của
tôi dịch ra tiếng Cinghalais để sinh viên Nhật hiểu ;
sau đó sinh viên ấy dùng cọ viết ra chữ chung của Trung Hoa và Nhật Bản. Rồi
đến lượt vị Ssư
Trung Hoa đọc và viết câu trả lời bằng cách sử dụng cùng thứ chữ ấy, sau cùng
lại được sinh viên Nhật dịch ra tiếng Cinghalais và bạn đồng sự của chúng tôi
dịch ra tiếng Anh.
Dù cuộc đàm thoại trong những điều kiện nầy chậm chạp và kém chính xác, nhưng vẫn là một kinh nghiệm hữu ích.
Những lời dạy nầy để dành cho những
kẻ chưa biết những mối nguy hiểm của những Iddhi bậc thấp.
C.W.L.- Ở câu
đầu của đoạn thứ nhứt nầy, Bà Blavatsky thêm vô ghi chú như sau
:
Tiếng Pali Iddhi đồng nghĩa với
tiếng Sanskrit Siddhis và có nghĩa là những năng lực tâm linh, những quyền năng
phi thường của con người. Có hai loại Siddhis, một nhóm gồm những tinh lực linh
khí thấp thỏi, thô sơ ; nhóm kia buộc phải có sự huấn
luyện cao siêu về quyền năng thần bí. Như Ðức Krishna nói trong Kinh Shrimad
Bhagavat :
“Kẻ nào chuyên tâm thực hành Yoga,
khống chế được giác quan và tập trung tinh thần nơi Ta ( Krishna
), sẽ là những nhà Yogis mà tất cả những Siddhis đều sẵn sàng cho
người sử dụng.”.
Vấn đề quyền năng tâm linh đã gây ra
không biết bao nhiêu ngộ nhận !
Người sinh viên tự tránh cho mình nhiều khổ nhọc nếu lúc đầu họ cố gắng đạt
được một quan niệm hợp lý về vấn đề nầy. Trước hết không nên có thái độ khinh
suất đối với sự giải thích chữ “phi thường.”.
Những năng lực nầy chỉ phi thường theo ý nghĩa trong thời đại nầy ít ai biết
đến chúng và không hề có nghĩa là trái với Đđịnh
Lluật
Tthiên
Nnhiên
chút nào. Ðối với mỗi người, chúng hoàn toàn tự nhiên, dù tiềm ẩn, hiện nay
chúng vẫn hiện hữu ở mỗi người. Vài người đã mở mang và làm cho chúng hoạt
động, nhưng phần đông chưa thực hiện một sự cố gắng nào đối với chúng, nên
những quyền năng của họ còn ngủ mê.
Cách đơn giản nhất để nắm được ý
niệm tổng quát là nên nhớ rằng con người là một Linh Hồn và nó biểu hiện trên
những Ccõi
khác nhau nhờ những Tthể
thích ứng với các Ccõi
nầy. Hành động thấy hoặc nghe trong Ccõi Đđời
Vvật
Cchất
đânầy
chỉ có thể dùng một Tthể
được cấu tạo bằng Vvật Cchất.
Cũng giống như muốn biểu hiện trên Ccõi
Trung Ggiới,
con người cần có một Thể Vía, vì Tthể Xxác
vô dụng trên ở Ccõi đời
nầy vẫn không thấy được, cũng như hoàn toàn giống như Thể Vía
không thấy được bằng mắt Ttrần
chúng ta. Lại cũng y như thế, con người phải sử dụng Thể Trí của y để sống
trên Ccõi
Thượng Giới.
Phát triển quyền năng tâm linh tức
là tập sử dụng giác quan của các Tthể của chúng
ta. Một người chỉ có thể dùng các giác quan của Tthể
Xxác
để thấy hoặc nghe những đối tượng ở của Ccõi
Ttrần
; nếu y tập sử dụng các giác quan của Thể Vía, y có thể thấy hoặc
nghe những đối tượng của Ccõi
Trung Giới. Vấn đề hoàn toàn đơn giản là tập đáp ứng với những rung động ngày
càng gia tăng. Hãy khảo sát bảng rung động trong một bài luận giải Vật Lý nào
đó, chúng ta sẽ thấy nhiều rung động trong đó không gây ra ở ta một sự đáp ứng
nào. Vài rung động cảm kích tai chúng ta, và chúng ta nghe những làn sóng âm
thanh ; các rung động khác gây ấn tượng
trên mắt chúng ta, và ta gọi chúng là những tia sáng. Tuy nhiên, giữa hai loại
rung động nầy, thuộc bậc cao và bậc thấp hơn chúng, có hàng ngàn loại dao động
khác không gây một ảnh hưởng nào trên giác quan vật chất của chúng ta. Con
người có thể phát triển bằng cách nào đó để trở nên mẫn cảm đối với tất cả
những sự rung động nầy của Cchất
Ddĩ
Tthái,
và cả với vật chất tế vi hơn Cchất
Ddĩ
Tthái.
Chúng ta gọi Nnhà
Tthần
Nnhãn
hay Tthần
Nnhĩ
là người đã thực hiện việc ấy vì thị giác hay thính giác của y đã mở rộng hơn
một người chưa phát triển.
Một sự phát triển nhãn quan tâm linh
như thế sẽ mang lại những lợi ích thật đáng kể. Người nào có quan năng ấy như được sống
trong một thế giới mới, rộng rãi bao la hơn, hay nói một cách chính xác hơn, y nhận thấy
rằng thế giới y từng sống đã phô bày những sự mở mang và những khả năng đủ loại
mà từ trước đến giờ y không hề biết đến. Sự nghiên cứu có thể cho y biết hiện
có khắp nơi ở
chung quanh y, một đời sống không có xác thân vật chất mênh mông và phức
tạp - như các Hhạng
Tthiên
Tthần
và Ttinh
Llinh
Tthiên
Nnhiên,
vô số nhân loại đang ngủ hoặc chết, đã bỏ xác phàm, những năng lực và ảnh hưởng
khác nhau mà chỉ cần hiểu để có thể chiêu tập và sử dụng chúng, nhưng thay vì
chỉ tin tưởng vào chúng, tự mình thấy tất cả những sự kiện nầy, nghiên cứu trực
tiếp và kinh nghiệm chúng - tất cả những điều ấy làm cho đời sống trở nên phong
phú và thú vị hơn . Như vậy con người có thể theo dõi
kết quả tư tưởng và hành vi của mình trên các Ccõi
cao, để nhờ đó hành động của y trở nên dễ dàng và hữu ích hơn. Những
sự lợi ích của sựviệc
khai mở tâm thức như thế thật hiển nhiên. Nhưng đâu là mặt trái của chiếctấm
huy chương ? Bà Blavatsky đã đề cập đến những
mối nguy hiểm của sự phát triển nầy gồm trong hai loại : Lloại
thấp thỏi và loại cao siêu. Trước tiên, chúng ta hãy bàn đến loại thứ nhứt
.:
Tất cả những gì từ bên ngoài đến với
con người đều nhờ sự rung động ;
sự rung động của không khí truyền âm thanh đến tai y. Sự rung động của ánh sáng
phô bày trước mắt y những cảnh tượng khác nhau. Nếu y thấy những đồ vật và sinh
vật trên Ccõi
Trung Giới, sự kiện nầy chỉ có thể xảy ra do sự tiếp xúc với những rung động
thuộc về Ccõi
Trung Giới và Thượng Giới trên các Tthể
có thể đáp ứng với chúng vì con người chỉ thấy được Ccõi
Trung Giới bằng các giác quan của Thể Vía và thấy được Ccõi
Thượng Giới bằng các giác quan của Thể Trí.
Trong mỗi Ccõi
nầy, cũng như trong
Ccõi
Ttrần,
có những loại vật chất thô trược nhiều hoặc ít cũng như thanh bai nhiều hay ít.
Nói chung, những rung động thuộc loại thanh bai ai cũng thích, còn những rung
động thô trược chẳng mấy ai thích. Trong con người có hai loại vật chất
; do đó y có thể đáp ứng với tất cả rung động, loại thấp cũng như
loại cao do y lựa chọn. Nếu y loại trừ tất cả ảnh hưởng thấp và chỉ chấp nhận những
rung động loại cao, như thế y đã sẽ trở nên
một tay trợ giúp đáng kể, ngay cả trên Ccõi
Trung Giới và Thượng Giới. Tuy nhiên Bà Blavatsky không chấp nhận những ảnh
hưởng nầy, dù chúng ta mang lại những giúp đỡ tạm thời, Bbà
gọi chúng là “những năng lực tâm linh và tinh thần còn thấp kém và thô trược”
và Bbà
mớời
gọi chúng ta hãy tiến lên những Ccõi
thật cao hơn, mvà
nơi đó không sợ những ảo ảnh của Bbản Nngã
nữa. Bà đoaán
chắc rằng sự phát triển tâm linh tầm thường sẽ mang lại những sự nguy
hiểm nhiều hơn là lợi ích ; nhưng đến một lúc nào
đó sự tiến hóa của người Đđệ Ttử
luôn luôn phải đi đếnối
với một trình độ phát triển như thế, Bbà
đã báo cho chúng ta biết trước về một vài điểm cần phải hết sức thận trọng.
Trong vòng 40 bốn
mươi năm trôi qua từ khi Bà Blavatsky viết những dòng nầy, riêng
cá nhân tôi, chúng tôi có thể nhận thấy những sự nguy hiểm ấy ở nhiều sinh
viên. Trước hết là tính kiêu căng, gồm một số lớn. Sự sở hữu một quyền năng, dù
đó là gia tài của toàn thể nhân loại còn rất hiếm được biểu hiện, lại thường
khiến cho Nnhà
Tthần
Nnhãn
thiếu hiểu biết nghĩ rằng y ( thường
xảy ra ở phái nữ nhiều hơn ) đã vượt rất cao trên đồng loại của
mình, y được Ðấng Toàn Năng lựa chọn để hoàn thành một công trình trọng đại của
thế giới, y được phú bẩm một tính phân biện không bao giờ sai lầm, y được chọn
lựa và cắt đặt dưới sự cai quản của các Thiên Thần để tạo dựng một vận hội mới,
và đại loại như thế. Bạn nên nhớ rằng bên kia thế giới luôn luôn có vô số thực
thể khoái hoạt và tinh ranh sẵn sàng khuyến khích những ảo tưởng nầy để phản
ảnh lại những ý tưởng ấy và để họ mượn xác thân hầu đóng vai trò của một Ðại
Thiên Thần, hoặc vị lãnh đạo tinh thần do họ dẫn dụ. Rủi thay, thật quá dễ dàng
để khuyến dụ một người trung bình chưa có bản lĩnh trong bước đầu, nhưng lại
hoàn toàn xứng đáng để nhận lãnh một sự mặc khải đặc biệt ( tức
quyền năng ) ,
thậm chí các bạn thân của y đến lúc ấy cũng bị mù quáng hoặc thiên kiến đã đánh
giá y một cách sai lầm.
Một mối nguy hiểm thứ hai có thể là
lớn lao hơn cả, vì nó gây ra tất cảrọn những
mối nguy hiểm khác, đó là sự thiếu hiểu biết. Nếu Nnhà
Tthần
Nnhãn
biết chút ít về đối tượng của y, nếu y hiểu một phần nào về những trạng thái
đặc biệt của những Ccõi
khác mà nhãn quan y hiện xâm nhập đến, thì dù
sao y có thể tưởng rằng y là người duy nhất đạt được đối tượng ấy, như một đặc
ân, và thầm nói một cách tự hào rằng y không thể lầm lạc. Nhưng nếu y cũng như
nhiều người khác, hoàn toàn thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết về những hoàn
cảnh đặc biệt và mọi thứ khác, thì trước hết y sẽ phạm từ lỗi lầm nầy đến lỗi
lầm khác về những gì y đã thấy, rồi y sẽ làm mồi một cách dễ dàng
cho tất cả những loại Tthực
Tthể
Ttinh
Qquái
hay lừa gạt trên Ccõi
Trung Giới. Y không có một tiêu chuẩn nào để xét đoán những gì y thấy hoặc
tưởng đã thấy, không có cách nào để kiểm nghiệm những sự mục kích hay liên lạc
của y, do đó không một cảm thức nào của y được hợp lý hoặc vững vàng
; rồi từ một câu châm ngôn rút ra trong một quyển
vở y phóng đại (magnify ) thành một đoạn văn có tính cách rất thiêng
liêng mà kỳ thực chỉ là một thông điệp Tthần
Llinh
tầm thường. Mặt khác, thiếu cả một kiến thức sơ đẳng về Kkhoa
Hhọc,
y thường không hiểu những điều quan năng của y phân biệt được, do đó y đã phát
biểu những gì y thấy thật thiển cận và phi lý một cách trầm trọng.
Mối nguy hạiiểm
thứ ba là thiếu sự tinh khiết. Người nào mà tư tưởng, đời sống lẫn khuynh hướng
đều tinh khiết và không vị kỷ sẽ được an toàn trước ảnh hưởng của những thực
thể bất hảo thuộc các Ccõi
khác. Y không có gì để chúng bám víu. Chúng không thể lợi dụng y được. Trái
lại, tất cả ảnh hưởng tốt lành tự nhiên bao bọc người ấy ;
chúng vội vàng sử dụng y như một vận hà cho sự hành động của chúng, điều nầy
dựng lên chung quanh y một hàng rào mới ngăn cản tất cả những gì hèn hạ, thấp
kém và tà vạy. Ngược lại, người nào đời sống hoặc bản tâm thiếu trong sạch, sẽ không
khỏi lôi cuốn tất cả những Ttinh
Llinh
xấu xa của thế giới vô hình đến gần chung quanh y ; y
sẵn sàng đáp ứng lại chúng ; còn những sức mạnh tốt lành ít khi
có thể gây một ảnh hưởng nhỏ nào đến y.
Nhưng một Nnhà
Tthần
Nnhãn
ý thức đến tất cả những mối nguy hại nầy, y cố gắng tránh chúng, chịu khó
nghiên cứu kinh nghiệm về Tthần
Nnhãn
lẫn sự phân tích hợp lý về Kkhoa
ấy, và kết hợp những động lực tinh khiết với tấm lòng khiêm tốn - người như thế
chắc chắn có thể thu hoạch được nhiều kiến thức, nhờ những quan năng vừa mới
nảy sinh ở y và những lợi ích do chúng mang lại để giúp y hoàn thành nhiệm vụ.
Những Pphép
Tthần
Tthông
được kể ra rất dài dòng trong Cchương
Bba
của bộ Yoga Sutras của Patanjali ; Ttác
Ggiả
cho rằng chúng được hoạch đắc bằng năm cách - do bẩm sinh, do dùng thuốc mê,
nhờ thần chú, nhờ sự khổ luyện và nhờ đại định.
Chúng ta sinh ra trong thể xác nầy
hoặc thể xác khác ; nó là kết quả những hành động của chúng ta
trong nhiều kiếp trước, và nếu Tthiên
Nnhiên
ban cho chúng ta các quyền năng tâm linh, thì chúng ta có thể chắc chắn rằng
mình đã tìm cách hoạch đắc nó bằng cách nào đó trong các
kiếp trước. Ngày nay, nhiều Nnhà Tthần
Nnhãn
có quan năng được khai mở một cách dễ dàng mà không trùng hợp với một sự tiến
hóa cao về tinh thần, chính vì trong kiếp trước họ đã có kinh nghiệm ấy,
như các Nữ Vu ( Vestaltes
- thiếu nữ giữ Đđền Tthờ
Llửa
) ở Hy Lạp và La Mã, những Nnhà
Yogi Ấn Ðộ kém tiến hóa hoặc những Nnhà
“Pphù
Tthủy
trị bệnh” trong các Bbộ Llạc
bán khai khác nhau, và sau cùng là những Nnhà “Nnữ
Ttiên
Ttri”
của thời Ttrung
Ccổ
; về vấn đề nầy luôn luôn có một sự phức tạp thật lớn lao.
Những gì sẽ xảy ra
cho các Nnhà
Tthần
Nnhãn
nầy, chiều hướng về đời sống tinh thần của họ sẽ ra sao, tất cả những điều ấy
một phần lớn tùy thuộc vào những người mà Nnghiệp
Qquả
tạo nên sự liên hệlạc
với họ. Nếu Nnghiệp
Qquả
đó khá tốt, họ sẽ gặp được Thông Thiên Học, họ sẽ có dịp thu hoạch vài khái
niệm liên quan đến những quyền năng đã nảy sinh và tiếp thu được một sự huấn
luyện trong Ttrường
Bí Giáo về tính chất của những đức tính sơ khởi, sự tinh khiết về thể chất và
đời sống thấm nhuần từ điện đã được quy định cho mọi Nnhà
Hhuyền
Bbí
Hhọc
chân chánh. Như thế, sau đó không bao lâu họ có thể khai mở những quanyền năng Ttâm
Llinh
một cách an toàn và sẽ giúp đỡ thật đắc lực cho nhân
loại.
Ðàằng
khác, nếu họ làm quen với Thần Llinh
Hhọc,
họ sẽ hoàn toàn dấn thân vào một chiều hướng khác thường dắt họ vào con đường Đđồng
Ccốt
tiêu cực, nghĩa là trái hẳn với mục đích của chúng ta.
Nhiều người muốn theo Kkhoa
Hhuyền
Bbí
Hhọc
giả hiệu để luyện Pphép
Tthần
Tthông
hầu thỏa mãn tham vọng cá nhân của họ, đó là con đường mang lại những sự nguy
hiểm ngặt nghèo. Khi thì họ tự đặt mình vào một tình trạng thụ động và mời gọi
những thực thể vô danh thuộc Ccõi
Trung Giới đến xâm chiếm hào quang hoặc các cơ quan của họ để sử dụng chúng
; khi thì họ dấn thân vào những phương pháp luyện tập Hatha-
Yoga ( phần chính gồm trong phép luyện khí
công ) mà rủi thay, đã được phổ biến nhiều
trong thế giới Tây Pphương
từ 30 ba
chục năm nay. Sự tập luyện nầy thường gây ra những sự
rối loạn trầm trọng về Ttinh
Tthần
và Tthể
Cchất.
Còn nếu tiếp xúc được với thế giới nội tâm, thì họ chỉ vượt qua các Ccảnh
thấp của Ccõi
Trung Giới là cao nhất, mà ở đây người ta không thể chờ đợi một ảnh hưởng xây
dựng nào.
Về phương pháp thứ hai hay cách dùng
thuốc, trong quyển giảng lý của bộ Yoga Sutras, có một ghi chú của Ðức Vyasa
cho rằng những hạng người A-Ttu-
Lla
( Asuras )
hay dùng đến cách nầy để đánh thức những quan năng Tthần
Tthông.
Hạng người A-Ttu-Lla
trái với hạng người Tu-Lla (
Suras ) và người ta có thể gọi một cách gần
đúng họ là hạng người vô tín ngưỡng ;
hạng Tu-la ( Suras )
là những người sống gần Thần Thánh ;
họ làm việc cho Ccơ Ttiến
Hhóa
do Trời
định.
Patanjali khuyên chúng ta không nên
theo phương pháp nầy, Ngài chỉ kểê ra
những phương cách có thể đạt được Pphép
Tthần
Tthông.
Nghiên cứu bộ Yoga Sutras, người ta nhận thấy Ngài chỉ thừa nhận phương pháp
chót trong năm phương pháp kể trên - đó là phương cách căn cứ trên sự đại định
(samadhi ).
Chúng ta có thể hiểu một phần nào
tác dụng của thuốc trên thể xác khi nó được dùng để đánh thức những quan năng Ttâm
Llinh,
nếu chúng ta nhớ lại rằng ở Ggiống
Ddân
Cchánh
thứ Ttư
Tthần
Nnhãn
được khai mở do hệ thống Ggiao
Ccảm
Tthần
Kkinh
rất phổ biến. Trong thời kỳ đó lớp vỏ Thể Vía chưa được tổ chức hoàn bị để dùng
như một Tthể
hay một phương tiện hầuđể
ý thức, đáp ứng một cách tổng quát với cảm giác do những vật trong Ccõi
Trung Giới gây ra. Các ấn tượng phản chiếu lại trong những trung tâm giao cảm
của xác thịt đến nỗi trong thể xác ý thức nhận được cùng một lúc những ấn tượng
thuộc Ccõi
Trung Giới và Hhồng
Ttrần
thường không thể phân biệt giữa hai loại ấy. Nói cho đúng, trong buổi đầu của Ggiống
Ddân
nầy và Ggiống
Lemurian hoạt động của Hhệ Ggiao
Ccảm
Tthần
Kkinh
mạnh mẽ hơn Hhệ
Nnão
Ttủy
rất nhiều. Do đó những kinh nghiệm thuộc về Ccõi
Trung Giới đóng một vai trò lớn lao hơn những kinh nghiệm ở Ccõi
Ttrần.
Nhưng từ đó hệ não tủy trở nên cơ cấu ý thức mạnh nhất trong thể xác
; do đó con người xoay dần dần sự chú ý của y đến
những kinh nghiệm ở Ccõi
trần, chúng đã cảm nhiễm y càng lúc càng gia tăng một cách sâu sắc. Sau cùng,
vì lý do đó ấy, Hhệ Ggiao
Ccảm
Tthần
Kkinh
đã ngưng dần việc giữ vai trò trung gian của những ấn tượng thuở trước
; vai trò hiện tại của nó là không can thiệp bằng ý chí, đảm nhiệm
nhiều chức vụ của các cơ quan mà con người không cần chú ý đến nữa, sự sinh
hoạt của nó thuộc về Ttinh
Tthần,
Ccảm
Xxúc
và Ttâm
Llinh
hơn là Vvật
Cchất.
Vậy sự dùng thuốc chứng tỏ hai điều
bất lợi : Kkhông
những nó gây rối loạn cho các cơ năng bình thường của cơ thể và đem Hhệ
Ggiao
Ccảm
Tthần
Kkinh
lại một ưu thế không cần thiết, mà đứng trên phương diện hoạch đắc quyền năng Ttâm
Llinh
nó còn đánh thức Hhệ Tthần
Kkinh
nầy ( Hhệ Ggiao
Ccảm
) và làm cho nó ý thức tại Ccõi Hhồng
Ttrần
một lần nữa khả năng ghi nhận những ấn tượng đến từ Ccõi
Trung Giới. Những ấn tượng nầy thường đến từ các Ccảnh
thấp của Ccõi
Trung Giới, mới quy tụ mọi khí thể của Ccõi
ấy và mọi Lloài
Ttinh
Hhoa
có vai trò kích thích tình dục và những ham muốn thấp hèn. Ðôi khi chúng đến từ
những vùng hơi cao hơn của thú vui xác thịt, như những lạc thú được mô tả trong
quyển tiểu thuyết nổi tiếng của Dumas có nhan đề là Monte Cristo hoặc trong “Lời
thú tội của một người ghiền á phiện” của Quincy ;
tuy nhiên ở đây ít thấy chúng hơn ở những nơi khác.
Tất cả điều nầy trái với Ccơ
Ttiến
Hhóa
được quy định cho nhân loại. Mỗi người đều có thể hoạch đắc Tthần
Nnhãn
và những linh năng tương tợ khác, nhưng không phải bằng cách đó. Trước hết
chúng ta phải phát triển Thể Vía và Thể Trí hầu có thể sử dụng chúng làm vận cụ
ý thức trên những Ccõi
tương ứng. Sau đó chúng ta có thể đánh thức những Luân Xa ( the
Cchakras)
của Ccái
Phách. Các Luân Xa nầy sẽ giúp cho việc truyền những kiến thức quý báu thu
hoạch được nhờ các Tthể
cao ấy xuống tâm thức thuộc Ccõi Ttrần.
Nhưng tất cả những điều nầy phải thực hiện đúng lúc và theo cách chỉ dạy của
Ðức Thầy. Bạn hãy nhớ đến đoạn của vị Huấn Sư nói như sau đây trong quyển “Dưới Châơn
Thầy”
: “Ðừng ham muốn những Pphép
Tthần
Tthông.”.
Phương pháp thứ ba nhằm sử dụng
những câu Tthần
Cchú
(Mmantras
). Danh từ nầy áp dụng cho vài công thức có quyền năng được dùng
trong lúc tham thiền hay trong những nghi thức tế lễ và thường được lặập
đi lặập
lại không ngừng. Người ta nhận thấy chúng trong những nghi lễ Thiên Chúa Giáo
cũng như ở Ðông Pphương,
như chúng tôi đã giải thích trong quyển Khoa Thánh Lễ ( The
Science of Sacraments ). Vậy nhiều Ttôn
Ggiáo
đã sử dụng vài âm thanh và kết hợp chúng với những hình ảnh, biểu tượng, ký
hiệu và những điệu bộ, có khi với những vũ điệu.
Phương pháp thứ tư là lối tu khổ
hạnh. Danh từ Tapas thường được kết hợp với sự khổ hạnh tột cùng, có thể thấy
ngay trong những sự kiện con người tự hành hạ mình, chẳng hạn như giơđưa
một cánh tay lên cho đến khô khan héo, hoặc
nằm dài trên bàn chông nhọn. Những sự thực hành nầy chắc chắn mở mang ý chí,
nhưng người ta có thể đạt được kết quả ấy bằng những phương pháp khác tốt đẹp
hơn. Những phương pháp Hatha Yoga vấp phải sự bất lợi lớn lao là ngăn cản việc
dùng xác thân để phụng sự nhân loại, mà đối với công nghiệp của Chơn Sư không
có việc gì quan trọng hơn. Ý chí vẫn có thể phát triển tốt đẹp bằng cách đương
đầu với những sự khó khăn của đời sống do Tthiên
Nnhiên
và Nnghiệp
Qquả
đưa đến ; chúng ta không cần phải tạo thêm
những phương pháp khác.
Trong Kinh Gita, Ðức Krishna lên
tiếng chống sự mê tín dị đoan bằng những lời lẽ gắt gao : “Những
sự người thực hành nghiêm nhặt,
lối tu khổ hạnh kinh sách không cho phép, đầy lòng tự kiêu và ích kỷ, bị mãnh
lực của sự ham muốn và đam mê lôi cuốn, trí tuệ lu mờ, chẳng những họ hành hạ
những yếu tố tạo nên xác thân của họ, mà còn hành hạ chính Ta nữa, vì Ta ngự
bên trong thể xác đó, nên biết rằng những kẻ đó là A-Ttu-Lla,
là những Qquỷ
có khuynh hướng ấy [4]”.”[4] Sự phi lý như thế không thể tạo nên sự khổ hạnh ( tapas
) thực sự. Danh từ nầy có nghĩa là “sức nóng.”.
Áp dụng vào đức hạnh con người, nó có nghĩa gần tương đương với chữ “effort”
(cố gắng) . Về phương diện nầy giáo lý trên
hình như có nghĩa thật sự như sau : “Hãy
thực hiện những gì bạn biết là tốt đẹp để cho
thể xác,
đừng chú ý đến sự khoan khoái giản dị của nó. Ðừng để cho tật lười biếng, thói
ích kỷ hay sự lãnh đạm ngăn cản bạn làm những gì có thể giữ gìn xác thân của
bạn được mạnh khoẻ, cường tráng hầu làm tròn nhiệm vụ của nó dưới Tthế
Ggian.”[5] [5]. Trong Kinh Gita, Ðức Krishna nói
:
“Tôn kính các Ðấng Thiêng Liêng, các
bậc Ttrưởng
Tthượng
, các bậc Đđạo
Ssư,
các bậc Hhiền
Ggiả,
mến chuộng sự khiết bạch, chánh trực, thanh liêm và hồn nhiên đều được xem như
là sự khổ hạnh của xác thâan”.
“Lời nói không gây ưu phiền, phải chơn
chánh, dễ thương và hữu ích và sự nghiên cứu Thánh Kinh được xem là sự khổ hạnh
về lời nói.”.
“Niềm vui tinh thần, sự thăng bằng,
trầm mặc, chủ trị bản ngã, tâm khiết bạch là những đặc tính, được gọi là sự khổ
hạnh về tâm hồn.“[6] [6].
Các định nghĩa trên đây được giảng
dạy do Ðấng mà hầu hết người Ấn Ðộ xem như hóa thân vĩ đại nhất của Thiêng
Liêng, không có gì giống nhữngư
lối thực hành ghê gớm như đôi khi chúng ta thấy nhiều sự kiện thật buồn thảm.
Phương pháp thứ năm là lối nhập định
mà quyển “Kim
Huấn Thư”
đã khuyến cáo. Cũng như trong bộ “Yoga Sutras” và các tác phẩm cổ điển tương tợ khác, pháp
nhập định phải thực hành sau pháp định trí (dharana) và tham thiền (dhyana),
theo sự phiên dịch thông thường có nghĩa là sau sự tập trung tinh thần
và quán tưởng ( meditation ),
còn nhập định có nghĩa là trầm mặc tư tưởng ( contemplation
). Chỉ phiên dịch bằng một chữ, một thành ngữ Bắc Phạn thường không được
hoàn mãn. Qua nhiều thời đại, những danh từ Phạn Nngữ
đã trở nên phức tạp một cách kỳ lạ, nghĩa của chúng đã trở thành phong phú với
thật nhiều tiểu tiết mà người ta không thể dịch ra một thành ngữ Anh Vvăn
nào. Phương thức duy nhất để hiểu các thuật ngữ Bắc Phạn nầy là nghiên cứu
chúng trong cả bản văn và trong các tác phẩm cổ điển.
Những Pphép
Tthần
Tthông
chẳng những có thể chia thành hai hạng cao và thấp thỏi, mà còn chia thành hai
loại như quan năng và quyền năng. Thế giới ảnh hưởng đến chúng ta do các giác
quan, do quan năng thị giác, thính giác, vân vân.v…, nhưng
về phía chúng ta, chúng ta cũng ảnh hưởng đến Ccõi Ttrần.
Sự hỗ tương ảnh hưởng nầy cũng được nhận thấy trong những sinh hoạt siêu vật
chất ( ở những Ccõi
cao hơn Ccõi
Ttrần
). Chúng ta nhận những ấn tượng do những quan năng mới khai mở của
Thể Vía và Thể Trí ; và cũng nhờ những Tthể
nầy chúng ta mới có thể hoạt động được. Những Kinh sách Ấn Ðộ thường đề cập đến
tám thứ Pphéáp
Tthần
Tthông
:
1. Aanima,
quyền năng biến thành nguyên tử để một vật trở nên nhỏ như thế hầu nghiên cứu
.
; 2.
Mmahima,
quyền năng hóa ra to lớn để tìm hiểu những vật vô cùng to tát không bị trở ngại
.
;
3. Llaghima,
quyền năng biến ra nhẹ như bông gòn có thể bay theo gió .;
4. Ggarima,
quyền năng biến thành một vật có mật độ và trọng lượng ng
nặng hơn cả .;
5. Pprapti,
quyền năng di chuyển đến mọi khoảng cách, ngay cả đến Mmặt
Ttrăng
.
;
6. Pprakamya,
mãnh lực của ý chí có thể thực hiện mọi nguyện vọng và mọi ước muốn
.;
7. Iishatwa,
quyền năng chế ngự và sáng tạo .;
8. Vvashitwa, quyền năng điều khiển mọi
vật.
Ðó là “những quyền năng lớn lao,”,
nhưng cũng còn những quyền năng khác được đề cập đến như sự an tĩnh và xác thân
tỏa từ điện, sự kiểm soát giác quan và dục vọng, trở nên đẹp đẽ duyên dáng và
đại loại như thế.
Ở thời đại ngày nay, khi nghiên cứu,
chúng ta xét mọi vấn đề để theo một quan điểm thật khác biệt với những học giả
Ấn Ðộ sống cách đây hàng ngàn năm, do đó đôi khi chúng ta khó hiểu họ. Chúng ta
là người của thời đại ngày nay và được đào luyện theo Kkhoa
Hhọc,
điều nầy bắt buộc
chúng ta phải có tinh thần thu xếp theo trật tự mọi kiến thức của mình. Mỗi
người nên cố gắng xây dựng để sử dụng riêng cho mình một lý thuyết tổng quát về
đời sống, thường là lý thuyết khá hồn nhiên, trong đó y tìm cách đưa vào mọi sự
kiện mới thu hoạch được như trong một cái ổ. Nếu đạt được mục đích nầy, y chấp
nhận sự kiện ấy ; trong trường hợp trái lại, chắc
chắn y bác bỏ, dù có những bằng cớ minh xác hơn cả. Có vVài
người hầu như có thể đồng thời tin tưởng những sự việc mâu thuẫn nhau mà không
bối rối ; nhiều người khác không tin tưởng
điều chi cả và họ thường rất khó nhọc trong việc xây dựng một cấu trúc tinh
thần để chấp nhận một sự kiện mới - thật khó khăn đến nỗi họ thường tránh né,
quên đi hoặc chối bỏ sự kiện ấy. Những huynh đệ Ấn Ðộ của chúng ta ngày nay
dường như đã ghi nhận những điều họ quan sát được rồi gác lại đó, chứ không tìm
cách liên kết chúng lại hoặc kết hợp chúng với những Ccõi
khác nhau đã tiếp nhận chúng, hay quan năng có thể cung cấp chúng.
Trong bảng kê những Pphép
Tthần
Tthông
nầy chúng ta nhận biết quyền năng thứ nhứt và thứ hai một cách dễ dàng
; vấn đề chỉ là biến đổi truong
tâm ý thức
; đôi khi chúng ta gọi chúng là quyền năng khoáng đại và giảm
thiểu ; quyền năng ấy có nghĩa là làm cho
tâm thức thích ứng với những vật cần sử dụng, công việc ấy đối với Nnhà
Hhuyền
Bbí
Hhọc
lão luyện không có gì khó khăn, dù không phải dễ giải thích một cách chính
xác phương thức tác động ấy tại Ccõi Ttrần.
Phép Tthần
Tthông
thứ ba và thứ tư đề cập đến quyền năng làm cho thân mình trở nên nhẹ nhàng hay
nặng nề như ý muốn ; muốn đạt được mục đích phải biết
dùng năng lực có sức đẩy đối nghịch với trọng lực. Tôi không hiểu thật chắc
chắn về Pphép
Tthần
Tthông
thứ năm ; vấn đề có thể chỉ là quyền năng di
chuyển trên Ccõi
Trung Giới, vì Mmặt Ttrăng
là giới hạn di chuyển của Ccõi
Trung Giới ; nhưng tôi nghi ngờ nhiều hơn về
năng lực định khoảng cách do ý chí. Phép Tthần
Tthông
thứ sáu và thứ tám chỉ trình bày những sự phát triển sức mạnh của chính ý
chí, nhưng là những sự phát triển rất phi thường ; Pphép
Tthần
Tthông
thứ bảy cũng giống như thế và thêm vào đó kiến thức cần thiết về sự để giải
thể ( dematerialization )
và sự kết thể (rematerialization )
những đồ vật. Trong bảng kê trên tôi không thấy sự tham khảo nào về Tthần
Nnhãn,
trong không gian hoặc trong thời gian.
Chúng ta nên để ý là trong quyển “Tiếng Nói
Vô Thinh”
không cho rằng những Pphép
Tthần
Tthông
bậc thấp hay Pphép
Tthần
Tthông
thuộc về Thể Vía hay Thể Trí phải được bỏ qua hoàn toàn, mà chỉ nói rằng chúng
gắn liền với những sự nguy hiểm quan trọng. Chốc nữa chúng ta sẽ nghiên cứu lại vấn đề
nầy vì muốn đạt đến đỉnh cao của chiếc thang không nên bỏ sót một nấc nào.
Ai muốn nghe và hiểu được tiếng Nada
“Tiếng Vô thinh” thì phải học cho biết bản chất của Dharana.
Phía dưới trang có hai chú thích
:
“Tiếng câm” hay “Tiếng Vô Thinh.”. Theo nguyên nghĩa có lẽ phải hiểu là
: “Tiếng nói theo nghĩa Tâm Linh,”, vì
chữ Sanskrit Nada đồng nghĩa với chữ Senzar.
Dharana là sự tập trung tinh thần
mãnh liệt và trọn vẹn vào một đối tượng nội tâm, đồng thời hoàn toàn tách biệt
với những gì thuộc về thế giới bên ngoài hay cảnh giới của giác quan.
Chữ Dharana ở đây dịch là tập trung,
bắt nguồn từ ngữ căn Ddhri,
có nghĩa là cầm, giữ lấy. Chữ Dharana ở sau chót có một nguyên âm ngắn, có
nghĩa là cầm, giữ hay chịu đựng, chống đỡ, trong một ý nghĩa tổng quát, nhưng
chúng ta thấy ở đây là một danh từ giống cái đặc biệt, chấm dứt bằng một nguyên
âm dài ; đó là một thuật ngữ có nghĩa là tập
trung hay chủ định tinh thần.
Ðôi khi người ta giải thích nó như
một sự tập trung tinh thần hay sự suy tư trên một số đối tượng nhất định
; vả lại, theo Kinh Ssách
Ấn Ðộ không có sự tham thiền hay trầm tư mặc tưởng nào có thể thành công nếu
không có sự thực tập Ddharana
trong buổi ban đầu. Bao lâu Cái Trí còn đáp ứng với tiếng gọi của Ccõi
Hhồng
Ttrần,
Ccõi
Trung Ggiới
và Ccõi
Hạ Thiên, thì làm sao nó có thể nghe bức thông điệp của Chơn Nhơn tìm cách
chuyển đạt cho Pphàm
Nngã
từ những Ccõi
cao của nó ?
Sự tập trung tinh thần cần thiết để
cho việc chú ý hướng về đối tượng nhất định chớ không hướng đến những hoạt động
không ngừng của các Hhạ Tthể.
Chúng ta nên có thói quen bắt đầu việc tập trung tư tưởng bằng cách chọn những
đối tượng giản dị. Một ngày kia người ta đến tìm Bà Blavatsky để xin Bbà
dạy phải tham thiền về vấn đề gì. Bà liệng cái hộp quẹt trên bàn và nói
:
“Tham thiền về cái nầy đây.”.
Ðiều ấy làm cho mấy người nầy rất ngạc nhiên ;
họ tưởng Bbà
sẽ khuyên nên tham thiền về Ðấng Ðại Phạm Thiên (Parabrahman) hay Ðấng Tuyệt
Ðối . Ðiều rất quan trọng là sự tập trung
tinh thần không được kèm theo một sự căng thẳng nào trên Tthể
Xxác.
Bà Bác Ssĩ
Besant có kể lại rằng một hôm bà được Bà Blavatsky dạy tập trung tinh thần lần
đầu tiên, Bbà
bắt đầu với một sự cố gắng vô cùng mãnh liệt ;
nhưng Bà Blavatsky ngăn lại và nói rằng : “Em
thân mến, không phải là người ta tham thiền bằng huyết quản của mình!”.
Ðiều cần thiết chính là sự giữ cho
Trí được yên tịnh, rồi người ta tham quán đối tượng của tư tưởng một cách hoàn
toàn an tĩnh, như chúng ta nhìn đồng hồ đặng biết giờ - trừ phi người ta canh
chừng để không vượt quá thời lượng đã định cho buổi thực tập tham thiền. Người
ta thường phàn nàn rằng sự thiền quán gây ra các chứng nhức đầu hoặc những sự
đau đớn khác. Sự kiện ấy không hề xảy ra, nếu biết giữ cho thể xác an tịnh và
tránh được mọi thứ căng thẳng, ngay cả trong đôi mắt, thì có lẽ người ta sẽ
nhận thấy sự tập trung tinh thần trở nên dễ dàng và có hiệu quả hơn rất nhiều,
mà không xảy ra một sự rối loạn hay nguy hiểm nào cho thể chất. Nhiều tác giả
đã đề cập đến vấn đề nầy và có vài người đã đưa ra những sự chỉ dẫn rất nguy
hiểm. Ai muốn biết thêm về vấn đề ấnầy
có thể đọc tác phẩm của Giáo sư Wood, “Sự Tham Thiền - Một Phương Pháp Thực Tập”
(Concentration - a Pratical Course). Bà Bác sĩ Besant có nói về vấn đề đóấy
: “Việc tham thiền không gây chút tai hại nào về vật chất, tinh
thần và đạo đức cho người muốn thành công trên con đường đóấy.”.
Trong phần ghi chú, Bà Blavatsky cho
rằng Ddharana
phải kết hợp với Ccõi
Thượng Thiên, vì Bbà
nói rằng Cái Trí phải chú định trên một đối tượng nội tâm và rút lui khỏi phạm
vi của cảm giác, là Ccõi Hhồng
Ttrần,
Ccõi
Trung Giới và Ccõi
HạThiên. Huấn lệnh nầy dành cho thí sinh đi trên Thánh Ðạo và nhắm đến mục đích
là sự nhập định trên Ccõi
Niết Bàn. Tuy nhiên ba thuật ngữ tập trung tư tưởng (concentration), tham thiền
(meditation) và nhập định (contemplation) đều có ý nghĩa tổng quát như nhau.
Chú ý vào một bản văn linh thánh, chính là tập trung tư tưởng. Nghiên cứu đủ
mọi phương diện, tìm cách thâmu nthập
vào ý
nghĩa của bản văn ấy, khám phá một tư tưởng mới hay sâu xa, hoặc nắm được tia
sáng của trực giác, đó là tham thiền. Chú ý một cách vững chắc, trong một thời
gian nhất định
vào ánh sáng đã nhận được, chính là nhập định. Người ta định nghĩa sự nhập định như
một sự tập trung được thực hiện đến mức cao siêu tột cùng của con đường mà dòng
tư tưởng hay sự tham thiền của bạn đã theo đuổi. Người sinh viên Ðông Pphương
thường bắt đầu việc thực tập của y trên một đối tượng bên ngoài thật giản dị,
từ đó tư tưởng của y hướng vào nội tâm, hoặc vươn lên một đối tượng cao siêu.
Khi đã trở nên lãnh đạm với những
đối tượng của tri giác, Đđệ Ttử
phải tìm kiếm Chúa Ttể
của giác quan, Tay sản xuất của tư tưởng, Kkẻ
gây ra ảo mộng.
Cái Trí là Kẻ đại phá hoại Sự Thật.
Ðệ Tử phải khử trừ Kkẻ
phá hoại đó.
Ðây là việc phải làm trong lúc định
trí. Như các tác phẩm Ấn Ðộ liên quan đến vấn đề nầy đã giải thích, sinh viên
muốn thực hành, trước khi bắt đầu tập trung tư tưởng thật sự, phải dẹp bỏ sự
chú ý đến những đối tượng của giác quan ; y
phải tập không để ý đến một cảnh tượng hay âm thanh nào trong phạm vi tri giác
của y ; y không được quyến luyến đối với
một người nào hay một vật nào ở trước mắt hoặc chạm đến y ;
như thế y mới sẵn sàng quan sát những tư tưởng và tình cảm hiện ra trong trí và
chiêm nghiệm chúng.
Như chúng ta đã giải thích, Thể Vía
và Thể Trí của nhân loại phần đông ở trong trạng thái linh hoạt không ngừng
; chúng phô bày một số trốt xoáy mà người muốn thực hiện những sự
tiến bộ thật sự bắt buộc phải diệt trừ ;
chúng là nguyên nhân của vô số ảo ảnh quấy nhiễu người bậc trung, do đó y cảm
thấy vô cùng khó khăn trong sự phán đoán mọi việc một cách chính xác. Giáo lý
Ðức Shankaracharya có trình bày công lý nầy : Mmắt
Ttrần
sẽ nhìn thấy rõ rệt khi nó chú định vào một chỗ, nhưng nó sẽ không đạt được
hiệu quả như thế khi nó nhìn vơ vẩẫn,
cũng giống như Cái Trí hiểu một cách minh bạch khi nó an tịnh. Nhưng nếu Cái
Trí có nhiều trốt xoáy, chắc chắn chúng sẽ làm biến thể những đối vật được thấy
và do đó tạo ra ảo ảnh.
Cái Trí gọi là Raja hay chúa tể của
giác quan. Ðôi khi nó được liệt vào số các giác quan ;
chẳng hạn như trong Kinh Gita :
Một
phần nhỏ của chính Bản ngã Ta biến đổi trong Ccõi
Đđời
thành Tinh thần bất diệt, được tạo nên những giác quan quanh mình, bao bọc bởi Vvật Cchất
(Prakriti ), mà Cái Trí là giác quan thứ sáu.
Dĩ nhiên Cái Trí không tác động như
một thứ giác quan nào, vì nó điều chỉnh những bằng chứng của ngũ quan và hơn
nữa nó cũng xác định sự hiện diện của những đối tượng vượt quá phạm vi của giác
quan. Chẳng hạn khinhư
cái bóng hiện trên ngưỡng cửa, bạn có thể kết luận rằng một người nào đó đang
có mặt ở đây.
Vậy Cái Trí là gì mà người chí
nguyện bắt buộc phải đối xử với nó nghiêm khắc như thế ? Patanjali nói về nó
khi Ngài định nghĩa sự thực tập Ppháp
Mmôn
Yoga như thể chitta-vritti-nirodha, nghĩa là sự kiềm chế (nirodha
) những trốt xoáy (vritti )
của Cái trí ( chitta ).
Theo những tín đồ của giáo lý Phệ Ðà hay trong Ttrường
Pphái
của Ðức Shankaracharya, thì thuật ngữ Aantahkarana
không được dùng theo nghĩa chúng ta thường hiểu, mà nó có nghĩa là Cái Trí theo
nghĩa rộng rãi nhứt của nó. Ðối với cả hai Ttrường
Pphái,
và hoàn toàn theo như nguyên nghĩa, thì Cái Trí là cơ quan hay dụng cụ bên
trong, có vị trí giữa Chơn Ngã thâm sâu nhất và thế giới bên ngoài. Nó luôn
luôn được chia làm bốn phần : “Kẻ tạo ra Chơn Ngã” (
ahamkara ) ;
tri kiến, trực giác hay lý luận thuần túy ( buddhi
) ; tư tưởng ( manas
) và sự phân biện những đối
tượng ( chitta ).
Chính hai phần chót nầy người Tây Pphương
thường gọi một cách tổng quát là Cái Trí với những năng lực suy tư một cách
trừu tượng và cụ thể. Còn các phần hoạt động khác, họ cho là cao hơn Cái Trí.
Nhà Thông Thiên Học sẽ nhận ra bốn
phần phân chia nầy của giáo lý Phệ Ðà là bốn nguyên tắc quen thuộc với họ
: Aatma,
Bbuddhi,
Mmanas
và Hạ Trí. Bà Blavatsky gọi phần chót nầy là Kkama-Mmanas,
vì đnó
chính là phần của Mmanas
( Cái Trí ),
có thể bị tác động bởi dục vọng và do đó ưa thích những đối tượng vật chất.
Chúng ta phải coi Kama như không những thích hợp với dục vọng và đam mê hạ
đẳng, mà còn thích hợp với mọi dục vọng, mọi tư lợi do nó cảm thấy ở thế giới
bên ngoài. Về phương diện nầy Ttam Tthể
Tthượng
(Tthe
Ttriple
Hhigher
Sself)
chỉ là Aantahkarana
hay nguyên lực nội tại ở giữa Chơn Thần và Pphàm
Nngã;
nó trở thành một Ttrí Tthể,
bởi vì trong vòng luân hồi, Mmanas
(Cái Trí ) là Nnhị
Tthể.
Ba thành phần của Chơn Ngã cao siêu
được xem như ba trạng thái của một đại tâm thức hay một đại trí
; cả ba đều là những phương cách về năng lực nhận thức. Atma không
phải là Chơn Ngã, nhưng là tâm thức biết Chơn Ngã ; Bbuddhi
là tâm thức, do chính tri giác của nó, nhận biết trực tiếp sự sống trong các
hình tướng ; Mmanas
cũng là tâm thức đó nhìn ra ngoài thế giới khách quan ;
sau cùng là Kama- Mmanas
, một thành phần của Mmanas,
chìm đắm trong thế giới nầy và chịu ảnh hưởng của Mmanas.
Chơn Ngã thật sự chính là Chơn Thần mà đời sống cao cả hơn tâm thức và đời sống
của toàn thể tâm thức ấy, tức là Chơn Ngã Siêu Việt. Do đó Ðức Patanjali và
Shankara đều hoàn toàn đồng ý rằng chính Cchitta,
Kkama-Mmanas,
Hhạ
Ttrí
là kẻ phá hoại sự thật và cần phải diệt trừ.
Chúng ta nên hiểu rằng trong Kama
- Mmanas
hay Cchitta
của người Ấn Ðộ là một phần lớn của Tthể
mà người Thông Thiên Học gọi là Cái Vía. Bà Blavatsky cũng đề cập đến bốổn
phầận
của Cái Trí. Trước hết là Mmanas
- Ttaijasi,
tức Mmanas
chiếu diệu rực rỡ, là Bbuddhi
thật sự hay ít ra là trạng thái của con người khi Mmanas
của y thấm nhuần trong Bbuddhi
lúc y từ khước mọi ý muốn tư kỷ. Kế đó là Mmanas
chính thực, tức Mmanas
cao siêu, là Cái Trí suy tư trừu tượng. Kế đóTiếp
nữa là Aantahkarana,
thuật ngữ chỉ
được Bà Blavatsky dùng để chỉ sự liên lạc, con kinh hay chiếc cầu nối
liền Thượng Trí ( Hhigher
Mmanas
) và HạTrí (Kama-Mmanas
) trong sự luân hồi. Sau cùng là Kama-Mmanas,
Hạ Trí, theo lý thuyết của chúng ta là Ttiểu
Nngã
hay Pphàm
Nngã.
Ðôi khi Bbà
gọi Mmanas
( Cái Trí )
là Ddeva-Eego,
tức là Chơn Ngã thiêng liêng để phân biệt với Pphàm
Nngã
( the Ppersonal
Sself
). Thượng Trí thiêng liêng vì nó có tư tưởng tích cực hay
kriyashakti, là năng lực thực hiện. Thật ra mọiột
việc làm của chúng ta đều là công nghiệp thuộc quyền năng của Cái Trí. Không
phải nhờ bàn tay của Nnhà Đđiêu
Kkhắc
song nhờ sức mạnh tinh thần điều khiển bàn tay ấy mà tác phẩm chạm trổỗ
đã hoàn
thành. Thượng Trí thiêng liêng vì nó là kẻ suy tư tích cực, sử dụng những đức
tính của chính đời sống nội tâm của nó chiếu diệu ra bên ngoài.
Ðó là ý nghĩa của của chữ thiêng liêng (
divine ), mà ngữ căn div có nghĩa là chiếu
sáng. Còn Hạ Trí, là một tấm gương phản chiếu tầm thường; như những vật bằng
vật chất khác, tự nó chẳng có ánh sáng; đó là một vật trung gian để cho ánh
sáng hay âm thanh đi xuyên qua; đó là chiếc mặt nạ, không hơn
không kém.
Trong những tác phẩm Thông Thiên
Học, Aantahkarana
thường được xem như sự liên lạc nối liền Ðại Ngã cao siêu hay Chơn Nhơn với Ttiểu
Nngã
thấp thỏi hay Pphàm
Nngã.
Trong Ttiểu
Nngã,
chitta phải phục tùng tất cả, đến nỗi đời sống của chúng ta dưới Tthế
Ggian
có thể so sánh với kinh nghiệm của một người cố gắng lội trong vực thẳm. Hơn
nữa, sau khi chết, sớm hay muộn gì y cũng tiếp tục sống một thời gian trên Ccõi
Thiên Ðường. Con người bị lung lay đủ mọi hướng, y thấy rất nhiều sự vật, nhưng
thay vì nghiên cứu chúng với Cái Trí an tịnh và trầm tĩnh, y lại làm việc ấy
với Kama-Mmanas
( Hạ Trí ),
do đó y không nắm được những gì đã biểu lộ trước Llinh
Hhồn.
Ngược lại, trên Ccõi
Trời, Chơn Nhơn có thể mở rộng Aantahkarana
vì bây giờ tất cả đều thanh tịnh ;
không có kinh nghiệm mới nào cần phải gặt hái thêm ;
rồi từ đó không có gì ngăn cản không cho nó nhớ lại một cách an tĩnh những kinh
nghiệm xưa để sống lại với chúng một cách nhàn hạ và gặt hái vài thứ tinh hoa
trong Chơn Nhơn (Ddeva-Eego
), vì đó chính là sự lợi lạc của nó. Như thế, rất
thường Chơn Nhơn thật sự bắt đầu chu kỳ đời sống của chính nó lúc nó bước vào Ccõi
Thiên Ðàng và trong thời kỳ thu thập những kinh nghiệm, nó chỉ chú ý đến Pphàm
Nnhơn
chút ít thôi.
Trong trường hợp nầy, trạng thái của
Cái Trí ( theo bảng phân loại của Bà Blavatsky
) được gọi là Aantahkarana
ít khi chuyển vận trước giai đoạn sống trên Ccõi
Thiên Ðàường.
Nhưng muốn trở nên thành thạo tại Ccõi
Trung Giới và Ccõi
Hạ Thiên trong khi sống bằng xác thân tại Ccõi Ttrần,
con người phải chuyển những năng lực mãnh liệt của Chơn Ngã cao siêu xuống và
xuyên qua Ccon
Kkinh
ấy (Aantahkarana),
bằng cách thực hành Dharana hay tập trung tư tưởng và hoàn toàn làm chủ Pphàm
Nnhơn.
Nói cách khác, y phải xóa bỏ những trốt xoáy của Thể Vía và Thể Trí. Người có thiênnhiều
tài trên một phương diện đặc biệt có thể tập trung tư tưởng dễ dàng bằng một
năng lực vô cùng mãnh liệt vào công việc riêng tư của y, nhưng khi nghỉ ngơi,
đời sống bình thường của y rất có thể còn biểu lộ một số trốt xoáy. Ðó là sự
việc chúng ta không muốn, mục đích của chúng ta là hủy diệt hoàn toàn những
trốt xoáy để thanh lọc những yếu tố bất hảo trong Hạ Trí, khiến cho nó an tịnh
và trở nên kẻ phụng sự biết vâng lời Chơn Ngã cao siêu trong mọi lúc.
Những trốt xoáy nầy có thể kết tinh
và thật ra chúng không ngừhững
kết tinh thành những thành kiến vô định, tạo nên những sự cô động vật chất thật
sự giống như nhiều mục cóc hiện trên Tthể Ttrí.
Vậy khi con người cố gắng nhìn ra ngoài, xuyên qua những điểm đặc biệt đó của
Thể Trí, thì cái nhìn của y không được rõ rệt ;
tất cả đều bị biến thể, vì trên những điểm đó vật chất tạo thành Thể Trí không
còn sống động và lưu chuyển nữa mà ngưng đọng lại và bị biến đổi. Muốn chữaủ
trị chứng nầy phải tự học hỏi, sắp xếp cho chất khí linh hoạt trở lại
; kế đó các thành kiến sẽ lần lượt bị cuốn theo dòng và tiêu tán.
Nếu Cái Trí là kẻ đại phá hoại sự
thật, chính vì xuyên qua Tthể
ấy chúng ta không thấy một đối tượng nào đúng thật là nó, nhưng chỉ là nhữngmột
hình ảnh mà chúng ta có thể tạo ra và những hình tư tưởng được chúng ta tạo tác
nầy phải truyền đạt đến mọi vật màu sắc đặc biệt của chúng. Bạn hãy để ý đến
hai người có những thành kiến khác nhau, đứng trước những hoàn cảnh như nhau và
đều đồng ý về nguyên nhân của những biến cố, đã thuật lại sự kiện ấy hoàn toàn
khác nhau. Tuy nhiên đó chính là những điều xảy ra đối với những người thường.
Chúng ta không biết rằng chúng ta đã làm biến thể mọi vật một cách vô lý như
thế. Người Đđệ
Ttử
phải vượt qua điều đó ; y phải “tiêu diệt kẻ phá hoại.”.
Cố nhiên y không được hủy diệt Cái Trí của y, vì y không thể không dùng đến nó,
nhưng y phải chế phục nó. Cái Trí là vật sở hữu của y, chứ không phải là cá nhân y, mặc dầu nó cố gắng
làm cho y tin nó là y..
Cách tuyệt hảo để ngăn cản Cái Trí vẩẫn
vơ là phải sử dụng đến ý chí. Thể Trí cũng như Thể Vía luôn luôn cố gắng tìm
cách dẫn dụ cho bạn tin rằng những sự ham muốn của chúng là những sự ham muốn
của bạn. Chúng ta phải làm chủ một cách chắc chắn cả hai.
Dù những trốt xoáy làm cho Cái Trí
chứa đầy những thành kiến sai lầm đã biến mất, song vẫn còn nhiều ảo ảnh. Việc
phiên dịch chữ Phạn avidya ra chữ “vô minh” có thể không thật xác đáng, dù chữ
ấy vẫn thường được công nhận. Trong chữ Phạn có nhiều sắc thái tế nhị khó dịch
ra chữ Anh. Vấn đề trong trường hợp nầy có thể là thiếu minh triết hơn là vô
minh. Dù kiến thức vô cùng quảng bác cũng không thể sánh được với minh triết,
vì kiến thức liên hệ với vật thể lẫn thời gian và không gian, trong khi sự minh
triết liên hệ đến Llinh
Hhồn
hay tâm thức tiềm nhập trong những vật thể nầy. Một Nnhà
Cchính
Ttrị
minh triết hiểu được nguyện vọng của dân chúng ;
một bà mẹ sáng suốt hiểu được ý muốn của các con bà. Dù con người có tất cả
những kiến thức liên hệ đến sự vật ở Ccõi Ttrần,
nếu y chỉ có nhãn quan có tính chất Dduy Vvật
chớ không nhìn xuyên qua Ssự Ssống,
thì y còn trong vòng vô minh hay thiếu sự minh triết. Bà Blavatsky có nói rằng
: “Thường thì trí thông minh hoạt động nhờ ở sự minh triết.”.
Từ sự thiếu sáng suốt hay vô minh, còn phát sinh ra bốn trở ngại lớn lao đối
với sự tiến bộ tinh thần, tính chung tất cả là năm trở ngại được gọi là Kkleshas.
Nếu Aavidya
là trở ngại đầu tiên, thì trở ngại thứ nhì là Aasmita,
tức ý niệm “Ta là Ccái Ấấy”
hay cái mà một ngày kia Ðức Thầy gọi là “Ttư Nngã”
(Sself-
Ppersonality).
Dưới ảnh hưởng của đời sống, Pphàm
Nngã
trở nên một nhân vật thật đặc biệt có một Tthể
Xác, Tthể
Vía và Tthể
Trí hợp với y. Ðiều nầy không có gì bất lợi, nếu các Tthể
đó tốt. Nhưng nếu đời sống nội tâm làm cho nó tin rằng nó chính là Pphàm
Nnhơn
đó ấy, nó sẽ chạy theo tư lợi, thay vì sử dụng
chúng cho những cứu cánh tinh thần.
Từ hậu quả của sự sai lầm thứ hai
nầy, con người khao khát sự giàu sang, quyền thế và tiếng tăm lẫy lừng. Khi
kiểm điểm nhà cửa của họ ở đồng quê và thành thị, những du thuyền và xe hơi, sự
giàu có khiến họ sinh ra kiêu căng và tưởng mình quan trọng, vì được tiếng chủ
nhân ông ; hoặc khi nghe tên tuổi mình được
nhắc nhở khắp nơi, biết rằng hàng ngàn người tán dương mình (
dù bằng lời lẽ nghiêm khắc, vì sự hiển đạt thường làm
cho kẻ vô danh khoái trá ), người ta tưởng rằng mình là một
nhân vật vĩ đại. Ðó là “Ttư Nngã,”,
một trong thói dị đoan to lớn nhất dưới Tthế Ggian,
và đối với mọi người nó là nguồn gốc của không biết bao nhiêu sự đau khổ. Trái
lại, con người Dduy Llinh
cho rằng mình sống hạnh phúc nếu y có thể làm chủ xác thân và lý trí của y
; y thích nhớ trong trí hình ảnh của hàng ngàn kẻ khác để giúp đỡ
họ, hơn là thấy một cách thích thú hình ảnh của mình được đề cao và ca ngợi
trong ý tưởng riêng tư của họ. Vậy Ttư Nngã
là một trở ngại lớn lao chống lại việc Chơn Ngã cao siêu sử dụng Pphàm
Nngã
và do đó ngăn trở sự tiến bộ Ttinh
Tthần.
Trở ngại thứ ba và thứ tư có thể tìm
hiểu chung : Đđó
là Rraga
và Ddvesha,
Yyêu
và Gghét,
thu hút và đẩy lui ; hai chứng nầy cũng bắt nguồn từ
chính Ttư
Nngã
ấy. Không phải Ttư Nngã
biểu lộ những sự ưa thích của nó. Cũng giống như một chiếc xe ô tô có
ý kiến riêng, nó tỏ ra bất mãn khi chủ nó lái trên con đường xấu, hoặc lộ vẻ
khoan khoái chạy trên con đường bằng phẳng. Ðối với chiếc xe mặt đường có thể
không tốt, nhưng đối với anh tài xế, điều quan trọng là phải có một con đường,
vì y có một mục tiêu và nếu không có đường giao thông thì y khó đến đó được. Có
nhiều ghế, lò sưởi, đèn điện và lò hơi thật là tiện lợi, nhưng muốn tiến bộ
phải thấy trong xứ chẳng những về vật chất mà còn những gì luôn luôn liên hệ
đến tâm tư và tình cảm. Người ta thích những vật thích phù hợp với
sự tiện lợi thông dụng và thói quen của mình ;
tất cả những gì gây xáo trộn cho họ đều “xấu”; ;
những gì thuận lợi cho họ đều “tốt.”.
Cách nhận xét đời sống như thế không thích hợp với sự tiến bộ Ttinh
Tthần.
Chúng ta không từ chối hạnh phúc khi nó đến với mình, nhưng phải xem thường nó
và chấp nhận một đời sống như
tất cả những việc xảy đến cho mình. Chúng ta không nên quan
tâm đến những gì mình ưa thích hoặc không ưa thích. Cái gì tốt hay xấu chỉ nên
để cho Chơn Ngã cao siêu phán xét trong sự bình tĩnh của nó.
Kế đó sự trở ngại thứ năm là Aabhinivesha
: Đđó
là trạng thái của con người chú tâm, thiết lập, bị ràng buộc vào hình thái nầy
hay hình thái khác của sự sống hoặc Pphàm
Nngã.
Hậu quả của sự trở ngại nầy là việc sợ già và sợ chết. Con người thật sự quên
đi lẽ đương nhiên nầy, nhưng khi ngày giờ đã điểm Pphàm
Nnhơn
không thể nào thoát khỏi. Chướng ngại thứ năm cũng có thể thật sự làm tê liệt
đời sống của chúng ta ; con người dùng tuổi thanh xuân của
mình để bảo toàn hạnh phúc và sự an ổn cho tuổi già ;
khi trở về già, họ muốn tìm lại thời hoa niên đã mất hoặc ngại dùng xác thân
của họ, vì sợ tổn thọ. Họ giống như người mua chiếc xe ô tô đẹp rồi cứ ngồi
trong xe, không
chịu rời khỏi nhà xe, khoái trá vì của mới tạo đó, nhưng không muốn sử
dụng nó, vì sợ hư hỏng. Bổn phận của chúng ta là tuân theo ý chí của Chơn Ngã
cao siêu, nếu cần chúng ta phải sẵn sàng chết để phụng sự nó.
Tất cả những trốt xoáy đều phát sinh
từ năm chướng ngại nầy; sự định trí và tham thiền là phương tiện xóa bỏ chúng
hoàn toàn. Khi Kkama-M
manas không còn hướng đến sự thấp kém nữa, thì Mmanas
mới có thể vươn lên và trở thành Mmanas
- Ttaijasi
(Thượng Trí ).
Một chữ Phạn khác được dùng để chỉ
cái Ttư
Nngã
ấy là chữ Mmana
mà đôi khi người ta dịch là “kiêu căng” hay hơn nữa là “tự mãn.”.
Chúng ta còn thấy ngữ căn của chữ ấy trong chữ Nnirmanakaya,
có nghĩa là một sinh linh đã vượt qua ảo ảnh đó - N-nirmana.
Theo Bà Blavatsky thì có ba loại hay ba cách hóa thân : Ttrước
hết là hóa thân của những vị Aavataras
là những Vvị
từ các Hhành
Ttinh
cao hơn chúng ta giáng lâm, các Vvị
ấy đã đạt được mục đích trong một chu kỳ tiến hóa trước chu kỳ của chúng ta;
cách thứ hai là loại bình thường, khi một người đã trải qua Ccõi
Trung Giới
và Cõi Thượngiên
Giới, lấy một xác thân mới; loại thứ ba là cách của những người Nnirmanakayas
tái sinh không gián đoạn, đôi khi chỉ sinh lại trong vài ngày sau. Trong bộ “Giáo Lý Bí
Truyền,”
Ttác
Ggiả
có nêu lên một thí dụ nói về Ðức Hồng Y Giáo Chủ de Cusa tái sinh lại rất nhanh
chóng và chính là Copernicus ; Bbà
cho biết thêm rằng những sự hóa thân mau chóng nầy không hiếm.
Bà gọi các Vvị
nầy là các Đđệ
Ttử
( Aadepts
), song không gán cho chữ ấy ý nghĩa hoàn toàn giống như chúng ta hiểu
hiện nay, ý Bbà
muốn nói rằng họ là những Đđệ Ttử
hay là Bbậc
đã thành thạo trên các Ccõi
Trung Giới và Hạ Thiên ; Bbà
còn quả quyết rằng các Vvị
ấy đôi khi xuất hiện trong những buổi Ccầu Ccơ
và những huynh đệ trong bóng tối thường hay chống đối họ, có lẽ vì sự tiến bộ
riêng của họ cũng như sự tiến bộ chung của nhân loại.
Bà Blavatsky nói rằng có hai hạng Nnirmanakayas
: Nnhững
Vvị
từ chối Ccõi
Trời như chúng ta vừa giải thích, và những Vvị
sau nầy đạt được một trình độ cao siêu hơn, đã từ chối quả vị mà Bbà
gọi là quả vị Niết Bàn tuyệt đối, để ở lại Tthế Ggian
giúp đỡ nhân loại. Văn Cchương
Thông Thiên Học hiện đtại
chỉ áp dụng thuật ngữ nầy cho hạng sau thôi, nhưng bây giờ vẫn nhắm vào hạng Nnirmanakayas
thấp hơn. Người ta tiêu diệt được tay phá hoại, đã diệt trừ hoặc gần như đã trừ
khử được năm chướng ngại ấy ; từ đó y phụng sự
Chơn Ngã cao siêu ; không có điều gì ở y không thích
hợp với Chơn Ngã đó. Sự mở rộng vận hà Aantahkarana
giúp y trong khi còn sống trong xác thịt có thể tiếp xúc trực tiếp với Chơn Ngã
cao siêu, luôn luôn tiếp nhận những điều cần thiết cho nó. Bao giờ con ong cũng
có thể đến viếng bông hoa và cảnh vật thanh tịnh, và khi xác thân đã chết, phần
tế vi của Pphàm
Nngã
vẫn có thể sử dụng lại nữa trong kiếp sau, vì nó không chấp chứa những trốt
xoáy hiện thân của những dục vọng kiên cố, những thành kiến cứng nghắtc,
và sau cùng là những tình cảm và tư tưởng biểu lộ một tính khí ích kỷ.
Khi Đđệ
Ttử
xem hình hài của mình dường như không có thật, giống như cảnh vật thấy trong
giấc mơ lúckhi
thức giấc,.
kKhi
đã hết nghe tiếng vạn vật, Đđệ Ttử
có thể nhận ra Ðấng Duy Nhất - tiếng nội tâm giết chết tiếng ngoại giới.
C.W.L. Giấc mộng và giấc ngủ
thường được các Nnhà
Hiền Triết Ðông Pphương
dùng trong việc so sánh ; chúng có sự hữu ích riêng, nhưng
chúng ta không nên để chúng dẫn đến chỗ lầm lạc. Khi thức tỉnh sau một giấc mộng
bình thường, chúng ta nhận thấy các giác quan của mình đã bị lừa gạt
; điều mà chúng ta cho là kinh nghiệm thật chẳng có gì giống như
thế. Nhưng cũng không hoàn toàn đúng như sự việc xảy ra khi chúng ta tri giác
thực tại tinh thần. Chúng ta thức tỉnh trong một sự sống cao siêu và khoáng đạt
hơn. Lần đầu tiên chúng ta khám phá ra những giới hạn áp chế đã vây hãm chúng
ta từ trước đến nay mà chúng ta không ngờ. Tuy nhiên, chúng ta
không nên tưởng rằng trước lúc đó đời sống của chúng ta chỉ là hư
không và mộng ảo. Do đó chúng ta thức tỉĩnh
trước những thực tại cao siêu, nên thái độ tinh thần xưa kia của chúng ta mang
tính chất phi lý. Nhưng dù sao tất cả điều nầy cũng đều tương đối. Rồi chúng ta
hành động theo sự sáng suốt và theo kiến thức của mình ;
bây giờ chúng nó tăng đến nỗi biến đổi tư tưởng và hành động của chúng ta.
Chính Mmôn
Đđồ
của Pphái
Phệ Ðà cũng nhìn nhận giấc mộng, đời sống tại Ccõi Hhồng
Ttrần, không
phải là không có giá trị hữu ích. Trong giấc mơ một người thấy mình bị một con
rắn đe doạ rất khủng khiếp và rốt cuộc bị nó cắn ;
sự kích động đó khiến y thức giấc, y cảm thấy vô cùng khoan khoái, vì biến sự
chỉ là một ảo giác ; tuy nhiên chính sự tấn công của con
rắn tưởng tượng ấy đã khiến y ý thức một đời sống thực tế hơn.,
Ccũng
thế, trong Kinh Gita, khi Ðức Krishna nói với Đđệ Ttử
của Ngài rằng sự Mminh
Ttriết
quý hơn những
của cải Tthế
Ggian,
Ngài đã dạy như sau : “Nầy Partha ! Ttrong
toàn thể của nó, mọi hành động đều đi đến tuyệt đỉnh trongcủa
sự Mminh
Ttriết.”[7] [7]. Chẳng những không chê bai một
đời sống hoạt động, Vvị
Ðại Huấn Sư nầy lại tuyệt đối khuyến khích nó ;
nhưng Ngài nói rằng thay vì tự ràng buộc vào sự hoạt động và những đối tượng
đang theo đuổi, thì chỉ nên tìm sự minh triết mà sự hành động có thể đem lại
cho chúng ta. Chính nhờ sự Mminh
Ttriết
mà con người mới có sự sống thật sự của nó, như một phần tử của Ðức Thượng Ðế.
Nếu con người nghe tiếng gọi của sự Mminh
Ttriết,
y sẽ dần dần làm chủ được mình và đời sống của mình. Tiếng nói nội tâm sẽ chấm
dứt sự náo loạn bên ngoài, chính sự náo loạn ấy đã khiến
cho hạng người trung bình hành động một cách cuồng nhiệt.
Có lẽ con người không còn chú ý đến
hàng ngàn sự việc chung quanh và đang cảm
nhiễm đến y, thì khiến y phải chú ý vào nội tâm của mình, vào
chứng nhân duy nhất của tất cả điều ấy, nhưng y không có toàn
quyền tự do làm
như thế,
bao lâu y chưa làm tròn bổn phận của mình dưới Tthế
Ggian.
Trong bất cứ lúc nào, dù có bổn phận gì, con người cũng đều có thể “hướng đến
những điều cao siêu, chứ không phải đến những sự việc dưới Tthế
Ggian,”[8] [8] , nhưng có lẽ y không được quyền
hy sinh trọn vẹn đời sống của mình cho công việc cao siêu, bao lâu y chưa trả
hết Nnghiệp
Qquả
do y gây ra trong kiếp quá khứ hoặc trong giai đoạn đầu của hiện kiếp
; chắc chắn y có thể cảm nhận tinh thần từ bỏ, nhưng bao lâu y còn
bổn phận phải thi hành dưới Tthế Ggian,
y phải hăng say hoàn thành nó một cách hết sức hoàn hảo.
Nếu khát vọng giải thoát của y khá
mãnh liệt và Nnghiệp
Qquả
của y không dựng lên một chướng ngại không thể vượt nổi trên con đường đi của
y, thì có lẽ không bao lâu con người sẽ thấy mở ra trước mắt y con đường giải
thoát. Chính tôi đã có kinh nghiệm thuộc loại ấy. Sư Pphụ
tôi gởi một thông điệp giao cho tôi vài cơ hội mà tôi đã nhận lãnh vớiơí
một tấm lòng biết ơn nồng nhiệt. Nếu đề nghị tốt đẹp đó được đưa ra sớm hơn một
chút, có lẽ tôi không thể chấp nhận được, vì lúc đó tôi chưa rảnh rang
; tôi còn một bổn phận thật rõ rệt phải hoàn thành mà tôi không
thể bỏ qua.
Có hai mức độ của Ssự
Ttừ
Bbỏ
(Vvairagya)
: Aapara
hay Vvairagya
bậc thấp, và Ppara
hay Vvairagya
bậc cao.
Sự từ bỏ mọi ràng buộc với sự vật
bên ngoài gồm ba giai đoạn. Ðầu tiên con người chán ngán những đối tượng mà xưa
kia đem lại lạc thú cho y, tuy nhiên y còn nối tiếc khi y đã chán nản nó
; y còn muốn hưởng thụ nữa, song vô ích. Rồi sự chán mứa ấy thúc
đẩy y đi tìm sự thỏa mãn khác ở nơi khác. Sau cùng, sau khi đã thoáng
thấy rõ ràng đời sống cao cả, những khát vọng Ttinh
Tthần
của y phát khởi và sức lôi cuốn của chúng mãnh liệt đến nỗi y không còn nghĩ
đến sự ham muốn khác. Hoặc khi biết những sự vật cao cả có thật và quyết định
đi đến chúng, y đã đi vào giai đoạn thứ hai, hoặc ghi nhận sự thiếu sót ở những
sự vật thấp kém bằng cách gây ra nơiở y
một thứ chán mứa giả tạo, hoặc đặt tất cả ý chí của y vào sự
quả quyết không thể lay chuyển nổi để xua đuổi sự quyến rũ của chúng và tiêu
diệt lạc thú do chúng gây ra. Sau rốt, cũng như trong trường hợp trước, có lẽ
sau nhiều cuộc thăng trầm, con người mới mở mắt trước đời sống cao thượng
; y nghe tiếng nói nội tâm giết chết tiếng bên ngoài
; từ đó y thu hoạch được Ssự Ttừ
Bbỏ
( Vvairagya
) cao siêu.
Giữa cuộc chiến đấu nội tâm, con
người thường đi đến trạng thái thực sự ghê tởm những đối tượng trước kia đã làm
cho y vui sướng ; thường thường đây chính là dấu hiệu chứng tỏ
y mới được giải thoát khỏi chúng và y vẫn còn sợ hãi sự cám dỗ của chúng
; y run sợ trước ý nghĩ ấy; y lẫn tránh chúng và tìm cách tiêu
diệt chúng một cách hăng say mà không cần lý luận. Tất cả những trạng thái dị
biệt trong giai đoạn thứ hai là những hình thức Vvairagya
(Ttừ
Bbỏ
) bậc thấp.
Bấy giờ và chỉ đến bấy giờ thôi, Đđệ
Ttử
sẽ bỏ miền Asat, Ccảnh
giả, để đi vào lãnh địa của Sat, Ccảnh
chơn.
Ở đây chúng ta phải cẩn thận, không
nên hiểu lầmkhinh
thường. Trong giai đoạn nầy người ta thường cho rằng những Ccõi
thấp toàn là ảo ảnh, nhưng ý nghĩa của nó hoàn toàn khác. Tôi đã đề cập đến Ccõi
chơn và giả, và đã giải thích rằng mọi Ccõi
đều thật đối với ý thức hoạt động trong đó. Quả thật người ta không nghe tiếng
nói nội tâm và xem xét nó như người ta đã xem xét tại những Ccõi
cao, con người không thể nắm lấy được chân lý dưới bức màn hiển hiện vô cùng
phức tạp đang bao quanh chúng ta.
Trước khi Linh Hồn có thể thấy, phải
có sự điều hòa bên trong và mắt Ttrần
không còn thấy một huyễn cảnh nào nữa.
Trước khi Linh Hồn có thể nghe, con
người phải không còn để lọt vào tai tiếng gầm thét huyên náo cũng
như tiếng thì thào, tiếng voi rống cũng như tiếng vo vo trong trẻo của con đom
đóm vàng.
Trước khi Linh Hồn có thể hiểu và
nhớ, nó phải hiệp nhất với Ðấng thốt lời không tiếngtrầm mặc,
cũng như hình
thể mà cái khuôn mẫu do đó mà đất sét theo khuôn mẫu nắn
nên hìnhđã hiệïp
nhất với tinh thần của người thợ làm đồ gốm.
Sự điều hòa nội tâm là sự điều hòa
ngự giữa Chơn Nhơn và các Tthể
của nó và dĩ nhiên cũng chính là sự điều hòa giữa các Tthể
nầy. Trong con người bậc trung luôn luôn có sự tranh đấu giữa Thể Vía và Thể Trí,
giữa nhữngsự
dục vọng và trí
thông minh. Các Tthể
nầy đều không hòa hợp với Chơn Nhơn và chưa thể làm vận cụ để phụng sự nó. Phàm
Nngã
phải được thanh lọc ; con kinh nối liền nó với Chơn Nhơn
phải được khai thông và mở rộng. Bao lâu việc nầy chưa hoàn thành, thì Pphàm
Nngã
còn thấy mọi sự vật và mọi người một cách rất hời hợt theo quan điểm riêng của nó. Chơn
Nhơn không thể biết rõ những gì xảy ra thật sự ;
nó chỉ thấy hình ảnh bị biến thể do Pphàm
Nnhơn
thu nhận ; sự kiện nầy giống như cái máy ảnh
trang bị một miếng kính hư hỏng đã làm biến dạng những tia sáng và từ tấm kính
hay phim ảnh lệch lạc đó tạo ra hậu quả của tất cả sự lu mờ, không rõ ràng và
thiếu chính xác.
Ðó là lý do vì sao ở đại đa số
người, Chơn Nhơn không tìm thấy một sự thỏa mãn nào trong Pphàm
Nnhơn
trước khi nó được bước vào đời sống trên Ccõi Tthiên
Đđàường.
Chơn Nhơn phân biệt được điều chơn với điều giả ;
vừa thoáng thấy nó đã nhận ra được điều chơn và dứt bỏ điều giả, nhưng thường
khi phóng tầm mắt về phía Pphàm
Nnhơn
ở dưới nó, nó thấy những hình tư tưởng rời rạc lẫn lộn trong một sự cuồng loạn hòa
hợp hỗn tạp đến nỗi nó không thể phân biệt điều
gì một cách rõ rệt. Nó quay đi một cách thất vọng và quyết định chờ sự thanh
tịnh trên đời sống Tthiên
Đđàường
trước khi tìm cách khám phá những mảnh chân lý trong sự hỗn độn thê thảm ấy. Dưới
Trong
những điều kiện an tĩnh hơn đó, khi nhữkhông
xúc động và những tư tưởng mới đây dướiở Ccõi
Ttrần
lần lượt xuất hiện và phô bày dưới ánh sáng rực rỡ của Ccõi
Trời, chúng sẽ được đánh giá một cách chính xác ;
cái gì vô dụng sẽ bị sa thải, cái gì quý báu sẽ được giữ lại. Vị Đđệ
Ttử
phải tìm cách thu hoạch kết quả nầy trước khi rời bỏ xác phàm bằng cách thanh
lọc Pphàm
Nnhơn
và tạo sự hợp nhất giữa nó với Chơn Nhơn.
Có thể những sự lầm lạc riêng tư không
mấy quan trọng. Bạn hãy tưởng tượng một con sâu, một con chim, một con khỉ và
một người bộ hành cùng nhìn một gốc cây. Con sâu sẽ thấy thức ăn trong đó, con
chim sẽ thấy một chỗ trú ẩn, con khỉ sẽ xem đó là một trường thể dục, và con
người sẽ cho là một nơi che mát ;
những hình ảnh nầy không hoàn toàn giống nhau, lại còn
khác nhau do ý niệm về chính gốc cây.
Nếu cái nhìn liên quan đến các đối
tượng bên ngoài, thì sự nghe liên hệ đến những gì đến từ bên
trong chúng ta. Muốn phân biệt được tiếng nói linh diệu cần phải có sự an tịnh
; người ta có thể đạt đến đó bằng sự định trí hoặc tập trung tư
tưởng. Muốn cho Llinh
Hhồn
nhận thấy một cách chắn chắn và rõ rệt tiếng nói bên trong, thì không nên để
cho một ảnh hưởng nào bên ngoài lay chuyển đến chúng
ta, không nên để cho tiếng ồn ào của sóng to gió lớn dưới Tthế
Ggian
tấn công chúng ta và cả đến tiếng thì thào êm dịu lúc sóng lặng gió im
; phải tập giữ một sự an tĩnh vĩ đại và không cảm thấy mnột
sự ham muốn hoặc oán hận nào.
Con người không thể cầu cứu đến trực
giác, nếu y không hoàn toàn quyết định dùng nó làm tay hướng dẫn tuyệt hảo và
chắc chắn hơn hết, và dẹp bỏ mọi dục vọng riêng tư. Có ích lợi gì mà phải đòi
hỏi trực giác giải quyết một vấn đề liên quan đến hạnh kiểm khi mà cùng một lúc
con người muốn giải pháp nầy hay giải pháp khác. Trừ trường hợp hiếm có khi
trực giác mạnh mẽ một cách đặc biệt, chỉ khi nào những dục vọng và hận thù
riêng tư đã chấm dứt, tiếng nói bên ngoài không còn ảnh hưởng đến y nữa, con
người mới có thể nghe tiếng nội tâm, tay hướng đạo không bao giờ sai lầm ấy đã
thuộc về y. Trước khi Llinh
Hhồn
có thể cùng một lúc hiểu đầy đủ tầm quan trọng của những bài học nhận được từ
bên ngoài và trực giác nảy sinh ra từ bên trong, thì một sự hòa hợp mới phải
được thiết lập ; Cái Trí phải từ từ tuân theo ý chí,
và từ đó nắm quyền điều khiển sự sống.
Người ta phân biệt có ba thời kỳ
trong sự phát triển tâm thức. Trên đường Nnhập
Mmôn
tâm thức cao hơn hết của con người hoạt động trên Ccõi
Thượng Thiên ; sau Ccuộc
Đđiểm
Đđạo
lần thứ Nnhứt
đến lần thứ Ttư,
nó không ngừng vươn lên xuyên qua Ccõi
Bồ Ðề, và ở mỗi cuối giai đoạn nầy, nó đi vào Ccõi
Niết Bàn và Ccõi
Tinh Thần. Rồi con người hiệp nhất với ý chí là tay điều khiển, là chúa tể nắm
vận mạng mình. Trong giai đoạn trung gian con người có thể nói
: “Theo ý của Ngài chứ không phải của tôi”;
; còn bây giờ y nói : “Ý
chí của Ngài và của tôi là một.”.
Cũng giống như khuôn mẫu của cái bình có từ trước của anh thợ làm đồ gốm, cũng
như kiểu mẫu của một Ggiống
Ddân
có trước trong trí của Ðức Bàn Cổ đã nhận được từ Ccõi
trên, như thế mục đích mà mỗi người trong chúng ta phải đạt đến đã được Chơn
Thần định trước; rồi nguyên tắc Ttinh
Tthần
trong con người cũng y theo đó mà thích ứng với sự tiến hóa của đời sống.
Vậy chữ Llinh
Hhồn
được dùng trong ba câu châm ngôn trên rất hợp lý. Chính Llinh
Hhồn
đi theo con đường tiến hóa, chứ không phải Pphàm
Nnhơn.
Ðến nửa đường nó dần dần hiệp nhất chặt chẽ với Thể Bồ Ðề, và như thế trở thành
Llinh
Hhồn
thiêng liêng, Mmanas
- Ttaijasi.
Nhưng mọi công việc đó đều tác động dưới sự điều khiển của Atma, tức là Tiếng
Nói Vô Thinh.
Bây giờ Linh Hồn sẽ nghe, và sẽ nhớ.
Bấây
giờ bên tai của Linh Hồn
Tiếng Nói Vô Thinh
sẽ thốt lên, những lời sau đây
:
Nếu Hồn con mỉm cười trong Áánh
Tthái
Ddương
của cuộc đời; nếu Hồn con ca hát trong lốt nhộng máu thịt Ttrần
Ggian
; nếu Hồn con than khóc trong đền đài mộng huyềễn
ảo,
nếu Hồn con vẫy vùng để bứt đứt sợi chỉ bạc cột liền nó với Sư Phụ, thì hỡi Đđệ
Ttử,
con hãy biết Hồn con thuộc về Ttrần
Tthế.
C.W.L.- Những
tác phẩm Hhuyền
Bbí
thường đề cập đến Ttiếng
Nnói
Vvô
Tthinh
và chúng ta nhận thấy rằng những gì được đề cập trong tác phẩm nầy không phù
hợp với những điều mà chúng tôi đọc trongnơi
những trang sách khác. Trong những buổi
đầu của Hội Thông Thiên Học, chúng tôi tự hỏi đâu là ý nghĩa thật đúng của từ
ngữ nầy và chúng tôi tìm được một ý nghĩa không thay đổi của nó. Chúng tôi phải
nghiên cứu lâu dài mới khám phá ra được
đó chính là một thuật ngữ tổng quát. Ðối với một người thường Ttiếng
Nnói
Vvô
Tthinh
phát xuất từ Ccõi
mà tâm thức y chưa thể đạt đến và dĩ nhiên tiếng nói nầy biến đổi theo thời kỳ
tiến hóa. Ðối với những người hiện giờ còn kết hợp với Pphàm
Nnhơn,
thì Ttiếng
Nnói
Vvô
Tthinh
là tiếng nói của Chơn Nhơn, nhưng khi Pphàm
Nnhơn
được hoàn
toàn chế ngự, đã hiệp nhất với Chơn Nhơn đến nỗi có thể phụng sự nó nhưtrong
một dụng cụ hoàn hảo, thì tiếng nói ấy là tiếng nói của Atma - ba Nngôi
tinh thần tại Ccõi
Niết Bàn. Khi đã đạt đến Ccõi
Niết Bàn thì còn một Tiếng Nói Vô Thinh nữa, đó là tiếng nói của Chơn Thần trên
Ccõi
cao hơn. Con người sau khi đã đồng nhất Chơn Nhơn với Chơn Thần và đạt đến quả
vị Chơn Tiên, sẽ còn nghe một Tiếng Nói Vô Thinh nữa chuyển xuống y, nhưng bây
giờ có thể là tiếng nói của một trong các Vvị
Ðại Thiên Thần, hay một trong các Vvị
mà người ta gọi là Hành Tinh Thượng Ðế. Ðối với Ðức Hành Tinh Thượng Ðế, Tiếng
Nói Vô Thinh sẽ là tiếng nói của Ðức Thái Dương Thượng Ðế và nếu đối với Ðấng
sau cùng nầy mà có một Tiếng Nói Vô Thinh thì nó phải là tiếng nói của một
Thượng Ðế cao hơn, Ðấng sau rốt. Ai có thể tin chắc như thế không
?
“Vầng Tthái
Ddương
của cuộc đời bạn” có nghĩa là trong kiếp sống cá
nhân có những
lúc vận may chào đón chúng ta, bây giờ tất cả đều huy hoàng và tốt đẹp.
Chơn Nhơn nếm được thú vui nầy và xem đnó
là hạnh phúc lớn lao thật sự của Ðại Ngã, nên chưa có tính từ bỏ cao siêu để
tiêu diệt âm thanh bên ngoài. Như Bà Hội Trưởng của chúng ta đã giải thích
trong quyển “Minh
Triết Cổ Truyềnhời,” người ta
đi đến chỗ cảm thấy không có gì ở Tthế Ggian
nầy có thể thỏa mãn y, ngay cả những sự vật đem sự vui thú nhất đến cho những
người thường có thể nhờ một sức cố gắng mạnh mẽ song an tịnh của ý chí vươn lên
để hiệêïp
nhất với tâm thức cao siêu và giải thoát cho thân xác ;
nhưng muốn đạt được điềuviệc
ấy phải tuân theo điều kiện đầu tiên và thấy trong sự hiệp nhất đó phương tiện
duy nhất đem lại sự thỏa mãn.
Ba Tthể
Xác, Vía và Trí với những thói quen của chúng tạo thành Pphàm
Nnhơn,
thật ra chúng là con nhộng trong cái kén từ từ tạo thành một con bướm. Tình
trạng hiện thời của chúng ta là tình trạng của con sâu, Llinh
Hhồn
phải khoát vào mình nó một Tthể
để sống tại Ccõi
Ttrần,
nhưng không phải lệ thuộc vào chúng ;
nó phải quan niệm đời sống Tthế Ggian
đó không phải là đời sống riêng của nó, nhưng nên hiểu rằng chính nó độc lập
với các Tthể
của nó. Ở đây chúng ta còn phải cẩn thận tránh xem thường chúng. Chắc chắn
trên con đường đi lên của nó, thật tốt và cũng cần thiết cho Llinh
Hhồn
phải thỏa thích, vui cười và ca hát trong lốt nhộng của nó ;
sự vui thú đó vô hại ; tôi còn có thể nói là rất hữu ích.
Ðiều mà Llinh
Hhồn
không nên làm là ca hát với chính lớp nhộng hoặc vì lợi lạc cho lớp vỏ bên
ngoài đó, Linh Hồn sẽ phạm phải một lỗi lầm trầm trọng hơn cả, nếu nó khóc than
“trong lầu đài mộng huyễn mộng của nó,”,
vì nhượng bộ sự ngã lòng và buồn bực luôn luôn là một sự lầmn
lạc. Quả thật đúng như thế, nhưng vấn đề ở đây không phải là điều đó. Qua sự
duyên dáng và thi vị của ngôn từ, Ðức Aryasanga tìm cách nói với chúng ta rằng
lốt nhộng, hoặc đền đài, hoặc hình thức bên ngoài phải tuyệt
đối không phải thể là vấn đề hoan hỉ hay sầu thảm đối với Llinh
Hhồn
; Nnó
phải lãnh đạm trước những hình thức đó. Ðiều nầy xảy đến với chúng phải không
hề làm Nnó
xúc động. Nếu Nnó
chưa thể dửng dưng được, tức Nnó
còn thuộc về Tthế
Ggian
và như thế Nnó
chưa sẵn sàng thưởng thức sự tự do hoàn toàn.
Ở khắp nơi chung quanh chúng ta,
những cuộc tang thương biến đổi diễn ra không ngớt, nhưng Llinh
Hhồn
phải theo đuổi con đường của mình một cách thật cương quyết, đừng kinh hãi vì chúng.
Quý bạn hãy nhớ lại các đoạn thơ sau đây của Shakespeare :
Khi
tôi thấy bàn tay của thời gian nghiêm khắc
Chôn
lấp tuổi đời dưới lớp áo giàu sang,
Những
tháp cao bị san thành bình địa,
Và
đến đồng thau bất diệt cũng hàng phục trước tử thần;
Khi
tôi thấy trên triền núi và ven biển hao mòn,
Ðại
dương vẫn mãi xâm nhập không bao giờ chán.n,
Và
khối đất chôn vùi bao quần chúng gớm ghê,
Các
quốc gia hết suy rồi đến thịnh ;
Khi
tôi thấy biết bao tang thương biến đổi,
Cả
căn nguyên mọi vật cũng điêu tànn ;
Tôi
nghĩ rằng Thời Ggian
đã giết chết tình thương,
Sẽ
chiếm mất bạn tôi trong cơn phẫn nộ điên cuồng
Và
phải chăng tử thần theo tôi nghĩ
Sẽ
khiến người tiếc rẻ những gì phải mất một ngày kia ?
Khi
đất liền, biển cả, đồng thau và đá tảng
Sau
cùng phải nhượng bộ trước quyền uy của thần chết
Còn
vẻ đẹp mỹ miều của cánh hoa vừa mỏng manh vừa thanh khiết
Có
thoát khỏi số phận phũ phàng chăng ?
Ôi
! khi bàn tay của Thời Ggian
làm tiêu tan thành cát bụi
Cả
cổng sắt kiên cố vững bền
Biết
mùa hè có tìm được một nơi nương tựa trong hơi gió
Ðể chống lại cơn phẫn nộï
cuồng sát chăng ?
Phải
giấu ở đâu châu báu thiêng liêng, kỳ diệu
Ðể
Thời Ggian
không thể làm giàu cho hộp tư trang ?
Vậy
cánh tay nào sẽ ngăn được bước tiến của TThời
Ggian.
Ðể
giữ lại vẻ mỹ miều, phản công điều
hung ác
Và Ðể
giữ lại vẻ mỹ miều, phản công điều hung ác
Hỡi
ôi! Tất cả sẽ hoài công, nếu không có chi là phép lạ
Trong
lời thơ của tôi, tình thương rạng rỡ đến bao giờ ?[9] [9]
Nhưng thật ra thời gian là bạn thân
của người chí nguyện, vì những sự thanh quý, cao siêu và thâm sâu hơn cả mới
thoát khỏi sự tàn phá của nó hơn hết. Ðối với Nnhà Hhuyền
Bbí
Hhọc,
chân lý đó trở thành một vấn đề kinh nghiệm và chắc chắn, do đó những sự biến
đổi xảy ra bên ngoài rốt cục không hề làm cho người bối rối.
Ðó là một sợi chỉ bạc tượng trưng
cho sự thanh khiết, liên kết Llinh
Hhồn
với Ðại Ngã cao siêu. Mỗi khi Llinh
Hhồn
giao tiếp với sự bất tịnh của Xxác Tthân,
Ttình
Ccảm
và Cái Trí, nó vẫy vùng để bứt sợi chỉ bạc đó ;
nó bị cám dỗ khiến cho quên mất Ttiếng
Nnói
Llinh
Ddiệu.
Bà Blavatsky thêm những chú thích
như sau :
Ðại Sư là danh từ mà các vị Đđệ
Ttử
Lanous hoặc (Chelas) dùng để
gọi “Cái Ta Cao Siêu” của chúng ta. Ðó là chữ đồng nghĩa với danh từ
Avalokiteshvara hay là danh từ Adi-Buddha của Phật Giáo Bbí
Ttruyền,
Atma, Cái Ta cao siêu của người Bà Lla Mmôn
và Christos của những người theo Cao Ðẳng Thần Học xưa.
Chữ “Hồn” dùng để chỉ Chơn Nhơn của
con người hay Manas, trong phép phân chia huyền bí theo số bảy của chúng ta gọi
là “Hồn Người” để phân biệt với Thần Hồn và Hồn Thú.
Ở đây Bà Blavatsky dùng chữ Chơn Sư
theo một ý nghĩa hơi khác thường so với nghĩa mà các Đđệ
Ttử
đã dùng. Sau nầy trong văn chương Thông Thiên Học, danh hiệu ấy được dùng cho
một số ít Nhân Vviên
tTrong
Quần Tiên Hội được quyền thu nhận Đđệ Ttử
trong hàng sơ tu còn sống dưới Tthế Ggian.
Như vậy các Chơn Sư rất ít. Hình như trên mỗi Ccung,
chỉ có một Vvị
Chơn Tiên đảm nhiệm vai trò nầy và mọi người tiến hóa theo Ccung
riêng của mình, đều phải qua sự dìu dắt của Ngài. Dưới Bbậc
Chơn Tiên không ai được quyền đảm trách sự liên hệ đầy đủ với một Đđệ
Ttử,
mặc dù những người được thu nhận lâu năm thường nhận trách nhiệm và đặc quyền
giúp đỡ lẫn chỉ giáo những người chí nguyện trẻ trung và đầy triển vọng. Những Đđệ
Ttử
kỳ cựu đó được học hỏi dần dần để thi hành công việc của họ trong tương lai,
khi đến lượt họ sẽ trở thành các Vvị
Chơn Tiên, họ tập gánh vác công việc hằng ngày để làm nhẹ bớt gánh nặng cho Sư
Phụ của họ, nhờ vậy các Ngài mới rảnh rang thực hiện những công việc cao siêu
mà không ai có thể đảm đương nổi. Thường thường trong sự lựa chọn sơ khởi, các vị Đđệ
Ttử
tương lai được giao phó cho những vị Mmôn Đđồ
kỳ cựu nầy và các vị thí sinh được tạm thời liên lạc trực tiếp với họ hơn là
các Vvị
Chơn Tiên cao cả. Nhưng sự hợiệp
nhất giữa Đđệ
Ttử
và Chơn Sư hết sức kỳ diệu mà ở đây hầu như có “một sự phân biệt nhưng không hề
dị biệt.”.
Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn
những thuật ngữ mà Bà Blavatsky dùng trong các chú thích của Bbà,
nếu chúng ta nghiên cứu chút ít về sự khác biệt của Bba
Nngôi
trong Vvũ
Ttrụ
và trong con người. Kinh nghiệm cá nhân chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng nó có
một nhị nguyên - trí khôn nhận thấy và đối tượng được thấy, người thấy và các
vật được thấy, chủ thể và đối tượng. Ðó là lối cố hữu để phân biệt hai phần
trong thế giới thực nghiệm : Ttinh
thần và vật chất, khi hiểu các chữ nầy theo một ý nghĩa chung hay tổng quát.
Tinh thần hay tâm thức và vật chất hợp thành một cặp tương đối nhau
: Ttinh
thần là một nguyên tắc hoạt động, vật chất là một nguyên tắc thụ động (hay tĩnh
chỉ) ; tinh thần có một trung tâm nhưng
không có một viên chu vi
; vật chất có một viên chu vi, nhưng
không có một trung tâm, tinh thần hoạt động do chính nó, vật chất hoạt động
được nhờ ảnh hưởng bên ngoài. Hai nguyên tắc đó cũng là biểu hiện của một sự
phân chia thực tại - thiêng liêng và phàm tục ;
cái được tự do và cái bị ràng buộc ;
cái tự chiếu sáng và cái chỉ phô bày một thứ ánh sáng phản chiếu.
Nếu nghiên cứu kỹ lưỡng hơn chúng ta sẽ thấy hai nguyên tắc đó hiện ra trước chúng ta và chúng không phải là các nguyên tắc số 1 và số 2, nhưng đúng là số 2 và số 3, vì bấy giờ chúng có một nhân chứng là số 1. Nguyên tắc thứ 2 là Ðức Thượng Ðế được thấy, còn nguyên tắc số 1 là Thượng Ðế hay Ðại Ngã thật sự, nguyên nhân của tất cả những sự liên hệ giữa những nguyên tắc số 2 và số 3.
Trong thuật ngữ Thiên Chúa Giáo,
Ðấng Christ là Ðức Thượng Ðế được thấy. “Không ai được thấy Thượng Ðế bao giờ.”
[10] . [10] Tuy
nhiên Ðấng Christ có nói : “Cha Ta và Ta, chúng ta là Một.”[11] [11].
Ðiều nầy đưa chúng ta đến với danh từ
Avalokiteshvara : Nnó
liên kết các chữ Aavalokita
(được thấy) và Ishvara ( Thượng Ðế, Ðấng Chúa Tể ) và như thế có nghĩa là Ðại Ngã
cao siêu trong nhị nguyên tinh thần - vật chất, chi phối khắp Vvũ
Ttrụ.
Thánh John nói : “Vì trong đó có Bba
Nngôi
mới chứng minh được” Ðức Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Thần.[12] [12]. Ngôi Lời, Ðức Thượng Ðế,
Avalokiteshvara, là Ngôi Hai, đó là Christos, Ðức Thượng Ðế thấy được
; đó chính là tinh thần phổ quát haytức
purusha tương phản với vật chất haytức prakriti.
Con người là một tâm thức chiêm niệm vật chất ;
và Thượng Ðế chúng ta vừa đề cập đến là con người vinh quang hay phổ quát là
chủ thể tối thượng. Bạn hãy phân tích chính bạn, bạn sẽ thấy sự phản chiếu
trong đó. Ðức Thượng Ðế nội tại đang ngụ trong bạn. Tuy nhiên Thượng Ðế thấy
được đó chỉ là nhân chứng của Thượng Ðế thật sự, và trong con người là nhân
chứng của Ðại Ngã, Ðại Ngã ấy kết hợp cả chủ thể lẫn và đối
tượng.
Ðại Ngã nầy không
phải là một chủ thể mới, mà là nhân chứng của một chủ thể và một đối tượng cũ,
bây giờ hợp lại thành một đối tượng mới và phức tạp. Ðó chính là “Ðại Ngã” và
người ta không thể nói gì hơn được nữa. Mọi người khi suy tư đều có thể nhìn
thấy thể xác của chính mình, vả lại, trong vài trường hợp, có thể thấy Thể Vía
và Thể Trí của mình và gọi chúng là “cái đó”; nói cách khác, y có thể xem chúng
như một đối tượng. Y cũng có thể quan niệm tâm thức ( hay
chủ thể ) ở người bên cạnh y và kết luận rằng
nó cũng đồng bản tính với tâm thức ( gồm
có ý chí, tình cảm và tư tưởng )
mà y nhận biết ở y trong lúc ấy. Nhưng trên một điểm khác, lúc bấy giờ sự lầm
lẫn của y thậtrất
lớn lao ; vì y gọi một căn nguyên duy nhất
bằng hai tên khác nhau, y gọi bằng “Anh” khi y thấy nó ở bên cạnh, và y gọi
bằng “Tôi” khi y chiêm niệm nó ở chính y ! Y
hãy coi tâm thức hay chủ thể ( toàn
diện ) ở chính y như y xem nó ở những kẻ
khác mà y gọi bằng “Anh”; y hãy xem Tâm thức đó một cách đơn giản như thành
phần của đại dương bao la của những cái “Anh” tạo thành Thượng Ðế, như những
giọt nước tạo thành biển cả ; rồi y có thể vươn lên khỏi tâm thức
và đạt đến cái “Ngã” thật sự, Tư Ngã hay Thượng Ðế vô hình.[13] [13] Tâm thức, cái “Anh” là thành
phần của Avalokiteshvara, Ðức Thượng Ðế có thể thấy được, Ðấng Christ, ánh sáng
rọi chiếu mọi người sinh ra dưới Tthế Ggian
cũng như các Tthể
là thành phần của đại dương vật chất trong Vvũ Ttrụ
; tuy nhiên không phải Ttâm Tthức,
cũng không phải các Tthể
tạo thành Ccái
Ngã. Không ai thấy được Ðức Thượng Ðế tối thượng bao giờ, kể cả Ðức Chúa Con.
Ba Ngôi ấy được khảo sát dưới nhiều
hình thức khác nhau :
Avalokiteshvara được định nghĩa theo
Swami T. Subba Raow như sau : “Parabrahman
trong bản chất của nó không thể được thấy đúng như chính nó dưới mắt Ðức Thượng
Ðế ; nó bị bao phủ bởi một tấm màn và
tấm màn nầy là khoảng rộng bao la bằng vật chất của Vvũ
Ttrụ.”.
Chỗ khác, Ngài lại định nghĩa :
“Parabrahman sau khi xuất hiện, một phần mặt là Chơn
Nhơn, và mặt phần khác thành là
Mulaprakriti, rồi hành động như năng lực duy nhất, nhờ trung gian
của Ðức Thượng Ðế .”. Sự
nguy hại của tất cả những sự mô tả như thế thật vô hạn ;
chỉ có một mình nó, chữ “cái đó” có thể làm hư hỏng tất cả. Phải tìm sự giải
thoát và chân lý ở chính mình chỉ có con người, trong bản thể của nó, mới có
thể giải đáp sự huyền diệu đó, thực ra nó giản dị biết bao, nhưng con người
không muốn nhìn thấy nó. Chúng ta phải tuyệt đối bác bỏ ngay cả việc gọi
Parabrahman bằng danh từ “Thượng Ðế “ vì nghĩ đến Thượng Ðế tức là nghĩ đến Ðức
Thượng Ðế hữu hình, nghĩa là nghĩ đến Ðức Avalokiteshvara; và tóm lại Ðức
Thượng Ðế đó là một cái “Anh,bạn”,
hoặc hơn nữa là toàn thể những cái “Anh.bạn”.
Khái niệm về một chủ
thể, một cái “Anhbạn”
bao gồm một giới
hạn trong thời gian. Vài người xưa chủ trương rằng thật ra không có gì có thể
chuyển động “vì đối tượng không thể chuyển động trong không gian mà nó choán
chỗ và chắc chắn cũng không phải trong không gian mà nó không ở trong đó.”.
Nhưng những chủ thể có thể chuyển động trong thời gian và những đối tượng có
thể chuyển động trong không gian, vì tất cả đều chuyển động trong lòng Parabrahman.
Nói cho đúng, thời gian và không gian, cả hai tùy thuộc vào chuyển động
[14].[14]
“Và cả ba thứ nầy đều là một.”[15] [15] . Mulaprakriti, cội rễ của sự
biểu hiện, vật chất căn bản, sự sống bên ngoài không khác với Parabrahman,
chính Ngài giống như tâm thức hạn định của chúng ta cho phép ta thấy Ngài.
Trong thời gian Parabrahman ở bên ngoài giới hạn ấy, do đó dường như Ngài bất
động ; cũng bởi thế mà bề ngoài của không
gian là đặc tính của Mulaprakriti ;
thật ra đó là một không gian mà nơi ấy chứa đựng tất cả những gì hiện hữu mãi
mãi trong ba chiều của thời gian là quá khứ, hiện tại và tương lai. Sau cùng,
tâm thức phổ quát ( Con người cao cả )
cũng gọi là Daiviprakriti (sự biểu hiện Tthiêng
Lliêng
) đối nghịch với Mulaprakriti ( sự
biểu hiện của vật chất ) là Avalokiteshvara, Ishvara hoặc là Ðấng
Chúa Tể có thể thấy được trái ngược với Parabrahman, là Nngôi
thứ Nnhứt
trong Tam Vvị,
mà chính Ðấng Ishvara cũng không thể chiêm ngưỡng một cách trực tiếp.
Vả lại trong Ttam
Tthể
của tâm thức con người, chúng ta có sự phản chiếu của Tam Vvị
cao cả ấy, do đó mà Bà Blavatsky nói rằng Ðại Ngã cao siêu tương đương với
Avalokiteshvara, và theo Bbà
chữ đó có nghĩa là tình thương thuộc về trực giác. Tất cả những sự hỗn độn
trong sự suy tưởng giữa thực tại phổ quát và Atma, Buddhi và Manas - ba hình
thái của tâm thức con người - sẽ tạo ra một sự sai lầm nghiêm trọng; tuy nhiên
có một sự tương tự giữa hai bên. Tam Vvị
cao cả phản chiếu trong con người bằng nhiều cách ;
ba trạng thái ấy của tâm thức là một trong những cách thế đó. Cũng thế, Atma,
Buddhi và Manas trong phạm vi giới hạn của chúng, là sự phản chiếu những đặc
tính của Tam Vvị
phổ quát. Atma là ý thức của Chơn Ngã và cũng là ý chí tự điều khiển lấy mình.
Ở nơi khác, Mmanas
là ý thức về thế giới ; năng lực tinh thần của nó tạo ra sự
lao tác, kể cả việc làm bằng tay chân. Nhưng giữa hai trạng thái đó, Buddhi là
tinh hoa của Tâm Thức, của chủ thể tính. Như thế Tam Vvị
cao cả được sinh ra trong tâm thức của Chơn Nhơn.
Ngoài bộ phận thành phần trung
bình nầy, với đặc tính của Ttam Tthể,
Chơn Thần ngụ trong con người; Ngài tiêu biểu cho Parabrah-
man trong y, trạng thái của Niết Bàn thật sự và tuyệt đối, cao hơn
Tâm Thức. Atma là trạng thái Niết Bàn giả tạo và tương đối của nó, trạng thái
của Ccõi
Niết Bàn, ảo ảnh cuối cùng còn lưu lại giữa cuộc Ðiểm Ðạo lần thứ Ttư
và lần thứ Nnăm.
Vì Chơn Thần ngự
cao hơn Tam Vvị
của Tâm Thức, do đó các Tthể
của con người đều ở bên ngoài và ở dưới Ngài ;
chúng ta chỉ hiểu biết sự phản ảnh của chúng do nơi Cái Trí (Mmanas)
. Trong nửa phần đầu của con Ðường Ðạo ( từ
cuộc Ðiểm Ðạo lần thứ Nnhứt
đến lần thứ Ttư
) con người chuyên lo cởổi
bỏ những giới hạn ấy của Pphàm
Nnhơn,
của ảo ảnh về “cái đó”; ;
trong nửa phần thứ hai, y giải thoát khỏi ảo tưởng của cái “bạnAnh.”.
Chúng ta còn lại vài điểm khác phải
xem xét trong những chú thích của Bà Blavatsky. Ðấng mà Bbà
gọi là Phật A Di Ðà và Atma đã gợi cho chúng ta vài nhận định
; dù là trái lại tất
cả những gì đã được đề cập ở trước đã làm sáng
tỏ điều Đấng mà Bbà
nói về Christos của những người theo Tthuyết
Ngộ Ðạo Trực Quan (
Gnostics ) .
“Atma của người Bà Lla
Mmôn”
theo ý nghĩa của người Phật Ttử
còn hơn điều mà người Bà Lla Mmôn
hiểu về danh từ đó (và có thể những gì mà người Bà Lla
Mmôn
nghĩ một cách thực tế đã thoát khỏi tinh thần Ttriết
Llý
chơn chánh của họ ) ;
Ðức Phật tuyên bố rằng Atma trong con người chính là Tthần
Hhồn
không trường tồn một cách tuyệt đối. Thật thế, ngay cả Ðấng Christ (
Ðại Ngã) cao siêu trong con người )
sau cùng cũng phải bị hủy diệt. Dù Ngài đẹp rực rỡ và mắt Pphàm
hoàn toàn không thể thấy, nhưng sau rốt Ngài cũng phải hy sinh sự sống của mình
để hiệp nhất với Ðức Chúa Cha. Chính cái “bạnAnh” trong
những người đạo hạnh muốn tự chuyển hóa thành “Chơn Ngã.”.
Cũng như ở vào một thời kỳ thật xa xưa của cuộc tiến hóa, Pphàm
Nnhơn
vô minh hay “cái đó” ước muốn trở thành “Chơn Ngã.”.
Nhưng khi nói rằng sự tin tưởng của những người Bà Lla
Mmôn
về Atma sai lầm, người Phật Ttử
chính thống đã không nắm được tất cả chiều sâu của tư tưởng Bà Lla
Mmôn,
đặc biệt là về
giáo lý của Ðức Shankaracharya, mà thật sự học thuyết về Aanatma
phù hợp với giáo lý của Ðức Phật, vì theo chữ Aatma,
Ngài hiểu là Chơn Thần, là trạng thái Parabrahman không thể diễn tả được củaở
con người. Vì thấy người ta gọi cái “Anhbạn”
là Linh Hồn ( Chơn Ngã ),
Ðức Phật đánh đổ sự ngộ nhận đó khi Ngài tuyên bố rằng cái mà
người ta gọi là “Chơân
Ngã” đều có thể bị tiêu diệt.
Trong phần chú thích nói rằng Ðức
Avalokiteshvara cũng chính là Ðức Phật A Di Ðà,. Bà
đã khai triển dài dòng về vấn đề nầy trong bộ “Giáo Lý Bí Truyền” như sau
:
“Trong Phật Ggiáo
Bbí
Ttruyền,
và kể cả Công Ttruyền
ở Bắc Pphương,
Ðức Phật A Di Ðà, … . Ðấng
Ðộc Nhất Vô Nhị, Ðấng Bất Khả Tư Nghị, vô thủy vô chung như Ðấng
Parabrahman, phát ra một luồng ánh sáng từ những Ccõi
tối tăm của Ngài. Ánh sáng đó chính là Ðức Thượng Ðế ( Tthe
Logos ), Ngôi Thứ Nnhứt
hay là Vajradhara, Ðức Phật Tối Thượng, cũng được gọi là Dorjechang. Vì Ngài là
Chúa Ttể
của mọi lẽ Huyền Ddiệu,
Ngài không thể tự biểu hiện, nhưng Ngài phóng vào thế giới đang biểu hiện Trái
Tim Ngài -– “Quả Tim bằng Kim Cương,”,
“Vajrasattva hay là Dorjesempa. Ðó là
Ðức Sáng Tạo Ngôi Hai.”[16] [16].
Trong đoạn nầy, Bbà
trình bày rõ ràng rằng Ðức Thượng Ðế Ngôi Thứ Nhứt và Ngôi Thứ Nhì theo thứ tự làcủa
Ðức Phật A Di Ðà và Ðức Avalokiteshvara - giống như Ðức Vajrasattva. Như vậy
khi Bbà
nói đến sự đồng nhất của hai Ngài, điều nầy chỉ có thể theo ý nghĩa của thuật
ngữ Thiên Chúa Ggiáo
: “Ðấng Christ ( Ðức
Chúa Con ) là một với Ðức Chúa Cha.”.
Ðây là điều tôi viết về vấn đề nầy trong bộ “Huyền Bí Học Ttrong
Thiên Nhiên”
:
“Ý nghĩa chính xác của các danh từ Adi-Buddha
(Phật A Di
Ðà ) và Avalokiteshvara đã gây ra nhiều
cuộc tranh luận. Tôi không có nghiên cứu một cách đặc biệt các vấn đề nầy theo
quan điểm Ttriết
Hhọc,
nhưng những cuộc đàm luận của tôi với các Nnhà
lãnh đạo Tôn Ggiáo
hiện thời đã giúp tôi hiểu vấn đề ấy, Adi-Buddha (Phật A Di Ðà
) dường như là từ ngữ tối cao chỉ một trong các hệ thống vĩ đại
của sự phát triển siêu nhân loại - điều nầy có thể gọi là nguyên lý trừu tượng
của tất cả Chư Phật. Avalokiteshvara là một danh từ của Phật Ggiáo
Bắc Ttông
và dường như có nghĩa là cách thức hiểu Ðức Thượng Ðế của các Phật tử. Các học
giả Âu Châu dịch danh từ nầy như sau : “Ðấng
Chúa Tể nhìn xuống Tthế Ggian”
( Ðức Quán Thế Âm )
nhưng sự phiên dịch nầy hình như bao hàm một sự thiếu xác đáng, vì hiển nhiên
là Ðức Thượng Ðế luôn luôn biểu hiện, hoặc Ðức Thái Dương Thượng Ðế, hoặc Ðức
Thượng Ðế cao hơn nữa, nhưng luôn luôn phải biểu hiện. Chúng ta nhớ rằng các
những
Nnhà
sáng lập các Ttôn
Ggiáo
lớn đã thấy và biết đúng những các danh
hiệu mà các Ngài nêu lên; thường thường những tín đồ của các Ngài không thấy
; họ chỉ có các danh hiệu và họ dùng chúng như những biểu tượng
tinh thần ; do đó mới xảy ra nhiều sự lệch lạc
và mâu thuẫẩn
nhau.”[tle2][17] [17] .
Như chúng ta đã thấy, Bà Blavatsky
hiểu Chơn Ngã ( Higher Self )
là Bbồ
Đđề
Ttâm
trong con người, là thành phần chính trong Ttam Vvị
thuộc tâm thức trường cửu của con người. Ðó là sự Mminh
Ttriết
trong con người, nhưng nó chỉ là phản ảnh của một sự minh triết phổ quát, nếu
không có sự minh triết phổ quát ấy sẽ không có sự minh triết trong mỗi người.
Cũng thế, không có Dhyani- Buddha (Thiền Ðịnh Phật),
Avalokiteshvara, “Trung Tâm Năng Lực” của sự Mminh
Ttrhiết
Ttối
Tthượng
hay Adi-Buddha, thì không bao giờ có một người nào đắc Qquả
Vị Phật.
Vậy sự thành Ðạo của Ðức Cồ Ðàm chủ yếu không phải là việc nâng cao một người
lên hàng Thần Thánh, nhưng mà hiệpợp nhất tâm
thức một người đã trở nên trọn lành với trí huệ của Thượng Ðế.
Lời chú thích thứ nhì được xét đến ở
đây chẳng những nói về Cái Trí (Mmanas
) như là Linh Hồn con người, mà còn đề cập đến Hhồn
Tthú
trong con người. Hồn Tthú
đó là Mmanas
thấp hay Kkama-Mmanas
; tại Ccõi
của nó có những Hhồn Kkhóm
của thú vật, còn Hhồn Kkhóm
của loài thảo mộc ở Ccõi
dưới, và Hhồn
Kkhóm
của loài kim thạch còn ở dưới thấp hơn nữa. Từ đầu đến cuối quyển sách của Bà
Blavatsky, không có ngoại lệ, Bbà
đều giữ nguyên nghĩa đó đối với các danh từ “Linh Hồn,”,
“Chơn Ngã”, v.v…ân
vân.
Khi Linh Hồn con bắt đầu nẩy nở để
tai nghe tiếng huyên náo của Tthế Ggian
; khi con đáp lại tiếng gầm thét của cảnh đại ảo mộng, khi Linh Hhồn
con kinh hãi trước những giọt lệ nóng bỏng vàì
đau khổ, điếc tai bởi tiếng kêu trước những cảnh khốn cùng mà chui rút lại như
con rùa nhút nhát trong cái mai ích kỷ ;
thì con hãy biết, hỡi Đđệ Ttử,
Hồn con là một Tthánh
Đđiện
không xứng đáng cho Ðức Thượng Ðế im lặng của con.
Khi trở nên dũng mãnh hơn, Hồn con
thoát ra ngoài chốn ẩn thân an toàn của nó và khi đã cởổi
bỏ được lớp vỏ bảo vệ nó, Hồn con tháo phăng sợi chỉ bạc và bay nhảy tự do, khi
Hồn con nhìn thấy hình ảnh của nó trên những lượn sóng của không gian, nó thì thầm:
“Ðây chính Ta,”,
thì hỡi Đđệ
Ttử,
con hãy thú nhận là Hồn con đã bị mắc vào trong màng
lưới lầm lạc.
C.W.L.- Trong
phần đầu đoạn nầy, thành ngữ “Linh Hồn bắt đầu nẩy nở” đã gợi lên ý niệm của sự
tiến hóa, ý niệm mà trải qua nhiều thế kỷ chưa xuất hiện ở Châu Âu; người ta
giả định rằng thế giới và tất cả những sinh vật sống trên đó đều được đồng loạt
tạo ra, mà không ngờ rằng dù những hình thái phức tạp nhấứt
cũng đều phát sinh từ sự tiến hóa, và theo dòng tiến hoá đó, những
hình thái thấp kém tiến dần đến chỗ hoàn toàn. Khoảng 150 một
trăm năm mươi năm nay đã phát sinh ý niệm cho
rằng những hình thái vật chất của những sinh vật đều bị lệ thuộc vào sự tiến
hóa, một sự phát triển được quy định, mà kẻ nầy thì do sự thúc đẩy của đời sống
nội tâm thâm sâu, kẻ khác thì do luật đào thải tự nhiên của hoàn cảnh.
Tuy nhiên từ lâu đã có một lý thuyết
về sự tiến hóa của Linh Hồn, giáo lý luôn luôn chiếm một chỗ đứng thật quan
trọng trong các truyền thống Ấn Ðộ và Phật Ggiáo.
Người Thông Thiên Hhọc
đã truyền bá nó khắp nơi ở Âu Châu cùng với học thuyết về Lluân
Hhồi trong vòng 50 năm nay..
Luật Lluân
Hhồi
được trình bày như một lý thuyết hợp lý và có tính cách đạo đức nhất định về
định mệnh con người, từ khi nó được thiết định lập trên
nền tảng Kkhoa
Hhọc
cũng như Ttôn
Ggiáo
cho rằng Linh Hồn con người bất tử. Linh Hồn luân hồi nhiều lần để thu hoạch
kinh nghiệm, do đó, sau cùng mỗiột
người chẳng những trở nên thiên tài trong địa hạt nầy hay địa hạt khác về trí
thức hoặc về lãnh vực hoạt động của nhân loại, mà còn trở nên một người hoàn
toàn, sẵn sàng thọ lãnh tâm thức thiêng liêng một cách hoàn mãn.
Sự tiến hóa của con người diễn tiến
qua hai giai đoạn : Ggiai
đoạn thứ nhứt là Ppravritti
Mmarga
hay Ccon
Đđường
Rra
Đđi
; giai đoạn thứ nhì là Nnivritti
Mmarga
hay là Ccon
Đđường
Ttrở
Vvề.
Trong giai đoạn thứ nhứt sự phát triển xảy ra ở Pphàm
Nnhơn
; trong giai đoạn nầy Pphàm
Nnhơn
tích lũy rất nhiều Nghiệp Qquả,
Linh Hồn cũng không ngừng tìm cách thỏa mãn vô số dục vọng của nó ở thế giới
bên ngoài ; trong giai đoạn thứ hai, Linh Hồn
dần dần chuyển hướng đối với thế giới bên ngoài, và quay về với Tthiêng
Lliêng
là cội nguồn và mục đích của nó, nó theo đuổi những sự tiến bộ để hoàn thành
thời kỳ tiến hóa của nhân loại.
Giai đoạn thứ hai nầy, tức con đường
trở về được chia thành : Con Ðường Nhập Môn và Con Ðường
Ðiểm Ðạo, được mô tả đầy đủ trong quyển “Con Ðường của Người Ðệ Tử và Trước Thềm
Thánh Ðạo,”
sau cùng ở trong quyển “Chơn Sư và Thánh Ðạo.” Con đường
nầy bao gồm một sự tiến hóa có tính cách tự nguyện, trong đó người thí sinh
chuyên tâm thu hoạch có phương pháp những đức tính đạo đức cao
thượng. Sự tiến hóa của những sinh vật thấp kém, cũng như sự tiến hóa của con
người còn trên Đđường
Rra
Đđi
đều không có tính cách Ttự Nnguyện
; họ tìm kiếm, họ chịu đựng sự kinh nghiệm và sự tự học hỏi mà
không hiểu rõ điều gì xảy ra cho họ.
Trong một chú thích liên hệ đến chữ “ảo
mộng,”,
Bà Blavatsky gọi nó là Maha - Maya,
đại ảo mộng, vũ trụ khách quan. Chúng ta đã khảo sát ý nghĩa của danh từ “ảo
mộng” trong khi áp dụng cho thế giới bên ngoài. Chúng ta không nên
lầm lẫn ý niệm nầy với ý niệm mà bản văn gọi là “màng
lưới lầm lạc” và theo một chú thích khác, được áp dụng cho “Sakkayaditthi, sự
lầm lạc của Pphàm
Nnhơn.”.
Khi Ðức Phật của chúng ta mặc khải
cho nhân loại biết Bát Chánh Ðạo là con đường đưa đến giải thoát, là phương
tiện thực hành để diệt trừ phiền não, Ngài còn nói với chúng ta về 10 mười
chướng ngại mà thí sinh phải loại trừ từ cái nầy đến cái khác.
Chướng ngại thứ nhứt là Sakkayaditthi, sự lầm lạc của Pphàm
Nnhơn.
Sự lầm lạc ấy phát xuất từ đâu ?
Một đứa trẻ sinh ra ; nó phải chịu ảnh hưởng của Nghiệp Qquả
- đó là kết quả của những hành vi của nó trong những kiếp quá khứ
; nó có một xác thân được cấu tạo theo một cách nào đó và nhiều sự
việc sẽ xảy đến cho nó. Theo thời gian trôi qua, nó biết rõ dư luận của kẻ khác
đối vớơi
nó và khám phá ra nó có làm được, hoặc không làm được điều gì
; như thế nó nhận thấy như đứng trước một gương soi - một trong
các gương ấy bị biến dạng, đôi khi được trưng bày trong những cuộc triển lãm,
để giúp vui cho những người thấy hình dạng của họ bị dồn cục lại hoặc kéo dài
ra một cách kỳ quái ; do đó nó tự tạo ra một ý niệm về
chính nó : Nnó
thông minh hay đần độn, đẹp đẽ hay xấu xí, yếu đuối hay cường tráng; nó tự giáo
dục như thế ; rồi nó hoạch đắc được một đẳng cấp,
một địa vị xã hội, một tính tình, nó tập được thói quen về thể chất và tinh
thần của một y sĩ, một nhà doanh nghiệp, một bà mẹ trong gia đình - hoặc bất cứ
cái gì có thể làm được (whatever it may be ) -
và như thế nó tự
tạo cho mình một Pphàm
Nnhơn
nhất định ; khi nghĩ rằng mình là Pphàm
Nnhơn
đó, nó hoạch đắc được cái mà người ta gọi là “Pphàm
Nnhơn
của Bbản
Nngã”
- đúng
như chính ảo mộng ám ảnh những người khốn khổ trong các Ddưỡng
Ttrí
Vviện,
họ tưởng tượng mình là bình trà, cái ống nghe, cực Bbắc,
Nữ Hoàng Elizabeths và Napoléeons.
Một loạt xác thân được sinh ra liên
tiếp với một Pphàm
Nngã
được huấn luyện có kỷ luật, có thói quen tốt dĩ nhiên đem lại nhiều lợi lạc
cũng giống như một cái hộpc
đựng dụng cụ tốt hay một chiếc xe ô tô hoàn hảo. Chúng ta không thích Pphàm
Nnhơn
bạc nhược và thiếu đức hạnh. Tuy nhiên dù Pphàm
Nnhơn
của chúng ta có toàn hảo đến đâu, cũng không nên xem nó là chính chúng ta
; trái lại, chúng ta phải vừa sử dụng nó như dụng cụ, vừa vận dụng
tất cả sức mạnh hãn hữu của ý chí, của tình thương và
của tư tưởng để bắt nó phục vụ đời sống tinh thần của chúng ta tại Ccõi
trần. Phàm Nnhơn
không nên nghĩ việc sống trường tồn hoặc tìm cách lẩẫn
tránh những sự tàn phá do vật chất hoặc do sự hao mòn và thời gian gây nên.
Có lần Một ngày kia, một người trung niên nói với
người con y
muốn tình nguyện làm công việc thế cho cha mấy lời sau đây
: “Không, không con ạ. Bao giờ cũng phải dùng những người già
trước đã.”.
Phàm Nnhơn
phải chịu sử dụng và thích nghi với mục đích Ttinh
Tthần
từng lúc cho đến khi bị tiêu mòn, nó phải bằng lòng với phần thưởng duy nhất lmà
sau khi bỏ xác phàm sẽ được sống trên Ccõi
Thiên Ðàường
lâu dài và đầy
vinh quang, đó là những gì đã dành cho những ai phụng sự Chơn Ngã thiêng liêng
; những vị nầy từ chối phần thưởng đó và tái sinh một cách nhanh
chóng để làm việc cho nhân loại.
Hỡi Đđệ
Ttử,
Ttrần
Ggian
nầy là phòng đau khổ; nơi đây dài theo con đường thử thách
gian lao ở đây
rải rác biết bao cạm bẫẩy
để nhốt Chơn Nhơn của con vào trong vòng ảo ảnh gọi là “đại mê tín.”.
Cõi Pphàm
Ttrần
là một trường đau khổ : Đđó
là một ý niệm rất phổ biến đối với Phật Ttử
và tín đồ Ấn Ðộ Ggiáo.
Một sự việc trái với sở thích tự nhiên thường làm cho con người biến thể và suy
nhược, như sự áp bức, bệnh tật, đồi trụy, lo âu; đó là số phận của một phần lớn
nhân loại. Những kẻ mà định mệnh đã dành cho họ một sự sung túc, có thể nói
rằng họ chấp nhận điều ấy một cách rất sung sướng, nhưng theo một thành ngữ của
Patanjali thì : “Ðối với người sáng suốt, mọi sự
đều là đau
khổ.
”. Biết bao sự việc không có gì khó
chịu đối với những người tương đối kém tiến hóa - chẳng hạn mùi rượu, thịt hay
củ hành, còi nhà máy hay nhạc kích động, những cử chỉ khiếm nhã, y phục và nhà
cửa xấu xí và cả ngàn sự việc khác gây phiền lụy cho những người nhạy cảm hơn.
Chúng ta còn phải kể tiếp thêm sự lo lắng để bảo đảm nhu
cầu của mình, sự lo sợ đã mất món tiền đã kiếm được, sự đau khổ vì
những người khác ở chung quanh, nếu không phải là
do chính mình. Phải thật là những người điên mới ưa thích những chuỗi
xiềng xích như vậy. Phải, Tthế Ggian
đúng là một chốn lưu đày đau khổ ;
bạn hãy nghĩ xem điều đó có thể đem đến hạnh phúc ít ỏi biết bao, theo
quan điểm của những người biết được các Ccõi
cao.
Nhưng trước hết chính con người chịu
trách nhiệm về điều đó. Bạn hãy nghĩ đến đại dương mênh mông của sự sống tràn
đầy trong Tthiên
Nnhiên
các loài khoáng vật, thực vật và động vật ; ở
đâu cũng rung động vì hạnh phúc. Một Tthi Ssĩ
đã quan niệm hình ảnh bi thảm như sau : “Thiên
Nnhiên
với hàm răng, bộ móng đẵẫm
máu,”,
chính nó cũng làm cho chúng ta tê tái, nếu chúng ta biết rõ rằng loài thú “không
bao giờ tính trước nghĩ sau“ như con người đã làm vì bị xâu xé bởi những dục
vọng và lo sợ đau lao khổ, và trong những cuộc chiến đấu của
chúng, khi cảnh huyết lưu và thương vong khiến cho kẻ chứng kiến phiền
sầu
não, thì thú tính của chúng được kích thích đến cực độ và chúng thường
thụ hưởng một sự khoái lạc tột cùng. Nếu Tthế Ggian
là một trường đau khổ, cũng chỉ do con người, vì sự tham lam và sân hận, hậu
quả của một sự tưởng tượng mãnh liệt đã nuôi dưỡng những nhiệt vọng của họ, rồi
truyền đến cho đời sống cá nhân cũng như xã hội món độc dược vô cùng kinh tởm.
Tuy nhiên, sự chiến thắng lòng ích
kỷ đủ sức hủy diệt tất cả những sự kinh tởm đó và muốn hiến dâng trọn vẹn cho
nhân loại những sự hoan lạc dưới Tthế Ggian
nầy, chúng ta phải tạo nên sự cảm xúc và sự hòa bình sâu xa trường cửu về sự mỹ
lệ, khám pháphát minh,
công cuộc sáng tạo hạnh phúc xã hội và vật chất.
Chú thích của Bà Blavatsky đề cập
tiếp :
Attavada, tà thuyết tin vào Linh Hồn hay đúng hơn là tin có sự chia rẽ giữa Linh Hồn hay Tiểu Ngã với Ðại Ngã duy nhất, phổ quát vô cùng.
Atta là chữ Pali, tương đương với
chữ Sanskrit là Atma, và Vvada
có nghĩa là học thuyết. Lý thuyết về Atma mà chúng ta đã nghiên cứu là nguyên
nhân lớn lao của những cuộc xung đột giữa người Ấn Ggiáo
và Phật Ggiáo,
nhưng thật ra chỉ có sự dị biệt hoàn toàn trên phương diện ngôn từ thôi, vì khi
nói rằng cái Ngã hay Atma trong con người là một Ðại Ngã phổ quát, người Ấn Ðộ
hiểu chữ nầy không giống như người đời thường hiểu khi họ nghĩ hoặc nói về
chính họ, nhưng là cái gì thâm sâu hơn vô cùng; mà chỉ có những người Yogi tiến
bộ mới có thể quan niệm nổi. Vài đoạn trong Kinh Shri Vakya Sudha báo cho người
chí nguyện biết trước khi lặập
lại công thức trọng đại về Đđạo Ggiáo
“Tôi là Ccái
Đđó, “,
thì phải hiểu thật rõ nghĩa chữ “Tôi” là gì. Theo lời những giải
thích trong bản văn nầy thì chúng ta phải xem cá nhân riêng rẽ đó như là Ttam
Tthể
(Bbộ
Bba
). Công thức “Ngươời
là Ccái
Ấấy”
và những câu khác công bố sự hiệp nhất độc đáo giữa chúng ta với Phạm Thiên (
Brahman ) cao hơn ba nguyên lý đó. Như chúng
ta đã nói ở trên, Pphàm
Nnhơn
không phải là “Cái Ngã,”, và
ngay cả “Ccái bạnAnh” trong
tôi cũng không phải là “Cái Ngã,”,
nhưng “Cái Ngã” không thể phân biệt được với Ðại Ngã phổ quát trong đó cái nhất
đa
thể và Ðấng Duy Nhất là một. Giáo lý của Ðức Phật chúng ta phủ nhận sự
trường tồn của “Ccái
bạn Anh” mà nhiều người gọi là “Cái Ngã.”.
Rất tiếc là hai Ttôn
Ggiáo
lớn như Ấn Ðộ Ggiáo
và Phật Ggiáo
lại chia rẽ nhau, nhất là vì một sự hiểu lầm nhỏ nhặt và đồng thời sự ngộ nhận
nầy làm cho sự truyền bá Ggiáo
Llý
Thông Thiên Học trong giới Phật Ttử
bị trì trệ quá nhiều. Bây giờ chúng ta đã có một nền văn chương Thông Thiên Học
phong phú mà trong đó chúng ta không ngớt gặp những chữ “Aatma”
và “Chơn Ngã”; điều nầy làm cho nhiều Phật Ttử
xa cách chúng ta, vì họ không chịu khó dẹp bỏ chướng ngại về ngôn từ mà chúng
ta đã vô ý dựng lên trên con đường của họ.
Trần Ggian
nầy, hỡi Đđệ
Ttử
còn vô minh, chỉ là cái cái cửaổng tối tăm
dẫn đến cảnh lờ mờ trước khi đến thung lũng đầy ánh sáng thật, thứ ánh sáng
không có gió
nào có thể thổi tắt, thứ ánh sáng cháy không cần có dầu, có tim.
Trong châm ngôn nầy và những câu
khác tiếp theo, chúng ta có những tên đầy thi vị về các Ccõi
trong Tthiên
Nnhiên.
Một lần nữa, những Nnhà Hhuyền
Bbí
Hhọc
Ðông Pphương
thường kết hợp Ccõi
Trung Giới và Ccõi
Hạ Thiên và Bà Blavatsky cũng thường làm như thế trong những bài giáo huấn của Bbà.
Chúng ta thấy một thí dụ của sự kết hợp ấy trong hình ảnh : “Cảnh
lờ mờ trước khi đi vào thung lũng đầy ánh sáng thật.”.
Vậy sự mô tả “thung lũng đầy ánh sáng thật” dĩ nhiên là Ccảnh
Ggiới
của Linh Hồn và Ðại Ngã Cao Siêu, những Ccõi
của Bồ Ðề và Thượng Trí ngụ.
Nếu chúng ta phân chia các Ccõi
bằng một đường phân cách Hạ Trí và Thượng Trí, chúng ta sẽ nhận thấy có một sự
dị biệt căn bản giữa
các Ccõi
dưới và các Ccõi
trên. Trong các Ccõi
dưới, Vvật
Cchất
làm bá chủ ; người ta nhận thấy ra điều ấy
tức khắc ; tâm thức bủa ra để đi xuyên qua các
hình thể một cách khó khăn. Trái lại, trên các Ccõi
cao Ssự
Ssống
chiếm ưu thế, và các hình thể chỉ hiện diện để phục vụ nó. Tại các Ccõi
thấp, muốn cho sự sống biểu hiện trong các hình thể thật khó khăn
; trên các Ccõi
cao, trái hẳn lại, duy trì luồng sinh lực và quy định hình thể cho nó mới thật
khó. Ở phía trên đường giới tuyến, và chỉ ở đó, ánh sáng của tâm thức không
chịu sự tác động của một luồng gió nào và chiếu tỏa ánh sáng riêng của chính
nó. Biểu tượng về ngọn lửa tinh thần áp dụng cho tâm thức trên các Ccõi
cao đó rất thích
đáng, trái lại đối với các Ccõi
thấp hơn, nơi đây rất thích hợp cho biểu tượng về ngọn lửa đang thiêu đốt nhiên
liệu.
Ðại Luật có nói : “Trước
khi biết được Ðại Ngã, con phải biết Chơn Ngã của con.”.
Muốn biết được Chơn Ngã của con, thì phải lìa bỏ tư ngã như không có nó, lìa bỏ
con người của con như không có con.”.
Trong một chú thích, Bà Blavatsky có
nêu lên một sự phân biệt giữa Atmajnani được đề cập ở đây và Tattvajnani. Trong
văn học Ấn Ðộ sự phân biệt nói chung không đáng kể và thường ít ai biết, nhưng Ttác
Ggiả
giải thích thêm : “Tattvajnani là người hiểu biết tức
hay
phân biệt được những nguyên lý trong Tthiên
Nnhiên
hay trong con người ; còn Atmajnani là người biết được
Atma hay Ðại Ngã phổ quát, duy nhất.t”.
Giáo Llý
Thông Thiên Học bao giờ cũng dạ¡y
rằng, muốn tiến bộ phải thực hành câu châm ngôn cổ Hy Lạp “Ngươi hãy tự biết
mình.”.
Do đó, đại đa số những tác phẩm Thông Thiên Học hiện đại của chúng ta đều đề
cập đến sự tạo lập, lịch sử và số phận mệnh con
người. Chính sự nghiên cứu những nguyên tắc khác nhau và thể xác con người dần
dần giúp chúng ta phân biệt được nó là gì và bằng tư tưởng, phân
tách Ccon
Nngười
với các Tthể
của nó sử dụng, bằng tư tưởng, cho đến sau cùng chúng ta đi
đến Chơn Ngã thật sự. Rồi nhờ Chơn Ngã ấy biểu hiện trong chúng ta, chúng ta
đạt đến chỗ hiểu được Ðại Ngã phổ quát ; và
do đó, cả hai chỉ là một.
Muốn biết được Chơn Ngã thật sự
trong chính chúng ta, chúng ta phải dẹp Pphàm
Nngã
qua một bên và phải xem nó chẳng ra gì. Như chúng ta đã thấy, sự hủy diệt tận
gốc “Pphàm
Nnhơn
của Ttiểu
Nngã“
là công việc đầu tiên đặt ra cho người được chánh thức thừa nhận vào Thánh Ðạo, vì
Sakkayaditthi, ảo mộng của Ttiểu
Nngã,
tạo thành chướng ngại thứ nhứt cần phải hủy bỏ.
Bây giờ con mới có thể yên nghỉ trên
đôi cánh của con Ðại Ðiểu. Thật thế, êm đềm thay khi được yên nghỉ trên đôi cánh của cái
bất sanh, bất diệt, chỉ là Aum trải qua sự vĩnh cửu của các thời đại.
Về vấn đề con Ðại Ðiểu, nó đã chiếm
một chỗ rất quan trọng trong Kkhoa
Bbiểu
Ttượng
Ttôn
Ggiáo
Ðông Pphương,
nên Bà Blavatsky đã thêm vào chú thích sau đây :
Kala Hamsa, con chim hay là con hạc. Nó được đề cập đến trong Kinh Nadavindupanishat (Rig Veda) do
Hội Thông Thiên Học ở Kumbakonam dịch ra như sau :
“Vần A được xem như cánh phải của con chim ; U
như cánh trái, vần M như cái đuôi, và Ardhamatra ( nửa
thước ) như cái đầu”.
Chữ Aum thường đọc là Om
; trước khi làm mọi việc thiện hay phát sinh một tư tưởng lành, vì
nó chính là một công thức của quyền năng, biểu tượng của sự sáng tạo thiêng
liêng. Vô số tác phẩm bằng chữ Bắc Phạn đều đồng ý và xác nhận rằng thính giác,
xúc giác, thị giác, vị giác và khứu giác đều tương hợp với những loại vật chất
gọi là Aakasha
( chất Ddĩ
Tthái
hay bầu trời ), Vvayu
( không khí )
, Ttejas
hay Aagni
( lửa ), Aapas
hay Jjala
(nước ) và Pprithivi
( đất ),
nghĩa là tương ứng vớơi 5 năm
Ccõi
rất quen thuộc với sự biểu hiện trong con người : Ccõi
Niết Bàn, Bồ Ðề, Thượng Giới, Trung Giới và Hồng Trần, tất cả đều được sáng tạo
theo thứ tự đó, bắt đầu bằng Ccõi
Niết Bàn khi âm thanh được dùng như năng lực sáng tạo. Dĩ nhiên âm thanh nầy
không hề giống với âm thanh Pphàm
Ttrần
, nó là một thứ dao động trong không khí hay trong một chất
nào đó dưới Tthế
Ggian
; nó đồng bản tính với tiếng nói vô thinh hay ý chí của Ttinh
Tthần
( Aatma
). Tuy nhiên, dù trên Ccõi Ttrần
của chúng ta, âm thanh là một đại kiến tạo các hình tướng, nó đã tạo ra những
thí nghiệm của Chaldni hay những thí nghiệm đồng loại khác, như mọi sinh viên Kkhoa
Hhọc
sơ đẳng đều biết. Người ta thấy trong những bản Kinh Ấn Ðộ nhiều biểu tượng
trình bày ý tưởng thế giới được sáng tạo bằng âm thanh đó.
Người ta nói rằng chữ Aum có một giá
trị đặc biệt như Tthần
Cchú
vì nó chính là chữ hoàn hảo hơn hết nhất của
nhân loại. Nó bắt đầu bằng nguyên âm A và được đọc trong cổ họng, kế đó là
nguyên âm U đọc ở giữa miệng và chấm dứt bằng phụ âm M đọc bằng cách khép đôi
môi lại ; như thế nó gồm tất cả âm giai của
ngôn ngữ nhân loại và thể hiện được từ ngữ tiếng sáng
tạo trọn vẹn trong con người. Ba phần âm tiết của nó cũng tượng trưng cho sự
biểu hiện của Tam Vvị (
the Trinity ) và người ta có thể viết thành một
quyển sách về điều nầy theo không biết bao nhiêu phương thức; chẳng hạn
: Parabrahman, Daiviprakriti và Mulaprakriti ;
Shiva, Vishnu và Brahma ; ý chí, minh triết và hoạt động
; Aananda,
Cchit
và Ssat,
hoặc hạnh phúc, tâm thức và hữu thể ; Aatma,
Bbuddhi
và Mmanas
; Ttamas,
Rrajas
và Ssattva
; và nhiều hơn nữa. Như thế chữ Aum luôn luôn nhắc đến Ttam
Tthể
tính hiện hữu trong mọi sự vật ;
nó chính là bí quyết giải đáp nhiều vấn đề huyền bí và đồng thời là một công
thức về quyền
năng. Ðầu con chim được xem như biểu thị nguồn
gốc của tiếng
từ tam nguyên chưa biểu hiện.
Chữ Kala có nghĩa là “Tthời
Ggian”
là một trong những danh hiệu của Vishnu hay là Alokiteshvara. Do đó Kala - Hhamsa
là con hạc của thời gian hay trong thời gian, hamsa là con hạc. Biểu tượng con
chim ấy ám chỉ thời gian, vì con chim bay xuyên qua không gian. Tâm thức có một
đặc tính là nó tiến bộ tức hay tiến hóa; vậy nó hiện hữu trong thời
gian. Tâm Thức
của Ðức Thượng Ðế là thời gian ;
nó không bắt đầu, cũng không chấm dứt trong thời gian ;
do đó nó bất sinh và bất diệt.
Vậy con chim nầy là một biểu tượng
của Ðức Thượng Ðế Ngôi Hai, và Thượng Ðế Ngôi Hhai
cũng là Ðại Minh Triết. Một bài ngụ ngôn rất phổ biến ở Ấn Ðộ cũng được đề cập
đến hamsa hay con hạc gắn liền với ý niệm về minh triết, vì câu chuyện kể rằng
nếu người ta pha nước với sữa đưa cho nó, con hạc có thể tách rời nước và sữa
riêng ra được. Trong đời sống nhân loại sự minh triết cũng có công hiệu như thế
: Nnó
chọn lọc chất dinh dưỡng chính yếu của Llinh
Hhồn
trong
những kinh nghiệm đa tạp của chúng ta. Khi những kinh nghiệm chấm dứt, sự minh
triết vẫn sống mãi trong Tthần
Hhồn
(the Sspritual
Ssoul)
con người, vì theo lời dạy của Kinh Bhagavad Gita thì : “Trong
toàn thể của nó, mọi hành động đi đến chỗ tối thượng trong sự minh triết.”[18] [18].
Trên Thánh Ðạo, người được Ðiểm Ðạo
lần thứ Ba cũng được gọi là Hamsa hay Ccon Hhạc.
Vì người chú tâm dứt bỏ raga và dvesha chướng ngại thứ tư và thứ năm, nghĩa là
sự ưa thích và chán ghét,.
nên người chuyên luyện tập nó để đạt được sự minh triết. Trên Tthế
Ggian,
con người bị sự ưa thích và chán ghét chế ngự ;
do đó những ý kiến riêng tư của họ làm cho họ đau khổ rất nhiều. Giải thoát
khỏi hai cái chướng ngại nầy vị Hamsa trở nên một Nnhà
Hhiền
Ttriết
được đề cập đến trong Kinh Gita, người sống hoàn mãn trong trí huệ và sự hiểu
biết, không chút phân biệt một cục đất, hòn đá với khối vàng trước
và
dưới con mắt của người, bạn thân và kẻ thù, người công chính và kẻ tội
lỗi, đều như nhau. Vậy người ấy không quý trọng vàng và mến bạn y sao
? Có chứ, người ấy ưa các thứ đó, nhưng y cũng quý trọng đất sét
và mến kẻ thù của chính mình. Nhà Hhiền
Ttriết
lợi dụng đủ loại kinh nghiệm; mỗi kinh nghiệm đều hữu ích cho Llinh
Hhồn.
Chính Epictetus đã quả quyết điều đó khi ông nói rằng: “Thượng Ðế đưa tôi xuống
Ccõi
Ttrần
chỉ vì mục đích duy nhất là để tôi tiến bộ về đạo đức ;
do đó mà ở dưới Tthế Ggian
nầy cái gì cũng có thể giúp cho tôi được cả.”.
Hamsa cũng đồng nghĩa với câu châm ngôn:
”Aham Sah,”,
hay “Tôi là Ccái
Đđó, ”,
thường đọc là “Soham,”, ở
đây cũng là mấy
tiếng đó đọc ngược lại. Vậy khi người chí nguyện lặập
lại câu châm ngôn nầy y cũng nghĩ đến cách cỡi của con Hamsa hay con chim của
cuộc đời, chính là nhận biết được Chơn Ngã nơi mình. Người ta nói rằng Nnhà
Yogi thành tín đọc công thức đó theo mỗi nhịp thở. Người ta đếm được 21.600 nhịp
thở trong một ngày và một đêm, vì giả sử rằng không khí được hít vào trong ta
theo tiếng “sah” và được thở ra theo tiếng “ha”.
Bao giờ con chim đang bay,
tiếng sáng tạo vang dội và thời gian hiện hữu. Mặc dù thời gian vô thủy vô
chung, nhưng nó có thể đo lường được, và đó chính là một điều rất huyền bí vô
cùng. Ở đây Bà Blavatsky thêm vào chú thích như sau :
Người Ðông Pphương
hiểu nghĩa chữ đời đời khác hơn người Tây Pphương.
Thường nó có
nghĩa là 100 năm hay là tuổi của Ðấng Brahma (Phạm Thiên ),
là kỳ gian của một Maha - Kalpa
( Ðại Kiếp ),
hay một chu kỳ của 311.040 tỉ .000.000.000 năm.
Phần nầy của chủ đề kết thúc bằng
mấy tiếng sau đây :
Hãy ngồi trên lưng Con Chim của Cuộc
Ðời, nếu con muốn hiểu biết.
Hãy bỏ Cuộc Ðời
Ssống
của con, nếu con muốn sống.
Tiếp theo là chú thích nầy
:
Theo Kinh Nadavindu
: “Ðối với một Vvị
Yogi được lên lưng con Hamsa ( tham
thiền về tiếng Aum ) thì ảnh hưởng của Nnghiệp
Qquả
hoặc vô số tội
lỗi không chạm đến người được.”.
Hãy từ bỏ đời sống Ttrần
Ttục
của Pphàm
Nngã
nếu con muốn sống trong Tinh Tthần.
Một crore bằng mười triệu. Tuy nhiên
chúng ta không nên kết luận rằng Vvị
Yogi được phép phạm các lỗi ấy; nếu không, y sẽ chẳng phải là Nhà Yogi. Ðó
chỉ là một lối diễn tả của người Ðông Pphương,
cho biết rằng đời sống vật chất dưới Tthế Ggian
không hề ảnh hưởng đến họ. Người nào suy tư và hành động vô vị lợi và hoàn toàn
vị tha, thì không bao giờ mắc phải Nnghiệp
Qquả
; kết quả của tất cả những cố gắng của y sẽ được thu
thập trong kho năng lực tinh thần vĩ đại để giúp đỡ nhân loại, như chúng ta đã
từng giải thích.
Hỡi kẻ hành hương mệt mỏi, con phải
trải qua ba Ggian
Pphòng
mới hết những nỗi khó nhọc. Hỡi kẻ chiến thắng Ma Vương, ba Ggian
Pphòng
sẽ dắt con qua ba trạng thái để đến trạng thái thứ tư và từ đó bước vào bảy Ccõi,
là những Ccõi
yên nghỉ đời đời.
Nếu con muốn biết tên ba Ggian
Pphòng
đó, con hãy nghe và nhớ.
Tên của các Ggian
Pphòng
thứ nhứt là Pphòng
Vô Minh -Avidya.
Chính Pphòng
đó là nơi con sinh ra đời, nơi con sống và con sẽ chết.
Tên Pphòng
thứ nhì là Pphòng
Học Tập. Nơi đó Hồn con sẽ thấy những bông hoa của cuộc đời, nhưng dưới mỗi đóa
hoa đều có một con rắn nằm khoanh.
Tên của Pphòng
thứ ba là Phòng
Minh Triết; phía bên kia là nước biển Akshara không bờ bến, nguồn toàn
tri vô tận.
C. W.
L.- Ba Ggian
Pphòng
có thể được giải thích bằng hai cách : Hhoặc
có thể xem như những Ccõi
khách quan, hoặc có thể xem như tình trạng chủ quan của con người.
Trong trường hợp thứ nhứt, Pphòng
Vvô
Mminh
là Ccõi
Ttrần
và và Pphòng
Hhọc
Ttập
được định nghĩa theo một chú thích là “Pphòng
nơi đó Đđệ
Ttử
Nnhập
Mmôn
đang học hỏi,”,
đó là Ccõi
mà người ta có thể gọi là Ccõi
Trung Giới - Hạ Thiên (Tthe Aastral
---
Mmental
Pplane)
(gồm cả Ccõi
Trung Giới và Hạ Thiên ). Khi viết trong “The Inner
Life,”[19] [19] cách đây 16 mười
sáu năm, tôi cứ tưởng Bà Blavatsky cho rằng Ccõi
Trung Giới là Pphòng
Hhọc
Ttập
và Ccõi
Hạ Thiên là Pphòng
Mminh
Ttriết.
Từ đó, sau khi suy nghĩ thật nhiều và nghiên cứu thường xuyên về vấn đề nầy,
tôi tin chắc rằng chúng ta phải giải thích trung thực với tư tưởng của Ttác
Ggiả
hơn, đúng như Bbà
đã thấy rằng Pphòng
Hhọc
Ttập
không những là Ccõi
Trung Giới mà còn gồm cả Ccõi
Hạ Thiên và khi vươn lên đến Pphòng
Mminh
Ttriết
tức gồm cả Ccõi
Thượng Thiên và Ccõi
Bồ Ðề.
Ðức Aryasanga cũng không cho Ccõi
Trung Giới là Pphòng
Hhọc
Ttập
và Ccõi
Hạ Thiên là Pphòng
Mminh
Ttriết.
Một lát nữa chúng ta sẽ gặp bằng chứng khi Ngài đề cập đến Ccõi
thứ hai như một Ggian
Pphòng
mà “ở đó mọi bóng tối đều biến mất và chính nơi đó ánh sáng của chân lý chiếu
diệu một sự vinh quang bất diệt.”.
Cõi Hạ Thiên không đáp ứng được sự mô tả đó ;
tuy sáng chói và tinh anh hơn Ccõi
Trung Giới, nhưng nó vẫn là Ccõi
vật chất, nơi cư ngụ của Pphàm
Nnhơn.
Sau đó nữa, Ðấng Ggiáo
Cchủ
cũng nói rằng cái gì bất sinh mới được trú ngụ trong Pphòng
Mminh
Ttriết;
vả lại chính Chơn Nhơn mới là bất sinh, chứ không phải Pphàm
Nnhơn.
Trên Ccõi
Hạ Thiên cũng như trên Ccõi
Trung Giới, có một con rắn nằm khoanh dưới mỗi đóa hoa, vì sự đam mê và dục
vọng điên rồ đầu độc Ccõi
Trung Giới, sự kiêu căng và những thành kiến vẫn tồn tại trên Ccõi
Hạ Thiên. Trên Ccõi
Thượng Thiên, dù Chơn Nhơn thu thập được nhiều kiến thức, nhưng những kiến thức
Nnó
đã thu thập được đều chân xác, còn Ccõi
Hạ Thiên là Ccõi
của Pphàm
Nnhơn
và những sự sai lầm.
Người ta có thể xét đoán đến một mức
độ nào đó những Ccõi
thấp là những thế giới ảo mộng, theo cách dùng các giác quan và năng lực của
chúng ta. Chẳng hạn về thị giác, sở dĩ chúng ta thấy vì thị giác của chúng ta
gặp một chướng ngại vật. Nếu cái nhìn của chúng ta được tự do xuyên
qua vách tường, chúng ta sẽ không thấy tấm tường ấy. Người ta cũng có thể nói
như thế đối với bước đi : Cchúng
ta di chuyển được thong thả vì có mặt đất chịu đựng dưới bước chân của chúng
ta. Trên những Ccõi
cao, người ta sống trong ánh sáng.
Ở Ðông Pphương,
các Ttrường
Hhuyền
Bbí
Hhọc
thường kết hợp hai Ccõi
Trung Ggiới
và Hạ Thiên lại. Những tín đồ Phệ Ðà chỉ nói đến một Tthể
duy nhất ( họ gọi là Mmanomayakosha,
hay Ccõi
làm bằng chất Tthượng
Tthanh
Kkhí
), còn giáo lý Thông Thiên Học của chúng ta thì phân biệt làm hai Tthể
( Thể Vía và Thể Trí )
, và đối với các Tthể
đó, chúng ta ở trong trạng thái hoạt động, trong lúc chúng ta thức
; và chúng ta cũng cung cấp những kinh nghiệm thuộc hai Ccõi
Trung Giới và Hạ Thiên. Trong các Ttrường
Raja Yoga, bao giờ thí sinh cũng phải tập dùng Thể Trí trước nhất, và sau đó
mới tập dùng Thể Vía. Phép luyện tiệm tiến rất khôn ngoan nầy được thấy trong
học thuyết của Patanjali. Trong đó hai bước đầu được thực hiện trong phạm vi
đạo đức và người ta đòi hỏi những sự tiến bộ đúng đắn về phương diện nầy trước
khi được quyền đánh thức những Ssiddhis
hay những Qquyền
Nnăng
Ttâm
Llinh.
Trong tác phẩm “Raja Yoga :
The Occult Training of the Hindus,” Ggiáo
Ssư
Wood gọi các bước đầu đó là “mười giới răn” và dịch chúng thành ra năm giới cấm
: “Cấm sát sinh, vọng ngữ, trộm cắấp,
tà dâm, và thọ lãnh lễ vật”, và năm hạnh : “Thanh
khiết, an phận, tự chủ, chuyên cần và hy sinh.”.
Các phương pháp nầy đã thịnh hành đã lâu đời,
trước thời kỳ của Ðức Aryasanga. Nhà thông thái N. Bhashyacharya và nhiều học
giả Phạn ngữ khác đều cho rằng Ðức Patanjali không phải là Ttác
Ggiả
của hệ thống trên, dù là Ngài đã cống hiến cho Tthế
Ggian
nhiều quyển Kinh nổi tiếng từ thế kỷ thứ chín trước Tây Llịch
kỷ nguyên.
Như tôi đã giải thích trong quyển “Chơn Sư và
Thánh Ðạo,”
trongở
các Ccuộc
Ðiểm Ðạo xưa, người ta thường dành nhiều thì giờ để huấn luyện thí sinh về
phương diện làm việc trên Ccõi
Trung Giới, vì sự đánh thức những hoạt động của y trên Ccõi
nầy xảy ra tương đối chậm hơn thường lệ, so với những Nnhà
Thông Thiên Học hiện đại. Y thường tập làm việc khá nhiều trên Ccõi
Trung Giới, do đó y đã học nhiều chi tiết của Ccõi
nầy trong thời gian lâu dài trước khi được Ðiểm Ðạo.
Nếu chúng ta xét một cách khách
chủ
quan ba Ggian
Pphòng
ấy như những giai đoạn của sự phát triển con người, chúng ta sẽ có ba thời kỳ
rất quen thuộc nầy :
1-/
Ccon
người còn vô minh sống tại Ccõi Ttrần
; y bị lôi cuốn hay bị xô đẩy bởi những đối tượng chung quanh, những
đam mê và dục vọng bất trị kích thích y hành động; đó là thời kỳ vô minh.
2-/
Ccon
người biết rằng Tthiên
Nnhiên
có những Đđịnh
Lluật
chính xác và biết rõ nếu y thích ứng công việc của mình với những Định Lluật
đó, y có thể thu hoạch được những quyền năng thật cao siêu hơn những quyền năng
con người đã có trong thời kỳ còn vô minh ;
đó là Pphòng
Hhọc
Ttập.
3-/
Ccon
người biết được sự hiện hữu của những Đđịnh
Lluật
Ttinh
Tthần
; y tập sống theo các Định Lluật
đó, y biết rõ về Lluật
Lluân
Hhồi,
Nnhân
Qquả,
những Lluật
về Lluân
Llý
và Đđạo
Đđức
chi phối sự tiến bộ của chính Llinh
Hhồn
y và Llinh
Hhồn
những kẻ khác ; như thế là y đang ở trong Pphòng
Mminh
Ttriết
vậy.
Bà Blavatsky đã mô tả bốna
giai đoạn tâm thức trải qua như sau :
Ba trạng thái của tâm thức là
Jagrat, trạng thái thức tỉĩnh;
Svapna, trạng thái chiêm bao ;
và Sushupti, trạng thái ngủ say. Ba trạng thái Yoga nầy dẫn đến trạng thái thứ
tư, hay là trạng thái Turiya, bên kia ngoài trạng
thái không chiêm bao : Đđó
là trạng thái tối cao, trạng thái siêu việt của tâm thức Tthần
Bbí.
Các trạng thái tâm thức nầy không có
gì là cố định, nhưng có thể liên hệ với các Ccõi cao
hay các Pphòng
cụ thể đã đề cập rồi, khi nhắm đến thí sinh chuẩn bị để được Ðiểm Ðạo ở bậc La
Hán. Trong trường hợp nầy trạng thái thức tỉĩnh
có thể xảy ra tại Ccõi Ttrần
; trạng thái chiêm bao tại Ccõi
Trung Ggiới
và Hạ Thiên ; trạng thái ngủ say tại Thượng Thiên
và Bồ Ðề; sau cùng trạng thái Tturiya
tại Ccõi
Niết Bàn.
Các danh từ nầy hơi kỳ lạ - thức
tỉnh, chiêm bao, ngủ mê - dường như chúng được dùng theo quan điểm ở Ccõi
Ttrần
để chỉ định những cao độ của tâm thức mà thí sinh đã đạt được vào lúc đó. Khi
con người hoạt động tại Ccõi Ttrần,
với tất cả những quan năng đã thức tỉĩnh của y
của y, là y ở trong trạng thái thứ nhứt. Muốn hiểu trạng thái thứ
hai, chúng ta nên hiểu rằng có hai loại giấc mơ - những sáng kiến thường là vô
lý của óc não ( Xxác Tthịt
và Ddĩ
Tthái
) và những kinh nghiệm thật sự của con người đã lìa xa xác phàm để
đi học trên Ccõi
Trung Giới và Hạ Thiên ; chính trường hợp thứ hai nầy mới
thật đúng là chiêm bao. Thí sinh đang ngủ hay sắp ngủ giữa ban ngày, rồi nhớ
lại đã thu thập những kinh nghiệm về loại đó và gán cho chúng là “tâm thức
trong trạng thái chiêm bao.”.
Bây giờ giả sthử
sau khi rời bỏ xác thịt, người chí nguyện rơi vào trạng thái mà người ta gọi là
giấc ngủ thứ hai, và vượt lên đến các Ccõi
cao hơn để trở nên có ý thức trong chốc lát trên Ccõi
cao đó. Khi thức dậy tại Ccõi Ttrần,
có lẽ y không nhớ được những gì đã xảy ra ngoài thể xác, vì bộ óc xác thịt của
y không ghi nhớ được những kinh nghiệm đến từ Ccõi
cao trong “trạng thái chiêm bao” của nó ;
như vậy y có cảm tưởng đã trải qua một giấc ngủ thật ngon và không mộng mị; cảm
giác duy nhất thường chỉ là một sự sảng khoái, dễ chịu vô cùng. Như vậy “trạng
thái ngủ say” tiêu biểu cho tâm thức trong Ccõi
ấy còn cao hơn nữa.
Trạng thái thứ tư đôi khi còn gọi là
Xxuất
Tthần
; sau đây là lý do. Như chúng tôi thường
giải thích khi người chí nguyện không còn ở
trong xác thân, thình lình y đạt đến trình độ tâm thức cao siêu hơn tâm thức
của y hiện có trong xác thân ấy. Ðối với một Đđệ Ttử,
cũng có thể trong cơn thiền định thâm sâu, y đạt đến Xxuất
Tthần
ở một trạng thoái cao siêu, rồi truyền kinh nghiệm
đó cho trí nhớ trong trạng thái thức tỉĩnh.
Lúc ở trong xác phàm, vị La Hán có thể đạt đến Ccõi
Bồ Ðề ; và Nngười
đạt đến Ccõi
Tinh Thần ( Aatmic
Pplane
) hay Ccõi
Niết Bàn khi rời bỏ khỏi xác phàm hoặc trong cơn thiền định hay
xuất thần sâu thẳm. Danh từ Aakshara
được dùng ở đây để chỉ định Ccõi
thứ tư ấy chỉ có nghĩa là cái không thể tiêu tan, đó là cái không thể bị mai
một.
Ðối với những sinh viên kém tiến hóa
những loạt từ ngữ kêu gọi như
thế cũng có thể dùng được trong một ý nghĩa tương đối. Có người tâm thức trong
lúc thức tỉĩnh
có thể hiện hữu tại Ccõi Hhồng
Ttrần,
trạng thái chiêm bao tại Ccõi
Trung Ggiới,
trạng thái ngủ say tại Ccõi
Hạ Thiên. Ðối với những người khác, có thể sử dụng được quan năng thuộc Ccõi
Trung Giới trong tâm thức lúc thức tỉĩnh
tại Ccõi
Hhồng
Ttrần,
lại có tâm thức chiêm bao trên Ccõi
Hạ Thiên và trạng thái ngủ say trên Ccõi
Thượng Thiên, và cứ như thế. Tâm thức Turiya là một trạng thái cao siêu, có thể
đạt được bằng một cố gắng đặc biệt của ý chí kiên trì và bằng sự thiền định, mà
kết quả là nâng tất cả ba trạng thái lên trên một mức độ cao hơn trước. Trong
giai đoạn giao thời và trước khi đạt đến mức độ mới, trạng thái thứ tư nầy luôn
luôn xuất hiện.
Người ta nhận định được điều đó
trong lúc tham thiền. Thí sinh ngồi xuống và tập trung ý thức vào một đối tượng
nào đó - một con mèo chẳng hạn ;
kế đó y nâng tâm thức lên “trạng thái chiêm bao”; ;
y cố gắng nhìn thấy thể vía của con vật ấy. Rồi y nâng tâm thức
lên đến “trạng thái ngủ say” và chú ý đến Tthể Ttrí
con mèo. Trạng thái thứ tư là trạng thái nhập định - hay trầm tư mặc tưởng -
một cố gắng để nắm lấy ý nghĩa và thực tại mà con mèo có thể có dưới mắt của
Chơn Nhơn, sau cùng để vượt qua ba hình tướng của nó và đạt đến ý nghĩa chủ
quan. Trong trường hợp thứ nhứt, sự tập trung tinh thần vào con mèo, gọi là sự
định trí ; sự nâng tâm thức lên cao gọi là
tham thiền ; sự tập trung sau cùng trong một tầm
nhìn thị trường cao siêu, vượt lên trên mọi trạng
thái trước gọi là Nnhập
Đđịnh
(Ssamadhi).
Sự cố gắng sau cùng có thể so sánh với việc đi xuyên qua một đám mây hay sương
mù, rồi từ đó mới có thể thấy được cái gì mới mẻ hiện ra từ từ hoặc xẹt ra như
một tia chớp. Dù trong trường hợp nào hành giả cũng phải giữ một sự yên tịnh
hoàn toàn để duy trì sự cảm giác càng lâu càng tốt; chỉ có một chút ý nghĩ về Ccái
Nngã,
về cái nthân
già cỗổi
tương đối nầy cũng có thể làm tan biến tất cả, đến đỗi y không còn nhớ gì về
cảm giác đã nhận biết.
Bạn nên chú ý, kinh sách nói rằng
phải trải qua Bba
Ggian
Pphòng
mới hết những nỗi nhọc nhằn, chứ không phải mới chấm dứt sự làm việc. Tại các Ccõi
thấp ấy, chắc chắn chúng ta có ý niệm về sự làm việc khác hẳn với những gì mà
người ta nghĩ về làm việc trên những Ccõi
cao. Dưới Tthế
Ggian
chữ làm việc gần như đồng nghĩa với cực nhọc và thường là khổ
dịch, nhưng theo quan niệm trên Ccõi
cao, sự thật nó chính là một trò chơi. Khổ dịch chỉ là cử động, không hơn không
kém; người làm công việc ấy không thể sáng tạo. Trái lại, bất cứ ai, dù làm một
việc nhỏ mọn, nhưng làm với tất cả tấm lòng của mình “để hiến dâng cho Thượng Ðế
chứ không phải cho con người” thì y sẽ được tiến bộ. Chẳng hạn nếu viết một bức
thư, chúng ta cố gắng viết cho sạch sẽ, có nghệ thuật và diễn tả bằng những
ngôn từ gọn gàng, sáng sủa và thanh nhã, thì trong lúc đó chúng ta sẽ phát
triển được khả năng của bàn tay, đôi mắt, khối óc, sức mạnh tinh thần, tình
thương và ý chí. Việc làm chân chánh - như công việc của Nhà Nnghệ
Ssĩ
- sẽ là nguồn sáng tạo và hoan lạc. Dù trong ngành hoạt động ấy, chúng ta cũng
gặp vài lao khổ vì những trở ngại đặc biệt tại các Ccõi
thấp, trong lúc đó dưới Tthế Ggian
không có sự phân biệt thật rõ ràng giữa sự khổ nhọc và trò chơi. Ta hãy lấy thí
dụ về một cuộc du hành dài bằng ngựa; lúc đầu người và ngựa đều thích thú
; dần dần sự vui thích suy giảm và sự mỏi mệt hiện ra, rồi thình
lình người ta nhận thấy trò chơi trở thành cực nhọc, hay hơn nữa, là một khổ
dịch. Trong những
trường hợp khác; việc làm có thể khá ngắn hạn, nhưng hơi vượt quá sức của chúng
ta; như thế một cảm thức khổ nhọc lại nảy sinh. Nhưng thật ra mọi công việc đều
là trò chơi khi chúng ta thực hiện với tất cả thiện chí, không lao khổ, không
cố gắng quá sức.
Về phương diện nầy chúng ta phải học
hỏi nhiều ở loài vật và cả đến thảo mộc nữa. Trong quyển “Ánh Sáng
Trên Ðường Ðạo”
dạy : “Con hãy phát triển như một đóa hoa
tăng trưởng” và “hãy mở tâm hồn ra để đón Áánh Tthái
Ddương.”.
Ðấng Christ cũng nói : “Hãy quan sát hoa huệ ngoài đồng
xem chúng tăng trưởng như thế nào ?
Chúng không làm việc, cũng không kéo chỉ. Tuy nhiên Ta nói với con rằng ngay cả
Salomon trong sự vinh quang của người cũng không ăn mặc như chúng.”[20] [20] . Chính sự lo âu do con người
cảm thấy khi nghĩ đến ngày mai đã biến công việc của họ thành cực khổ và sự
gắng công quá sức. Nhưng Ðịnh Lluật
đã cho chúng ta biết rằng : “Hôm nay phải hãy hoàn
thành cái gì khôn ngoan và tốt lành, mà đừng bận tâm đến kết quả.”.
Ðó không phải là một lý thuyết khuyến khích sự lười biếng, mà dạy cách làm việc
- lối làm việc như một trò chơi chớ không phải khổ nhọc.
Chúng ta cũng thấy
thví
dụ khác trong cách mà nhiều người chịu đựng ở một cuộc di chuyển lâu dài. Một
người kia đáp xe lửa từ Chicago đến San Francisco sẽ ở trong tình trạng nóng
nảy, thiếu kiên nhẫn trong ba hoặc bốn ngày; tập trung tất cả tư tưởng vào
những gì y định làm; trong khi chờ đợi, cuộc hành trình đối với y là một sự vất
vả và khốn khổ. Trong cuộc hành trình ấy, một người khác lại quan sát được cả
ngàn điều hứng thú - phong cảnh, nhân sự được gặp gỡ, cả đến chiếc xe lửa; cuộc
hành trình đối với y là một sự giải trí tốt đẹp và rốt cuộc, y được lợi lạc hơn
người thứ nhứt. Người dân quê Ấn Ðộ sống hòa hợp mật thiết với Tthiên
Nnhiên
và chắc chắn y “tăng trưởng như đóa hoa.”.
Một người rời làng; y đi lấy thư hoặc gởi thư ở Nnhà
Bbưu
Đđiện
cách xa lối 16
mười sáu hoặc 20 hai
mươi dặm đường. Bước đi của y không cphút
nào nặng nề khó nhọc; y không bất mãn, bcực dnhọc,
nên thần kinh y
không đau đớn. Thư từ không làm cho y bận trí, loại trừ mọi hình thức
khác và làm cho y nguyền rủũa
đường dài. Không ; có những sâu bọ, chim chóc, bông,
hoa, cây cối, dòng nước, mây trời, đồng ruộng, người và vật, sau cùng là đất
lành êm ái như nhung mà trên đó y có thể nằm nghỉ như nằm trên những cánh tay
thiêng liêng. Người da trắng rất ít biết thưởng thức Ssự
Ssống
mà chỉ biết nhiều gian lao.
Người Ấn Ðộ nghĩ rằng lúc nào Thượng
Ðế cũng miệt mài trong một trò chơi. Người ta gọi trò chơi của Ðức Krishna là
công nghiệp vĩ đại trong cuộc tiến hóa, vả lại sự tiến hóa đối với chúng tra
dường như thật gian lao khi nghĩ đến những niên đại vô cùng sẽ trải qua làm
chúng ta phải rùn mình và khao khát một sự nghỉ ngơi. Bạn hãy thử tưởng tượng
đến thời gian 311.040.000 triệu năm, tức một đại kiếp của chúng ta. Quả là ảo
mộng ! Khi nào sự cố gắng vất vả của chúng
ta đã chấm dứt, đời sống mới sẽ là trò chơi và hạnh phúc.
Trên đường Thánh Ðạo thứ tư, thí
sinh bước vào Ccõi
Niết Bàn, chấm dứt sự khó nhọc, nhưng công việc của y vẫn còn
; đối với y sự cố gắng có tính cách bắt buộc không còn nữa, nhờ sự
chấm dứt năm chướng ngại đầu tiên là Pphàm
Nngã,
sự nghi ngờ, thói dị đoan, sự ưa và ghét là những thử thách lệ thuộc vào vật
chất, tất cả đã làm cho
đời sống của y trở thành cuộc chiến đấu trường kỳ và gian khổ. Bây giờ còn lại
năm chướng ngại thuộc về nội tâm mà y phải diệt tiếp theo. Sự thật, y phải làm
chủ chúng, vả lại y có khí giới là sự thản nhiên, thanh tịnh, an tĩnh và sức
mạnh của ý chí, mọi thứ dưới Tthế Ggian,
nó đem lại sự trầm tĩnh hơn hết. Các chướng ngại ấy là : Mmuốn
sống trong hình tướng, muốn sống không hình tướng, tánh kiêu căng, tâm xao động
và vô minh. Khảo sát chúng một cách kỹ lưỡng ở đây không có lợi bao nhiêu;
chúng ta xác định tính chất nội tâmại của
chúng vàì
muốn diệt trừ chúng, con người phải đạt được sự an tĩnh ở chính y và trên các Tthể
cao của y; nơi đường ranh phân cách giữa Pphàm
Nnhơn
và Chơn Nhơn.
Trước khi chấm dứt sự cố gắng, sinh
viên cần phải tổ chức lại đời sống của mình một cách thật khôn ngoan để công
việc phụng sự Chơn Sư trở thành một trò chơi càng sớm càng hay; điều đó sẽ trở
thành một hạnh phúc thuần khiết, một niềm vui hoàn toàn : Llúc
bấy giờ sự tiến bộ mới trở nên mau chóng. Sự lao khổ không có gì đáng giá, cũng
không phải thật lợi lạc, mặc dù đôi khi thật cần thiết. Biết bao lần một sinh
viên khi tham thiền cũng thấy chán ngắt nhưng vẫn xem như phải thi hành, phải
chăng việc ấy chỉ đáng là một cố gắng nhọc nhằn và khốn khổ !
Ðối với bạn sự tham thiền phải là một hạnh phúc, một trò chơi. Ít ra bạn phải
nghĩ đến thời gian thuận lợi để bạn thực hiện việc ấy. Vài người trông cậy vào
hiện tại một cách khoái trá và nói rằng : “Chúng
ta hãy hưởng thụ thực tại, cần gì phải bận tâm đến tương lai.” .
Nhiều người khác ỷ lại vào sức mạnh của họ, đã sống biệt lập rồi
nói : “Chúng tôi không để cho bất cứ cái
gì có thể quấy rầy mình.”.
Nhưng người Đđệ
Ttử
phải biết sống tùy thời; y vẫn nghĩ đến tương lai lâu dài trước mặt y một cách
sung sướng, cũng như nghĩ đến trò chơi mà mỗi cử động đều có thể mang đến sự
khoan khoái cho y.
Về vấn đề bảy Ccõi
thế giới, Bà Blavatsky nói :
Vài Nnhà
Tthần
Bbí
Ðông Pphương
để bảy Ccõi
thực tại, bảy Lokas hay Ccõi
tinh thần trong thân xác của Kala Hamsa, con hạc ở ngoài vòng thời gian và
không gian, nó biến thành con hạc ở
trong thời gian, khi nó trở nên Brahma thay vì Brahman trung lập (neutre)..
Trong Tthiên
Nnhiên,
tất cả những
sự biểu hiện bảy bậc, như bảy nguyên lý trong con người hay bảy Ccõi
trong thế giới, đều bắt nguồn từ một sự phân chia làm bảy, phát xuất từ Ðấng
Tối Ðại Phạm
Thiên (Parabrahman). Ba trong bảy nguyên lý đó biểu hiện trong tâm thức
phổ quát và ba nguyên lý kế đó trong mulaprakriti. Còn một nguyên
lý nữa ở tại nguồn gốc và bao hàm tất cả nguyên lý khác, vì cái phức thể không
hề làm hư hỏng cái nhất thể của Nguyên Lý Duy Nhất thật sự. Như vậy, ở mức độ
thấp kém, con người vươn lên đến nhóm nguyên lý trung bình của y (Aatma-Bbuddhi-Mmanas
) và đạt đến nguyên lý thứ nhứt ( Chơn
Thần ), chắc hẳn vượt khỏi các Ccõi
hay Tthế
Ggiới,
nhưng lại gặp chúng hiện diện trong trạng thái mới của Ccõi
Niết Bàn thật sự. Cõi nầy vượt khỏi trạng thái tâm thức cũng như tự nó, trạng
thái tâm thức vượt khỏi trạng thái đơn giản Ccõi Hhồng
Ttrần.
Nếu chúng ta đề cập đến Nngôi
ba như thế, đó chỉ là một lối châm chước cho sự vô minh ;
chúng ta phải hiểu những điều được trình bày trên đã cho thấy rằng ta nên biết
cái “bạnAnh” là Tâm Thức và cái “Tôi” là sự sống thật
sự của Ccõi
Niết Bàn siêu ý thức. Tuy nhiên chỉ có Vvị
Chơn Tiên mới đạt được cái Ccõi Ggiới
đó, chứ vị La Hán chưa thể đạt tới. Người ta có thể tưởng tượng vị La Hán đi
vào bảy thế giới yên nghỉ đời đời bằng nhiều cách khác nhau. Trên vài phương
diện, các thế giới đó là những Ccảnh
của Ccõi
Niết Bàn mà vị La Hán phải trải qua trong thời kỳ thăng tiến của người. Người
nào đạt đến nơi đó rồi thì bình tĩnh lạ thường, vì mọi thứ đều hiện ra như Chơn
Ngã Duy Nhất và sự xác tín đó không có chỗ để cho sự sợ sệt hay lo âu xâm
chiếm. Kinh Gita có nói : “Bậc hiền giả trở nên toàn thiện trên
Ðường Ðạo, đó là nhờ sự bình tĩnh.”[21] [21]. Tại các Ccõi
đó không phải là vắng thiếu sự hoạt động - chính nơi đây có một luồng sinh hoạt
vĩ đại - chuyển động không ngừng mà ý chí của Ðấng Duy Nhất không gặp một
chướng ngại nào. Trên Ccõi
Bồ Ðề, nhị nguyên tính vẫn tồn tại, vì theo một ý nghĩa nào đó, mỗi người vẫn
còn thấy kẻ đồng loại của mình, mặc dù ở họ cũng như ở chúng ta đều được nhìn
nhận cùng có một “Chơn Ngã,”,
nhưng chúng ta phải vượt lên khỏi Ccõi
Bồ Ðề, vì ở đây tình thương vẫn bao hàm tính chất nhị nguyên. Sự an tĩnh của vị
La Hán tăng trưởng không ngừng và truyền xuống các Ccõi
thấp một trạng thái mới mẻ. Ở đó người ta thụ hưởng một sự tự do mà không một
ai khác biết được; người nào cũng nhận thấy rằng không những ở tại đây mà còn ở
trên tất cả những Ccõi
khác, đời sống là sự chí phúc thuần túy. Chẳng những người thấy và yêu sự sống
luôn luôn tiến bộ sau những hình tướng vô thường, mà người ta còn cảm
thấy Thiên Ý một cách hân hoan trong đời sống biến đổi. Sự yên nghỉ đời đời mà
người thụ hưởng không phải là sự bất động, mà là sự an tĩnh nội tâm của kẻ đã
tin chắc rằng tất cả đều tốt đẹp, rằng Thiên Ý hiện diện ngay cả trong cái gì
đối với kẻ khác là những trở ngại cho sự tiến bộ - cũng biểu hiệân
trong sự tiến bộ hiển nhiên. Một nNgày
kia, một Nnhà
Ttriết
Hhọc
thấy được ý tưởng nầy khi người nói : “Bạn
hãy bình tĩnh, nếu bạn thất bại mà không phải lỗi của bạn, thì sự thất bại đó
chính là sự thành công mà bạn không ngờ, vì Thiên Ý đã thành tựu.”.
Vị La Hán bắt đầu sống trong Ccõi
vô tận, nên người phải tập nhận định sự an tĩnh vượt hơn cả mọi sự tưởng tượng.
Bà Blavatsky cũng nói : “Ðó là vùng của tâm thức thần bí
viên mãn và bên ngoài nó không có sự nguy hiểm nào xảy ra cho kẻ đạt đến đó.”.
Nếu con muốn đi ngang qua Pphòng
thứ nhứt một cách an toàn, thì chớ để cho trí con nhận lầm ngọn lửa dục tình
cháy đỏ nơi đó là Áánh Tthái
Ddương
của cuộc đời.
Nếu con muốn qua khỏi Ggian
Pphòng
thứ nhì không nguy hiểm thì chớ dừng chân ngửi mùi hương nồng nặc của
những bông hoa ở đó làm cho con phải mê man. Nếu con muốn thoát khỏi xiềng xích
của Nhân Quả, thì chớ tìm Sư Phụ nơi vùng mộng ảo đó.
Bậc Hhiền
Ggiả
không lưu luyến những thú vui của giác quan.
Bậc Hhiền
Ggiả
không lưu tâm đến giọng đường mật của ảo mộng.
Hãy tìm Nngười
sinh ra con nơi Pphòng
Minh Triết ở bên kia. Nơi không hề có bóng tối và nơi mà ánh sáng chân lý chiếu
diệu một sự vinh quang bất diệt.
Vị Guru ( Sư
Phụ ) được đề cập ở đây là Ðức Thầy, Ðấng
chỉ giáo. Theo thuật ngữ của Bà Blavatsky thì :
Bậc đắc Ppháp,
nhờ có đủ tri kiến, dìu dắt Đđệ Ttử
sinh ra trong Ccõi
Ttinh
Tthần
hay sinh ra lần thứ nhì, được gọi là Cha, Tôn Sư hay Ðức Thầy.
Trong quyển “Chơn Sư và
Thánh Ðạo”
có nói về những vị Gurus hay Ðức Thầy, về đời sống và sự sinh hoạt của các
Ngài. Một đoạn liên quan đến buổi tham thiền của Ðức Thầy Kouthoumi
có nêu lên một chút ý niệm về những quyền năng phi thường của các Ngài, dường
như Ngài đang tham thiền, nhưng thật ra Ngài đang chú ý đến hàng triệu người và
chăm sóc cho từng người một cũng như một người bình thường nào chăm sóc một
cách đặc biệt cho người đó vậy.
Mỗi Chơn Nhơn đều được một trong các
vị Chơn Sư nâng đỡ, do đó người nào tạo được sự sinh hoạt trong dây liên lạc
nối liền Ttiểu
Nngã
với Ðại Ngã sẽ nhận được sự nâng đỡ ấy trong đời sống cá nhân của mình. Các Vvị
Ðạo Sư mà chúng ta gặp được tại Ccõi
Ttrần
thường là những Vvị
đã được Ðiểm Ðạo, hoặc những Vvị
đã tiến hóa khá cao, những Vvị
Chơn Tiên toàn giác.
Hỡi Đđệ
Ttử,
nguồn bất sinh bất diệt vốn ở nơi con ;
cũng như ở trong Pphòng
nầy. Nếu con muốn đạt đến trạng thái đó và hỗn hợp hai cái làm một thì con phải
cởổi
bỏ lớp y phục đen tối của ảo mộng. Hãy bóp nghẹt tiếng nói của xác thịt, chớ để
một hình ảnh nào của giác quan tạo ra ngăn trở ánh sáng của nó và ánh sáng của
con, hầu cả hai có thể hòa hợp thành một. Khi con vừa biết được sự vô minh của
con, con hãy xa lánh Phòng Học Tập. Phòng nầy rất nguy hiểm vì vẻ đẹp giả trá
của nó và nó chỉ cần thiết cho đến thời kỳ học tập của con thôi. Hỡi Đđệ
Ttử,
con hãy đề phòng đừng để cho một sự sáng chói hão huyền làm cho Hồn con chậm
bước và mắc vào ánh sáng phỉnh lừa đó.
Ánh sáng nầy phát sinh từ hột ngọc
trên mão của Ma Vương. Nó làm mê mẫn giác quan, mù quáng tâm trí, và bỏ rơi kẻ
khinh xuất như một vật trôi giạt ngoài biển cả.
Chúng ta phải hiểu “cái bất sinh bất
diệt” là Ttam
Tthể
Tthượng
Aatma-Bbuddhi-Mmanas
đối nghịch với Pphàm
Nnhơn
và các Tthể
của nó. Phòng Hhọc
Ttập
chỉ hữu ích cho kẻ Nnhập
Mmôn;
điều ấy cũng áp dụng cho người ở trong Pphòng
Vvô
Mminh.
Các Ccõi
Vvật
Cchất
- Hồng Trần, Trung Giới và Hạ Thiên - chỉ tiêu biểu cho những gian nhà và sự
thiết lập một ngôi trường dành cho những người mà trong đó họ được giáo hóa
bằng đồ chơi. Không có kinh nghiệm nào mà không biến cảãi
Llinh
Hhồn
và không đem lại cho nó một ít Mminh
Ttriết,
nhưng con người phải nhận ra một giá trị giáo dục trong tất cả kinh nghiệm đó
và hăng hái tìm cách học hỏi và rút ra những bài học quý báu từ đời sống Tthế
Ggian,
thì nó mới không tìm thấy trong các đồ chơi một sự quyến rũ nào nữa. Y giống
như một con ong hút mật trong một bông hoa rồi bay đi, không bị hương vị và màu
sắc đóa hoa mê hoặc.
Ma Vương (Mara) là sự nhân cách hóa vẻ
cám dỗ của những đối tượng bên ngoài ;
sau đây là sự mô tả của Bà Blavatsky :
Trong các Ttôn
Ggiáo
Ccông
Ttruyền,
Ma Vương là một con quỷ, một A-Ttu-Lla
( Asura )
; nhưng trong Ttriết
Hhọc
Bbí
Ttruyền,
nó là sự nhân cách hóa sức quyến rũ của các tật xấu trong con người, và dịch
đúng theo nguyên nghĩa, nó là “kẻ giết chết Llinh
Hhồn.”.
Nó được hình dung như một vị Vua ( của
Mma
Qquỷ
), đầu đội mũ triều thiên, có hột ngọc chiếu sáng làm mờ mắt những
kẻ nhìn nó ; dĩ nhiên sự sáng chói nầy là một ảo
ảnh có sức mê hoặc do tánh xấu thuộc vài bản chất tạo ra.
Trong quyển “Ánh Ðạo
Phương Ðông,”[22] [22], Sir Edwin Arnold có mô tả một
quang cảnh rất cảm động trong đó vị vuMa của sự
hắc ám dẫn đầu một đám ác quỷ tiến đến trước mặt Đức Phật
Thích Ca của chúng ta, đang ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề, khi Ngài sắp đắc Qquả
Chánh Ðẳng Chánh Giác .
Con thiêu thân bị ngọn đèn sáng chói
hấp dẫn nên phải chết trong chất dầu dầy đặc. Nếu Hồn lơ đễnh, không quật ngã
được Ccon
Qquỷ
ngạo nghễ của ảo mộng, thì Hồn sẽ trở lại Ttrần
Ggian
làm nô lệ cho Ma Vương.
Hãy nhìn xem đoàn Hồn lang thang
trên mặt biển ba đào của đời người như thế nào, và khi kiệt sức, máu rơi, cánh
gãy, bằng
cách nào chúng nó mới rớt xuống những lượn sóng cao
ra sao. Bị cuồng phong dồn dập, bão táp lôi cuốn, chúng trôi giạt
trong những dòng nước cuộn và biến mất ngay trong những xoáy nước vĩ đại.
Vấn đề “những Llinh
Hhồn
bị bỏ rơi” rất phức tạp. Có những Llinh
Hhồn
giống như học sinh học cùng lớp, hoặc vì quá trẻ hay vì lười biếng nên mỗi niên
khóa không đủ sức theo đa số các bạn lên lớp cao hơn. Cũng có những trường hợp
trong đó Pphàm
Nnhơn
trong lúc tái sinh theo đuổi vật chất đến nỗi không làm được gì hữu ích cho
Chơn Nhơn, nên bị phế bỏ. Trong trường hợp thứ ba, phải kể đến những hậu quả
ghê gớm của những phép luyện tà thuật. Chúng tôi không có thì giờ để khai triển
vấn đề nầy ở đây. Chúng tôi đã đề cập đến những hậu quả ấy khá dài dòng trong
một bài báo lấy nhan đề “Những Llinh
Hhồn
bị bỏ rơi” được sưu tập lại trong ấn bản thứ nhứt của bộ “Ðời Sống
Tâm Linh.”[23] [23].
Trong mấy đoạn trên có vài thành ngữ
được tạo ra do óc tưởng tượng rất mãnh liệt của người Ðông Pphương,
chúng ta không nên hiểu theo từng chữ : Nnhững
vật trôi gidạt
ngoài biển, những cánh gãy. Người nào rời bỏ Ðường Ðạo vì ảnh hưởng của sự ham
muốn vật chất dĩ nhiên là lúc ấy không còn hy vọng tiến hóa về mặt Ttinh
Tthần,
tuy nhiên dù trong trường hợp đó, y cũng học được một bài học sau nầy sẽ có lợi
cho Llinh
Hhồn.
Trong mọi trường hợp điều hay nhất đối với con người là tự học hỏi bằng sự suy
tư sáng suốt, nếu y xao lảãng
điều ấy thì chừng đó y sẽ gặp nhiều kinh nghiệm đắng cay.
Mỗi người không cần gì
phải trải qua tất cả mọi thứ kinh nghiệm. Con người càng
tiến hóa và trở nên khôn ngoan, năng lực quan sát của y càng tăng trưởng và y
càng thấy được nhiều kinh nghiệm phải học hỏi mà những kẻ chểnh mảng khác không
thấy được giá trị của chúng. Người ta nói rằng kẻ dại dột không thể học được
với ai, kể cả với
người khôn ngoan ; trái lại người khôn ngoan luôn luôn
có thể học hỏi ngay cả với kẻ dại. Muốn biết lửa nóng, không cần phải để tay
tiếp xúc với nó; kẻ dại dột có thể làm như thế, nhưng người khôn ngoan có nhiều
cách để biết lửa nóng. Tuy nhiên người nào không chịu khó suy nghĩ, không tìm
cách học hỏi, chúng ta phải nhìn nhận là y rất sung sướng, nhưng y phải chịu
những bài học kinh nghiệm nghiêm khắc, vì nếu không có kinh nghiệm đó y sẽ
không học được gì cả và sẽ không tiến bộ chút nào.
Luật Nhân Quả đem lại cho mỗi người
những kinh nghiệm mà y đã gây ra cho kẻ khác, vậy nó là ân nhân và sau cùng
cũng là kẻ giải thoát cho y, chứ không phải là một công cụ để trả thù hay một
hình phạt. Giả sử một tên cướp đường, tấn công một khách bộ hành, nó đánh ngã y,
hoặc có thể giết y luôn và đoạt lấy tài vật. Sớm muộn gì Luật Nhân Quả cũng bắt
nó phải chịu một kinh nghiệm đau khổ thuộc loại như thế. Dám hành động như vậy,
tên cướp phải là một tay tàn bạo, không có tình cảm và thiếu suy nghĩ
; nếu nó biết suy nghĩ hoặc có chút tình cảm đối với nạn nhân hoặc
vợ con của kẻ vô phước, thì tư tưởng ấy đã khiến nó dừng tay. Vì thô bỉ, trì
độn, thiếu suy nghĩ, kẻ ác cần phải chịu những kinh nghiệm hung bạo do y gây ra
cho kẻ khác, chỉ có điều ấy mới cảm phục được y. Về sau, Luật Nhân Quả đem đến
cho y sự đau khổ ; thì vừa lúc muốn tấn công kẻ khác y
sẽ nhớ lại và dừng tay. Sau đó, y sẽ ăn năn hối cảãi,
đó là nhờ Lluật
Nnhân
Qquả
bao giờ cũng giáo hóa chứ không hề hành phạt.
Nếu khi qua
Phòng Minh Triết, con muốn đạt đến Thung Lũng Hạnh Phúc, thì hỡi Đđệ
Ttử,
con hãy đóng chặt giác quan, đừng nghe theo tà thuyết chia rẽ cực kỳ hung ác,
nó làm cho con xa lìa tất cả.
C. W.
L. Herbert Spencer đã gần đạt được chân lý sâu xa nhất về sự
tiến hóa khi ông định nghĩa tiến hóa như sự trải qua tuần tự, từ một tính thuần
nhất rời rạc đến một tính thuần nhất liên hệ đến cơ cấu và chức năng. Theo ông,
sự tiến hóa có nghĩa là mọi vật ban sơ đều tương đồng và phân cách nhau, về sau
trở nên dị biệt nhưng lại hiệp nhất với nhau. Tính đặc biệt nầy được nhận thấy
trong thân thể con người, nơi có nhiều cơ quan khác nhau vận chuyển vì lợi ích
chung : Cchẳng
hạn như bộ máy tiêu thực tiêu hóa thực phẩm để nuôi toàn thân
; tay cầm lấy, chân bước đi, mắt nhìn thấy chẳng vì tay, chân hay
mắt mà cho châu thân. Cũng giống như thế, sự tổ chức xã hội cứ tiến bộ thêm mãi
trải qua nhiều thế kỷ. Con người càng ngày càng khác biệt nhau, thì ở đời các
nghề nghiệp cũng tiến bộ về mặt kiến thức cũng như thực hành. Y Ssĩ
trị bệnh cho mọi người, còn Ggiáo
Ssư
thì dạy học; Kkỹ
Ssư
kiều lộ xây cầu cho thiên hạ qua lại. Mỗi cá nhân đều làm việc cho tập thể và
đều được hưởng lợi lạc do sự làm việc của tập thể.
Khi ý niệm và tinh thần tổ chức phát
sinh nơi con người đối với đồng loại, thì nhân loại không còn thành lập một
đoàn thể rời rạc và thuần nhất, mà trở nên một toàn thể dị biệt và liên hệ
nhau. Thấm nhuần tinh thần đó, con người sẽ hết lòng làm việc cho Ccộng
Đđồng,
Qquốc
Ggia
hay Nnhân
Lloại
và thích ứng với Lluật
hiệp nhất để đem lại cho nó những gì nó chờ đợi nơi các cơ năng quan khác
của đại thể, những yếu tố thuần nhất ường rời
rạc thuộc về vật chất hoặc xã hội không thể tự tổ chức. Chính nguyên lý bên
trong quy tụ chúng lại và nhờ sự trợ giúp hỗ tương chúng mới tiến bộ nhanh
chóng. Sự hợp nhất là tình thương, là sức mạnh ở phía sau sự tiến hóa, là năng
lực của sự sống ; nó chính là Bồ Đđề
Ttâm,
là sự Mminh
Ttriết
Ttối
Tthượng.
Giữa sự hợp tác và tình huynh đệ có một sự dị biệt sâu xa : Ssự
hợp tác là một phương thức nhận định sáng suốt những tương quan nhân loại, còn
tình huynh đệ là cảm thức có sự sống duy nhất trong mọi sinh linh.
Trong sự tiến hóa cá nhân, thường
chính tinh thần hợp tác phát triển trước nhất : Nnhững
hoạt động trên thế giới quy tụ con người lại; sau đó nhờ sự tiếp xúc tia lửa
thiêng liêng của Bồ Đđề Ttâm
mới phóng xuất ra. Chẳng hạn hai người đảm nhiệm một công việc sưu tầm và giúp
đỡ lẫn nhau; từ đó phát sinh tình bằng hữu chân thật. Nhưng nếu tình huynh đệ
phát sinh ra trước, nó sẽ không biến thành sự hợp tác hoàn hảo và hữu ích, trừ
phi trí thông minh đồng thời được đánh thức và được áp dụng vào những công
việc trên Tthế
Ggian.
Chúng tôi xin kể lại mối tình đậm đà giữa David Copperfield và Dora, bà vợ ông
vì thiếu óc thực tế nên phải bị tiểu thuyết gia thu ngắn sự sống lại và thay
thế bằng một người vợ khác khôn ngoan hơn là Agnèes,
nhờ đó đã tạo được cho câu chuyện một kết cuộc tốt đẹp hơn.
Trong đời sống Hhuyền
Bbí
thường xảy ra việc có nhiều thí sinh khá mở mang về Thượng Trí để hiểu biết
thật rõ nguyên tắc của sự hợp tác và những định luật tinh thần nhưng lại thiếu
sâu sắc và hình như không thể tiến bộ một cách nhanh chóng ;
họ phải đợi đến khi tình thương chân thật là Bồ Đđề
Ttâm
trong chính họ được đánh thức : Đđó
là năng lực mãnh liệt bên trong con người. Tuy nhiên trong giai đoạn thứ hai
nầy củalà
sự phát triển tinh thần thường gặp nhiều xao động và bối rối; năng lực thiêng
liêng tuôn xuống một cách không đều đặn và sự vận hành của nó cũng không luôn
luôn đúng cho chúng ta mong muốn, do đó nó đã gây ra nhiều lo âu cho kẻ chiếm hữu nó
- cho đến khi giai đoạn thứ ba là ngày giờ của sự an tĩnh ngự trị. Vì sự thanh
tịnh là mục đích của thí sinh, nên Ttiếng
Nnói
Vvô
Tthinh
mới bắt y phải
vượt qua Phòng Minh Triết để đến Thung Lũng Hạnh Phúc. Ngay trên Ccõi
Bồ Ðề cũng còn vài nhị nguyên tính hay tánh chia rẽ. Chúng ta không thể tự
thương yêu chính mình; tình thương đòi hỏi một đối tượng, dù đó chỉ là một đối
tượng vật chất, nhưng sự sống thiêng liêng đến biểu hiện trong biết bao Llinh
Hhồn
cao cả. Bồ Đđề
Ttâm
là một tấm màn thứ nhứt, là Avalokiteshvara của Ðại Ngã Cao Siêu chứ không phải
của Parabrahman. “Tà thuyết hung ác của sự chia rẽ” phải được loại trừ lần lượt
trên mọi Ccõi
: Hồng Trần, Trung Giới, Thượng Giới và ngay cả Ccõi
Bồ Ðề.
“Chớ để cho đứa con sinh ra ở Ccõi
Trời” của con phải chìm đắm trong biển cả Ma Vương, cách xa Mẹ của muôn loài
(Linh Hồn ), mà hãy để cho lửa mầu rút vào nội cung, nơi trái tim và nơi bổn
cung của Mẹ Thế Giới.
Bấy giờ nơi trái tim, lửa nầy sẽ
vươn lên đến tầng thứ sáu là tầng trung ương nằm giữa đôi mắt, nơi đó nó trở
nên hơi thở của Linh Hồn Duy Nhất, tiếng nói vang rền khắp cả, tiếng nói của
Tôn Sư con .
Ðứa con “sinh ra ở Ccõi
Trời” là Cchitta,
là Hạ Trí. Nó được sinh ra và từ Linh Hồn đi xuống, khi Mmanas
phân đôi trong sự chuyển tiếp. Cõi “Trời” tượng trưng cho các Ccõi
Aatma
- Bbuddhi
và Mmanas
; Ccõi “Ttrần”
tượng trưng cho các Ccõi
của Pphàm
Nnhơn.
Chúng ta cũng đã quan sát năm Ccõi
biểu hiện của nhân loại được chia làm hai nhóm có đặc tính khác nhau. Bên ngoài
năm Ccõi
nầy, các Ccõi
Chơn Thần và Tthiêng
Lliêng
hợp chung lại thành một nhóm thứ ba., VVậy
bảy Ccõi
cũng có thể hợp thành ba nhóm. Nhóm thấp nhất ở tại vùng của Ssattva
(Lluật
Llệ)
. Ở đây tất cả đều chịu sự chi phối của quy luật, nhưng con người
cũng được hưởng tự do một phần nào, vì “đứa con sinh ra ở Ccõi
Trời” vẫn ngựụ
bên trong nó và thay mặt cho quyền tạo ra quy luật ở nơi nó. Thường nếu đời
sống con người thiếu điều hòa, phóng túng hơn những loài thấp kém nhất trong Tthiên
Nnhiên
bên ngoài, chính vì con người có tự do, có năng lực lựa chọn con đường riêng
của mình.
Nhóm củaở
các Ccõi
trung bình gồm những Ccõi
đầy năng lực tinh thần, sự sống thâm sâu, mà nếu không có nó, các Ccõi
khác sẽ bị tiêu diệt và bất động. Các Ccõi
nầy là Ccõi
của Tthần
Mminh,
của Áánh
Ssáng,
của Avalokita hay “thấy được,”,
Thượng Ðế - sự sống được chiêm nghiệm bởi sự Mminh
Ttriết
không phải là hình tướng do trí năng nhận thức.
Nhóm của các Ccõi
cao nhất là nhóm của Chơn Thần, là Ðại Ngã toàn phúc và tự do, nơi cư ngụ của
những thực tại ở phía sau mọi lý tưởng của nhân loại và sự xuất thần vượt hẳn
tâm thức, là cốt tủy, tinh hoa của chân, thiện, mỹ, của điều hòa, sự tri kiến,
sự hợiệp
nhất và Chân Llý.
“Hỏa Llực”
ở đây là năng lực, được gọi theo tiếng Phạn là Kkundalini.
Người ta có thể mô tả nó như một ngọn lửa tiềm tàng cuộn tròn dưới chót xương
sống của mỗi người như một con rắn đang ngủ, trừ ra những người đã có ý đánh
thức nó dậy. Chúng ta có thể hiểu một cách dễ dàng sự hiện hữu của một ngọn lửa
như vậy, vì mọi người đều biết rằng trong hai lá phổi của chúng ta sự hô hấp
không ngừng cung cấp một nguồn lửa ngấm ngầm và như sự tiêu hóa, nó cũng là một
thứ lửa. Kundalini có đặc tính của một ngọn lửa điện - một thứ năng lực phát
sinh ra nhiệt khi nó gặp một vật cản trở - hơn là đặc tính của một ngọn lửa do
sự đốt cháy nhiên liệu; tuy nhiên đó là một loại năng lực khác đối với điện
khí.
Tôi đã có viết về vấn đề nầy trong
quyển “The
Inner Life “(
chủ đề cả bài ấy là Luồng Hỏa Xà và các trung tâm bí lực
) và trong Chương IV của quyển “The Hidden Side of Things” (
bài nói về Sinh Llực
- Vitality ) và hy vọng sẽ xuất bản một thiên
khảo luận đầy đủ hơn, được kèm theo nhiều hình ảnh. Về vấn đề nầy có một nền
văn học bằng chữ Bắc Phạn rất dồi dào, mặc dù hơi tối nghĩa, trong đó có quyển “Shatchakranirupana,”, “Ananda
Lahari”
và nhiều tác phẩm khác. Quyển thứ nhứt có bản dịch rất tuyệt diệu với lời bình
giảng của Arthur Avalon, nhan đề là “The Serpent Power,” do Ganesh
và Co., Madras xuất bản.
Ðây là một bài tóm lược thật vắn tắt
về vấn đề của Luồng Hỏa Xà. Kundalini là luồng năng lực đặc biệt cực thấp phát
xuất từ Ðức Thượng Ðế và thường nằm ngủ yên trong Lluân
Xxa
hay Ttrung
Ttâm
Bbí
Llực
dưới chót xương sống. Nếu nó được đánh thức sớm, nghĩa là trước khi con người
loại ra khỏi tính tình của y tất cả những vết nhơ về tình dục và ích kỷ, nó có
thể đi xuống phía dưới, khiến cho vài trung tâm thấp thỏi trong thân xác hoạt
động (chỉ dùng một cách đặc biệt trong vài hình thức đáng trách thuộc về tà
thuật) ; và sẽ khiến cho kẻ bất hạnh ấy rơi
vào một đời sống ghê tởm không thể tả xiết, ít nhất nó cũng tăng cường tất cả
những gì đang tiềm ẩn trong con người - kể cả tham vọng và tính kiêu căng.
Kundalini chỉ nên đánh thức theo sự trông nom riêng biệt của một vị Chơn Sư
; Ngài sẽ chỉ dẫn cho sinh viên cách dùng ý chí để thức tỉnh nó,
cách hướng dẫn nó di chuyển và trong xương sống nó có thể đi ngang qua các Luân
Xxa
hay các Trung Ttâm
Bbí
Llực,
từ Lluân
Xxa
dưới chót xương sống đến các Lluân
Xxa
trên bề mặt Tthể
Pphách,
tại lá lách,[24] [24], dưới rún, tại quả tim, yết hầu,
giữa hai chân mày và trên đỉnh đầu. Sự di chuyển của nó đều khác nhau tùy theo
mẫu người. Ðó là một tác động Vvật
Llý
hoàn toàn, và năng lực đã vạch một lối đi bằng cách thực sự thiêu đốt những sự
bất tịnh trong Tthể Pphách.[25] [25].
Cũng có những Lluân
Xxa
trong Thể Vía của những người văn minh thuộc Ggiống
Ddân
tiến hóa cao, đã được Kkundalini
đánh thức và hoạt động trên Ccõi
Trung Giới. Nhờ sự phát triển của những trung tâm nầy, Thể Vía đã trở nên mẫn
cảm dưới nhiều ảnh hưởng của Ccõi
Trung Giới; người nào được đánh thức trung tâm ấy có khả năng di chuyển khắp
nơi; đáp ứng với những thực thể trên Ccõi
Trung Giới một cách đầy thiện cảm, thấy và nghe được trên Ccõi
ấy, nói chung, là những quan năng thuộc về Ccõi
Trung Giới. Nhưng muốn nhớ được những kinh nghiệm nầy hoặc sử dụng những quan
năng của Thể Vía trong khi ở trong xác phàm một cách chính xác và được kiểm
soát đúng đắn, thì phải hướng dẫn Kkundalini
xuyên qua những trung tâm tương ứng trong Tthể Pphách.
Bây giờ chúng ta xin đặc biệt đề cập
đến vùng ở giữa hai chân mày liên hệ đến Ttùng
Qquả
Ttuyến
(the Ppineal
Ggland)
và Hhạch
Mmũi.
Những luồng sinh lực phát xuất từ trung tâm thứ sáu và thứ bảy của Thể Vía (ở
giữa hai chân mày và trên đỉnh đầu ) thường hội tụ trên Hhạch
Mmũi
khi trung tâm Tthể
Pphách
hoạt động được; rồi chúng truyền sinh lực cho nó và dùng nó làm công cụ. Nhưng
đối với vài người Lluân
Xxa
thứ bảy trong Thể Vía truyền sinh lực cho Ttùng
Qquả
Ttuyến
thay vì Hhạch
Mmũi,
trong trường hợp đó, nó quy định một thông lộ trực tiếp với Ccõi
Hạ Thiên chứ không xuyên qua Ccõi
Trung Giới theo bề ngoài như thường lệ. Ðó là con đường mà những người ấy nhận
được những thông điệp phát xuất từ nội tâm, trong khi ở những
người khác chúng đến từ những Hhạch
Mmũi.
Khi Kkundalini
thức động thình lình, đó là việc rất hiếm, nó thường bò lên theo con đường
xương sống thay vì theo đường xoắn ốc như Nnhà Hhuyền
Bbí
Hhọc
luyện tập hướng dẫn nó. Trong trường hợp nầy có lẽ nó sẽ đi qua đỉnh đầu, đương
sự chỉ mất ý thức trong chốc lát chứ không bị tổn hại.
Những kinh sách Ấn Ðộ chỉ nói bóng
dáng về vấn đề ấy hơn là giải thích những gì xảy ra. Các tác phẩm ấy không có
nói gì về những Lluân
Xxa
trên Tthể
Pphách,
mà chỉ đề cập đến cội rễ của chúng trong xương sống. Dọc theo xương sống, từ
dưới chót tới đỉnh, có đường Merudanda, hay cây roi của Meru ,
là trục trung tâm của sự sáng tạo. Merudanda có một đường giao thông gọi là Ssushumna,
riêng phầaàn
Ssushumna
cũng có một đường thông thương khác gọi là Cchitrini,
nhỏ li ti như tơ màn nhện. Tơ đó nối liền các Lluân
Xxa,
giống như mắt tre. Luân Xxa
dưới thấp gọi là Mmuladhara,
ở tận cùng xương sống và Kkundalini
nằm ở đó, khóa chặt cửa thông thương với Merudanda.
Mục đích của người chí nguyện là đưa
Kkundalini
đi từ Lluân
Xxa
nầy đến Lluân
Xxa
khác cho đến Lluân
Xxa
ở giữa hai chân mày. Rồi y nhận thấy y ở lại đàng sau, còn Lluồng
Hhỏa
Hhầu
thì phóng vào trong Ssahasrara,
hoa sen “lớn với ngàn cánh” ở tại đỉnh đầu. Nếu y theo dõi Kkundalini,
y thấy nó làm cho y xuất ra khỏi xác thân và cản trở trong một lúc không cho y
tham thiền trong xác thân đó như thường lệ. Nó sẽ lên từ từ trong Cchitrini
dưới ảnh hưởng ý chí của thí sinh trong lúc tham thiền. Nếu chỉ thực hành một
lần, y sẽ tiến một chút; nếu lại tiếp tục y sẽ tiến xa hơn và cứ như thế. Khi Kkundalini
đi đến một Lluân
Xxa
hay Hhoa
Ssen,
nó sẽ soi thủng Lluân
Xxa
và Hhoa
Ssen
trước đó rũ xuống, bây giờ đứng sửng lên. Thí sinh tham thiền về Kkundalini
tưởng tượng ra một hình thể của nó và các năng lực kết hợp trong Hhoa
Ssen.
Một Ddhyana
tỉ mỉ hay một thời công phu đầy đủ chi tiết, hoàn toàn tượng trưng và được quy
định cho mỗi Hhoa
Ssen.
Sau thời công phu thí sinh hướng dẫn Kkundalini
đi ngược chiều lại trong Mmuladhara,
nhưng trong vài Ttrường
Pphái,
không được hướng dẫn nó lại xa tận Lluân
Xxa
tại trái tim và tại đây nó phải đi vào chỗ mà người ta gọi là Pphòng
của nó.
Kundalini có thể được đánh thức bởi
nhiều phương pháp, nhưng việc ấy chỉ được thực hiện dưới sự điều khiển của
một vị Ðạo Sư hay một bực Thầy có thẩm quyền, phải là Chơn Sư trong Quần Tiên
Hội mới có trọng trách đào luyện thí sinh thôi. Thí sinh nào muốn được Chơn Sư
chỉ dẫn cách đánh thức Lluồng
Hhỏa
Hhầu
thì phải diệt trừ được ba chướng ngại đầu tiên bằng Ýý
Cchí
của mình để y không còn gặp sự rối loạn nào do Ttình
Ddục
và Vvật
Cchất
tạo ra những sự nguy hiểm nghiêm trọng. Chừng đó “Ðứa con sinh ra ở trên Trời”
của y được hòa hợp chặt chẽ với Thượng Trí rồi mới có thể làm chủ được ba nơi
trú ngụ của Pphàm
Nnhơn.
Khi năng lực Kkundalini
được tự do sinh hoạt trong xác thân, nó sẽ thanh lọc các đường thông thương và
phụng sự Chơn Nhơn cao cả. Do đó, Kkundalini
thường được đánh thức vào lúc Ðiểm Ðạo lần thứ Ba, hoặc vào Tthời
Mmạt
Ppháp
(Kkali
Yyuga)
sau đó, hay thời đại đen tối ngày nay. Hơn nữa, nó chỉ được đánh thức ở những
chiều sâu khác nhau hầu giúp cho thí sinh nhạy cảm hơn đối với các Ccõi
cao trong những buổi đầu thôi.
Người ta tưởng tượng Kkundalini
như một nữ Thần ; người ta gọi nó và cho tên là
Shabdabrahman trong xác thân. Shabda có nghĩa là âm thanh và như chúng tôi đã
nói, âm thanh nầy là năng lực sáng tạo; ngôn từ được xem như hình thức bề ngoài
nhất để diễn đạt tư tưởng; sau cùng, dưới hình thức linh động thực sự của nó,
tư tưởng là Kkriyashakti.
Vài chữ trong mẫu tự là nền tảng của ngôn ngữ nhân loại, có vị trí trong mỗi Lluân
Xxa,
và năng lực của những chữ đó ( thành
phần của chúng thuộc tiếng sáng tạo) sẽ thức động sau khi Kkundalini
hợp nhất với Shiva trong trung tâm cao nhất, đi xuyên qua chúng và làm cho
chúng chiếu diệu bởi ánh sáng rực rỡ của nó. Ngôn từ sáng tạo của Brahma (
Ðức Thượng Ðế ngôi Ba) gồm có bốn hình thức hay giai đoạn; do đó
mà Ngài được gọi là Thượng Ðế Ttứ Ddiện
. Khi Kkundalini
biểu thị nó trong xác thân, nó cũng biểu hiện bốn hình thức trong đó
trong đường
đi lên xuyên qua các Lluân
Xxa.
Kundalini được gọi là Mẹ Tthế
Ggiới
vì tác động ly tâm của các quyền năng tâm thức luôn luôn được xem như thuộc Ââm
Llực.
Vì thế mà Ýý
Cchí,
Mminh
Ttriết
và Hhành
Đđộng
đều thuộc Ââm
Ttính,
là những Sshakti
hay Qquyền
Nnăng,
những hình thái bên ngoài của Ðấng Thiêng Liêng. Kundalini làm biểu hiện tất cả
chúng như chúng được biểu lộ trong sự sáng tạo thế giới, trong hoạt động của
Brahma, Ðức Thượng Ðế Nngôi
Ba. Người ta cũng gọi nó là Mẹ Tthế Ggiới,
vì nhờ nó mà những Ccõi
khác nhau có một hiện tồn hữu thức đối với Nnhà Hhuyền
Bbí
Hhọc.
Chú thích sau đây của Bà Blavatsky
cũng sẽ đem
lại vài ánh sáng cho những lời giải thích trước kia :
Phòng trong trái tim, tiếng Bắc Phạn
gọi là Brahma-pura.
“Lửa thiêng” là Kundalini.
“Lửa Tthiêng”
và “Mẹ Tthế
Ggiới”
là những danh hiệu của Kundalini, một trong những quyền năng thần bí hay nguyên
lực của các Nnhà
Yogis. Ðó là Buddhi được xem như nguyên lý tích cực, thay vì tiêu cực (
thường người ta biết mặt tiêu cực của Bồ Ðề khi người ta chỉ nói
nó như cái thể hay sự chứa đựng trong Tinh Tthần
tối cao, Atma ). Nó chính là một thứ điện lực Ttinh
Tthần,
một quyền năng sáng tạo, khi được đánh thức nó có thể hủy diệt hoặc sáng tạo
một cách dễ dàng.
Khiông
biết một cách thật đúng Bà Blavatsky muốn nói gì khi Bbà
định nghĩa Kkundalini
là Bồ Đđề
Llinh
Hhoạt,
người ta có thể do dự trước nhiều lối giải thích.
Trong con người bình thường Thể Bồ
Ðề không hoạt động tích cực ở đời sống bên ngoài, nhưng sau khi dứt bỏ ba
chướng ngại đầu tiên, Pphàm
Nngã
được thanh lọc đến nỗi Thể Vía ngừng hoạt động riêng cho chính nó để đáp ứng
một cách trung thành với Ccõi
Bồ Ðề, chừng đó mới đến lúc Thể Bồ Ðề hoạt động như chúng ta đã thấy, khi thời
kỳ đó mở màn hay trước đó một chút, Kkundalini
thường được đánh thức; vả lại khi các quan năng của Thể Vía được khai mở, trong
lúc con người còn
giữ xác phàm, thì chính cái quan năng ấy được dùng làm gương soi cho Ccõi
Bồ Ðề, bấy giờ nó thực sự trở thành một ngọn lửa của tình thương trong đời sống
con người. Ngay trong thời kỳ tiến bộ của nhân loại, sự đánh thức Tthần
Nnhãn
và những quyền năng tâm linh khác trong bộ óc Hhồng
Ttrần
cũng không cần thiết. Ðó là điều được trình bày trong tác phẩm “Trước Cửa Ðiểm Ðạo” ( Initiation, the Perfecting of Man
) của Bà Bác sĩ Besant. Trong đó Bbà
nói rằng trước khi được Ðiểm Ðạo lần thứ Ba, con người phải làm cho Ttinh
Tthần
của Ttrực
Ggiác
(Bồ Ðề )
đi xuống trong Ttâm Tthức
Hhồng
Ttrần
để nó ở lại trong con người và hướng dẫn y. Rồi Bbà
nói thêm : “Tiến trình đó thường được gọi là
sự phát triển những quyền năng tâm linh, và như thế là đúng theo nghĩa của danh
từ tâm linh nhưng điều nầy không ám chỉ sự khai mở Tthần
Nnhãn
và Tthần
Nnhĩ,
chúng tùy thuộc một tiến trình khác hẳn.”.
Trọn cả Ttam
Tthể
Tthượng
(Aatma-Bbuddhi-
Mmanas
) chỉ là yếu tố chính hay là Bồ Ðề của một Ttam
Tthể
còn rộng lớn hơn : Đđó
là Ttam
Tthể
của Chơn Thần, của Chơn Nhơn và của Pphàm
Nnhơn.
Thể Bồ Ðề rộng lớn đó gồm ba trạng thái ( Ýý
Cchí,
Mminh
Ttriết
và Hhoạt
Đđộng
) và trạng thái thứ ba ( Hhoạt
Đđộng,
Kkriyashakti
) bắt đầu vận chuyển trong thể xác để đánh thức các cơ quan và
giải tỏa các quyền năng tiềm phục của nó.
Chỉ tới lúc đó, con mới có thể
trở nên “Người du ngoạn Thiên Ccung,” ,
tung mây lướt gió, đi trên sóng mà chân không chấm nước.
Vấn đề nầy Bà Blavatsky nói
:
Kechara là “kẻ du ngoạn” hoặc “lên Ccõi
Ttrời.”.
Theo giải thích trong quyển Jnaneshvari, Adhyaya thứ sáu, chúa tể của những
luận giải thần bí, thì thân xác của Nnhà
Yogi giống như làm bằng gió, như từ “một
vừng mây mọc ra tay chân.”.
Sau đó – “Nngười
([Yogi)]
thấy được những vật ở tận bên kia biển cả của các vì sao ; Nngười
nghe và hiểu được cả tiếng của Thiên Thần và biết hiểu được
những gì xảy ra trong trí con kiến”.
Thành ngữ “du ngoạn Tthiên
Ccung”
có nhiều nghĩa. Chẳng hạn như trong lịch sử Ấn Ðộ, nó chỉ
cho Nnhà
Đđại
Hhiền
Ttriết
Narada, Vvị
Mmật
Ssứ
của Ðức Thượng Ðế, nhờ con đường của tinh chất Aakasha,
người có thể đi từ bầu Hhành
Ttinh
nầy qua bầu Hhành
Ttinh
khác. Tại các Ccõi
thấp, nó có thể là Thể Vía hay Tthể Mmayavi-Rrupa,
vì các Tthể
nầy dùng để di chuyển trong chốn mà người ta gọi là không khí hay bầu trời.
Tại Ccõi
Trung Giới, con người là một thứ mây, một sinh thể đầy kama, nghĩa là đầy dục
vọng và cảm xúc nhưng là một sinh thể ít được quy định rõ ràng hơn trên Ccõi
Hhồng
Ttrần.
Trái lại khi con người làm chủ được Kkama
của y, tạo cho nó một đặc tính rõ rệt, thì Thể Vía của y mới trở thành một vận
cụ được tổ chức. Sau đó nữa, đến thời kỳ ba chướng ngại đầu tiên được dứt bỏ, Mmayavi-Rrupa
được cấu tạo và giúp con người sử dụng được Thể Trí của y trên Ccõi
Trung Giới cũng như trên Ccõi
Hạ Thiên. Ðó là một trong các cách mà người ta có thể giải thích được thành ngữ
“bước chân không chấm nước” - nước tượng trưng cho Trung Giới.
Trước khi đặt chân lên nấc thang cao
tột của âm giai thần bí, con phải nghe đủ bảy thứ tiếng của Thượng Ðế bên trong
con (Chơn Ngã ).
C. W.
L.- Như chúng tôi đã nói, Tiếng Nói Vô
Thinh phải được dùng để hướng dẫn thí sinh cho đến Ccuộc
Ðiểm Ðạo lần thứ Tư. Về Ðiểm Ðạo nầy tâm thức của y được nâng lên đến nguyên lý
thứ bảy và bắt đầu hoạt động tại Ccõi
Niết Bàn ( Tthe Aatmic
or Nnirvanic
Pplane
). Chừng đó con người mới sẵn sàng đặt chân lên chỗ mà ở đây gọi
là nấc thang cao tột và được chuẩn bị Ðiểm Ðạo lần thứ Năm - Ccuộc
Ðiểm Ðạo của Qquả
Vvị
Chơn Tiên. Ðường Ðạo chia làm hai phần đều bằng nhau, nó
có thể gọi là những bậc thấp và bậc cao của chiếc thang.
Người được Ðiểm Ðạo phải nghe bảy
thứ tiếng nói của Ðức Thượng Ðế ngựụ
trong lòng y. Trong thời kỳ bấy giờ, Ðức Thượng Ðế nội tâm đó là Chơn Ngã cao
siêu, là Bồ Ðề Ttâm
hay nguyên lý thứ hai. Trong khi tham thiền người chí nguyện có thể nghe hoặc
không nghe được một loạt bảy thứ âm thanh, chứng tỏ rằng y đã đạt đến bảy Ccảnh
của Ccõi
Bồ Ðề ; điểm nầy tùy thuộc bản tánh tâm
linh của y. Nhưng trong mọi trường hợp y phải làm cho ảnh hưởng của Bồ Ðề Ttâm
đi xuống trong đời sống của y và tận tới Ccõi
thấp, để cho sự hoạt động của tất cả các nguyên lý của y được điều khiển, và
như thế, Ðức Thượng Ðế ngự bên trong y luôn luôn hiện diện trong đời sống của
y.
Trong thời kỳ thứ hai được gọi là “Chiếc
thang của những âm giai thần bí, ”, có
lẽ đúng như thế, vì đó là những âm giai của Tiếng Nói Vô Thinh, ẩn tàng trong
Atma hay Ðại Ngã cao siêu. Trong bản văn nầy, chúng ta hãy coi chừng đừng hiểu
quá xa nghĩa đúng đắn của một chữ Anh thông thường nào, vì đây là một bản dịch.
Trong nguyên bản, mỗi chữ Sanskrit hay Pali đều dẫy đầy những ý nghĩa chuyên
môn. Tuy nhiên tiếng thần bí mà ngữ vcăn
có nghĩa là “gần con mắt” ( to close the eyes ),
ở đây nó chỉó
vài âm thanh không hề lẫn lộn với đời sống ly tán mà chỉ đưa ra những mệnh
lệnh dường như phát xuất từ trên cao bằng đường lối của tâm thức thuần túy gọi
là ex cathedra. Bản văn cho biết là những âm thanh kê ra đều có thể nghe được
chứ không có gì là “Tthần
Bbí
” trong bất cứ trường hợp nào, đối với thí sinh trong thời kỳ
trên. Lương tâm thật sự không nói cho bạn biết bạn phải làm gì như người ta
thường tưởng, nhưng nó chỉ ra lệnh để bạn theo con đường mà bạn biết là hay hơn
hết, khi cái trí của bạn tìm cách bàou
chữa để theo con đường khác ; nó nói bằng uy quyền của ý chí
thiêng liêng để bắt buộc đời sống của chúng ta phải theo một chiều hướng nào
đó. Ðó không phải là Atma, mà chính là Bồ Ðề Ttâm
hay nguyên lý thứ hai, nó mang đến cho chúng ta kiến thức thuộc về trực giác và
điều thiện cũng như điều ác.
Tiếng nói thứ
nhứt giống như tiếng êm ái của Cchim
Qquyên
hát cho chim mái nghe một ca khúc khởi hành.
Tiếng thứ nhì giống như tiếng chập
choã bằng bạc của các vị Thiên Tôn ( Dhyanis
) đánh thức các ngôi sao lấp lánh.
Tiếng kế đó như tiếng than thở nhẹ
nhàng của con Tthủy
Qquái
bị nhốt trong vỏ.
Tiếp theo là tiếng của đàn vina.
Tiếng thứ năm giống như tiếng sáo
trúc xoáy vào tai.
Kế đó nó biến thành tiếng kèn chát
chúa.
Tiếng chót hết rung chuyển như tiếng
gầm điếc tai trong đám mây của cơn bão tố.
Tiếng thứ bảy át cả mấy tiếng kia.
Chúng im lặng hết và người ta không
còn nghe chi nữa.
Bảy loại âm thanh được đề cập ở đây
đã khích động mãnh liệt tính hiếu kỳ của tất cả những độc giả đã suy tư
về những trang của quyển sách nầy. Trước hết chúng ta hãy chú ý đến đặc tính
của các âm thanh ; rồi chúng ta sẽ thấy rằng chúng có
thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. TheoVới
thứ tự được sắp xếp, chúng càng lúc càng tăng thêm tính cách vật chất và mất
hẳn bản tính tiềm nhập của chúng. Chẳng hạn chúng ta nhận thấy sự khác nhau
giữa đàn vina và kèn Ấn Ðộ theo kiểu xưa. Có thể là trong một gian phòng rộng
rãi đầy đủ thính giả, khi được nghe lần đầu
tiên những âm thanh huyền diệu tinh vi của tiếng đàn Vvina,
người Âu Châu hầu như luôn luôn lấy làm ngạc nhiên mà nhận thấy rằng không có
một tác dụng mạnh mẽ nào đối với họ, các âm thanh ấy đi vào những góc kẹt xa
xôi và mang đến ấn tượng những âm điệu gần như xa lạ đối với Ccõi
Vvật
Cchất.
Loại âm thanh cao hơn hết được so
sánh với tiếng hát của Cchim
Qquyên.
Người ta nói rằng có nhiều trường hợp giọng hát của nó vút lên đến một độ cao
nào đó rồi ngưng luôn không còn nghe được bởi thính giác chúng ta nữa, mặc dù
những rung động của tiếng hát còn hiển nhiên trong ccuốngổ
họng của con chim. Sự hiện hữu của những âm thanh cao như thế đều được các Ssinh
Vviên
Kkhoa
Hhọc
biết rõ. Chẳng hạn âm thanh của một cái còi, dưới sự gia tăng áp lực của không
khí hay hơi nước có thể vang lên chát chúa đến nỗi những người nghe cho biết
đến mức độ nào đó họ hết nghe được nữa. Muốn gọi những con chó
săn Ðức, người ta có một thứ còi đặc biệt. Dụng cụ nầy giống như một cái còi
bình thường, khi sử dụng nó, người ta không nghe được một âm thanh nào, nhưng
con chó đang ở trong một phòng khác hoặc ở một nơi nào đó, liền vảnh tai lên
rồi phóng chạy đúng đến nơi đúng tiếng
còi phát ra.
Có hai cách giải thích các thứ âm
thanh. Âm thanh thứ nhứt được ghi trong bản kê có thể tiêu biểu cho âm thanh
chót mà thí sinh nghe được. Các âm thanh được liệt kê từ trên xuống dưới như
thứ tự phát sinh ra chúng theo sự sử dụng của người Ðông Pphương,
âm thanh thứ nhứt đã tạo ra được xếp vào hàng thứ bảy khi người chí nguyện đến
gần Ðấng sáng tạo ra âm thanh đó. Tiếng gầm điếc tai của một đám mây trước cơn
bão đến trước tiên ; nó tiêu biểu hay liên hệ với nguyên
lý vật chất trong con người. Ở khoảng giữa là tiếng đàn Vvina
tượng trưng cho Aantahkarana
( theo sự phân loại của Bà Blavatsky
). Tiếng hát của Cchim
Qquyên
đến sau cùng ; nó tiêu biểu cho Atma, sự tĩnh
lặng. Âm thanh thứ bảy là tiếng không thể nghe được tiếp theo những tiếng khác,
khi mấy tiếng nầy chạm đến nó, chúng tắt lịm và không còn nghe được nữa, sự
tượng trưng thật đúng như thế. Người chí nguyện phải đạt đến chỗ nghe được Ðức
Thượng Ðế trong tiếng gầm thét điếc tai tại Ccõi Hhồng
Ttrần,
rồi trong tiếng kèn trên Ccõi
Trung Giới, kế đó là âm thanh của Ccõi
Hạ Thiên được so
sánh với tiếng Ssáo Ttrúc,
và cứ như thế cho đến Ccõi
của nguyên lý cao hơn hết.
Theo một điểm khác, chính các âm
thanh đó có thể tượng trưng cho cường độ, tiếng nói của Chơn Ngã cao siêu mà
người chí nguyện nghe được. Tiếng nói đó chỉ là một nhưng người ta nghe bằng
bảy cách khác nhau. Lúc đầu nó tinh vi và êm ái như tiếng hát của Cchim
Qquyên
và thường biến mất trong yên lặng; kế đó là trở nên mãnh liệt và giống như
tiếng chập chõa bằng bạc của các vị Thiên Tôn. Nó gia tăng không ngừng; sau
cùng nó vang lên mãi và tràn đầy không khí như tiếng gầm thét điếc tai của đám
mây trong cơn bão tố. Ban đầu tiếng nói của Chơn Ngã cao diệu dường như tiến
triển một cách mỏng manh và mơ hồ đối với chúng ta, nhưng sau đó trở nên hoàn
toàn giống như tiếng sét thật.
Trong bản văn, chúng ta cũng nên ghi
nhớ là sự
chỉ định các thứ âm thanh khác nhau được mô tả khi Kkundalini
được đưa lên từ Lluân
Xxa
nầy đến Lluân
Xxa
khác. Hơn nữa năng lực đó được đánh thức ở bảy nơi thâm sâu trong bảy mức độ
khác nhau, để phát sinh những kết quả vật lý được đề cập đến với một sức mạnh
càng ngày càng gia tăng. Do đó khi Kkundalini
đi đến Lluân
Xxa
ở giữa chân mày, tiếng nói sẽ được nghe theo bảy cường độ, tượng trưng bằng bảy
âm thanh kể trên.
Chúng ta nên nhớ, tự nhiên trên Ccõi
Hhồng
Ttrần
dày đặc hơn hết, thí sinh chỉ nghe tiếng nội tâm một cách yếu ớt như tiếng hát
của Cchim
Qquyên.
Khi được lên đến Ccõi
kế tiếp, nơi mà Tthể
của Chơn Ngã nội tại ít dày đặc hơn, y sẽ nghe được tiếng nói của Chơn Ngã một
cách dễ dàng. Sau cùng, khi đạt đến nguyên lý cao siêu, tiếng nói sẽ giống như
tiếng gầm thét của đám mây trong cơn bão tố. Nếu chúng ta cho rằng các vật ở
trên cao phải tinh vi, thì ảo ảnh của các Ccõi
thấp là nguyên nhân duy nhất của nó vậy ;
sau rốt chúng ta phải công nhận là chúng biểu thị cho toàn khối và tiếng sấm
sét thật sự.
Các sự giải thích nầy không mâu
thuẫn nhau ; thí sinh có thể cùng một lúc thu
thập được tất cả những kinh nghiệm do chúng gây ra.
Về các âm thanh đó, trong những buổi
đàm đạo của chúng tôi trên sân thượng ở Adyar, tôi còn nhớ một câu hỏi đã được
nêu ra ; Bà Hội Trưởng chúng tôi đã giải đáp
như sau :
A.
B.-. Trong lúc tham thiền, một trong các âm thanh đầu
tiên mà tôi nghe được (thật rõ ràng ),
giống như tiếng trống trong làng quê xứ Ấn Ðộ. Khi mô tả âm thanh đó cho Bà
Blavatsky nghe, Bà nóii
: “Tốt lắm, cứ tiếp tục đi.”. Kế
đó tôi nghe như một tiếng nhạc êm dịu, rồi giống như tiếng chuông bạc. Một âm
thanh khác giống như tiếng chuông ngân trong thánh điện, mà người ta thường
nghe ở Benares. Theo ý tôi, các âm thanh nầy chứng tỏ rằng, tôi bắt đầu nghe
được trên Ccõi
Trung Giới. Tôi không bao giờ nhận thấy chúng có ý nghĩa gì khác hơn.
Ở Ấn Ðộ có người thành lập một ngôi
trường về phép tu nầy được Ðức Thầy M. khen ngợi. Sau một thời gian tu học, học
viên của trường nghe rất rõ ràng tiếng nói nhiều thứ âm thanh, nhưng tôi không
bao giờ thấy sự tiến bộ của họ được mau chóng. Ở miền Bắc Ấn người ta thường
đến hỏi tôi về ý nghĩa của những âm thanh đã nghe được. Tôi đáp
: “Ðó là lúc khởi đầu của Tthần
Nnhĩ,
không hơn không kém.”.
Tôi không bao giờ nhận định được rõ
rệt bảy thứ âm thanh do Bà Blavatsky đề cập đến. Chúng có thể giảng giải là bạn
phải đánh thức lần lượt tâm thức của bạn trên mỗi Ccõi,
cũng như dưới Tthế
Ggian
âm Fa là sự phối hợp của nhiều âm thanh tại Ccõi
vật chất. Nhưng việc nầy không giải thích được điều gì đáng kể.
C.
W. LL.-. Tôi không thể làm cho chúng tương ứng với các Ccõi
được. Cũng có thể chúng phải tiêu biểu cho những âm thanh khi Kkundalini
đánh thức bảy trung tâm, vì âm thanh là một trong các hiện tượng phát sinh
trong trường hợp đặc biệt nầy. Tôi chẳng bao giờ biết thật chắc chắn chúng có
nghĩa gì. Người ta sẵn sàng tin rằng tiếng chập choã bằng bạc, theo những âm
điệu khác, có thể thay thế tất cả những âm thanh được mô tả. Tiếng sấm dường
như không chắc chắn đến được xếp đúng vị
trí của nó.
A..
B.- Dĩ
nhiên vài âm thanh được nghe trong đầu chúng ta hoàn toàn thuộc về mạch Hhệ.
Khi một người nghe được chúng thật rõ ràng chính vì y đang lâm vào trạng thái
thiếu máu rất nguy hiểm.
Các âm thanh không có tánh chất luỹ
tiến. Bà Blavatsky thường hay làm việc một cách lòng dòng; có khi Bbà
bắt đầu bằng con số bốn và kế đó tiếp tục qua hai bên. Cũng có thể Bbà
không theo thứ tự nào cả. Người ta có thể bắt đầu bằng tiếng sấm, tiếng kèn và
tiếng của con
Tthủy
Qquái;
rồi tiếp tiếng chập choã có thể biểu thị cho âm thanh thứ tư, tiếng Ssáo
Ttrúc
thứ năm và tiếng đàn Vvina,
có âm thanh êm dịu hơn là tiếng thứ sáu, sau cùng, tiếng Cchim
Qquyên
sẽ làm âm thanh thứ bảy, tột đỉnh của cả loạt âm thanh.
C.
W. L.- Nếu chúng ta sắp xếp chúng nó lại như thế, thì
chúng bắt đầu có ý nghĩa rõ rệt.
A.
B.-
Khi được hỏi về Ccõi
Trung Giới, Bà Blavatsky đáp : “Nếu ta hiểu tất cả chúng nó theo cách đó
thì thật là vô lý ! Quý huynh có thể xếp đặt chúng như
thế nầy : tiếng sấm, tiếng kèn, tiếng Tthủy
Qquái,
tiếng chập chõa, tiếng sáo, tiếng đàn Vvina,
tiếng chim quyên.”. Bà
nói chúng ta chấp vào mặt chữ thật tệ hại.”[tle3].
C. W.
L.- Trong nhiều tác phẩm chữ Phạn cũng có nhiềuững
bảng kê tượng tự như thế. Ðây là một thí dụ rút trong Kinh Shiva Samhita.
Âm
thanh thứ nhứt giống như tiếng kêu vo ve của con ong bị say mật; âm thanh thứ
hai giống như tiếng sáo, âm thanh thứ ba như tiếng đàn hạc (harp). Kế đó, khi
lần lượt thực hành phương pháp Yoga để diệt trừ những sự tối tăm hôn ám dưới
Tthế
Ggian,
người ta sẽ nghe được âm thanh như tiếng chuông, rồi như tiếng sấm vang rền.
Khi con người thoát khỏi sự lo sợ, chú định hoàn toàn vào âm thanh cuối
cùng nầy, y sẽ đạt đến chỗ hợp nhất. Hỡi Ðức Thượng Ðế kính mến
! Khi cái trí của Nnhà
Yogi đắm chìm trong âm thanh nầy, y quên tất cả ngoại giới và mê man trong âm
thanh đó.[26] [26].
Khi tiếng thứ sáu đã lặn mất và được
đặt dưới chân Sư Phụ, thì Đđệ Ttử
nhập vào Nhất Thể , trở nên Nhất Tthể
ấy và sống trong đó.
Ðây là lời giải thích của Bà
Blavatsky về sáu âm thanh đó :
Sáu nguyên lý đầu tiên, có nghĩa là
khi Pphàm
Nnhơn
bị tiêu diệt và cá thể bên trong bị chìm đắm và biến mất trong nguyên lý thứ
bảy hay tinh thần.
Về Nhất Thể được đề cập trong bản
văn Bà nói :
Vị Đđệ Ttử
hợp nhất với Brahman hay Atma.
Khi sáu nguyên lý bị tiêu diệt
; nói cách khác, khi chúng không còn độc lập nữa mà trở nên hoàn
toàn phục tùng ý chí của Chơn Ngã, thì chừng đó người chí nguyện sống trong
Nhất Thể. Tiếng nói thứ bảy, âm thanh của Bồ Ðề Ttâm,
sẽ làm cho đạt đến Atma. Bà Blavatsky dùng danh từ Brahman để chỉ Atma của con
người theo lối loại suy. Brahman ( vô
tính ) là Nhất Thể chứa đựng Tam Tthể.
Cũng giống như thế, khi con người trở nên vị La Hán sống được trong tinh thần Ttam
Tthể.
Trước khi vào được con đường nầy,
con phải diệt trừ Thể Vía, chùi sạch Thể Trí và rửa lòng con cho trong sạch.
Về “Thể Vía”, Bà Blavatsky chú thích
thêm như sau :
Nguyên lý Kkamic
tạo ra dục thể gọi là Kama Rupa, hay thể ham muốn.
Về danh từ “Thể Trí” Bà phê bình như
sau :
Manasa Rupa, Tthể
thứ nhứt, chỉ là Cái Vía hay Ttư Nngã
; Tthể
thứ nhì chỉ cá tính hay Chơn Nhơn chịu luân hồi, mà tâm thức tại Ccõi
Ttrần
của chúng ta hay Hạ Trí phải chịu bất lực.
Bà Blavasky không chú ý đến các Ccõi
nhiều như các Nnhà
Thông Thiên Học ngày nay. Bà chỉ chú ý đến các Nnguyên
Llý
hơn, và Bbà
thấy vật chất trên các Ccõi
đều nhờ ảnh hưởng của chúng mới có hình dạng. Ở đây Bbà
nói về “Ccõi
của chúng ta,”,
có nghĩa là vùng của sự sống cá thể, tức là Ccõi Hhồng
Ttrần,
Trung Giới và Hạ Thiên. “Thể Trung Giới” không hẳn là có nghĩa là Thể Vía,
nhưng là hình dạng cá thể được thiết lập trong các vùng chủ quan của đời sống
cá nhân chúng
ta (Ccõi
Trung giới và Ccõi
Hạ Thiên ), vì lẽ hình thểức
thân xác, cũng như tình cảm và tư tưởng của cá nhân đều phù hợp với các Ccõi
ấy. Trong quyển sách nhỏ nhan đề “Cõi Thiên Ðường” (
The Devachanic Plane )
của tôi và trong quyển “Minh Triết Cổ Truyền” (Ancient
Wisdom ) của Bà Bác sĩ Besant có đề cập đến
bốn mẫu đời sống được quan sát tại Ccõi
Trời : 1)- Tình bằng hữu ích kỷ,
; 2)- Lòng sùng tín chật hạn hẹp, ;
3 )- Tinh thần truyền giáo chân chánh,
; 4 ) - Sinh hoạt của nhân loại. Tất cả đều có đặc
tính thuộc về
tình cảm - mặc dù là thanh khiết, không xen chút ích kỷ; chúng không
vương chút tư ngã nào, nhưng còn ham muốn. Chúng mặc lấy hình thể của đặc tính
kinh nghiệm thu thập được tại Ccõi Ttrần.
Chỉ có Hạ Trí trong sạch mới sẽ là Aantahkarana
nó là Ccái
Ttrí
của Llinh
Hhồn
chứ không phải cái trí của xác thân. Sự sinh hoạt của nó chỉ được khích động từ
chốn cao siêu. Bây giờ nó phải thanh lọc tất cả dục vọng, để trở nên một vận hà
hoàn toàn cho Llinh
Hhồn.
Bạn nên hiểu rõ tình trạng Thể Vía
của một người tiến hóa cao. Nó không đáp ứng với những sự đụng chạm đến từ bên
ngoài. Trong tự thân nó, nó đã được giải thoát đối với đời sống Tthế
Ggian
: Nnó
không còn có đời sống riêng rẽ nữa ;
nó đã bị “hủy diệt.”.
Nếu một người thường nào đó bị đánh, chắc chắn lửa giận sẽ bùng cháy tức khắc
trong Thể Vía của y. Ðối với người tiến hóa cao, sự việc xảy ra không giống như
thế. Trong trường hợp đó, sự đụng chạm xuyên qua Thể Vía vào đến bên trong Thể
Bồ Ðề và Tthể
nầy đáp ứng lại theo bản chất của nó ;
sự đụng chạm trên Thể Vía sẽ làm nảy sinh ra trong đó những sắc thái tốt đẹp
của những cảm xúc liên hệ vớiơiù
tình thương và trong Tthể
ấy, nó sẽ phù hợp với Thể Bồ Ðề. Như Bà Bác sĩ Besant thường giải thích, hào
quang Thể Vía của một người tiến hóa cao không có màu sắc, hoặc đúng hơn nó có
màu trắng hơi giống sữa, khi y an tĩnh ;
trái lại tất cả những màu sắc đẹp đẽ hơn cả trên Ccõi
Trung Giới do các nhân vật cao cả tại thế giới bên ngoài đưa đến sẽ được y đáp
ứng lại.
Nước tinh anh trong suốt của sự sống
trường tồn, không thể lẫn lộn vào trong dòng nước đầy bùn sau cơn bão tố của
gió mùa.
Giọt sương chiếu sáng trong tia nắng
ban mai giữa cánh hoa sen, biến thành cục đất sét khi rơi xuống đất
; thế là hòn ngọc đã hóa ra bùn.
Hãy chiến đấu với những tư tưởng ô
trược khi khi nó chế ngự được con. Hãy xử sự với
chúng như chúng đã xử sự với con vậy; nếu con dung dưỡng chúng, để cho chúng
mọc rễ và đâm chồi ; thì con nên biết
những tư tưởng đó sẽ quật ngã con và sẽ giết con chết. Hỡi Đđệ
Ttử,
hãy đề phòng, dù cái bóng của chúng cũng đừng để đến gần con, vì nếu con để nó
lớn, mạnh, vật hắcôi hám
đó sẽ thâm nhập vào người con, trước khi con nhận rõ được hình thù ghê gớm của
con quái vật ô trược đó.
Dưới Tthế
Ggian
nầy, nhiều người tưởng họ có thể kéo lê một cuộc sống thấp hèn mà lại tiến bộ
trên Ðường Ðạo ; đôi khi họ cũng tưởng rằng khi dấn
thân vào những hình thức khích động xấu xa, họ có thể tạo ra một năng lực đáng
kể giúp họ tiến bước và vươn lên. Khi trấn áp được hoàn toàn những sinh hoạt
thấp kém, họ lại sợ không còn màu sắc trong Thể Vía. Người ta nói rằng chắc
chắn người có hào quang không màu sắc là người tốt, nhưng yếu đuối, không thể
tiến bộ. Trong Thiên Kkhải
Hhuyền,
Ðấng Thánh Linh có nói : “Cầu xin Thượng Ðế hãy ban cho con
được lạnh lùng hoặc đầy nhiệt huyết,”, “bởi
vì nếu con hững hờ, không lạnh lùng cũng không hăng hái, Ta sẽ phun con ra khỏi
miệng Ta.”[27] [27].
Ðoạn kinh trên trình bày thật rõ các
sự kiện. những người có hy vọng nhiều nhất
theo thứ tự ưu tiên như sau : 1)- Nngười
có ý chí và lương
thiện, 2)-
Nngười
có ý chí và xấu
xa, 3)-
Nngười
lương thiện vmà
tầm thường. Không ai có thể là một kẻ sát nhân cố ý trừ phi đã mở mang một cách
đáng kể vài đặc tính thiêng liêng. Nguyên nhân hành động độc ác của y là do sự
mất thăng bằng - chẳng hạn y có một ý chí mạnh mẽ, một tính can đảm phi thường,
một trí thông minh xuất chúng, nhưng lại thiếu tình thương đối với đồng loại.
Một tình thương vĩ đại và một ý chí dũng mãnh nhưng thiếu thông minh, cũng có
thể biến con người thành một kẻ nguy hiểm và tà vạy, vì y có thể trở nên một
lãnh tụ cuồng tín của những kẻ bất mãn. Nếu chỉ là người tốt nhưng ý chí, trí
thông minh và tình thương đều chưa phát triển cũng sẽ tiến bộ một
cách rất chậm chạp, dù sự tiến bộ của y vẫn đều
đặn. Bậc vĩ nhân có nhiều tật xấu lớn lao, nhưng họ có thể sửa đổi nhanh chóng;
kẻ tầm thường có nhiều tật xấu nhỏ song chúng thường tồn tại lâu dài.
Nhưng trong mọi trường hợp không hề
có một sự
khuyến khích con người sống một cuộc đời xấu xa. Người ta thấy rằng chỉ xóa bỏ
những khuynh hướng thấp hèn cũng chưa đủ bảo đảm những sự tiến bộ nhanh chóng,
mà phải đi tìm những cố gắng tích cực và quyết liệt để biểu lộ những gì cao
thượng và tốt lành. Tuy nhiên những cố gắng đó cũng có thể đưa đến sự sa ngã. Ý chí dũng
mãnh hay kiến thức, hoặc tình thương do y cố gắng rèn luyện được có thể làm cho
té ngã nặng nề và ghê gớm hơn, nếu y mất thăng bằng. Do đó tội lỗi nặng nề của
y có thể là một điềm lành về sự tiến bộ nhanh chóng; nhưng sự tiến bộ mau lẹ đó
chỉ bắt đầu khi nào vì ảnh hưởng của sự đau khổ do Nnhân
Qquả
mà con người hiểu được lỗi lầm của mình và xóa sạch được những vết nhơ của sự
sa ngã. Bao lâu sự thanh lọc nầy chưa hoàn tất, thì hầu như không tiến bộ được.
Về phương diện nầy Bà Blavatsky đã trình bày một cách quả quyết trong quyển “Những bước
đầu tiên trên đường Huyền Bí Học” như sau :
Có nhiều người quan năng suy luận bị
ảnh hưởng bên ngoài làm cho sai lạc đến nỗi tưởng rằng những thú tánh có thể
trở nên tuyệt vời và cao thượng như sức mạnh và lòng nhiệt thành của họ - nếu
người ta có thể nói như thế - sẽ được chuyển hướng vào nội tâm; chúng được chất
chứa và giữ gìn trong đó cho đến khi năng lực của chúng không bị hao mòn, mà
hướng đến những đối tượng cao siêu và thánh thiện hơn, nghĩa là cho đến khi nào
năng lực được súc tích cho phép họ bước vào Thánh Ðiện thật sự của Llinh
Hhồn
và hiện diện trước Chơn Sư, tức Ðại Ngã cao siêu. Vì lý do đó mà họ không muốn
tranh đấu với dục vọng của mình để tiêu diệt chúng. Họ chỉ muốn dập tắt ngọn
lửa hung bạo bằng sự cố gắng mãnh liệt của ý chí và để nó tàn lụn trong tâm
mình, chỉ chừa cục than hồng chôn vùi dưới lớp tro mỏng. Họ vui lòng chịu khuất
phục để cho họ bị vgiày
vò như cậu thiếu niên của thành Spartan, ưng cho con chồn xâu xé ruột gan hơn
là xa lìa nó. Ôi ! Đđáng
thương thay cho kẻ ảo tưởng mù quáng !
Cũng như hy vọng
rằng một đám thợ chùi ống khói say sưa kia, với quần áo lọ lem vì công việc, có
thể được ẩn thân trong Thánh Đđiện
giăng toàn lụa trắng và thay vì sự hiện diện của họ biến chúng thành một mớ vải
tả tơi dơ bẩn, thì chúng sẽ được biến đổi bằng cách đưa vào một góc linh
thiêng, và sau cùng chúng vẫn biểu lộ sự tinh khiết như Thánh Đđiện
vậy. Tại sao chúng tôi không tưởng tượng cũng có một lố da chồn đem cất trong
không khí trong sạch của một Thánh Đđiện,
khi đem xa tất cả điều được thấm nhuần mùi trầm hương trong đó. Lạ kỳ thay lý
trí sai lầm của nhân loại.
Phần nầy của bản văn được chấm dứt
bằng mấy đoạn minh bạch sau đây :
Hỡi Đđệ
Ttử,
hãy hoạch đắc năng lực giết chết Thể Vía kia trước khi uy lực thần bí có thể
làm cho con trở nên một bậc Thần Tiên.
Cái Ta vật chất và cái Ta tinh thần
không bao giờ có thể gặp nhau. Phải có một cái mất đi, vì không có chỗ đứng cho
cả hai.
Trước khi Hhồn
con có thể hiểu, con phải chà nát cái mầm Pphàm
Nnhơn,
và giết chết con sâu giác quan để nó không thể sống lại.
Quyền lực thần bí ở đây cũng là Kkundalini
trong thân xác, biểu thị của “sức mạnh vĩ đại đầu tiên ẩn tàng dưới mọi chất hữu cơ
và vô cơ.”.
Hơn nữa về phương diện nầy Bà Blavatsky chú thích như sau :
Kundalini được gọi là quyền lực uốn
khúc như con rắn hay như chiếc nhẫn, vì nó tiến lên theo hình xoắn ốc trong
thân xác của Nnhà
Yogi đã phát triển được quyền lực ấy đó nơi
mình. Ðó là quyền năng có tính chất như điện, lửa, huyền bí hay Fohat, năng lực
nguyên thủy vĩ đại ẩn tàng dưới vật chất hữu cơ và vô cơ.
Con không thể đi trên Ðường Ðạo,
trước khi chính con trở nên con đường đó.
C. W.
L.- Câu nầy được chú thích thêm như sau
:
Con đường nầy được đề cập đến trong
mọi tác phẩm thần bí như Ðức Krishna nói trong Kinh Jnaneshvari
: “Khi con đường nầy được nhìn thấy dù người ta có tiến về Pphương
Đđông
lúc bình minh hoặc tiến về Pphương
Ttây
lúc hoàng hôn, thì hỡi người chiến sĩ mang cung, không lay chuyển, như thế là
đang thực hiện cuộc du hành trên đường đó vậy. Trên đường nầy, dù người ta muốn
đến nơi nào, nơi đó cũng sẽ trở nên chính người ấy vậy.”.
“Con là Ðường Ðạo” là câu mà vị Ðạo Sư Ðắc Pháp được nghe, và cũng là câu mà vị
Sư Phụ được nói lại với Đđệ Ttử
sau khi được Ðiểm Ðạo. Một vị Chơn Sư khác cũng nói : “Ta
là lối đi và là con đường.”.
Trong quyển “Giảng Lý
Dưới Châơn
Thầy”
chúng tôi đã giải thích: là Ttư
tưởng và tình cảm ban đầu khó nắm lấy và giữ gìn, nhưng sau cùng lại trở nên
rất dễ dàng. Khi người chí nguyện được huấn luyện nghiêm chỉnh và đã mở mang,
đến khi quan điểm về Bồ Ðề và cách đáp ứng của y đối với đời sống trở nên hoàn
toàn tự nhiên và nhanh chóng, chúng ta có thể nói chính y đã trở nên con đường
rồi vậy. Kết quả đạt được bằng sự cố gắng và sự thực hành đều đặn một cách kiên
nhẫn như thế, đôi khi người ta gọi là “bản tánh thứ hai;”
; chỉ có thành ngữ đó mới cho chúng ta có cảm tưởng rằng những đức
tính mới đã được hoạch đắc và sau đó chúng sẽ trở thành thói quen,.
tThật
đáng tiếc. Nó chính là bản tánh nguyên thủy của chúng ta, là bản tánh tuyệt
diệu, bản tánh cao thượng hơn cả, được biểu lộ trong đời sống cao siêu
; nếu sự biểu hiện nầy có vẻ mới lạ đối với chúng ta chỉ vì từ
trước đến nay nó bị che lấp trong vỏ vật chất của chúng ta và vì áp lực của
hoàn cảnh trong Ccõi Ggiới
Pphàm
Nnhơn
của chúng ta.
Lời chú thích chứa đựng một chân lý
siêu hình thật lý thú. Sự tiến hóa của chúng ta không phải là một sự chuyển
vận, cũng không phải là một sự tăng trưởng. Nó không nhằắm
đưa chúng ta đến nơi nào, cũng không làm cho chúng ta trở nên to lớn hơn. Nó là
một sự phát triển những tiềm năng của đời sống chúng ta. Chúng tôi xin lặập
lại điều nầy, trên Ccõi của Chơn
Nhơn, tính cách Dduy Vvật
chiếm hàng thứ nhì ; các quan năng của Ttâm
Tthức
- Ýý
Cchí,
Mminh
Ttriết
và sự Hhoạt
Đđộng
( hay Ýý Cchí,
Ttình
Tthương
và Ttư
Ttưởng
) - hầu như chế ngự Vvật Cchất
của các Ccõi
một cách tuyệt đối. Như vậy không gian không phải là kẻ giám ngmục
dưới Ttrần
Tthế,
và tâm thức không cần phải đi xuyên qua nó để hiện ra ở nơi khác. Cuộc đàm
thoại được kể ra đây giữa một vị Ðạo Sư và vị Đđệ Ttử
của Nngười
có thể làm sáng tỏ điều ấy. Vị Ðạo Sư bảo Đđệ Ttử
đi qua phòng bên, rồi hỏi y :
“Anh đang làm gì ?
Anh có đang cử động không ?”
Sau khi suy nghĩ, vị Đđệ
Ttử
trả lời như sau, và được nhìn nhận là đúng :
“Bạch Thầy, không, không phải con
đang cử động. Con thấy xác thân cử động. Con không suy tư, không cảm giác,
không ham muốn. Chỉ có xác thân con cử động.”[28] [28].
Ðối với chúng ta, đó chính là sự
thật. Khi dùng giác quan để quan sát, như khi chúng ta thực tập nghiên cứu một
đối vật nào đó, chúng ta sẽ được biết rằng chỉ có thân xác cử động mà thôi. Cảm
giác chuyển động nhanh chóng được nhận thấy trong một chiếc xe hơi không đóng
cửa bằng một luồng gió mãnh liệt và một cảm thức mạnh mẽ do trí tưởng tượng tác
động tạo ra một sự khoan khoái thể chất, khi chúng ta nhắm mắt lại. Một kinh
nghiệm giống như thế cũng có thể đạt được nhờ máy móc thích hợp như máy quạt và
chuyển động, mà không cần phải di chuyển đến đâu cả. Một thí dụ khác
: Nnhiều
hành khách phải ngủ đêm trên những ghế nằm ( couchettes
) của các toa xe Pullman, khi thức giấc họ tự hỏi không biết họ
nằm theo chiều hướng xe đang chạy hay ngừng, và thường muốn biết chắc họ phải
vén màn lên, rồi nhờ ánh sáng và bóng tối họ mới xét đoán được chiều hướng đi.
Thật ra muốn đi từ nơi nầy đến nơi
khác, Chơn Nhơn không cần phải xê dịch, điều đó được chứng tỏ bằng cách Llinh
Hhồn
có thể đồng thời hiện ra trong những hình ảnh thuộc Ccõi
Ttrời
của tất cả các hạng người trên Ccõi
Hạ Thiên ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
Tuy nhiên ở trình độ phát
triển bao hàm
tàng trong giáo lý nầy, chẳng những
thí sinh phải lo cảãi
thiện Pphàm
Nnhơn
thôi, mà đồng thời, công việc thuộc nội giới của y cũng gồm cả sự phát triển
đặc biệt về Thể Bồ Ðề, tức Llinh
Hhồn
siêu việt. Nói cách khác, y phải vươn lên đến Ccõi
Bồ Ðề. Y phải trở nên Ðường Ðạo, và chứng tỏ điều ấy bằng thiện cảm vĩ đại và
tình thương đối với tha nhân, như lời dạy trong câu châm ngôn sau đây
:
Hãy để Hồn con lắng tai nghe mọi
tiếng đau khổ, như hoa sen nở lớn để hứng ánh triều Thái Ddương. ban mai.
Con chớ để cho ánh sáng gay gắt làm
khô một giọt nước mắt đau khổ nào, trước khi chính con lau ráo lệ cho cặp mắt của người
buồn khổ.
Con hãy để cho tất cả nước mắt của
nhân loại nóng bỏng rơi vào lòng con và đọng lại ở đó, và đừng bao giờ chùi đi,
trước khi nguyên nhân gây ra đau khổ biến mất.
Hỡi con,
người đầy lòng từ bi, những giọt lệ đó là những dòng suối tưới mát cánh đồng từ
thiện bất diệt. Chính trên những miếng đất đó trổ bông nửa đêm của Phật, thứ
hoa nầy còn khó
tìm, khó gặp hơn hoa của cây Vogay nữa. Ðó là hột giống thoát đọa Lluân
Hhồi.
Nó tách vị La Hán ra ngoài vòng tranh đấu và tham vọng, và dắt người băng
qua những cánh đồng thực tại để đến nơi an lạc và toàn phúc, chỉ biết được ở Ccõi
tịch mịch, hư vô.
Khi Ðấngức
Christ nói : “Ta là Ðường Ðạo là Chân Lý và là
Sự Sống ; không ai đến với Chúa Cha mà không
nhờ Ta.”[29] [29] . Ngài đã diễn đạt một Cchân
Llý
Tthần
Bbí,
vì Ðấng Christ là một với trạng thái Bồ Ðề của tâm thức phổ biến. Chỉ có một
tâm thức duy nhất thôi. Khi vừa nhận biết sự kiện ấy một cách trọn vẹn, người Đđạo
Đđồ
có thể trở thành một vị La Hán, nhưng nếu y không trải qua nguyên lý Bồ Ðề đó,
y không thể đến với Chúa Cha, tức là Atma cao siêu hơn. Chân lý nầy được trình
bày với một cảm hứng phi thường và sáng tỏ trong quyển Thiên Chúa Ggiáo
Bbí
Ttruyền
của Bác sĩ Annie Besant, tuy nhiên nó chỉ biểu hiện được một
khía cạnh vấn đề, bởi Ðấngức
Christ giáng sinh lấy xác phàm để thể hiện nguyên lý đó trong đời sống nội tâm
của Ngài tại Palestine đã ảnh hưởng đến hàng triệu người, vì Ngài không
nao núng trước xem thường sự đau khổ. Thường người ta tìm
cách trốn tránh sự đau khổ được bao nhiêu hay bấy nhiêu, nhưng Ðấng Christ lại
chấp nhận sự đau khổ riêng của Ngài và cả sự đau khổ của nhân loại nữa. Những
người theo đuổi con đường Bồ Ðề khi gặp những thử thách đã hỏinói một cách tự nhiên
: “Biết bao người đang chịu đau khổ ;
tại sao ta lại muốn trốn thoát nó.” Hơn nữa, trong lòng tràn đầy thiện cảm, họ
cảm nhận các sự đau khổ khác đến tột độ, trước khi đạt đến sự yên tịnh như một
vị La Hán, trước khi sự giác ngộ giúp họ thắng đoạt tử thần và mang lại sự an
vui tự tại, thì dù sự đau khổ của họ ra sao cũng mặc. Một sự giải thoát như thế
chỉ đem lại sự an nghỉ vô vị, nếu con người có thể đạt được nó trước khi kinh
nghiệm sự đau khổ của Ðấng Christ, trong sự đau khổ nầy, khổ hình phải mang cây
thánh giá không có gì đáng kể so với lòng từ bi của Ngài trong sự đáp ứng với tiếng
kêu thống khổ của Tthế Ggian.
Sau cùng đến lúc con người nói : “Dù
tôi có khổ hay không, điều đó có gì quan trọng?” Ước muốn phụng sự làm cho y
say mê đến đỗi y không còn bao nhiêu thì giờ nghĩ đến chính mình nữa.
Chỉ có những người chịu suy tư về
những thực tại siêu hình mới hiểu được một thành ngữ như “sự bìằnhg
an và sự toàn phúc chỉ nhận thức được ở Ccõi
tịch tịnh hư không.”.
Nhiều thành ngữ Ðông Pphương
thuộc loại đó được đặt nền tảng trên ý niệm căn bản là Ðức Thượng Ðế phổ quát
được biểu hiện như Sat, Chit và Ananda, nghĩa là như hữu thể (that is), tâm
thức (consciousness ) và toàn phúc ( bliss
).
Hữu thể rất dễ hiểu; mỗi người đều thấy nó ở chung quanh mình; tâm thức được người ta nhận biết bằng kinh nghiệm; còn hạnh phúc thì người ta theo đuổi. Mọi người đều tìm kiếm chính mình. Hạnh phúc không phải là cái gì để bắt lấy, đạt được hay sở hữu; nó chính là trạng thái bình thường của Chơn Ngã. Tuy nhiên, cao hơn vật chất và tâm thức, có một đời sống nội tâm thực sự; đời sống ấy là quan điểm bên ngoài của sự tĩnh lặng và hư vô, thật ra nó là toàn phúc của hữu thể chơn thật.
Con hãy diệt lòng ham muốn
; nhưng nếu con giết nó rồi, con cũng phải đề phòng sợ e nó sống
lại.
Con hãy diệt lòng tham sống, tuy
nhiên con chớ nên vì lẽ khao khát đời sống vĩnh cửu mà diệt lòng khao khát sự
sống, nhưng là vì muốn đem cái bất diệt trường cửu
thay thế cái biến đổi, vô thường.
Chớ ham muốn điều chi, không nên phẫẩn
uất đối với Nghiệp Báo, hoặc đối với Lluật
bất biến của Tthiên
Nnhiên.
Con chỉ nên chiến đấu với cái riêng tư, cái tạm thời, cái phù du và cái hư
hoại.
Sự ham muốn thông thường là ưa thích
những sự vật Hhồng
Ttrần
để tìm những khoái lạc về tình cảm hay vật chất. Chúng ta thấy rằng vị Đđệ
Ttử
không nên tìm kiếm những khoái lạc thuộc loại ấy ;
trái lại y phải tận dụng tất cả năng lực của Pphàm
Nnhơn
- thuộc về thể xác, tình cảm và trí tuệ - vào công việc tiến hóa tinh thần và
phụng sự đời sống nội tâm cho chính mình và kẻ khác.
Tanha là cội rễ của những dục vọng
ấy, vì nó là sự khao khát đời sống cảm giác. Trên Ccõi
của nó, Chơn Nhơn chưa có ý thức đầy đủ, nhưng tâm thức mà nó hiện có tạo cho
nó một sự thích thú mãnh liệt và khêu gợi ở nó sự khao khát một đời sống trọn
vẹn hơn. Thật ra đó là lý do Tthế Ggian
lớn tiếng đòi hỏi đời sống ấy. Như chúng tôi đã giải thích, các năng lực tại Ccõi
Thượng Thiên đi xuyên qua Nnhân
Tthể
hầu hết không tác động đối với nó trong trường hợp ở những người thường, Chơn
Nhơn còn chưa phát triển và chưa tập luyện để đáp ứng với sự vật khác hơn là
một ít rung động, đặc biệt trên Ccõi
riêng của nó. Tại Ccõi
Thượng Thiên không có sự rung động thô kệch như rung động mà Chơn Nhơn có thể
đáp ứng lại trong buổi thiếu thời; do đó Chơn Nhơn phải đi xuống các Ccõi
thấp hầu cảm thấy sự sống mãnh liệt hơn. Vì thế mà từ lâu rồi tâm thức của nó
linh động một cách đặc biệt trước những sự vật thuộc Ccõi
Hhồng
Ttrần.
Sau nầy thì khi bản chất Thể Vía được đánh thức, những
khoái lạc tại Ccõi
nầy mới chứng tỏ một sự lôi cuốn mạnh hơn.
Ở trong xác phàm, con người không
thể biết được những khoái lạc của đời sống Ccõi
Trung Giới mãnh liệt đến mức độ nào; đó là điểm mà sự sự
khoái lạc chuyển hướng và thường giữ lại những người đã chế ngự được những sự
thỏa mãn tương tự tại Ccõi Ttrần.
Nhưng sự nguy hiểm đó không lớn lao đối với người sống tại Ccõi
Ttrần
mà biết tìm kiếm những sự lợi lạc trên Ðường Ðạo, nếu họ là những người đạt
được một trình độ tiến hóa nào đó, vì họ có khả năng thưởng thức những lạc thú
còn cao hơn và vô cùng hấp dẫn hơn. Trên mỗi Ccõi,
cũng lần lượt giống như thế.
Tuy nhiên vị Đđệ
Ttử
cũng phải giữ gìn mình khi từ bỏ những lạc thú thấp kém chỉ vì muốn đánh đổi
những lạc thú tương
đối cao hơn ; y không bao giờ được quên mục đích
đầy lý tưởng cao siêu hơn mọi khoái lạc tạm thời. Y cũng không nên khao khát
hạnh phúc lâu dài tại Ccõi
Thiên Ðàường,
mà phải từ bỏ tất cả những gì giả tạm và riêng tư. Cho nNên
một mặt y không tìm kiếm những sự vật đáng ham muốn, mặt khác y cũng không lẩẫn
tránh những bài học mà Nghiệp Quả đưa đến cho y ; y
không ao ước một trường kinh nghiệm nào khác hơn là môi trường của y. Y biết
rằng nhờ sự bất biến của những Đđịnh
Lluật
Tthiên
Nnhiên,
y có thể dùng những kinh nghiệm của mình để phát triển. Nếu không có một trật
tự ngự trị trên Tthế Ggian,
trí thông minh sẽ không thể tăng trưởng, con người sẽ không thể sử
dụng những năng lực của mình. Như vậy vị Đđệ Ttử
sẽ không phẫn uất đối với Nghiệp Quả, vì Nghiệp Quả là sự biểu hiện của Ðịnh
Luật.
Con hãy trợ giúp và cộng tác với Tthiên
Nnhiên
và Tthiên
Nnhiên
sẽ xem con là một trong những tay sáng tạo và tuân phục con.
Thiên Nnhiên
sẽ mở rộng cánh cửa bí mật trước mặt con, và để lộ dưới tầm mắt con những kho
bảo vật giấu kín ở tận đáy lòng thuần khiết và trinh nguyên của Ttạo
Vvật.
Tay Pphàm
không thể nào làm hoen ố nơi ấy được, nó chỉ phô bày những kho báu của nó dưới con mắt
Tinh Tthần
- con mắt không bao giờ nhắm lại, và đối với con mắt đó không còn bức màn nào
che giấu trước bất cứ quang cảnh nào của Ttạo Vvật.
Chính lúc bấy giờ Tthiên
Nnhiên
sẽ chỉ cho con thấy phương tiện và đường hướng, cánh cửa thứ nhứt, cửa thứ nhì,
thứ ba cho đến thứ bảy. Rồi đến mục đích, và xa tận đến bên kia là sự vinh
quang cực điểm tắm trong Áánh Tthái
Ddương
của Tinh Tthần,
không ai thấy được, trừ phi con mắt của Linh Hồn.
Mọi sinh viên Kkhoa
Hhọc
Vvật
Llý
đều biết rằng : “Người ta có thể chế ngự Tthiên
Nnhiên
bằng sự phục tùòng.”.
Tất cả những năng lực được dùng trong đời sống hiện tại, như áp lực của hơi
nước hay điện lực là những thí dụ về sự cộng tác của chúng ta với Tthiên
Nnhiên.
Thuật ngữ “chinh phục” có lẽ hơi quá đáng, vì tất cả những quyền năng mà chúng
ta sử dụng dưới Tthế Ggian
đều do sự điều hòa giữa con người và Tthiên
Nnhiên.
Con người đi trên thuyền giương buồm cách nào đó để thuyền có thể tiến ngược
gió mà không phải chế phục được nó, nhưng là chìiều
theo Đđịnh
Lluật
của gió. Sức mạnh của con người gia tăng bằng cách hoạt động phù hợp với Đđịnh
Lluật,
chứ không phải chống đối lại nó. Nhà Hhuyền
Bbí
Hhọc
biết rằng nguyên tắc ấy đều đúng trên tất cả các Ccõi,
không những đối với vật chất trên mỗi Ccõi,
mà còn đúng với những sinh thể trên đó, dù chúng ở vào trình độ tiến hóa cao
hay thấp. Do đó sự hiểu biết Đđịnh
Lluật
Tthiên
Nnhiên
đem đến cho nhân loại không biết bao nhiêu năng lực và tài sản, chỉ là việc thể
hiện sự điều hòa giữa Tthiên
Nnhiên
và con người. Tình thân ái đối với loài cầm thú; thảo mộc và cho đến loài kim
thạch, cũng như đối với những Ttinh
Llinh
và các vị Thiên Thần đều quan hệ như nhau, nếu không nói là nhiều hơn đối với
sự tiến bộ của con người. Thiên Nnhiên
là sự sống cũng
như vật chất vậy. Thiện cảm giúp chúng ta hiểu biết sự sống nầy và thiết
lập sự điều hòa giữa nó với sự sống của nhân loại. Thời đại của chúng ta có
thói quen đáng tiếc là xem Ccõi Ttrần
nầy như là nơi trú ngụ của những thực thể gớm ghiếc, nhưng mà người nào trong
đời sống của mình tỏ ra có lòng hảo tâm đối với tất cả vạn vật, thì chẳng những
sẽ thấy và sẽ hiểu biết nhiều hơn kẻ khác, mà còn vượt qua biển đời đầy sóng
gió một cách bình an. Truyền thống Ấn Ðộ cho rằng người có “bàn tay khéo léo”
là những người
có thiện cảm ấy. Họ thành công trong công việc trồng trọt cây cối mà kẻ khác
lại thất bại. Những người thông thạo trong Kkhoa
Hhuyền
Bbí
Hhọc
cũng thường giải thích rằng Nnhà
Yogi chơn chánh hay Ttu Ssĩ
đã khước từ sự nghiệp Tthế Ggian
có lòng từ bi đối với tất cả sinh linh có thể đi lang thang trong rừng núi mà
không hề sợ thú dữ hay rắn độc làm hại.
Trong đời sống thường nhật của nhân
loại, thiện cảm được xác nhận bằng thật nhiều cách. Người ta biết rằng
trong thời đại của chúng ta, điều kiện thứ nhứt để thành
công trong việc kinh doanh là phải liên lạc thân thiết với nhiều khách hàng cần
giao dịch. Ðặc tính thân tình đó cũng cần thiết trong vấn đề giáo dục trẻ con,
vì chúng thường xem những người trưởng thành như những nhân vật dị kỳ, xa lạ và
độc đoán, một giai cấp hoàn toàn khác hẳn với giai cấp của chúng; Ông Well đã
tưởng tượng người dân trên Qquả Đđịa
Ccầu
của chúng ta cũng nhìn những người Hỏa Tinh giống như thế. Nhưng khi thiện cảm được đánh
thức, toàn thể sự xa lạ đó đều tan biến và sự giáo dục thật sự mới có thể thực
hiện được.
Có những Ttinh
Llinh
Tthiên
Nnhiên
có đặc tính giống như trẻ con, trừ phi chúng không lệ thuộc chúng ta và khi
chúng ta đến gần, chúng có thể lẩẫn
tránh chúng ta một cách dễ dàng, vả lại có nhiều loại Ttinh
Llinh
dễ thương hơn cũng đã lẩẫn
tránh con người, khi đến với cách thức ồn ào, thô tục và hung bạo, với hào
quang và những hình tư tưởng nhơ bẩn, ghê rợn. Quả thật, nếu con người tỏ ra có
thiện cảm với những loại khác, nếu chúng ta tự hạn chế chẳng những không phá
hủy rừng mà còn vun trồng thêm cây cối, nếu chúng ta tỏ ra nhân từ đối với toàn
thể Tthiên
Nnhiên,
chúng ta sẽ được hưởng một thứ khí hậu điều hòa hơn và những mùa màng sung túc
hơn. Vả lại chúng ta nên nhận biết điều nầy : Pphong
trào hiện đại của chúng ta là lập vườn chung quanh nhà để trồông
cây và bông hoa, ngay cả ở những con đường trong đô thị của chúng ta nữa, tất
cả việc nầy đều rất tốt ; ngoài ra có những phương pháp đặc
biệt giúp cho việc dọn đất, trồng hoa, quả, gieo giống trồng những cây đặc
biệt, và kể cả việc
nuôi súc vật, con người đã giúp các Ttinh
Llinh
Tthiên
Nnhiên
một cách đắc lực trong công tác của chúng ;
thêm vào đó chúng ta còn tỏ ra có thiện cảm, thì kết quả sẽ tốt đẹp vô cùng.
Ðặc biệt ở những nhà Tthi
Ssĩ,
đôi khi thiện cảm ấy được bộc lộ. Nhiều tiểu luận và thi phẩm của các thi hào
Rabindranath Tagore đã chứng tỏ điều đó ở một mức độ thật cao; sự truyền bá đặc
tính đó dường như cũng là sự góp phần đặc biệt của tác giả vào nền văn minh
hiện đại. Một thí dụ khác được nhiều người biết : “Nnhà
Ttriết
Hhọc
Emerson sau khi đi du thuyết vào mùa đông trở về nhà ở Concord thường đưa tay
nắm lấy mấy nhánh cây dưới thấp như để chứng tỏ rằng ông đã cảm thấy chúng vui
mừng khi ông đã trở về. Có lẽ nhờ sự nhân từ đó mà tác phẩm của ông chứa đầy
hứng thú.”
Những người sống trong vườn, như
Luther Berbank ở California chẳng hạn, thường nói rằng họ cảm nhận được ảnh
hưởng đặc biệt truyền từ vài giống thảo mộc, vài bụi cây hoặc vài cây cổ thụ. Ở Canada,
những người vì nghề nghiệp phải sống trong rừng như thanh tra kiểm lâm v. v. . . đã quả quyết với tôi rằng ở
rừng họ cảm thấy một sự sống rõ rệt hơn nơi nào khác và cũng có vài địa phương
hay vài loại cây cối có tình yêu thương đối với con người hơn những nơi hay cây
khác.
Lòng thiện cảm thuộc loại như thế đều hoàn toàn tự nhiên. Nếu bạn cảm thấy đặc biệt thương yêu và quý trọng riêng một người nào, thì người đó cũng có khuynh hướng chú ý đến bạn và thương yêu lại bạn. Ở một trình độ thấp kém hơn, nếu bạn yêu mến một con thú, nó cũng sẽ rất quyến luyến bạn. Thấp hơn nữa, trong các loài thảo mộc và kim thạch, định luật đó cũng được xác nhận, mặc dù hiệu quả của nó ít rõ rệt hơn. Do đó, truyền thuyết cho rằng người nào có tay trồng cây sẽ thu hoạch được nhiều hoa màu hơn kẻ khác. Ðó là vấn đề từ điện cá nhân, mà ở trình độ cao người ta gọi là tình thương. Bảy cửa Ðạo được đề cập trong đoạn nầy không cần phải bình giảng ở đây vì trong đoạn ba của tác phẩm đã dành trọn vẹn cho vấn đề đó; trong phần ấy chúng ta sẽ nghiên cứu một cách đầy đủ.
Chỉ có một con đường dẫn đến Thánh
Ðạo; và chỉ ở cuối con đường đó người ta mới có thể nghe được Tiếng Vô Thinh.
Cái thang mà thí sinh phải leo lên được tạo nên bởi những nấc thang đau khổ và
khó nhọc ; chỉ có tiếng nói của đức hạnh mới
làm câm nín được giọng nói của những nấc thang đó. Bởi thế, hỡi Đđệ
Ttử,
nếu con còn một tính xấu nào chưa bỏ lại sau, thì họa sẽ đến với con đó. Vì bấy
giờ cái thang sẽ gãy và con sẽ té ;
chân thang đặt trên bùn lầy dày đặc của những tội lỗi và sa ngã của con, và
trước khi có thể lội qua cái hố vật chất mênh mông đó, con phải rửa sạch chân
con trong nước từ bỏ. Con hãy coi chừng đừng đặăït
chân còn bẩn trên nấc thang đầu tiên. Vô phước cho kẻ nào dám làm nhơ bẩn một
nấc thang bởi đôi bàn chân vấy bùn của y. Bùn lầy nhơ bẩn và nhầy nhụa sẽ khô
cứng và dính chặt chân y tại chỗ, chẳng khác một con chim bị dính nhựa của
người đánh bẫẩy
quỷ quái, khiến nó không thể đi được nữa. Những tánh xấu của y sẽ thành hình và
lôi kéo y xuống thấp hơn. Tội lỗi của y sẽ trổi giọng, như con Ssơn
Ccẩu
cười và khóc nức nở trong buổi hoàng hôn ;
tư tưởng của y sẽ trở thành một đạo binh và sẽ bắt giữ y lại.
C. W.
L.- Như chúng ta đã thấy trong quyển “Chơn Sư và
Thánh Ðạo,”
có bốn cách đi vào Thánh Ðạo để làm Đđệ Ttử
Nnhập
Mmôn
: Ddo
sự tiếp xúc với những người đang đi trên Ðường Ðạo ;
do sự suy tư sâu xa; do sự nghe giảng hoặc đọc lời Thánh Ggiáo
; do sự trauo gidồi
Đđức
Hhạnh.
Trên Đđường
Nnhập
Mmôn,
có bốn đức tánh phải đạt được, mà đức tánh chót là Llòng
Ttừ
Áái
như chúng tôi đã nói trong “Dưới Châơn
Thầy”
; thiếu đức tánh nầy thì mọi đức tánh khác đều trở nên vô ích.
Do
đó, nó là con đường duy nhất để đạt đến Thánh Ðạo thật sự - con đường của Ttình
Tthương,
của Llòng
Vvị
Ttha
trong tư tưởng, lời nói và hành động. Tất cả những thói quen ích kỷ xưa nay của
Xxác
Tthân
và Thể Trí phải được chế ngự bằng Đđức Hhạnh
tích cực, và điều nầy ở đây không thể có nghĩa là tính tốt tiêu cực, cũng không
có nghĩa là ý muốn không làm một điều xấu nào; nó phải có nghĩa cố hữu của nó
là sức mạnh. Khi Llinh
Hhồn
đã chế ngự được Pphàm
Nngã,
thì người ta mới thấy rằng đức hạnh ở nó phong phú biết dường nào. Trong khi
chờ đợi, cần phải có một cuộc phấn đấu lớn lao. Thường thí sinh đi trên Ðường
Ðạo phải dốc tất cả sự quyết tâm của mình để hủy diệt tận gốc mọi dấu vết ích
kỷ dù nhỏ đến đâu được y phát hiện do sự xét mình hằng ngày. Phương pháp hay
nhất để thành công trong việc ấy là tưởng tượng cảnh mình phạm lỗi, rồi hình dung
cảnh tượng đó lại để thay thế lỗi lầm bằng một tính tốt đối nghịch; sau cùng
chú ý vào cảnh ấy trong giây lát và quyết định trong những trường hợp tương tự
ở tương lai chính đức tính tốt ấy sẽ biểu lộ chứ không phải sự lỗi lầm.
Ðôi khi rất khó khắc phục được những
sự sai lầm cố hữu ; do đó người ta mới nói đến sự khốn
khổ và đau đớn. Chẳng hạn anh ghiền rượu cảm thấy đau đớn nhất trên đời khi
phải chống lại “ly rượu cuối cùng.”.
Nhưng nếu anh giữ được quyết định không bao giờ uống rượu nữa, dù chỉ một lần,
thì sự đau khổ sẽ lần lần biến mất, anh sẽ nhận thấy một sự khoan khoái còn cao
hơn sự khoan khoái do sự kích thích uống rượu. Ðối với những cảm xúc thiếu
trong sạch và ích kỷ cũng giống in như thế. Biết bao người thất bại vì họ trì
hoãn “chỉ một lần nữa thôi” trước một tư tưởng bất chánh !
Chính vì thế mà chúng ta phải xóa bỏ và không cho cái trí bị ô nhiễm. Muốn hủy
bỏ tật xấu đôi khi con người phải bị chạm tự ái một cách tàn nhẫn. Trong những
trường hợp trên, lòng khiêm tốn sẽ là một tay trợ giúp đắc lực; nó đưa đến cho
con người sự ước muốn được thay đổi.
Tuy nhiên, đối với nhiều người mà
đời sống trở nên khá trong sạch, sự đau khổ đó sẽ nhẹ hơn hay không còn nữa.
Thật ra người ta cho rằng Ðức Aryasanga đã quan trọng hóa sự đau khổ trong đoạn
nầy. Sự thật không phải thế, Ðức Aryasanga diễn đạt bằng những lời lẽ đanh thép
nhất hầu những người đi trên Ðường Ðạo không ai đang gặp sự đau khổ mà chờ đợi
sự an vui, và để cho mỗi người sẵn sàng trả món nợ tiền khiên của mình, đương
đầu với sự đau khổ đang chờ đợi mình và vĩnh viễn chấm dứt chúng bằng cách trau
gidồi
đức hạnh. Ở đây chúng ta nên nhớ lại đoạn văn đầy khích lệ trong Kinh Gita
: “Nếu ngươi là kẻ phạm tội lớn lao nhất, ngươi vẫn vượt qua khỏi
biển tội lỗi trong gian chánh của trí huệ. Cũng thế, ngọn lửa thiêu hủy nhiên
liệu ra tro, hỡi Arjuna, ngọn lửa trí huệ cũng thiêu hủy mọi hành động thành
tro vậy.”[30] [30]. Và hơn nữa : “Thật
ra, kẻ nào cố gắng làm lành thì không bao giờ dấn thân vào ác đạo.”[31] [31].
Tất cả những Ppháp
Mmôn
Yoga đều cho rằng cần phải dứt bỏ những tật xấu từ khởi điểm. Khi các đức hạnh
được vun trồng vững chắc ở người thí sinh rồi, thì chỉ từ lúc đó y mới được
phép thực hiện những bước kế tiếp như luyện tư thế, hơi thở, chủ trị giác quan
và tham thiền . Ðây là lý do bắt buộc phải có Đđức
Hhạnh
: Nngười
Đđệ
Ttử
càng tiến bộ trên Ðường Ðạo, sức mạnh của ý chí và tư tưởng y càng trở nên lớn lao
hơn bất cứ lúc nào và đến một thời gian nào đó sẽ là lúc mà Chơn Nhơn trút Tthần
Llực
xuống cho Tthể
Xxác.
Nếu một tật xấu nào còn tồn tại trong Tthể Xxác,
năng lực của Chơn Nhơn sẽ truyền cho nó một sức mạnh mới : Nnhư
vậy đối với người chí nguyện sự sa ngã sẽ trầm trọng hơn một người kém tiến
hóa. Ðối với điều thiện cũng như điều ác, những quyền năng đều có sức mạnh như
nhau; vậy trước khi tìm chúng, thí sinh phải Ttự Tthanh
Llọc,
vì sợ e sẽ làm hại kẻ khác và chính mình. Trên Ðường Ðạo, giai đoạn nguy hiểm
nhất nằm ngay sau cuộc Ðiểm Ðạo lần thứ Hai; tính kiêu căng trong lúc ấy là sự
nguy hiểm chính yếu, như chúng tôi đã giải thích kỹ trong quyển “Chơn Sư và
Thánh Ðạo.”[32] [32].
Hãy diệt những dục vọng của con, hỡi
Đđệ
Ttử,
hãy làm cho những tánh xấu của con mất hết mãnh lực, trước khi bắt đầu thực
hiện cuộc hành trình nghiêm trọng.
Hãy bóp chết các tội lỗi của con và
làm cho chúng vĩnh viễn câm nín trước khi đặt chân lên nấc thang đầu tiên.
Hãy làm cho tư tưởng con im lặng, và
đặt tất cả sự chú ý của con vào Ðức Thầy mà con chưa thấy, nhưng con cảm được.
Hãy gom cả lục thức vào trong một
thức, nếu con muốn được an toàn trước kẻ nghịch. Chính tThức
nầy ẩn trong bộ óc mà đôi mắt yếu ớt của tâm hồn do nơi đó có thể khám phá được
con đường hiểm trở dắt đến Sư Phụ con.
Khi lặập
lại huấn lệnh phải từ bỏ các dục vọng và tật xấu, Ðức Aryasanga chứng tỏ rằng
sự chú tâm đến phần việc ấy của Ngài rất quan trọng. Không những chúng tăng
cường đến vô hạn khi thí sinh càng phát triển, mà còn khiến cho trách nhiệm của
y càng lớn lao và có thể tạo nên Nnghiệp
Qquả
nặng nề hơn trước.
Cơ quan của giác quan thứ sáu trong
bộ óc. Thường con người không dùng đến nó khi đứng trước những đối vật hoặc
kinh nghiệm của cuộc sống. Người ta sống trong Thể Vía nhiều hơn. Người ta “thích”
vật nầy hoặc “không ưa” vật kia, không lý do nào cả, hoàn toàn không xem xét
coi vật đó tốt hay xấu, hoặc hữu ích hay vô ích. Dĩ nhiên người đã quyết định
theo con đường Hhuyền
Bbí
Hhọc
không thể hành động như thế. Y phải bình tĩnh xét đoán mọi sự việc và đánh giá
chúng theo sự lợi ích đối với Llinh
Hhồn.
Bộ óc cũng chứa nhiều cơ quan khác
nhờ đó mới có thể tri giác được những gì ngoài tầm ngũ quan. Chẳng hạn Hhạch
Mmũi
liên lạc giữa Tthể
Xxác
và Thể Vía. Cũng trong ngăn đó, nhưng ở phía sau một chút, có Ttùng
Qquả
Ttuyến,
liên hệ trực tiếp với Thể Trí và được dùng để truyền những ấn tượng cảm nhận
tại Ccõi
Thượng Giới xuống Ccõi Ttrần.
Có những người mở mang Hhạch
Mmũi
trước tiên; những người khác lại bắt đầu mở mang Ttùng
Qquả
Ttuyến
trước; mỗi người phải theo phương pháp do chính Sư Phụ của mình chỉ dẫn.
Hỡi Đđệ
Ttử,
con đường trước mặt con còn dài và khó nhọc. Chỉ một tư tưởng gợi lại quá khứ
mà con đã bỏ lại phía sau cũng sẽ làm cho con rơi xuống và con phải bắt đầu leo
lại.
Hãy tận diệt nơi con mọi ký ức về dĩ
vãng. Chớ ngó lại phía sau, bằng không con sẽ thất bại.
Ở đây Ðức Aryasanga còn cố ý để cho
sự việc trở nên tệ hại hơn để chẳkhông
có ai không thấy con Ðường Ðạo khó nhọc hơn như họ đã tưởng tượng trước khi
bước vào. Con đường đó tương đối không dài, nếu người ta nghĩ rằng nó chỉ tiêu
biểu cho 14 mười
bốn kiếp chót, trong một loạt hàng trăm hay nhiều ngàn kiếp thường
phải trải qua giữa kỳ Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt và lần thứ Năm. Ngoài ra, thường
công nghiệp trong 14 mười bốn kiếp
đó còn có thể hoàn thành trong vài kiếp liên tục, không gián đoạn ở tại Ccõi
Thiên Ðàường,
để thu ngắn lại thời gian cần thiết. Sự thật con đường có hiểm trở, nhưng không
hẳn là khó
nhọc, chỉ khi nào nghĩ đến mục đích, người ta mới cảm thấy cuộc hành trình sẽ
mệt nhọc. Khi được thu nhận vào một Hhọc Vviện,
người sinh viên sẽ thấy vô cùng khó nhọc trong ba hoặc bốn năm ở đó, nếu y
không thực sự quan tâm đến việc học, mà chỉ nghĩ đến việc đạt được cấp bằng và
ra đời. Trái lại, nếu y thảo một chương trình làm việc có phương pháp đưa y đến
kết quả hoàn toàn tự nhiên và nếu y thực sự quan tâm đến những môn
học, y có thể quên những năm dài chờ đợi y, để sống những ngày tốt đẹp hơn
trong Ttrường
Đđại
Hhọc.
Trên Ðường Ðạo cũng thế, công việc thật đầy hứng thú trên phương diện tình cảm
cũng như lý trí; thật hiển nhiên là người nào đã nghĩ như thế sẽ thấy con đường
ngắn hơn do người chỉ lo đạt đến mục đích như một đối tượng duy nhất.
Ðối với công phu tham thiền cũng thế. Có những người chuyên chú tham thiền, không tìm thấy chút hứng thú nào, song vẫn kiên tâm, vì mong được thấy kết quả. Những người khác cảm thấy vô cùng thích thú do đó y đạt được nhiều kết quả hơn. Thí sinh được khuyên không nên nghĩ đến sự tiến bộ riêng tư của mình; y hãy tự quên mình và làm việc cho nhân loại, tự nhiên y sẽ được tiến bộ nhanh chóng. Xét mình và giữ giới là điều cần thiết, nhưng hai việc nầy chỉ có thể so sánh với sự chuẩn bị và vô dầu cho một cái máy, không nên làm như thế mãi; chỉ có sự làm việc mới là điều quan trọng.
Ðôi khi có lẽ vì cảm thức bổn phận
thúc đẩy, người ta cho là cần thiết bắt buộc phải lo lắng, tư tưởng hay tham
thiền như thế nào đó. Tốt lắm, bạn hãy theo đuổi công phu vô vị ấy, nếu nó hiện
ra với bạn như thế theo tính cách đó; nếu lý
do của bạn thanh khiết, không bao lâu bạn sẽ thấy sự buồn tẻ nhường chỗ cho một
sự hứng thú mới và công phu của bạn sẽ trở thành niềm vui.
Chỉ một tư tưởng hướng về quá khứ
cũng đủ lôi thí sinh té xuống đất. Sự thật nầy có thể làm cho mọi người ngẩn
ngơ khi nghĩ rằng mình sẽ bước chân vào Ðường Ðạo, song chưa bỏ được vài tật
xấu đặc biệt, dù không mấy nghiêm trọng. Nguyên nhân của sự sa ngã do ở chính
tư tưởng hơn là hành độọng.
Như Bà Blavatsky đã nói trong Bộ “Giáo Lý Bí Truyền”
:
“Sự trong sạch tinh thần còn quan trọng hơn
sự trong sạch của xác thân.…...
Người ta có thể ít chú ý hoặc không hề chú ý đến hành động, thì sự hành động đó
tương đối ít quan trọng; nhưng nếu người ta nghĩ đến hành động ấy, nếu chú ý
đến nó thì hiệu quả sinh ra sẽ mạnh hơn gấp nghìn lần. Vậy phải giữ gìn tư
tưởng cho được trong sạch.”[33] [33].
Về vấn đề nầy, tôi còn nhớ một câu
của Ðại Tá Olcott. Một hôm có một người tha thiết muốn sống cuộc đời cao thượng
đến hỏi ông xem y có cần phải bỏ hút thuốc không. Ðại Tá đáp : “À,
nếu bạn có thể bỏ được, thì nên bỏ; nếu ngược lại, thì có nói gì cũng vô ích.”.
Chắc chắn là một ý chí dũng mãnh và một tư tưởng trong sạch là điều tối quan
trọng; nếu không, không thể tiến bộ được, dù xác thân có tinh khiết. Ðại Tá
diễn tả rất đúng sự kiện ấy, nhưng người ta có thể nói thêm : Hhút
thuốc là một thói quen không sạch sẽ ;
nó làm cho nhơ bẩn các Tthể
và thường làm cho kẻ khác rất khó chịu và phiền lòng. Về phương diện vật chất
hậu quả rất tệ hại của thói ích kỷ và dơ bẩn nầy là khói thuốc bị nước miếng
làm ướt át bay ra và xâm nhập vào phổi kẻ khác. Ðó là một trong những sắc thái
ghê tởm của đời sống hiện đại mà chúng ta thường bị bắt buộc phải chịu đựng và
hít phải khói thuốc biến chất đó.
Về hiệu quả sinh ra do một tư tưởng
bởi bản chất của nó thuộc về quá khứ, Bà Blavatsky còn cho biết
:
“Sinh viên phải coi chừng tư tưởng của mình.
Một tư tưởng phát sinh ra trong năm 5 phút có
thể phá hủy công phu tu tập trong 5 năm năm
và mặc dù lần sau, công phu của 5 năm năm
đó được điều chỉnh lại nhanh chóng, nhưng vẫn mất thì giờ.”[34] [34].
Ở đây chúng ta phải phân biệt một tư tưởng chỉ bay lơ lửng, rồi xâm nhập vào trí và một tư tưởng thực sự do sự cố ý tạo thành. Chính tư tưởng sau nầy mới gây nhiều tác hại. Một tư tưởng bất chánh có thể len lỏi vào trí, nhưng nếu nó không được tiếp đón, chú ý, khích lệ hoặc làm cho tăng trưởng, thì sự tai hại không lớn lao bao nhiêu.
Sự cứu vãn nhanh chóng một tư tưởng
yếu đuối như thế thật là điều đáng khích lệ. Chính câu ngụ ngôn cổ Hy Lạp nầy
nên áp dụng cho mọi người : “Mmỗi
lần người anh hùng thất trận té ngã là mỗi lần người nhận thêm được một sức
mạnh mới.”.
Tốt hơn là nên chiến thắng một lần và đừng để té ngã trước, nhưng dù có việc gì
có xảy ra, rốt cuộc con người vẫn toàn
thắng. Trí thông minh và thiện chí sẽ giúp con người hoạch đắc được nhiều kiến
thức mà không phải trả giá bằng những kinh nghiệm đắng cay. Cũng thế, người ta
có thể biết rằng lửa nóng mà không cần phải đặt tay vào ngọn lửa. Không chóng
thì chầy, con người cần phải thu hoạch được tất cả kinh nghiệm bằng cách nầy
hay cách khác.
Con chớ tưởng là con người có thể
trừ khử tánh dâm dật bằng cách thỏa mãn nó cho đến chán chê :
Ðó là điều ghê tởm do Ma Vvương
xúi giục. Chính khi con người dung dưỡng thói xấu, là
y
làm cho nó thêm to, thêm mạnh, như con sâu to béo ra nhờ sống trong cái
hoa.
Ðóa hoa hường phải trở lại thành mầm
non trên cành mẹ, trước khi con ký sinh trùng ăn thấu đến tim và hút hết nhựa
sống.
Cây vàng nảy sinh chồi báu trước khi
dgiông
tố làm cho rã rời thân cây.
Vị Đđệ Ttử
phải phục hồi tuổi thơ ngây mà y đã đánh mất, trước khi tiếng đầu tiên có thể
vẳng đến tai y.
Ông Edwin Arnold có nói về Ma Vvương,
- theo sự hiểu biết của tín đồ Phật Ggiáo,
- bằng những ngôn từ nghiêm túc và thấm thía, trong lúc Ðức Phật
bị cám dỗ trước khi đạt đến sự toàn giác:.
Những
chúa tể của U Mminh
là Ma Vvương,
biết rằng chính Ðức Phật đang ngồi đó, Ngài phải giải thoát cho nhân loại và đã
đến lúc Ngài gặp Chân Llý
và cứu độ Tthế
Ggian,
nên truyền lệnh cho toàn thể Mma Llực
hung ác. Rồi tất cả các Áác Qquỷ
đã từng chiến đấu chống lại với Trí Hhuệ
và Ánh Ssáng,
xông ra từ hang sâu, vực thẳm để tụ hợp lại; các Áác
Qquỷ
đó là Arati, Trishna, Raga, và đồng bọn của chúng là Qquỷ
Ttham
Ddục,
Qquỷ
Kkhả
Ốố,
Qquỷ
Vvô
Mminh,
Qquỷ
Ttà
Ddâm,
và con cháu của Bbọn Vvô
Mminh
và Ssợ
Ssệt,
tất cả đều ghét Ðức Phật và tìm cách lung lạc tinh thần Ngài .[35][35].
Tuy nhiên, Bà Blavatsky nói cho
chúng ta biết rằng : “Ma Vvương
cũng thúc giục sự nẩy nở tinh thần một cách vô ý thức.” Sự chống
chõỏi
của Ma Vvương
đối với thí sinh tạo nên cơ hội để phát triển năng lực. Nhà Tthể
Ddục
có thể giơ tay lên xuống dễ dàng để tập cho bắp thịt mạnh khoẻ, nhưng chúng ta
phải công nhận rằng nếu y sử dụng quả tạ đôi để tập luyện, y có thể đạt được
một sức mạnh như trên trong một thời gian nhanh chóng hơn nhiều. Chính điều ác
vẫn được dùng để giúp đỡ điều thiện : Mmột
hôm sự thật nầy được một Nngười
tiến hóa rất xa về mặt Ttinh
Tthần
và vừa được Ðiểm Ðạo vào Bbậc
rất cao tiết lộ.[tle4] Trước kia Nngười
bị người ta vu oan rất ghê gớm và công nghiệp trọng đại mà Nngười
hết lòng lo lắng đã thất bại. Có nhiều người
đến chia buồn với Nngười,
song không cần thiết, Nngười
đáp : “Tựu trung, tôi vẫn mang ơn những
người muốn làm hại Ttôi;
lúc đó Ttôi
không hiểu, nhưng không nhờ họ Ttôi
sẽ không được Ðiểm Ðạo lần ấy”. Một người tầm thường chắc phải phẫẩn
nộ ghê gớm hoặc chán nản vô cùng, nhưng đối với một Nngười
cao thượng như thế, Ma Vvương
đã làm nảy sinh sức mạnh và Nngười
chỉ xót thương tội nghiệp cho nó. Vậy kẻ thù xấu xa nhất cũng có thể trở thành
bạn thân của chúng ta, khi y cùng đi một đường với chúng ta.
Dĩ nhiên là không phải sự vô minh mà
chính tính thơ ngây của trẻ con mới thật sự cần thiết cho sự tiến bộ tinh thần.
Lòng tốt đơn thuần không phải là sự tiến bộ; nó chỉ là sự chuẩn bị để thanh
lọc. Sự tiến bộ chính là sự phát triển của Chơn Nhơn trên các Ccõi
của Nnó
; Nnó
được biểu lộ trong Pphàm
Nnhơn
bởi sức mạnh của tính khí bằng ý chí, tình thương và tư tưởng. Trong ba thời kỳ
liên hệ giữa Ðức Thầy và Đđệ Ttử,
chính thời kỳ thứ ba và cao hơn nữa là lúc Đđệ Ttử
sống trong tâm thức trẻ thơ, và trước hết y phải trải qua Tthời
Kkỳ
Nnhập
Mmôn,
kế đó mới được nhận làm Đđệ Ttử
Tthiệt
Tthọ
và qua giai đoạn thứ ba trở thành Ccon
của Ðức Thầy.
Ánh sáng đến từ Sư Phụ duy nhất, ánh
kim quang thiêng liêng độc nhất phóng ra những luồng ánh sáng rực rỡ xuống cho Đđệ
Ttử
vào buổi sơ khai.
Những tia sáng đó xuyên qua những
đám mây vật chất dày đặc và đen tối.
Những tia sáng đó chiếu diệu đó đây
như những tia nắng chiếu sáng trái đất xuyên qua đám lá dày đặc của rừng già.
Nhưng hỡi Đđệ
Ttử,
trừ phi xác thân con thụ động, đầu con lạnh, Llinh
Hhồn
con vững vàng và tinh khiết như viên kim cương sáng rỡ, bằng không thì tia sáng
sẽ không soi thấu đến thâm cung, ánh sáng sẽ không làm ấm áp
con tim và những tiếng diệu huyền từ Ccõi
Akasha sẽ không thấu đến tai, dù có chú ý lắng nghe đến đâu, trong thời kỳ thứ
nhứt.
C. W.
L.- Giống như Mmặt
Ttrời
lúc nào cũng chiếu sáng sau những cụm mây, Chơn Ngã bao giờ cũng bủa rải ánh
sáng của nó xuống cho người chí nguyện. Từ Ccõi
cao đó, những tia linh cảm và trực giác thỉnh thoảng len lỏi vào tâm trí đen
tối của chúng ta trong những lúc mà chúng ta gọi là những giây phút sáng suốt.
Chúng ta nên tìm cách nắm lấy những giây phút tuyệt diệu đó, giữ chúng lại bằng
trí tưởng tượng, tha thiết với chúng bằng sự tham thiền như thế là làm cho đời
sống chúng ta giống như hạt kim cương trong bản văn.
Về những “Ââm
Tthanh
Tthần
Bbí
của Ccõi
Aakasha
cao siêu,”,
Bà Blavatsky đã chú thích thêm như sau :
Những Ââm
Tthanh
Hhuyền
Bbí
đó là những âm điệu du dương mà Ttu Ssĩ
khổ hạnh nghe được lúc khởi đầu chu kỳ tham thiền của y, được các Nnhà
Yogis gọi là
Anahatashabda. Anahata là Luân Xxa
thứ tư.
Luân Xxa
thứ tư là trung tâm ở vùng quả tim. Trong khi tham thiền, tâm thức tập trung
vào quả tim, chính là lúc nó mẫn cảm hơn hết đối với Llinh
Hhồn
thiêng liêng hay Chơn Ngã siêu việt. Ðối với Ttam Tthể
Tthượng,
Aatma
- Bbuddhi
- Mmanas,
quả tim là trung tâm của xác thân. Ðầu là trụ sở của con người nội tâm trí thức
; trong bảy ngăn của nó có chứa nhiều cơ năng khác nhau (gồm cả Hhạch
Mmũi
và Ttùng
Qquả
Ttuyến).
Trong khi định trí, con người có thể di chuyển tâm thức của mình từ bộ não
xuống quả tim, phải liên kết dục vọng Hạ Trí (Kama-Mmanas)
với Thượng Trí (Hhigher
Mmanas)
xuyên qua Hạ Trí. Mà Hạ Trí, khi được thanh lọc và giải thoát khỏi Kkama
rồi, thì được gọi là Aantahkarana;
bấy giờ nó ở trong trạng thái có thể nhận được vài hình ảnh của Ttam
Tthể
Tthượng.
Tâm thức cao siêu đó cố gắng điều khiển nó bằng ý thức riêng của mình, nhưng
con người không thể hướng dẫn tâm thức trước khi được hiệp nhất với Ttrí
Hhuệ
Bồ Ðề ( Bbuddhi-Mmanas
). Giải thích trên đây là tóm lược những chú thích về mấy bài
thuyết giảng của Bà Blavatsky, thuộc phần phụ chú trong quyển ba của Bộ “Giáo Lý Bí
Truyền.”[36] [36] .
Theo truyền thuyết Ấn Ðộ, khi Kkundalini
đi lên nó giải trừ những đức tánh của các Cchakras
mà nó đi ngang qua và chỉ mang theo những tinh hoa của chúng. Khi nó lên đến Lluân
Xxa
thứ tư là Lluân
Xxa
ở quả tim, Nnhà
Yogi nghe được âm thanh phát xuất từ Ccõi
cao, gọi là Aanahata-Sshabda.
Shabda là âm thanh; Aan-Aahata
có nghĩa là : “không va chạm”;;
vậy chính âm thanh nầy không do sự va chạm nào phát ra. Từ ngữ nầy tượng trưng
cho những gì ở trên các Ccõi
của Pphàm
Nnhơn.
Về phương diện nầy, người chí nguyện bắt đầu tiếp xúc với Ttam
Tthể
Tthượng.
Nếu người ta muốn cho sự tiếp xúc giữa Thượng Trí và Hạ Trí được đầy đủ hơn,
thì trong khi tham thiền không nên lưu luyến đến những gì thấp hèn. Cách tham
thiền dưới đây được dịch trong Kinh Gheranda Samhita là một trong các phương
pháp tham thiền về trung tâm quả tim. Nó cho chúng ta thấy Nnhà
Yogi từ từ xa lìa hoàn cảnh chung quanh và tập trung sự chú ý vào lý tưởng của
y.
Y
phải tưởng tượng ở vùng quả tim mình một đại dương bao la đầy nước cam lồ,
.
Trên mặt nước đó nổi lên một hòn đảo tuyệt đẹp bằng bảo ngọc,c
.
Nơi đây cát là vàng chiếu óng ánh và rải rác đó đây, những đồ đạct
bằng châu báu,
.
Ngoài bãi biển rợp bóng cây trổ hoa vô số,
.
Trên đảo mọc những cây kiểng lạ, nào cây to, cây nhỏ, dây leo,
Ggiống
có tỏa hương thơm ngào ngạt khắp nơi.
Muốn thưởng thức trọn vẹn vị ngọt
ngào thiêng liêng,
Cchúng
ta phải tưởng tượng ở đó mọc lên một cây rất kỳ diệu,
Mmà
những nhánh nhóc vươn dài thật xa, mang nhiều trái hiến dâng cho mọi người.
Ðó là bốn Hhọc Tthuyết
có uy thế bảo trì Tthế Ggian,
.
Ở đây không có loại quả, hoa nào biết chết chóc, khó nhọcc
,
;
Llàm
bạn với chúng có đàn ong kêu vo vo và chim Đđỗ Qquyên
cất tiếng hát dịu dàng.
Bâấy
giờ,
dưới bóng cụm cây êm đềm đó
Hhiện
ra một Thánh Ðiện hồng ngọc rực rỡ,
.
Kẻ tầm Ðạo sẽ gặp nơi đây Ðấng
Mmà
mọi người vô cùng kính yêu ngồi trên ngai báu như trong một Cchánh
Đđiện.
Theo
lời chỉ dẫn của Sư Phụ y, kẻ tầm Ðạo suy tư thật lâu,
Vvề
Hình dáng Thiêng Liêng đó, về sắc tướng và những biểu hiện của Ngài.[37] [37]
Ít nữa là phải nghe, con mới có thể
thấy. Ít nữa là phải thấy, con mới có thể nghe. Nghe và thấy chính là giai đoạn
thứ hai.
. . .
. .
. .
. .
. .
. .
. . . .
Chúng tôi đã giải nghĩa hai động từ
thấy và nghe.[38] [38] . Trừ phi thí sinh có thể đáp
ứng với tiếng nói bên trong, nghĩa là trừ phi sinh viên hiểu được các Lluật
Thiêng Liêng, nếu không, y chẳng bao giờ thấy được ngoại vật đúng với chân
tướng của nó. Y phải tập nhìn các đối tượng vật chất bằng cặp mắt của tinh thần
như có lần một vị Chơn Sư đã dạy. Khi y thấy những đối tượng vật chất hay ngoại
vật theo lối ấy, y sẽ càng ngày càng hiểu tiếng nói nội tâm. Ðiều nầy nhắc
chúng ta phải vừa tham thiền vừa rút kinh nghiệm thực tế. Trong đời sống của
một người bận rộn, y không dừng lại để suy tư về cuộc sống của mình, như vậy y
sẽ không hiểu được ý nghĩa của những việc xảy ra trong đời của y bao nhiêu; mỗi
ngày chúng ta phải dành một ít thì giờ để ánh sáng nội tâm soi sáng rọi những
việc ấy. Mặt khác, sự giam mình trong một thư phòng và dành tất cả thì giờ của
mình để suy tư cũng không thật hữu ích; giống làm như
thế, người sẽ tạo ra một số ý niệm sai lầm, vì kinh nghiệm rất cần để sửa đổi
và mở rộng sự tham thiền. Hãy duy trì sự quân bình giữa nội tâm và ngoại giới,
đó chính là điều người thí sinh phải thực hiện. Phải tìm kiếm sự điều hòa, đó
là thuật ngữ đã được sử dụng và không ngớt lặập
lại trong Kinh Gita.
Trong hệ thống thiêng liêng, thế
giới nội tâm và ngoại cảnh đều hoàn toàn phù hợp nhau về mọi phương diện. Bà
Blavatsky có nói trong Bộ “Giáo Lý Bí Truyền”
:
Trong
phạm vi của những mãnh lực huyền bí, một âm thanh tai phàm nghe được chỉ là một
màu sắc chủ quan; một màu sắc có thể tri giác được chỉ là một âm thanh không
nghe được.[39] [39].
Chính màu sắc được đề cập đến ở đây
chứ không phải hình thể ; do đó, nói như thế đúng hơn, và
trong thực tế chúng ta chỉ thấy màu sắc chứ không phải là hình
thể.
Không thể nói một cách chính xác tại
sao sự hòa hợp giữa sự nghe và sự thấy đó gọi là giai đoạn thứ hai. Chúng ta
không hiểu hệ thống của Ðức Aryasanga bao gồm những gì, vì ở đây có một tấm màn
bao phủ thuyết của Ngài. Ðường chấm thay thế cho một đoạn thiếu sót, liên hệ
đến giai đoạn thứ ba. Sau sự thiếu sót đó, khi giáo lý được bổ túc,
chúng ta sẽ thấy Ðức Aryasanga định nghĩa những bước sau cùng đúng như trong
Yoga Sutras, nghĩa là : 5)- Ppratyahara
hay là kiểm soát trọn vẹn các giác quan, 6)- Ddharana
hay định trí, 7)- Ddhyana
hay tham thiền, sau cùng 8)- Ssamadhi
hay nhập định.
Khi Đđệ
Ttử
thấy và nghe, ngửi và nếm trong khi mắt và tai đóng lại, miệng và mũi bịt lại
; khi bốn giác quan hỗn hợp làm một và sẵn sàng nhập vào giác quan
thứ năm, nội xúc giác, bấy giờ con đã qua được giai đoạn thứ tư.
Nhiều Nnhà
Yogi ngậm miệng nín thở trong lúc tham thiền hay xuất thần. Họ để các ngón tay
theo cách để giữ kín mắt, mũi và miệng, hơn nữa, họ uốn lưỡi lên cho đến phía
sau khoảng trống trên miệng để không cho không khí vào. Phép thực tập ấy các Nnhà
Hatha Yyoga
gọi là Kkhechari
mudra. Các Nnhà
Raja Yyoga
không làm như thế và ở đây chúng tôi cũng không khuyến khích thực hành phương
pháp ấyđó. Đến một lúc nào
đó,, Đđệ Ttử
có thể nhắm mắt và vẫn nhận định được (hay cảm thấy trên Ccõi
Thiên Ggiới)
những cảm giác thuộc về khứu giác, vị giác, thị giác và xúc giác. Muốn vượt lên
một trạng thái cao siêu hơn, y phải tập luyện nội xúc giác, tức thính giác. Khi
y chú ý nghe tiếng nói vô thinh và theo dõi nó cho đến các chi tiết càng lúc
càng tinh vi, đến lúc y đạt đến giai đoạn Ppratyahara,
tức chế chỉ tất cả những cảm giác nội giới cũng như ngoại cảnh, những cảm giác
phòng học tập cũng như cảm giác ở phòng vô minh. Phép thực hành nầy được mô tả
trong câu châm ngôn sau đây :
Hỡi kẻ diệt tư tưởng, trong giai
đoạn thứ năm tất cả đều phải diệt trừ một lần nữa cho đến khi không thể nào
sống lại được.
Ðối với mọi người, hầu như thường
xảy ra việc người ta không chú ý đến ngoại cảnh, chẳng hạn như trong lúc đọc
sách hay say mê đặc biệt; lúc bấy giờ người ta không đáp ứng với những cảm giác
sinh ra do mùi hương, cảnh vật hoặc âm thanh. Khả năng tự đặt mình tùy thuộc
vào ý chí trong điều kiện nầy gọi là Ppratyahara;
nó chuẩn bị cho sự tham thiền thực sự có hiệu quả. “Diệt trừ cho đến khi nó
không thể sống lại được” chỉ có nghĩa các giác quan, giống như những con chó
giỏi, sẽ nằm xuống theo lệnh và chỉ đứng lên khi được gọi. Ở đây có một chú
thích như sau :
Ðiều nầy có nghĩa là đến giai đoạn
phát triển thứ sáu, trong Hhuyền
Bbí
Hhọc
gọi là Dharana, mỗi giác quan có tính cách như một quan năng riêng biệt phải bị
“tiêu diệt” ( hay làm cho tê liệt) tại Ccõi
giới nầy bằng cách cho nó đến nhập vào giác quan thứ bảy siêu việt hơn.
Trong Ppháp
Mmôn
Yoga, Dharana là giai đoạn thứ sáu, theo Kinh Yoga Sutras ;
đó là sự tập trung tinh thần mà chúng ta đã khảo cứu [40]
;[40] nó được thực hành sau giai đoạn Ppratyahara.
Cái Trí hay Chitta được xem như giác quan thứ sáu ;
do đó khi thực hành Ddharana
đã trọn vẹn, Cái Trí ngưng hoạt động, không còn liên hệ với những đối vật của
thế giới bên ngoài, lúc ấy trực giác được gọi là giác quan thứ bảy liền biểu
lộ. Ðời sống giáo hóa chúng ta bằng hai cách, thứ nhứt là những bài học mà
chúng ta thu thập được ở Tthế Ggian
và thứ hai là trực giác hay ảnh hưởng của Ccái Nngã
nội tâm (Chơn Nhơn). Khi con người tiến dần trên Ðường Ðạo, trực giác của y sẽ
gia tăng và sẽ ít lệ thuộc những bài học của Tthế Ggian
hơn. Nói cách khác, chính những người sử dụng các quan năng tâm linh của mình
sẽ rút ra từ một ít kinh nghiệm, nhiều lợi ích hơn những người từng trải nhiều
kinh nghiệm ở đời. Nhờ sự hoạt động của trí thông minh, người tiến hóa cao sẽ
nhận rõ được tầm mức quan trọng nơi những sự việc nhỏ mọn nhất, trong khi Cái
Trí chưa tiến hóa chỉ hoạt động theo sự hiếu kỳ. Nó luôn luôn khao khát sự mới
lạ, vì tư tưởng còn yếu ớt, nên ý nghĩa hiển nhiên của những sự việc tầm
thường, đã bị vét cạn nhanh chóng (tư tưởng của nó không thể khai thác một cách
sâu xa những sự kiện tầm thường). Chính Cái Trí trong phạm vi kinh nghiệm Ttôn
Ggiáo
nó đã đòi hỏi những phép lạ, nhưng rốt cuộc lại mù quáng trước vô số phép lạ
đang vây bọc chung quanh mình.
Hãy giữ trí con riêng biệt với mọi
đối tượng bên ngoài, với mọi cảnh vật ở ngoại giới. Hãy gác qua một bên những
hình ảnh bên trong, vì sợ e nó rọi bóng tối lên ánh sáng Llinh
Hhồn.
Bây giờ con ở trong Dharana, giai
đoạn thứ sáu.
Trong
khi thực hành phép tập trung tư tưởng, luôn luôn cần phải đồng thời xem
xét đến những nguyên nhân gây sự gián đoạn bên ngoài lẫn bên trong. Phải ngăn
cản Cái Trí đừng cho nó quan tâm đến một đối tượng ngoại tại nào, nếu không, dù
một tiếng động nhỏ nhứt cũng gợi tính hiếu kỳ của nó và gây phương hại cho sự
định trí. Chúng ta cũng phải ngăn không cho gợi
ở chính mình những hình ảnh liên hệ đến quá khứ cũng như tương lai; trong khi
luyện tập, đừng để ý đến những gì đang xảy ra hôm qua hoặc những gì có thể xảy
đến trong ngày mai. Khi sự tập trung đã được hoàn bị rồi, thì bắt đầu giai đoạn
kế đó, là giai đoạn thứ bảy, được gọi là Ddhyana,
hay tham thiền.
Khi con được vào giai đoạn thứ bảy,
thì hữu phước thay, con sẽ không còn nhận thấy
Ba Ngôi thiêng liêng nữa, vì chính con sẽ trở nên Ba Ngôi đó : Cchính
con và Cái Trí giống như hai kẻ song thai đứng cạnh ngang nhau,
và ngôi sao vốn là mục đích chiếu sáng trên đầu con vậy. Ba Ngôi ở trong cảnh
vinh quang và toàn phúc vô biên bấy giờ đã mất cả danh xưng trong thế giới Ảo MộngTưởng.
Chúng đã trở thành một ngôi sao duy nhất, ngọn lửa cháy không bao giờ tàn, lửa
ấy là Upadhi của sự cháy sáng.
Hỡi Nnhà
Yogi thành đạt, chính đó là cái mà người ta gọi là Dhyana, kẻ thực sự đến trước
cửa Samadhi.
Trên Ðường Ðạo người chí nguyện đi
từ Ddharana
đến Ddhyana,
từ sự tập trung tư tưởng đến tham thiền, kế đó y mới đạt đến tâm thức Bồ Ðề.
Cái đó “chính là y” vậy. Cái Trí được đề cập ở đây là Thượng Trí và Hạ Trí đã
trở nên yên lặng. Nguyên lý của Mmanas
đã được chuyển qua Tthể
Bồ Ðề đến nỗi chúng giống như “hai trẻ song thai đứng ngang nhau,”,
đó là hai góc trong một hình tam giác, như chú thích sau đây
:
Mỗi giai đoạn phát triển trong Raja
Yoga được tượng trưng bằng một hình Kkỷ Hhà
Hhọc.
Hình nầy là một tam giác thiêng liêng và đứng trước Dharana. Hình tam giác là
biểu hiệu của những Đđệ Ttử
cao cấp, còn một hình tam giác theo kiểu khác là biểu tượng của những vị Đđệ
Ttử
đã được Ðiểm Ðạo ở bậc cao. Ðó chính là biểu hiệu “Ta” mà Ðức Phật đã đề cập
đến và Ngài dùng như một biểu tượng cho sự hóa thân của Ðức Như Lai (Tathagata
) khi Ngài thoát khỏi ba phương pháp của Prajna (Bát Nhã ). Khi
vượt qua khỏi những giai đoạn sơ khởi và hạ đẳng, vị Đđệ
Ttử
không còn thấy hình tam giác nữa, mà chỉ thấy sự tóm tắt của bảy nguyên lý trọn
vẹn. Hình dáng thật sự của nó không thể công bố ở đây vì hầu như chắc chắn
những kẻ phỉnh lừa sẽ cướp lấy và sử dụng chúng vào những việc phạm thượng và
bất chánh.
Ngôi sao chiếu sáng trên đầu chúng
ta là Atma. Nhưng theo Bà Blavatsky nói trong một chú thích khác, nó cũng tượng
trưng cho ngôi sao của cuộc lễ Ðiểm Ðạo chiếu rực rỡ trên đầu người Ðạo Đđồ.
Như mục tiêu được theo đuổi là cuộc Ðiểm Ðạo lần thứ Tư, tức là cuộc Ðiểm Ðạo
của vị La Hán, chính ngôi sao của cuộc Ðiểm Ðạo dẫn đến Ccõi
Niết Bàn là mục đích của nó.
Trong lúc đó, thay vì tưởng tượng
trong trí, mắt hướng lên Ttrời
để nhìn Ttam
Tthể
Tthượng
(Aatma-Bbuddhi-Mmanas)
như nó ở trên đầu mình lúc trước, người ta ở trong trạng thái Bồ Ðề vì Mmanas
đã hợiệp
nhất với Bồ Ðề (Bbuddhi),
tạo thành Mmanas
-Ttaijasi.
Sự tham thiền của người Ðạo Đđồ
trong giai đoạn nầy sẽ đưa đến sự hợiệp
nhất giữa Buddhi và Atma ; khi sự hợiệp
nhất nầy thành tựu, Ttam Tthể
Tthượng
sẽ trở
nên một ngôi sao duy nhất, được mô tả trong một chú thích như “nền tảng (
Upadhi ) của ngọn lửa không bao giờ đạt đến
được, bao lâu vị Ttu Ssĩ
còn sống trên Tthế
Ggian
nầy.”.
Nhiên liệu là Pphàm
Nnhơn
; lửa là Bba Nngôi
tinh thần ấy; ngọn lửa là Chơn Thần. Bao giờ còn sống trong xác phàm, chính vị
Chơn Tiên cũng không đạt đến trạng thái Chơn Thần một cách trọn vẹn. Bà
Blavatsky đã thêm vào những câu sau đây :
Dhyana là thời kỳ áp chót tại Qquả
Đđịa
Ccầu
nầy, trừ phi con người trở thành một vị Mahatma hoàn toàn. Như người ta đã nói,
trong trạng thái nầy, Nnhà
Raja Yogi còn ý thức trong tinh thần về tự tánh của y và về sự tác động của
những nguyên lý cao siêu của y. Tiến thêm một bước nữa, y sẽ vượt qua Ccõi
thứ bảy (hay thứ tư của các Ttrường
Pphái
khác). Theo các Pphái
nầy, sau khi thực hành Pratyahara - sự luyện tập sơ khởi để kiểm soát Cái Trí
và tư tưởng - gồm cả ba giai đoạn Dharana, Dhyana và Samadhi nhập làm một, gọi
là Sannyama. Samadhi là trạng thái trong đó vị hành giả mất ý thức về cá nhân,
kể cả chính y. Y trở thành Tất Ccả.
Ðiều ấy có nghĩa là ba giai đoạn nầy
mất hết danh xưng của chúng. Ðây không phải là những sắc tướng, vì Ccõi
riêng của chúng là Ccõi
tâm thức. Những Ccõi
thấp của Pphàm
Nnhơn
là Ccõi
của hình tướng; đó là Ccõi
của danh xưng hay “ý nghĩa”, nhưng Chơn Thần ở trên tất cả danh xưng, vượt ra
ngoài tất cả những gì mà người ta gọi là tâm thức.
Kế đó bản văn cho thấy người chí
nguyện bây giờ đã trở thành vị La Hán, Yy đã
đạt đến mục đích của sự cố gắng bàn luận trong đoạn nầy.
Và bây giờ Ttiểu
Nngã
của con đã biến mất trong Ðại Ngã, chính con đã tự mất trong Chơn Ngã của con,
chìm trong Ðại Ngã mà trước kia con đã từ đó phóng ra ngoài.
Hỡi Đđệ
Ttử,
còn đâu là cá tính của con, cho đến chính cả con cũng không còn. Ðó là tia sáng
đã mất trong lửa, giọt nước đã mất
trong biển cả, tia sáng luôn luôn hiện hữu đã trở nên Toàn thể và sự
phóng quang Toàn
Thể và bất
diệt.
Hỡi Đđệ
Ttử,
bây giờ con vừa là diễn viên và vừa là khán giả, vừa là vật phóng quang và vừa
là sự phóng quang, là ánh sáng trong âm thanh và âm thanh trong ánh sáng.
C. W.
L.- Ðến một lúc nào đó của cuộc sống, con
người hiểu rằng Pphàm
Nnhơn
chỉ là “cái đó” và do đó mới di chuyển trung tâm ý thức của y đến Chơn Ngã cao siêu.
Cũng thế, đến một lúc, nhờ kinh nghiệm riêng, con người đãsẽ khám phá ra được tâm thức chỉ là
cái “bạnAnh” chứ không phải cái “Ttôi.”.[41] Bấy giờ - chính lúc đó hay vào thời kỳ Ðiểm Ðạo lần thứ Tư - Pphàm
Nngã
tan biến trong Chơn Ngã và những gì mà con người nghĩ hoặc cảm thấy là cá biệt
của mình đều biến mất. Cũng thế, khi con người đạt đến trạng thái Bồ Ðề, y sẽ
hiểu biết và chấp nhận tâm thức của kẻ khác cũng là tâm thức của mình và cảm
thấy những nỗi buồn vui của họ như của mình - cũng thế, bấy giờ người ấy chỉ
thấy một cái “Tôi”chân thật duy nhất trong tất cả.
Kinh Bhagavad-Gita phân biệt người
Ðạo Đđồ
bậc thấp với vị La Hán do trạng thái tâm thức ở Ccõi
Bồ Ðề và Ccõi
Niết Bàn. Trong trạng thái thứ nhứt, con người thấy trong tất cả vạn vật chỉ có
một Chơn Ngã duy nhất; nhưng trong trạng thái thứ hai, y thấy
tất cả vạn vật đều là thành phần của Chơn Ngã duy nhất.
Theo Yoga Sutras, đó là trạng thái Kaivalya, trạng thái “hiệp nhất”, giải thoát. Vừa hoàn toàn đạt được trạng thái ấy thì sự phân biệt giữa kẻ thấy và vật bị thấy, giữa đối tượng và chủ thể, liền chấm dứt.
Con đã quen với năm mối chướng ngại,
hỡi kẻ hữu phước. Con đã chiến thắng cả năm, làm chủ cái thứ sáu, giải phóng
bốn thể thức của Cchân
Llý.
Ánh sáng chiếu sáng chúng tự nơi con
phát ra, nầy con, xưa kia con là Đđệ Ttử
mà ngày nay con là Sư Phụ.
Và đối với bốn thể thức Cchân
Llý
đó :
Con há chẳng đã kinh nghiệm mọi sự
khốn khổ hay
sao - nó là Cchân
Llý
thứ nhứt ?
Con há chẳng đã
chiến thắng được Ma Vvương
ở Tu , nơi cửa đại hội hay sao -- đó là Cchân
Llý
thứ nhì ?
Con há chẳng đã tiêu diệt được tội
lỗi ở nơi cửa thứ ba và hoạch đắc Cchân
Llý
thứ ba hay sao
?
Con há chẳng đã vào trong Tau, con
đường dẫn đến trí huệ hay sao - đó là Cchân
Llý
thứ tư ?
Và Bà Blavatsky thêm :
Theo Phật Ggiáo
Bắc Tông, bốn thể thức Cchân
Llý
là : Ku, đau đớn hay sự khổ
; Tu, toàn thể sự cám dỗ ;
Mu, tiêu diệt sự cám dỗ, và Tau, con đường diệt khổ. “Năm “chướng
ngại” là nhận thức được sự đau khổ, Cchân
Llý
về sự yếu đuối của con người ;
những giới hạn khốn khó và sự cần thiết tuyệt đối phải lìa bỏ tất cả những dây
trói buộc của tình dục và ngay cả những dục vọng ;
sau nầy là “con đường giải thoát.”.
Ðức Phật của chúng
ta đã dạy cho nhân loại “Tứ Ddiệu
Đđế
” là:
Khổ, Nguyên nhân của sự khổ (Tập),
Sự diệt khổ (Diệt), và Con đường diệt khổ (Ðạo). Những Cchân
Llý
nầy được Sir Edwin Arnold trình bày cho người Tây Pphương
trong một tác phẩm bằng trường thi diễm tuyệt và đúng đắn vô cùng, có nhan đề
là “Ánh
Ðạo Ðông Phương,” mà chúng tôi xin trích lục một đoạn dưới
đây. Những người muốn tìm cảm hứng trên con Ðường Ðạo nên đọc toàn bộ tác phẩm.
Nầy
Cchư
Tthiện
Hhữu,
nếu Cchư
Tthiện
Hhữu
muốn theo Ccon
Đđường
Ttrung
Ddung
do Cchánh
Kkiến
vạch ra và sự an tịnh vững vàng, nếu Cchư Tthiện
Hhữu
muốn theo con đường siêu việt để đến Ccõi
Niết Bàn, thì hãy nghe bốn Cchân
Llý
cao cả sau đây.
Chân Llý
thứ nhứt là Khổ Đđế.
Chớ nên để bị lầm lẫn nữa; cuộc đời mà chúng ta yêu mến là một cơn hấp hối
triền miên; chỉ có sự khổ não được lưu lại, trong khi sự vui thú như đàn chim vui
hót rồi bay đi.
Sinh
khổ, khổ vì những ngày tuyệt vọng, khổ vì tuổi thanh xuân bồng bột và tuổi
trưởng thành hoàn hảo, khổ vì những năm lạnh lẽo và u ám của tuổi già, và sau
cùng khổ vì sắp lìa đời, đó là tất cả những gì đã lấp đầy cuộc sống đáng thương
của chúng ta.
Tình yêu
là một thứ gì rất êm dịu, nhưng một ngày kia ngọn lửa thiêng liêng sẽ liếm láp
hình hài kiều diễm mà chúng ta đã từng ôm ấp và khuôn mặt xinh tươi mà chúng ta
đã từng môi kề má cọ. Dũng cảm như một vị tướng quân, mà một ngày kia thi thể
cũng đành phải cho Kkênh
Kkênh
cấu xé.
Ðất đai
huy hoàng tráng lệ, nhưng tất cả sinh vật trong rừng vẫn âm mưu tương tàn nhau
để sinh sống. Bầu trời xinh đẹp như ngọc lam xanh biếc, nhưng những kẻ đói khát
kêu van thảm thiết vẫn không được một giọt nước thấm giọng.
Nếu
chúng ta thử hỏi những kẻ đau yếu, những kẻ khốn khổ, thử hỏi những kẻ khập khiễngểnh
chống gậy, lạc loài, bơ vơ xem : “Các
ông có yêu đời chăng?” Họ sẽ đáp rằng trẻ con vừa mới lọt lòng mẹ đã cất tiếng
khóc thật có lý lắm.
Chân Llý
thứ hai là nguyên nhân của sự khổ (Tập Đđế
). Có sự khổ não nào mà tự dưng nhiên nó đến mà không do Dục Vọng sinh ra
? Giác quan là đối tượng của nó vừa gặp nhau là lửa dục tình đã
bùng cháy dữ dội.
Trishna,
lửa tà dục
tình và sự thèm khát cũng bùng cháy
như thế, chúng ta theo đuổi một cách cuồng loạn những hình bóng, chúng ta đắm
mê trong mộng ảo; chúng ta sống bằng cái tôi giả tạo, và xây dựng chung quanh
nó một thế giới giả tưởng.
Mắt
chúng ta mù loà trước ánh sáng cao cả, tai chúng ta điếc lác dưới những lời êm
dịu như gió hiu hiu từ trời Âu đã bay đến, miệng chúng ta câm nín trước tiếng kêu của
đời sống chân thật mà kẻ đã dứt bỏ đời sống giả dối còn giữ lại.
Do đó
mới có những cuộc tranh đấu, những cảnh dâm loàn tạo ra giặc giãả
dưới Tthế
Ggian,
do đó mới có những tâm hồn yếu đuối bị lường gạt, mắt đầy lệ đắng cay; do đó
những dục tình, ham muốn, phẫẩn
nộ, hiềm thù mới gia tăng; như thế những tháng năm tàn nhẫn cứ mãi trôi qua.
Chân đẵẫm
máu, chạy theo những năm nhuộm máu đồ sát. Bởi đó, nơi nào hạt giống lành phải
nẩy nở, thì cỏ dại lại đâm chồi, đem lại toàn là rễ và hoa đầy nọc độc; nơi nào
đất tốt, hạt giống quý cũng khó rơi xuống để mọc lên.
Rồi Llinh
Hhồn
ra đi sau khi đã uống đầy nước nhiễm độc, và Nnghiệp
Qquả
bắt nó trở lại với sự khao khát mãnh liệt được uống lại nữa
; bị giác quan kích thích, cái Ngã bồng bột bắt đầu lại và gặt hái
những nỗi thất vọng mới.
Chân Llý
thứ ba là sự chấm dứt đau khổ ( Diệt
Đđế
). Chính sự an tĩnh mới thắng được sự ái ngã và sự tham sống, mới
nhổ hết được tận gốc rễ thâm sâu của dục tình và bình định được sự chiến đấu
của nội tâm.
Phải có
tình thương để củng cố vẻ đẹp vĩnh cửu; phải tự chủ để hưởng thụ vinh quang và
phải hoan hỷ để sống cao hơn các Cchư Tthiên;
và người ta giàu sang vô cùng.
Sở dĩ
giàu có như thế ; vì đương sự đã giúp đời, đã hoàn
thành bổn phận từ thiện, đã thốt ra những lời nhân hậu và sống một cuộc đời
thanh khiết: Ssự
giàu sang đó sẽ không bị hư hoại giữa lòng đời và không có sự chết chóc nào làm
suy giảm giá trị của nó.
Chừng đó
sự đau khổ sẽ biến mất, vì vòng Sinh Tử đã chấm dứt ;
dầu đã cạn rồi hết làm sao đèn có thể cháy? Món nợ xưa đã
được thaánh
toán, Nnghiệp
Qquả
mới đã sạch; nên con người mới đạt được sự chí phúc.
* * * * *
Chân Llý
thứ tư là con đường diệt khổ ( Ðạo
Đđế
). Con đường nầy được mở rộng cho tất cả mọi người, không hề phân
biệt. Ðó là Bát Chánh Ðạo, đưa chúng ta đi thẳng đến chốn an lạc là nơi ẩn náo
cuối cùng của chúng ta. Chư Tthiện
Hhữu
hãy lắng nghe.
Có nhiều
nẻo dẫn đến
đỉnh núi phủ đầy tuyết, chung quanh quấn quít những đám mây vàngg
; dù leo lên những con đường êm ái hay hiểm trở, người ta cũng sẽ
đến đỉnh núi, ở đó sẽ không thấy một thế giới mới lạ hiện ra.
Những
người có đôi chân khỏe mạnh có thể đương đầu với con đường dốc đứng và nguy
hiểm vượt thẳng lên sđường
núi, những người yếu đuối bắt buộc phải đi vòng quanh bằng con đường xa
dài
hơn, có nhiều trạm nghỉ.
Ðó là
con đường Bát Chánh - dẫn đến sự an lạc ;
nó có nhiều dốc: Kkhi
thì lơi, khi thì thẳng đứng. Linh Hhồn
can đảm sẽ đến sớm, Llinh
Hhồn
yếu đuối sẽ đến trễ, nhưng tất cả đều sẽ đến vùng tuyết phủ sáng tươi rực rỡ.[42] [41].
Năm chướng ngại ngăn trở bước tiến của thí sinh muốn đạt quả vị La Hán có thể giải thích theo nhiều cách. Ðó là năm chướng ngại mà Bà Blavatsky trưng dẫn trong chú thích chúng ta vừa kể, hay là năm chướng ngại đầu tiên, hoặc cũng là năm Kleshas được đề cập trong Yoga Sutras mà chúng ta vừa bàn đến.
Và bấy giờ con hãy an nghỉ dưới cội
Bồ Ðề, đó là sự toàn tri, vì con nên biết, con là bậc thầy về Samadhi - trạng
thái thịri
kiến không thể lầm lạc.
Con hãy nhìn xem !
Con đã trở nên ánh sáng, trở nên âm thanh, con là Sư Phụ, là Thượng Ðế của con.
Chính con là đối tượng tìm kiếm của con : là
Ttiếng
nói bất diệt vang rền trong vĩnh cửu, ngoài vòng biến đổi, bảy âm thanh nhập
làm một, đó là Tiếng Nói Vô Thinh.
Aum Tat Sat.
Câu cuối cùng Aum Tat Sat là thành
phần của Kinh Mahavakyams hay “Ðại ngôn” của người Ấn Ðộ. Chúng ta đã tìm hiểu
ý nghĩa của chữ Aum, chữ Tat có liên quan đến Ðấng Tối Cao. Theo Ttriết
Hhọc,
các đại danh từ “nó,”,
“y” không thể sử dụng để chỉ Ngài, do đó người ta mới dùng chữ Tat nghĩa là
“Cái Đđó,”,
nghĩa là “Chơn Ngã.”.
Tiếng nầy có nghĩa là Tthực
Ttại
chính là Cái Đđó.
Những công nghiệp tốt đẹp đều bắt đầu và chấm dứt bằng tư tưởng ấy.
PHẦN THỨ HAI
HAI CON ĐƯỜNG
C. W. L.- Bây giờ chúng ta
bước qua Pphần thứ Hhai
của quyển Kim Huấn Thư do Bà Blavatsky dịch, có nhan đề là Hai Con Ðường. Phần
nầy không nhất thiết tiếp theo Pphần
thứ Nnhứt,
được gọi là Tiếng Nói Vô Thinh, mặc dù câu mở đầu là lời nhắn người vừa mới đắc
quả La Hán. Không có gì chứng tỏ có sự liên quan đặc biệt giữa ba phần. Chúng
ta chỉ nên xem như ba tác phẩm rõ rệt luận giải cùng đề tài một cách hơi giống
nhau. Tuy nhiên đối với người chí nguyện khi nghe lặập
lại Ggiáo
Llý
về Ðường Ðạo dưới những hình thức hơi khác nhau là một sự lợi ích lớn lao; sự
nghiên cứu mới nầy sẽ làm sống lại nhiệt tâm của y, lôi cuốn sự chú ý của y
trên những điểm mà y đã bỏ qua và thường thường mở rộng quan điểm
của y.
Phần đang trình bày bắt đầu bằng lời
kêu gọi nhắn nhủ với vị Đđệ Ttử
đã đạt đến đỉnh cao của Ðường Ðạo và vấn đề được đặt ra là : Yy
sẽ tiếp tục tiến tới để hưởng sự chí phúc tại Ccõi
Niết Bàn mà không cần bận tâm đến những kẻ đến trễ, hoặc vừa đặt chân lên ngưỡng
cửa, y sẽ quay lại để giúp đỡ những kẻ đang leo lên .?
Và bây giờ đây, bạch Sư Phụ Từ Bi,
xin Ngài chỉ đường cho kẻ khác. Ngài hãy xem, tất cả những kẻ đến gõ cửa xin
được thâu nhận ở trong cảnh dốt nát, tối tăm đang chờ mong cửa Diệu Pháp mở
rộng.
Tiếng của các thí sinh
:
Hỡi Ðức Thầy Từ Ái, Ngài đành chẳng
tiết lộ Tâm Ppháp
sao ? Ngài đành từ chối, chẳng dìu dắt
tôi tớ của Ngài vào Con đường Giải thoát sao ?
Trong thời hiện đại, trước hết đoạn
đầu trong phần nầy dường như có hơi kỳ lạ. Con đường mở rộng khắp nơi và cho
tất cả mọi người - không phân biệt Cchủng
Ttộc,
Ttôn
Ggiáo,
nam nữ, giai cấp hay màu da - chỉ cần thừa nhận lời chỉ dẫn để đi trên Ðường
Ðạo; đó là ý niệm rất quen thuộc với chúng ta. Trong những hoàn cảnh như thế,
tại sao có những người chìm đắm trong cảnh tối tăm, đang chờ đợi cáảnh
cửa mở ra cho họ ?
Sự thật là vào thời kỳ Ðức Phật của
chúng ta đang truyền bá giáo lý của Ngài tại Ấn Ðộ, Ðạo Bà Lla
Mmôn
đã trở nên rất khắc nghiệt. Ban đầu Ttôn Ggiáo
nầy có tính cách rất hoan hỷ và tự do, nhưng trải qua nhiều thế kỷ, các Ggiáo
Ssĩ
và Vvua
Cchúa
đã mở rộng Hhệ
Tthống
Ggiai
Ccấp
với tất cả mọi thứ chi tiết. Vào khoảng 10.000 năm trước Thiên Chúa, khi Ggiống
Ddân
Aryans di cư xuống Bbán Đđảo,
thì tại đồng bằng Ấn Ðộ đã có nhiều Ggiống
Ddân
Atlante và Alanto-Lemurien cư ngụ. Do đó Ðức Bàn Cổ thấy cần phải ngăn cấm sự
kết hôn giữa hai Ggiống
Ddân,
và khoảng 8. 000 năm trước Thiên Chúa, Ngài thiết
lập Hhệ
Tthống
Ggiai
Ccấp
để chận đứng mọi sự hỗn hợp mới và duy trì những sự kết hợp đã xảy ra từ trước.
Ban đầu, Ngài chỉ thành lập ba Ggiai
Ccấp
-Brahmana, Rajan và Vish. Giai cấp thứ nhứt gồm có Ggiống
Ddân
Aryan thuần túy, Ggiai
Ccấp
thứ hai gồm Ggiống
Aryan và Toltec ; Ggiai
Ccấp
thứ ba gồm giống Aryan và Mongolian ( Mông
Cổ ).
Từ đó mới có danh từ Varnas hay màu
da gán cho các Ggiai
Ccấp
da trắng thuộc Ggiống
Aryan thuần túy, da đỏ thuộc Ggiống
Aryan và Toltec, da vàng thuộc Ggiống
Aryan và Mongolian. Giữa các Ggiai
Ccấp
khác nhau người ta được quyền kết hôn, nhưng không bao lâu dư luận xác nhận chỉ
có người cùng giai cấp mới được kết hợp nhau. Sau nầy những người Ấn Ðộ hoàn
toàn không phải là Ggiống
Ddân
Aryan thường cũng được gọi là Shudras ;
mặc dù trong số những người đó cũng có thể xuất hiện một số người mang chút ít
dòng máu Aryan. Nhiều Bbộ Llạc
ở vùng đồi núi có một phần là Ggiống
Ddân
Aryan, vài Bbộ
Llạc
khác hoàn toàn thuộc Ggiống
Ddân
ấy, như Ddân
Siaposh và Gipsy.
Trong các bản văn Kinh Ấn Ðộ
có nhiều đoạn cho biết là đối với những cá nhân đức hạnh và phẩm giá đặc biệt
có thể được nâng lên một Ggiai
Ccấp
cao hơn, nhưng đặc ân nầy rất ít khi được chấp nhận ;
chắc chắn trước thời kỳ Ðức Phật ra đời chỉ có người Bà Lla Mmôn
mới dám hy vọng được sự giải thoát, một người nào khác muốn đạt đến điều đó
trước hết phải tìm cách tái sinh trong Ggiai
Ccấp
Bà Lla
Mmôn.
Ðối với đa số người Ấn Ðộ, lý thuyết nầy ít mang đến hy vọng, vì người Bà Lla
Mmôn
không bao giờ đông đảo ( ngay cả bây giờ trong toàn thể dân số
khoảng ba trăm triệu, chỉ có mười ba triệu người Bà Lla
Mmôn
) và họ không cho phép những người thuộc Ggiai
Ccấp
thấp khác nghiên cứu Thánh Kinh.
Rồi giáo lý của Ðức Phật đến mở rộng
hoàn toàn những cánh cửa. Ngài dạy rằng đối với mọi Ggiai
Ccấp
nếu sống đúng Ggiới
Lluật
đều được tôn trọng như nhau, và trái lại, dù là một người Bà Lla
Mmôn
không tuân theo Ggiới
Lluật
cũng không đáng kính trọng ; đoạn thi văn sau đây của Kinh
Vasala Sutta chứng tỏ điều nầy :
Chẳng phải vì sinh ra trong Ggiai
Ccấp
thấp kém mà người ta trở thành người thấp hèn.
Chẳng phải vì sinh ra trong Ggiai
Ccấp
Bà Lla
Mmôn
mà người ta trở thành Bà Lla Mmôn.
Chính chỉ vì do hành
động mà người ta rơi vào Ggiai
Ccấp
thấp hèn.
Chính chỉ do hành động mà người ta
trở thành Bà Lla
Mmôn.
Trong đời sống hằng ngày của họ
nhiều người Bà Lla Mmôn
nói cho tôi biết là họ cảm thấy đoạn Kinh nầy rất đúng với sự thật
; họ cảm thấy có thiện cảm đối với những người phẩm hạnh phù hợp
với lý tưởng Bà Lla Mmôn
hơn là đối với những người trong chính Ggiai
Ccấp
của họ lại chểnh mảng với lý tưởng và sống một cuộc đời thiếu cao thượng.
Ðức Phật của chúng ta không tìm cách
thiết lập một Ttôn
Ggiáo
mới, mà chỉ muốn cải tổ Ấn Ðộ Ggiáo.
Có một thời toàn thể nước Ấn Ðộ tự xưng là Qquốc
Ggia
Phật Ggiáo.
Có nhiều Phật Ttử
Ấn Ðộ, cũng như ngày nay, ở miền Tây Bắc có nhiều người tự xưng là Ấn Ðộ Ggiáo
Sikh. Với tư cách là Ttôn Ggiáo,
Phật Ggiáo
đã biến mất tại Ấn Ðộ từ lâu ;
hai mươi triệu Phật Ttử
được đề cập đến trong bảng thống kê thuộc một Ttỉnh
của xứ Miến Ðiện, về phương diện địa lý và nhân chủng là một vùng hoàn toàn
cách biệt với Ấn Ðộ. Tuy nhiên hiệu quả của thiện ý Ðức Phật vẫn biểu lộ rõ
ràng trong Ttôn
Ggiáo
Ấn Ðộ hiện nay. Chẳng hạn chúng ta thấy Ðức Phật phản đối một cách rất cương
quyết việc sát sinh để tế lễ ;
trước thời đại của Ngài việc làm ấy rất thịnh hành và ngày nay việc cúng tế như
thế rất hiếm. Chúng ta cũng nên nói thêm là hiện nay tất cả các nhân vật thánh
thiện ở Ấn Ðộ đều được mọi người kính trọng, dù họ thuộc Ggiai
Ccấp
nào, trước khi trở nên một Ttu Ssĩ
khổ hạnh (Ssannyasi).
Ở khắp nơi, Bộ Chí Tôn Ca ( Bhagavad Gita )
được tôn trọng như một bộ Kinh tượng trưng cho uy quyền tối thượng. Ðây là
những lời của Ðấng Chí Tôn trong bộ Kinh ấy :
Ðối
với tất cả chúng sinh Ta vẫn không thay đổi; không có người nào là đáng thương
hay đáng ghét đối với Ta. Kẻ nào thờ phượng Ta với tất cả lòng thành tín, đều ở
nơi Ta và Ta vẫn ở nơi họ. Ngay cả kẻ phạm tội lớn lao nhất mà thờ phượng Ta
một cách nhiệt thành, y sẽ được xem như một người chơn chánh, vì sự thật y vẫn
nhất quyết chơn chánh, y hoàn thành bổn phận của y một cách nhanh chóng và tiến
đến sự an lạc vĩnh cửu, hỡi hiền tử Kaunteya ;
nên biết rằng kẻ nào thờ phượng Ta thì không bao giờ chết cả. Nầy, Partha, tất
cả những ai tìm chỗ ẩn náu ở nơi Ta dù họ sinh từ dòng dõi nào cũng thếể
; phụ nữ, hạng Vaishyas ( Tỳ Xxá
: Tthương
Ggia
) hay kể cả hạng Shudras ( Ttôi
Đđòi
), tất cả đều đi đến Con Ðường Tối Thượng.[43] [42].
Trong mấy hàng trên đây chúng ta không nên nghĩ rằng Ðức Krishna nhắm đến phụ nữ, hoặc những người khác, một hạng người thấp kém nào đó; Ngài bác bỏ tất cả những sự mê tín bình dân, chẳng hạn như ý tưởng cho rằng những sinh linh sanh ra trong xác thân nữ giới ắt phải có bản chất thấp hèn và không thể tiến lên thật cao trên con đường tinh thần.
Trong một chú thích, Bà Blavatsky
cho biết trong Phật Ggiáo
có hai Ttrường
Pphái
là Bbí
Ttruyền
và Ccông
Ttruyền,
gọi là “Ttâm
Ppháp”
và “Nnhãn
Ppháp,”,
phần Ttâm
Ppháp
được tạo ra do tâm của Ðức Phật, còn phần Nnhãn
Ppháp
là sản phẩm của trí não Ngài. Người ta còn giải thích cho tôi nghe một cách
khác nữa ; vấn đề là tâm và nhãn của thí sinh
: Nngười
ta có thể hoạch đắc một kiến thức tổng quát về sự vật bằng con mắt, nhưng đối
với Ccon
Ðường cao cả mở ra trước mắt con người thì phải có sự hoà hợp giữa tâm thức
với đời sống bên trong.
Toàn thể đoạn văn nầy đều căn cứ
trên sự do dự của Ðức Phật khi Ngài tự hỏi xem Ngài có nên đi truyền pháp
chăng. Vì trong buổi sáng ngồi dưới cội Bồ Ðề, sau khi đạt đến sự toàn giác,
Ngài không biết Tthế Ggian
có hiểu Ngài và nghe theo Ngài chăng, cho đến lúc Ngài nghe tiếng nói giống như
tiếng của Qquả
Đđịa
Ccầu
đau khổ vang lên : “Chắc chắn ta phải bị tiêu diệt; ta
và tất cả mọi sinh vật của ta!” Và tiếng khẩn cầu lại vang lên nữa
: “Hỡi Ðấng Chí Tôn, cầu xin Ngài ban Ggiáo
Ppháp
cho Tthế
Ggian.”[44] [43]
Ðức Thầy phán :
Con đường có hai; sự chí thiện có
ba; sáu đức hạnh biến đổi thân hình thành
thân cây
trí tuệ.
Bà Blavatsky giải thích thêm như sau
:
“Cây trí huệ” là danh hiệu của
mà
các Mmôn
Đđồ
của Bồ Ðề Ðạt Ma ( Tôn Gigiáo
căn cứ trên Minh Triết ) dùng để gọi những Vvị
đã đạt được trạng thái cao siêu của kiến thức Tthần
Bbí
- những Vvị
Chơn Tiên . Ðức Long Thọ, Ðấng sáng lập Ttông
Pphái
Trung Qquán
Lluận
(Madhyamika ) được gọi là Ccây
Rrồng
( Long Thọ ), Rrồng
là biểu tượng của sự Mminh
Ttriết
và Ttrí
Hhuệ.
Cộái
cây được tôn sùng vì chính dưới cội Bồ Ðề ( Minh
Triết ) mà Ðức Phật đản sinh, giác ngộ, sơ
chuyển pháp luân và nhập diệt.
Ðức Swami T. Subbla
Raow giải thích biểu tượng Ccây
Rrồng
có hơi khác. Ngài cho rằng xác thân thí sinh trở nên một vận hà tiếp nhận kiến
thức (cũng có thể nói là tiếp nhận Tthần
Llực
) , vậy cũng giống như một trong sáu
nhánh nhỏ của cội cây tượng trưng cho toàn thể sự minh triết của Tthế
Ggian.
Chúng ta cũng có thể thêm rằng vị Ðạo Đđồ[45] [44] là thành phần của cây to do Quần
Tiên Hội vun trồng, mà rễ mọc từ trên các Ccõi cao
siêu và những nhánh phân chia trong các thành phần của đời sống nhân loại và cả
đến những loài thấp kém. Ðộc giả đọc các Cchương
chót của quyển “Chơn Sư và Thánh Ðạo” sẽ hiểu biết
biểu tượng cổ thời của cây trí huệ nầy; trong đó chúng tôi trình
bày Quần Tiên Hội phát sinh từ một cái Rễ vĩ đại và duy nhất, rồi mới phân chia
ra bên ngoài.
Kểê ra
hai con đường, ba sự chí thiện và sáu đức hạnh là một thí dụ về phương pháp
tính của Phật Ggiáo.
Ngài bao giờ cũng giúp những Đđệ Ttử
nhớ bài học của Ngài dạy dưới hình thức các bức tranh. Như thế có Tứ Diệu Ðế,
mà mỗi Cchân
Llý
chỉ trình bày bằng một chữ để dễ nhớ một nhóm ý niệm đặc biệt; rồi đến Bát
Chánh Ðạo, Mười Ðiều Ác mà ba thuộc về Tthân,
bốn do Kkhẩu
và ba điều nữa do Ýý
; sau cùng là Thập Nnhị Nnhân
Dduyên
hay những nhân duyên liên tục đối với con người đang sống một cuộc đời vật chất
và phiền não.
Những Cchân
Llý
siêu việt hay Paramitas (Ba Lla Mmật)
khi thì gồm có sáu, khi thì bảy, nhưng thường là mười. Trong khi cư ngụ tại
Tích Lan, Ðạo Sư Sumangala dạy cho tôi biết có mười Bba
Lla
Mmật
: Ngài nói, sáu Bba Lla
Mmật
thứ nhứt là : Bố Tthí
(Dana), Trì Ggiới
(Sila), Chân Tthật
(Sacca), Tinh Ttấn
(Virya), Từ Bbi
(Metta) và Trí Hhuệ
(Panna); bốn Bba
Lla
Mmật
khác có khi được Cchư Ssư
đặc biệt thêm vào là : Nhẫn Nnhục
(Kksanti
), Xuất Ggia
(Nnekkhamma),
Quyết Đđịnh
(Aadhitthana)
và Xả (Uupekkha).
Trong quyển “Awakening
of Faith”
của Ashvagosha (Mã Minh), do Teitaro Suzuki dịch ra Anh Vvăn,
những pháp Ba Lla
Mmật
được kể ra như sau : Bố Tthí,
Trì Ggiới,
Nhẫn Nnhục,
Tinh Ttấn,
Thiền Đđịnh
và Trí Hhuệ,
và bốn Ba Lla
Mmật
phụ là : Thích Nnghi
(Uupaya),
Phát Nnguyện
( Ppranidhana)
, Dũng Mmãnh
(Bbala),
Tri Kkiến
(Jjnana).
Một chú thích trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh,” xuất bản
năm 1924, có đưa ra một danh sách khác rút trong bộ “Phật Ggiáo
Trung Hoa”
của Eitel như sau : Bố Tthí,
Trì Ggiới,
Nhẫn Nnhục,
Tinh Ttấn,
Thiền Qquán
và Trí Hhuệ
; hơn nữa, đối với Cchư Ssư,
những phương tiện thích đáng cũng được sử dụng như Kkhoa
Hhọc,
sự cầu nguyện và nguyện lực.
Hồi tôi ở Tích Lan, tôi có so sánh
những ý kiến của các Nnhà
Ðông Pphương
Hhọc
với tư tưởng Phật Ggiáo.
Giữa hai bên có sự khác biệt lớn lao. Ý tưởng thứ nhứt không có sinh khí, trái
lại tư tưởng Ðạo Phật đầy sinh lực. Tuy nhiên các vị Sư thông thái vẫn có những
kiến thức chính xác như các Nnhà
Ðông Pphương
Hhọc
uyên bác nhất. Trong quyển “Ánh Ðạo Phương Ðông,” Sir Edwin
Arnold đã trình bày cho chúng ta thấy một cách xác đáng đặc biệt về sắc thái
sống động của Phật Ggiáo.
Người ta cho rằng Ttác Ggiả
đã mượn những ý tưởng, tình cảm của Thiên Chúa Ggiáo
để gán cho Phật Ggiáo;
ý kiến đó không gì sai cho bằng; tôi không có thể
chứng minh rằng những tình cảm diễn tả trong bài trường thi đều là những tình
cảm của Phật Ggiáo
đồ.
Ai sẽ tiến đến gần
?
Ai sẽ vào trước ?
Ai là người thứ nhứt nghe giảng giáo
lý về hai con đường thành một và Cchân
Llý
về vấn đề Tâm
Ppháp
? Pháp Mmôn
ngăn cản sự học
hỏi, dạy sự Minh Triết và tiết lộ một câu chuyện đáng thương.
Hỡi ôi ! Hhỡi
ôi ! Nói rằng mọi người đều có Alaya, là
một với Ðại Hồn và khi chiếm hữu nó rồi, người ta không mấy người biết sử dụng
nó.
Hãy nhìn xem, như mặt trăng phản
chiếu xuống mặt nước yên lặng, Alaya phản chiếu trong một vật nhỏ cũng như
trong vật lớn, nó soi bóng trong các hột nguyên tử li ti, nhưng không sao soi
thấu đến tâm vạn vật vô giá là sự học hỏi Cchân
Llý,
sự nhận thức đúng đắn được các sự vật hiện hữu, hiểu biết cái không hiện hữu
!
Tâm Ppháp
là Ggiáo
Llý
Bbí
Ttruyền.
Ðó là biểu tượng của thời đại Atlante truyền lại cho chúng ta. Tận bên trong Đđại
Tthánh
Đđiện
của Kim Môn Thành, có đặt trên bàn thờ một cái hộp lớn hình quả tim bằng vàng
khối mà ổ khóa bí mật chỉ có vị Ðại Sư biết; nó được mệnh danh là “Quả tim của
thế giới” và là biểu tượng của những sự huyền bí tối cao. Những vật thiêng
liêng nhất đều được chứa đựng trong đó, nhiều biểu tượng đều liên quan đến nó.
Những người Atlante đều biết rằng mọi hạt nguyên tử đều rung động như quả tim
chúng ta vậy; họ cũng tuyên bố như thế đối với Nngôi
Mmặt
Ttrời
và họ thấy có một sự liên quan giữa sự chuyển động đó với chu kỳ hoạt động của Mmặt
Ttrời.
Trong những tác phẩm của họ đôi khi người ta gặp những đoạn khiến chúng ta có
cảm tưởng những kiến thức Kkhoa
Hhọc
của họ còn rộng rãi hơn sự hiểu biết của chúng ta. Tuy nhiên họ đã nhìn Vvũ
Ttrụ
một cách thi vị hơn là Kkhoa
Hhọc.
Chẳng hạn họ nghĩ rằng Qquả Đđịa
Ccầu
cũng thở và cử động, và người ta phải nhìn nhận rằng mới đây có một vài Nnhà
Bbác
Hhọc
đã khám phá thấy mỗi ngày Ttrái
Đđất
đều chuyển dịch đều đều, và sự di chuyển đó không phải là không giống như sự hô
hấp.
Khi dùng thuật ngữ “Ttâm
Ppháp,”,
Ðức Aryasanga cũng muốn nói đến những huyền bí bên trong; vả lại Bà Blavatsky
cũng nói trong lời chú thích :
Tâm Ppháp
là Ggiáo
Llý
Bbí
Ttruyền.
Khi khuyên chúng ta “đừng học,”,
chắc chắn Ðấng chỉ giáo muốn dạy rằng có nhiều lúc chúng ta cần phải tránh quan
tâm đến những kiến thức thu thập bên ngoài do giác quan để cho trực giác phát
triển những kiến thức bên trong. Chúng ta không thể đạt được sự minh triết, nếu
không có sự học vấn đầy đủ đối với những gì trên Tthế
Ggian
giúp chúng ta hoàn thành bổn phận đặc biệt của mình.
Về một khía cạnh khác chúng ta lầm to khi tin
tưởng rằng trong đời sống không gì quan trọng hơn thu thập được những kiến thức
thật quảng bác hoặc kể cả việc gán cho những kiến thức nầy một giá trị chân
thật, ngoài sự hữu ích mà chúng có thể dùng để phụng sự nhân loại. Ở Âu Châu
người ta có khuynh hướng xem xét và nghiên cứu mọi vấn đề theo quan điểm bề
ngoài. Phương pháp của người Ðông Pphương
nhắm khảo sát vấn đề theo quan điểm bên trong. Ở trình độ tiến hóa của chúng ta
hiệên
nay, cả hai phương pháp đều cần thiết. Khi sự phát triển Thể Bồ Ðề đã hoàn tất,
trực giác sẽ đi xuống trong óc xác thịt của chúng ta, nó sẽ đem đến cho chúng
ta sự minh triết thật sự và sự toàn tri, nhưng ở đa số người Tthể
nầy còn chưa phát triển.
Dù chúng ta có thể bước đi, đầu chạm
tới mây, đôi chân chúng ta cũng cần phải chấm đất ở một điểm tựa chắc chắn, nên
chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng những kinh nghiệm đến từ nội tâm, cũng như
chúng ta từng đem những kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày ra suy xét theo lẽ
phải thông thường vậy. Chúng ta cần phải làm như thế vì rất dễ ngộ nhận những
trực giác đến từ Chơn Ngã cao siêu với những rung động phát xuất từ Thể Vía,
chẳng hạn có thể xảy ra việc một người quá vãng có liên quan với chúng ta về
một điểm đặc biệt nào đó, đã gợi cho chúng ta một ý tưởng trên Ccõi
Trung Giới và ý tưởng đó đi qua óc xác thịt của chúng ta, rồi chúng ta tưởng là
trực giác.Tuy nhiên, cũng có thể người chết là một người quan sát kém cỏi trên Ccõi
Trung Giới và do đó những tin tức của y đưa ra sẽ bị sai lạc nhiều.
“Hãy tránh học hỏi” không những là
lời khuyên hữu ích cho những kẻ đi trên Ðường Ðạo mà còn có ích cho tất cả
những người hiếu học, nếu chúng ta hiểu như thế là không nên tự giới hạn mình
trong việc học, đó đúng là ý nghĩa đích thực của lời khuyên nầy. Phát triển quá
xa những sự nghiên cứu bị giới hạn bởi những đối tượng bên ngoài thường đưa đến
chủ nghĩa Dduy
Vvật.
Bằng chứng là có biết bao tai hoạ, sự hy sinh, áp bức, buồn rầu và đau khổ, bằng
chứng là có bao nhiêu lời cầu nguyện dường như không được đáp ứng, rồi biết bao
người đành phải nghĩ rằng sự xung độït
và đấu tranh là định luật dưới Tthế Ggian
nầy và Tthiên
Nnhiên
không có chút lòng từ bi nào cả. Trái lại, nếu chúng ta nghiên cứu thế giới một
cách thật kỹ lưỡng, bao giờ cũng thấy ở đó là một trường học cho đời sống nhập
thế trong vô số hình thức, chúng ta sẽ đạt đến sự minh triết và điều nầy chứng
tỏ cho chúng ta thấy rằng tất cả đều góp phần vào điều lành tối hậu. Khi mà Tthần
Nnhãn
và quan năng của các Ccõi
cao đã phát triển, sự kiện làm mọi người cho là tốt lành không cần phải hiểu
bằng cách lý luận cẩn thận, vì tất cả đã hiển nhiên trước mắt. Ðối với người có các
quan năng mới nầy không thể có vấn đề Dduy Vvật.
Danh từ Alaya chỉ có nghĩa là một
nơi trú ngụ hay ngôi nhà. Về phương diện Bbí Ttruyền,
Bà Blavatsky nói rằng ít ra nó cũng có hai nghĩa: Ttrước
hết là Llinh
Hhồn
phổ quát, kế đó có nghĩa là Chơn Ngã của một Vvị
Chơn Tiên tiến bộ. Ðó là nơi trú ngụ thật sự hay quê hương của con người, là
trạng thái phổ quát của cái gọi là Bồ Ðề trong Ttam
Tthể
tinh thần của con người. Ðó cũng là trạng thái Ddương
của Llinh
Hhồn
phổ quát, tức Ðức Thượng Ðế. Ðó cũng chính là “Linh Hhồn
cao cả” theo Emerson, hay Chơn Ngã cao siêu phổ quát của tất cả vạn vật. Ðó là
cái “chúng ta” theo Platon, nguyên lý độc lập của vật chất, nhưng tác động có
phương pháp; đó là Jivatma của người Ấn Ðộ, tức nguồn tư tưởng sáng tạo thiêng
liêng. Nói cách khác, đó là Llinh
Hhồn
thiêng liêng phổ quát trong Ðức Thượng Ðế Nngôi
Hhai
mà Thể Bồ Ðề là một tia sáng trong con mỗi người.
Người nào có thể chiếm hữu được “sự hiểu
biết về cái không hiện hữu” chắc chắn phải làm cho những người không hiểu ý
nghĩa Ttriết
Hhọc
chính xác của mấy chữ chót nđầy
ngạc nhiên. Hiện hữu có nghĩa là đứng ở ngoài, chiếm hữu hữu thể bên ngoài hay
khách thể. Cái gì người ta gọi là hiện hữu đều thuộc về tất cả những gì ở ngoài
chính chúng ta, nhưng sự sống tronghay
tâm thức thâm sâu thuộc về một hữu thể riêng cho chính nó ;
bạn có thể gọi là “hữu thể ” (istence) tùy thích nhưng không
phải là hiện thể hay hiện hữu ( existence
) . Không có thực tại nào cao hơn thực
tại của đời sống, ý thức đó mà chúng vẫn ta
vẫn có được, vì chúng ta là thành phần của chính Ðức Thượng Ðế. Ðó là cái “không
hiện hữu” mà người chí nguyện phải hiểu cho được. Mọi người đều có bản chất
thiêng liêng, nhưng muốn biết rõ điều đó, con người không nên che khuất ánh
sáng riêng của mình ; chừng đó mới sẽ không còn bóng tối,
không còn ảo ảnh nữa.
Ðệ Ttử
hỏi :
Bạch Sư Phụ, con phải làm thế nào để
đạt được sự Mminh
Ttriết?
Bạch Ðấng sáng suốtHiền Minh, con
phải làm thế nào để được toàn thiện?
Hỡi Đđệ
Ttử,
hãy tìm kiếm đường đi, nhưng trước khi bắt đầu cuộc hành trình con phải có tấm
lòng trong sạch. Trước khi thực hiện bước đầu tiên, con phải tập phân biệt được
điều chơn với điều giả, cái vô thường với cái trường cửu. Trên hết mọi sự con
hãy học phân tích khoasự
học của trí não và sự Mminh
Ttriết
của tâm hồn, Nnhãn
Ppháp
và Ttâm
Ppháp.
C. W.
L.- Tất cả những gì chúng ta có thể
nói ở đây về vấn đề điều chơn với điều giả đã được trình bày đầy đủ ở phần bình
giảng câu “Xin xin [tle5]dắt tôi từ Ccõi
giả đến Ccõi
châơn,”,
trong quyển “Dưới
Châơn
Thầy.”[46] [45].
Sự vô minh giống như một cái
bình đậy kín, không có không khí; Linh Hhồn
như con chim bị nhốt trong bình. Nó hết líu lo, đập vỗ lông cánh
; con chim câm nín, tê cóng và chết mòn.
Tuy nhiên, sự vô minh còn khá hơn sự
học hỏi của trí não mà không có Ssự
Mminh
Ttriết
của tâm hồn soi sáng và hướng dẫn.
Không có sự tiến bộ nào có thể thực
hiện được ở người hoàn toàn vô minh, dù y được mở mang trên phương diện nào
khác. Không có vài kiến thức về Cchân
Llý
và Ðường Ðạo, y không biết phải đi về đâu. Phần đông trong chúng ta ít khi tự
hỏi Ccon
Nngười
thật sự là ai và thế nào là những đặc tính và hành động gây nên sự tiến hóa
hoặc thối hóa. Họ cũng không có chút ý niệm về định mệnh lớn lao mà tất cả
chúng ta đều hướng dần dần đến đó. Do đó Vì thế họ
đã tiến tới một cách chậm chạp vô cùng. Chúng tôi đã quan sát bằng Tthần
Nnhãn
đến hằng trăm kiếp của vài Ppitris
thuộc loại thứ hai, hay Ccon Nngười
thuộc đẳng cấp thứ hai và sau cùng không khám phá được một dấu hiệu phát triển
nào.
Sự thật thì là toàn thể
sự sống đang tiến hóa, tuy chậm chạp nhưng liên tục, và con người cũng tham dự
vào sự tiến bộ chung đó. Nói một cách tuyệt đối thì con người vẫn tiến, nhưng
xét theo một cách tương đối thì nó
không tiến được bao nhiêu. Ông Sinnett đã so sánh sự tiến hóa đó với sự tiến bộ
của một người leo lên một ngọn tháp bằng chiếc thang hình khu ốc; y luôn luôn
thấy mình ở trong vị trí cũ và quang cảnh lập
đi lập lại như
trước, nhưng mỗi lần như thế y đã lên cao được một chút. Người ta cho rằng con
người cần phải được đối xử xứng đáng hơn chút ít, vì chúng ta thấy rằng ngay cả
người vô minh mà đến chín phần mười tư tưởng của y đều ích kỷ, nhưng y vẫn tiến
lên bằng cách đóấy.
Thật ra chỉ có một mình người ấy thôi, nếu y đem một chút năng lực dùng vào
những cứu cánh cao thượng thì sẽ có hiệu quả nhiều hơn một số lượng năng lực
thật lớn mà dùng vào mục đích thấp hèn. Một phần mười tư tưởng của một người
nếu có đặc tính tinh thần, thì người đó sẽ tiến trên mức trung
bình, dù trong trường hợp đó y thối lui hết chín bước, chỉ tiến lên một bước
thôi; may thay, chín bước thối rất ngắn và chỉ có bước tiến lại thật dài. Phải
có một đời sống thật xấu xa mới làm cho điều thiện và điều ác cân bằng được, và
nếu bị thoái hóa, thì con người ắt phải lầm lạc một cách đặc biệt. Ngoài ra,
việc thiện rất nhỏ sẽ tạo nên những hiệu quả thật sâu xa, vì giữa loài người có
sự liên quan chặt chẽ với nhau và người nào thực hiện điều thiện đó chắc chắn
sẽ gặt được nhiều quả lành.
Nhưng nếu vô minh là một chướng ngại
nghiêm trọng cho sự tiến hóa, thì những kiến thức mà người ta không áp dụng đến
cũng không có giá trị gì và không đáng kể bao nhiêu. Ngay cả một người quan tâm
đến Hhuyền
Bbí
Hhọc
vẫn có thể hầu như không tiến bộ từ kiếp nầy qua kiếp khác, vì nếu không dùng
đến kiến thức của mình, y sẽ ít làm được việc thiện. Vậy điều kiện tối cần là
phải sử dụng kiến thức của chúng ta vào sự tiến hóa.
Hạt giống Mminh
Ttriết
không thể nẩy mầm và đâm chồi trong chỗ không có khí trời. Muốn sống và gặt hái
kinh nghiệm, cái
trí phải hiểu cho rộng và sâu, và phải có những điểm kéo nó đến Linh Hồn
Kim Cương. Con chớ nên tìm những điểm đó trong thế giới của Ma Vvương,
mà phải nâng tâm hồn lên khỏi những ảo ảnh để tìm sự vĩnh cửu và bất biến là
Sat ( Ccõi
chơn thật) và hãy đề phòng sự khuyến dụ giả dối của không tưởng.
Trong phần chú thích, Bà Blavatsky
nói rằng “Linh Hhồn Kkim
Ccương,”,
“Vajrasattva” là một danh hiệu của Ðức Phật Chí Tôn, Chúa Tể của tất cả những
sự Hhuyền
Bbí,
gọi là Vajradhara và Adi Buddha. Tuy nhiên trong Bộ “Giáo Lý Bí
Truyền,”
Bbà
cho là có sự phân biệt giữa Vajrasattva và Vajradhara. Vajra là một hạt kim
cương, Sattva trong trường hợp nầy có nghĩa là “theo bản chất,”,
là một đặc tính hay Llinh
Hhồoàn.
Vậy Vajrasattva là một nhân vật mà đặc tính giống như kim cương. Dhara nghĩa là
cầm lấy hay mang; vậy Vajradhara là một nhân vật nắm giữ hạt kim cương Avalokiteshvara,
“Ðấng Chúa tể hữu hình” là Vajrasattva; Linh Hhồn Kkim
Ccương
hay Tâm Kkim
Ccương,
và tiêu biểu cho thực tại tổng hợp của tất cả Ðấng Dhyani-Buddhas. Ðức Thượng
Ðế Nngôi
Một là Vajradhara hay Vajrapani, Ðấng giữ hạt kim cương, hay Nnhân
Vvật
nắm hạt kim cương, ở Tây Tạng cũng gọi là Dorjechang ;
Ngài đứng ngoài mọi hoàn cảnh hay mọi sự thể hiện, nhưng Ngài vẫn gởi đến khắp
thế giới sự biểu hiện chủ quan Tấm Lòng của Ngài, đó là Ðấng Vajrasattva hay
Dorjesampa, Ðức Thượng Ðế Ngôi Hai.
Muốn cho sự tiếp xúc giữa thí sinh
và Cái Ðó (Thượng Ðế ) được đầy đủ cần phải có những điểm
đặc biệt. Ðiều nầy giống như việc xảy ra trong lúc con thú đầu thai làm người.
Trong trường hợp hiện nay những đặc điểm ấy là những đức tánh cao thượng do con
thú hoạch đắc được, như tình thương và lòng sùng tín, nhờ đó nó đạt được tâm
thức con người. Trí con người phải phát ra những đặc điểm có thể hợp nhất với
Linh Hhồn,
đối với vị Ðạo Đđồ
những đặc điểm nầy phải được nâng lên Ccõi
Bồ Ðề, nó là nguyên lý trong sự tái sinh của Bbản Nngã
tương ứng với Vajrasattva trên một mức độ cao siêu. Theo Ðức T. Subba Raow, đây là
Atma thu hút Chơn Nhơn vào trong Chơn Thần. Vậy hình ảnh ấy có thể được dùng
cho nhiều trình độ.
Vì Cái Trí giống như tấm gương, nó
vừa chứa chất bụi bặậm,
vừa phản ảnh bụi bặậm
đó.
Bà Blavatsky nói rằng điều nầy phát
sinh từ Ggiáo
Llý
của Thần Tú ; Ngài dạy rằng Cái Trí con người
giống như một tấm gương; nó thu hút và phản chiếu mỗi nguyên tử bụi bặậm,
giống như tấm gương đó chúng ta phải coi chừng và lau chùi bụi mỗi ngày. Thần
Tú là Tổ thứ sáu ở miền Bắc Trung Hoa; Ngài truyền thụ Ggiáo
Llý
Bbí
Ttruyền
của Bồ Ðề Ðạt Ma. Trong Bộ “Giáo Lý Bí Truyền” Bà
Blavatsky giải thích sứ mạng của Bồ Ðề Ðạt Ma bằng mấy lời như sau
:
Khi
người ta áp dụng một cách sai lầm Phật Ggiáo
chính thống đến cực điểm, và khi tinh thần chân chính trong Ttriết
Llý
Ðạo Phật hầu như đã biến mất, thì nhiều Nnhà
cải cách Ttôn
Ggiáo
từ Ấn Ðộ đến Trung Hoa truyền dạy một giáo lý khẩu truyền. Ðó là Ngài Bồ Ðềể
Ðạt Ma và Long Thọ, Ttác Ggiả
của nhiều
tác phẩm quan trọng về Thiền Tông Trung Hoa, suốt mấy thế kỷ đầu của Tây Llịch
Kkỷ
Nnguyên.
Bụi bặậm
trên tấm gương tượng trưng cho những thành kiến, ảo ảnh và những sự ngông cuồng
của Thể Vía và Thể Trí. Ðối với nhà quan sát có Tthần
Nnhãn
thấy được các Ccõi
ấy, chúng quả là chướng ngại ngăn cản sự phát triển của những tư tưởng và tình
cảm tiến bộ. Hiệu quả của những chướng ngại nầy và những phương tiện diệt trừ
chúng, chúng ta đã nghiên cứu kỹ lưỡng trong bộ Giảng Lý về quyển “Dưới Châơn
Thầy.”[47] [46].
Phải có ngọn gió êm dịu của Tâm Hhồn
Mminh
Ttriết
mới cuốn hết bụi Ttrần
ảo mộng của chúng ta. Hỡi Đđệ Ttử
sơ cơ, con hãy tìm cách hòa hợp trí và Hhồn
con lại.
Phải xa lánh vô minh và cũng phải xa
lánh luôn ảo ảnh. Hãy ngoảnh mặt trước sự phỉnh lừa của Tthế
Ggian,
con chớ tin giác quan của con, chúng đều giả dối. Nhưng trong cái kho cảm giác
là thân thể con, con hãy tìm Ccon Nngười
trường cửu trong cái Vvô Nngã;
và khi đã tìm được rồi con hãy nhìn vào trong : Ccon
là Phật đó.
Kinh nghiệm cho chúng ta biết bao
giờ cũng phải hoài nghi giác quan. Do đó những ấn tượng thị giác phải được kiểm soát
bằng sự nghiên cứu sự kiện kỹ lưỡng kèm theo sự phán đoán được biện giải, chẳng
hạn hiện tượng liên quan đến sự vận chuyển biểu kiến của Mmặt
Ttrời
chung quanh Qquả
Đđất.
Tuy nhiên chớ cho rằng chúng ta chủ trương không dùng đến giác quan; chúng phải
được sử dụng để giúp chúng ta học hỏi và hoàn thành công tác, nhiệm vụ trên mỗi Ccõi;
không có giác quan, cũng không có sự tiến bộ nào có thể thực hiện được.
Con người vĩnh cửu hay Chơn Nhơn còn
phải chịu luân hồi; Chơn Nhơn vô cùng trường thọ so với kiếp sống của Pphàm
Nnhơn,
vì nó tồn tại đến khi hoàn tất những kiếp sinh tử của con người.
Danh từ Phật (Buddha) có thể hiểu theo
ba nghĩa khác nhau. Ðôi khi trong trường hợp nầy nó chỉ có
nghĩa là sáng suốt, giác ngộ hay minh triết. Có khi đó chính là danh hiệu của
Ðức Phật Gautama (Cồ Ðàm). Trong trường hợp khác nó chỉ chức vụ cao cả của Ðấng
Chủ Tể Cung Thứ Hai trong Quần Tiên Hội đang điều hành lãnh vực Ggiáo
Ddục
và Ttôn
Ggiáo
mà quyển “Chơn
Sư và Thánh Ðạo” đã đề cập đến. Các tín đồ Phật Ggiáo
biết được một danh sách gồm có 24 hai mươi bốn Vvị
Phật. Trong một tương lai rất xa Ðức Di Lạc Bồ Tát sẽ thay thế
Ðức Phật hiện tại của chúng ta là Ðức Thích Ca.
Hãy xa lánh lời ca tụng, hỡi kẻ sùng
Ðạo, lời tán tụng đưa đến huyễn ngã. Xác thân con không phải là Chơn Ngã, Chơn
Ngã không có thân và lời khen hay chê đều không ảnh hưởng đến nó được.
Hỡi Đđệ
Ttử,
tự xưng tụng lấy mình chẳng khác nào kẻ ngông cuồng leo lên tháp cao ngồi tự
đắc một mình, không còn thấy ai hơn là thấy chính mình.
Biết bao nhiêu người bị hư hỏng vì
lời ca tụng không xứng đáng khiến họ kiêu căng không thấy rõ những gì ở trước
mắt và cao hơn họ. Các vị Đđệ Ttử
khá sáng suốt thường thấy được các Ðấng Chơn Sư nên ít gặp sự nguy hiểm nầy hơn
nhiều sự nguy hại khác, vìị họ
không thể không so sánh sự nhỏ bé của chính mình với sự vĩ đại của Ðức Thầy, họ
chẳng khác ánh sáng của một ngọn đèn chong nhỏ mọn so sánh với
ánh sáng Mmặt
Ttrời.
Chính người nhìn xuống dưới mình và tự so sánh với những người thấp kém mới bị
sa ngã vì tánh kiêu căng.
Tốt hơn là chúng ta không nên nghĩ
đến mình và thường lo lắng đến công việc của Chơn Sư. Ðối với chúng ta, trước ý
niệm đó, việc làm đã vượt quá khả năng của chúng ta rất nhiều, những năng lực
và thì giờ chúng ta phung phí để nghĩ đến Pphàm
Nnhơn
nhỏ bé của mình cũng bị mất mát bằng công việc đó vậy. Chắc chắn có nhiều lý
do, nếu các vị Chơn Sư ít khi xuất hiện trước những người mới làm việc phụng sự
giúp các Ngài. Ðây là một trong các lý do đó : Đđệ
Ttử
thấy Chơn Sư vượt hơn mình quá xa, có thể bị thất vọng bởi tình cảm yếu đuối và
mất niềm tin cùng về khả năng phụng sự của mình. Vậy nếu cần phải
tránh sự kiêu căng, đồng thời cũng phải tránh luôn việc đánh giá thấp năng lực
của chúng ta. Bao giờ cũng thế, ở đây theo con đường trung đạo vẫn tốt.
So sánh lòng kiêu căng với cái tháp thật hay, vì sự kiêu căng giam hãm con người và chia cách y với đồng loại của mình. Chẳng hạn nếu y kiêu hãnh vì sự học vấn của y, y sẽ muốn cho kẻ khác dốt nát hơn y nữa để y được thỏa thích ở địa vị cao hơn họ và nếu y phô bày kiến thức của y, thì cũng chỉ vì khoe khoang mà thôi. Một người như thế làm việc không ngừng, để đào sâu hố chia rẽ giữa mình với kẻ khác, hầu có thể từ trên cao nhìn thiên hạ.
Cái học sai lầm bị Nnhà
Hhiền
Ttriết
bác bỏ, và Ðịnh Luật Tốt Lành tung nó bay theo gió. Bánh Xxe
Ppháp
quay cho tất cả mọi người, kẻ khiêm tốn cũng như kẻ kiêu căng. Nhãn Ppháp
được dành cho quần chúng, Ttâm Ppháp
dành cho những
kẻ được tuyển chọn. Hạng thứ nhứt lặập
lại một cách kiêu căng : “Hãy xem, tôi biết”;;
hạng sau là những kẻ thu lượm một một cách khiêm tốn và nhỏ nhẹ thú nhận
: “Ðây là điều tôi đã nghe được.”.
Trải qua thời gian mọi Ttôn
Ggiáo
đều được thêm thắt vào nhiều suy tư và những lý thuyết khác. Chẳng hạn trong Ấn
Ðộ Ggiáo,
các Kinh Puranas chứa đựng nhiều quy luật và giới cấm mà phần lớn do các Ggiáo
Ssĩ
bịa đặt để được tiện lợi cho họ hoặc có ích cho cá nhân họ, hoặc vì giá trị của
nhiều câu Kinh cầu nguyện hay tế lễ bịdo họ thêu dệt. Chúng ta hãy kể một
thí dụ khác là sự giải thích đặc biệt về những câu châm ngôn tối cổ, sự giải
thích đó biến thành Ttín Đđiều,
liên quan đến Ggiáo
Llý
cổ sơ : Cchẳng
hạn Ttín
Đđiều
ghê rgợn
về sự đau khổ đời đời còn liên hệ đến đa số người Thiên Chúa Ggiáo.
Giáo Llý
Bbí
Ttruyền
đã tung tất cả những Ttín Đđiều
đó theo gió và chỉ chú ý đến Cchân
Llý
căn bản và sống thật. Tuy nhiên, phải là một người cương quyết và tiến bộ mới
hành động theo nội tâm được. Ðối với đại chúng đi từ từ trên con đường tiến hóa
rộng thênh thang, tiến lên sườn núi quanh co một cách dễ dàng, thì kinh sách là
người hướng dẫn chánh. Những người đó chưa đi đến điểm mà Kinh Garuda Purana đã
mô tả : “Khi đã thực hành xong Kinh Vedas
và Shastras, khi đã biết được Cchân
Llý,
bậc Hhiền
Ggiả
có thể bỏ hết kinh sách, cũng như người gặt hái được lúa bỏ rơm vậy.”.
Căn bảnKinh điển
Phật Ggiáo
đều bắt đầu bằng : “Kinh nói như vầy” hoặc “Như thị
ngã văn” (Tôi nghe như vầy) mà không nói :
“Ðiều nầy đúng tuyệt đối, các ngài phải tin,”,
nhưng lại nói : “Ðây là điều đã được công bố
; các ngài hãy cố gắng tìm hiểu và do đó các ngài sẽ hiểu rõ sự
thật”. Ðó là tinh thần tìm hiểu chớ không phải Ggiáo
Đđiều.
Tuy nhiên, có điều lạ là đôi khi người ta giải thích các công thức ấy bằng một
ý nghĩa khác và hoàn toàn sai lạc. Người ta nói : “Thử
giải thích vấn đề nầy một cách khác thật vô ích, vì những gì được công bố đã có
đủ thẩm quyền!”!
Hỡi Đđệ
Ttử,
“Cái Sàng To” là danh từ để gọi Tâm Ppháp.
Bánh xe Diệu Pháp xoay mau lẹ cả
ngày lẫn đêm. Nó làm tróc lớp vỏ vô giá trị của hột lúa vàng, lớp vô dụng của
chất bột. Bàn tay Nhân Quả điều khiển bánh xe, sự tuần hoàn đánh dấu nhịp đập
của trái tim Nhân Quả.
Cháânh tri kiếnthức
là bột, sự học hỏi sai lầm là trấu. Nếu con muốn ăn bánh Minh Triết, thì con
phải nhồi bột với nước Amrita trong vắt. Còn nếu con nhồi trấu với nước sương
mù Mộng Ảo, thì con chỉ có thể làm ra được thực phẩm cho loài chim Ttử,
Ssinh,
Llão,
Kkhổ.
Tâm Ppháp
được gọi là Cái Sàng To, vì chúng ta sống theo nó thì những sinh hoạt dưới Tthế
Ggian,
những sự sai lầm mà chúng ta phạm phải và những tật xấu chúng ta sẵn có sẽ bị
sàng sảy và loại bỏ. Làm việc không theo lý tưởng của Ggiáo
Llý
Ttâm
Ttruyền
là muốn làm sống
lại mãi kiếp nầy qua kiếp khác những sự lầm lạc cũ. Bà Blavatsky có nói
: Mmuốn
làm việc thiện là một việc ; biết nơi đâu
việc tốt phải làm là điều khác. Tuy nhiên, dù kiến thức chúng ta bất toàn,
chúng ta vẫn phải tiến tới và làm việc với sự tận lực của mình. Ðiều nầy hơi
giống như việc chúng ta học ngoại ngữ. Muốn nói được, chúng ta đã lầm nếu cố
gắng học cho rành rẽ theo sách vở ;
phải thực hành, phải chịu lầm lạc và nhờ sự cố gắng, một ngày kia người ta mới
đạt đến chỗ nói đúng. Dĩ nhiên chúng ta phải tập đàm thoại với những người biết
thông thạo ngoại ngữ đó.
Cũng thế, mặc dù chúng ta chưa thấy
Ðức Thầy, nhưng Ngài vẫn hướng dẫn Đđệ Ttử
tìm cách tận lực làm việc một cách thành tâm; Ngài sẽ đưa đến cho y nhiều kinh
nghiệm để sàng sảy những lỗi lầm của y. Chúng ta hãy tin chắc như thế
: Kkhông
sao tránh khỏi được việc điều thiện tối hậu sẽ phải thực hiện; tình thương sẽ
tràn đầy trong lòng chúng ta; bấy giờ chúng ta có thể làm việc mà không sợ sai
lầm; sự sai lầm lạc sẽ giảm
bớt về lượng cũng như phẩm tính của chúng và sau cùng sẽ biến mất.
Do sự tương tự với bột và bánh chúng
ta rút ra một bài học luân lý. Chân Llý
mà bạn thu hoạch được không cho bạn bánh, nhưng chỉ cho bạn bột sẽ làm ra bánh
Minh Triết. Sự nhồi bột là một hành động của Chơn Nhơn làm cho kinh nghiệm trở
nên hữu dụng và biến chúng thành Mminh
Ttriết
thật sự. Ðối với người thường việc nhồi bột đó hầu như thực hiện trọn vẹn trong
giai đoạn ở trên Ccõi
Thiên Ðàường,
nhưng đối với Đđệ
Ttử
Chơn Sư, người đã khai thông thật rộng vận hà giữa Chơn Nhơn và Pphàm
Nnhơn,
thì nó sẽ tăng trưởng thành Minh Triết không ngừng.
Bằng lòng với kiến thức bên ngoài và
sự nghiên cứu bằng Hạ Trí chỉ vì sự hữu dụng hay để thỏa mãn cá nhân, thật ra
đó chính là nhồi bột với trấu và sương mù của Ma Vvương.
Làm như thế không phải là lo cho sự thắng lợi của Chơn Ngã cao siêu, cũng không
phải để theo con Ðường Ðạo, nhưng là tạo nghiệp sinh tử cho tương lai, tạo nghiệp
cho các Tthể
và Pphàm
Nnhơn
còn phải chịu hao mòn và bị tiêu diệt về sau.
Nếu ai nói với con rằng muốn thành La
Hán con phải chấm dứt sự thương yêu mọi người, thì con hãy
đáp lại là họ nói láo.
Nếu ai nói với con rằng muốn được
giải thoát con phải ghét mẹ, bỏ con, đừng nhìn cha nữa, mà chỉ gọi người là gia
trưởng thôi, vì con phải diệt lòng trắc ẩn đối với người và vật, con hãy nói
cho họ biết là họ nói vô lý.
Ðó là Ggiáo
Llý
của bọn Tirthikas, hạng người ngoại đạo. Nếu ai dạy con rằng tội lỗi do hành
động gây ra và muốn được hạnh phúc phải tuyệt đối không làm gì cả, con hãy nói
cho họ biết là họ lầm. Không tiếp tục công việc của loài người, giải thoát tâm
trí khỏi vòng nô lệ bằng cách thôi gây tội lỗi suông không phải là việc thích
đáng đối với Chơn Nhơn đang chịu Lluân
Hhồi.
Ðó là lời của Tâm Ppháp.
C. W.
L.- Gọi một người là Ggia
Ttrưởng,
tức là cho rằng quyền lợi của Yy
còn bị ràng buộc với những sự vật Tthế Ggian,
nhưng đối xử với Yy
một cách khinh bỉ như thế chứng tỏ rằng chắc chắn tính ngạo mạn và gắt gao của
con đường lầm lạc sẽ đưa đến tà thuyết hắc ám, coi tình thương Nnhân
Lloại
như là một tình cảm đơn thuần. Dù thí sinh đã vượt khỏi những sự ham muốn riêng
tư cho cá nhân mình, Yy
cũng không thể khinh bỉ những người còn ở trong giai đoạn tiến hóa đầu tiên
hoặc lảãng
quên họ. Lòng từ bi và ý muốn giúp đời mãnh liệt phải là những đức tánh tự
nhiên của Yy.
Trong chú thích sau đây Bà Blavatsky
cho rằng thành ngữ “Gia Ttrưởng”
phải được giải thích theo nghĩa ẩn dụ :
Rathapala, vị Đđại
La Hán trong chuyện Tthần
Ttiên
Rathapala Sutrasanne, đã gọi cha Ngài như thế. Nhưng tất cả những chuyện Tthần
Ttiên
thuộc loại nầy đều là những ẩn dụ (chẳng hạn cha của Rathapala có một ngôi nhà
bảy cửa) , do đó mới có sự trách cứ những
người hiểu các chuyện Tthần
Ttiên
theo nghĩa đen của chúng.
Bà Blavatsky mô tả bọn Tirthikas là “Hhạng
Bà Lla
Mmôn
khổ hạnh thường lai vãng đến những Thánh Đđiện
và nhất là theo bờ sông, những nơi linh thiêng là nơi thực hiện những Ccuộc
Ttẩy
Tthể
(Llễ
Rrửữa
Ttội).”.
Tirtha theo nguyên nghĩa là “một nơi người ta đi qua.”.
Như thế chỗ ấy chính là nơi người ta đổ bộ lên, hoặc là một nơi Ttẩy
Tthể,
hoặc là mọiột
Thánh Đđiện
dành cho mọi người hoặc cho đời sống cao thượng. Vậy Thánh Đđiện
là nơi người ta thực hiện sự hòa hợp đặc biệt giữa thế giới nội tâm và ngoại
cảnh. Những người Bà Lla Mmôn
chính thống và người Ấn Ðộ thường viếng những Tirthas như thế, chẳng hạn như
Benares hay Hardwar, chắc chắn họ bị xem là vô tín ngưỡng, vì họ không chấp
nhận lời dạy của Ðức Phật, cho rằng “con người phải tự mình giải thoát chính
mình.”.
Trong các buổi nói chuyện về quyển “Dưới Châơn
Thầy”
chúng tôi đã dài dòng đề cập đến sự cần thiết của hành động, dù thể xác hoạt
động đến tối đa, con người vẫn có thể giữ trong thâm tâm sự trầm tĩnh, thăng
bằng, an nhiên và dũng mãnh. Theo Bà Blavatsky, các Chơn Nhơn Thiên Thần là
những Chơn Nhơn còn phải chịu sự Lluân
Hhồi,
nhưng theo Ðức T. Subba Raow, danh từ nầy chỉ các Chơn Nhơn phát nguyện
hợp tác với các vị Thiên Thần để phụng sự Tthế Ggian.
Dĩ nhiên giáo lý của quyển “Kim Huấn
Thư”
nhắm đến những người muốn hy sinh cho sự hoạt động thuộc loại ấy. Trong lúc
nầy, những Chơn Nhơn hóa thân sẵn sàng chịu sự dạy dỗ và huấn luyện đặc biệt
như thế rất hiếm : Cchẳng
hạn đi tìm những người sẵn sàng làm Đđệ Ttử
Chơn Sư trong các khu phố phía Đđông
ở Luân Ðôn hầu như không cần thiết. Nhưng thời gian qua những người cần phải
được chăm sóc tăng rất nhanh và thật nhiều và trong vòng vài trăm năm nữa, phải
có nhiều vị La Hán để giáo hóa họ. Do đó, chúng tôi cần một số lớn những người
phụng sự và đây chính là công việc đang chờ đợi nhiều người trong chúng ta.
Nhãn Ppháp
là hiện thân của cái bên ngoài và cái bị hư hoại.
Tâm Ppháp
là hiện thân của Bồ Ðề, cái trường tồn và vĩnh cửu.
Chữ Ddharma
ở đây có thể dịch là “hình thức Ttôn Ggiáo,”,
và chữ Bồ Ðề có nghĩa là “Mminh
Ttriết.”.
Cái đèn cháy sáng tỏ khi tim và dầu
đều sạch sẽ. Muốn cho tim và dầu được sạch, phải có người lau chùi
; ngọn lửa không biết có sự lau chùi đó. “Nhánh cây bị gió thổi
rung chuyển, nhưng thân cây vẫn đứng yên.”.
Sự hoạt động và bất động đều hiện
hữu ở nơi con ; xác thân con cử động, trí con yên
tịnh, Tâm Hồn con trong suốt như hồ nước trên núi.
Dù những sự đau khổ gặp trên đường
tiến hóa có ra sao đi nữa cũng chỉ có Pphàm
Nnhơn
gánh chịu. Chơn Nhơn bên trong biết được giá trị của kinh nghiệm, kể cả những
kinh nghiệm đau đớn; do đó nó hoàn toàn thỏa mãn. Nhiều người không hiểu sự đau
khổ trước hết là một vấn đề đạo đức. Trong quyển “Thiên Chúa
Giáo Bí Truyền,” Bà Hội Trưởng của chúng ta cho biết rằng có
vài nhà Ttử
Ðạo vĩ đại hoàn toàn hoan hỉỷ
ngay trong lúc họ chịu những gì mà kẻ khác cho là khổ hình, vì họ nghĩ đến biểu
hiệu của sự vinh quang mà họ làm đối tượng chấp nhận sự đau khổ vì tình yêu
Thiên Chúa. Rốt cuộc quả thật những ý tưởng sai lầm hay vô minh là nguồn gốc
của mọi sự đau khổ.
Sự đau đớn thể xác khó chịu đựng hơn
cả. Ðôi khi chúng ta có thể hướng ra ngoài, tự phân cách mình với thân xác
trong lúc đau đớn, nhưng làm như thế không thể nói là chúng ta chủ trị được nó.
Nếu sự đau đớn gây ra bởi chứng bệnh đặc biệt trong lúc đó có một
con vi trùng phải phát triển, thì không có một thứ lý luận nào giải thoát một
người tầm thường khỏi sự đau đớn. Nhưng trong mọi trường hợp sự trầm tĩnh sẽ
tạo được một tình thế khác biệt lớn lao. Thường thường nếu chịu khó, người ta
có thể chế ngự được sự đau đớn của Thể Vía; người ta có thể phủ nhận, không
chịu để cho tình cảm xâm nhập vào ý niệm khó chịu. Những xúc động thấp kém, như
sự ganh ghét, ham muốn, kiêu căng và sợ hãi có thể gọi là những chứng bệnh
thuộc Thể Vía. Chúng ta luôn luôn có thể hủy diệt chúng bằng cách cố gắng không
ngừng để thay thế chúng bằng những cảm xúc đối nghịch lại. Sự đau đớn Thể Trí,
nhất là sự ưu tư, còn dễ chủ trị hơn nữa.
Trong Nnhân
Tthể
(Ccausal
Bbody)
con người có thể cảm thấy lo âu, đó là lo lắng về sự bất toàn hay chưa đầy đủ
của mình, không hơn, không kém. Dù bị thất vọng về các khuyết điểm thuộc xác
phàm, Yy
vẫn biết phải kiên nhẫn và bền chí. Y không vô minh, nhưng trên Tthế
Ggian
nầy chính sự vô minh làm cho nỗi khổ đau của chúng ta trở nên thấm thía. Trong
thời thơ ấu, khi chúng ta còn vô minh, sự khổ nhọc trong một ngày dường như làbị
một thảm kịch ghê gớm đối với chúng ta; nếu chúng ta hỏng thi, sự bắt buộc phải
chờ đợi một năm nữa mới có dịp thi lại đối với chúng ta dường như một tai họa,
mặc dù khi lớn thêm một tuổi, một năm dường như chẳng lâu dài gì. Ðối với Pphàm
Nnhơn,
một kiếp sống bị thất bại dường như một thảm kịch, nhưng đối với Chơn Nhơn biết
mình đã trải qua hàng trăm hoặc hàng ngàn kiếp Lluân
Hhồi
rồi thì đó không phải là một tai họa lớn lao.
Chơn Nhơn phóng ra Pphàm
Nnhơn
cũng giống như một người đánh cá quăng lưới vậy : Yy
không mong đợi được thành công ngay và nếu kéo lưới lên không có cá, Yy
cũng không thấy lo buồn. Vì sự theo dõi Pphàm
Nnhơn
chỉ là một trong những sinh hoạt của Yy, Yy
rất có thể tìm sự an ủi trong những sự thành công gặt hái được trong các
kiếp khác. Trong mọi trường hợp, đó chỉ là một ngày bị mất mát và Chơn Nhơn có
thể nói : “Ồ ! Cchúng
ta hy vọng ngày mai sẽ thành công hơn.”.
Thường Pphàm
Nnhơn
muốn cho Chơn Nhơn ở trên cao chú ý đến nó hơn, đó là điều Chơn Nhơn sẽ làm, nó có thể
tin chắc như thế, khi nó tỏ ra xứng đáng, cũng như khi Chơn Nhơn xét thấy nó
xứng đáng. Ông Sinnett đã diễn tả một cách khôi hài ước muốn đó của Pphàm
Nnhơn;
Ôông
nói cần phải có một ngôi trường để cho Chơn Nhơn học chăm sóc đến Pphàm
Nnhơn
của họ.
Ðến trình độ cao hơn kế đó - tại Ccõi
Bồ Ðề - con người tiếp xúc với sự chí phúc mãnh liệt là sự sống của Ðức
Thượng Ðế ; đồng thời Yy
đạt được sự tương quan mật thiết hơn đối với kẻ khác; trên các Ccõi
thấp, Yy
bắt đầu chia xẻ những sự đau khổ của họ; nhưng trên Ccõi
cao hơn, Yy
biết rằng họ là những Đđiểm
Llinh
Qquang
và một niềm vui vô hạn đối với Yy
dường như giản lược sự đau khổ đến chỗ tuyệt diệuriệt tiêu.
Như thế sự phiền não và khổ đau chỉ có đối với Pphàm
Nnhơn;
nó chỉ tồn tại khi tâm thức trụ ở các Ccõi
thấp.
Con có muốn trở nên một Nnhà
Yogi trong vòng thời gian không ?
Nếu có, thì hỡi Đđệ Ttử
:
Con chớ tin là ngồi trong rừng sâu,
kiêu hãnh giam mình và sống cách biệt với người đời, con chớ tin rằng đói ăn rễ
cây và khát uống nước tuyết trên núi cao, hỡi Đđệ Ttử,
con chớ tin rằng các điều đó sẽ dắt con đến mục đích giải thoát cuối
cùng.tối hậu.
Con chớ tin rằng tự làm cho mình gãy
xương, rách thịt là hợp nhất với Chơn Ngã tịch tịnh của con; con chớ tin rằng
khi đã thắng được những tội lỗi của hình hài thô bỉ của con thì, hỡi nạn nhân
của hình bóng của mình, bổn phận của con đối với Vvạn
Vvật
và Nnhân
Lloại
đã chấm dứt.
Một lần nữa, ở đây Ðức Aryasanga nói
lên sự chống đối việc tìm kiếm đường lối giải thoát như phương tiện lẩẫn
tránh bánh xe sinh tử Lluân
Hhồi.
Còn Nnhà
Yogi trong vòng thời gian là người tự ưng chịu sự khuất phục trước bánh xe sinh
tử Lluân
Hhồi
để giúp đỡ Đđồng
Lloại
của mình. Khi nghĩ đến thời gian vô tận mà Ðức Phật Thích Ca và Ðức Di Lạc Bồ
Tát của chúng ta chuẩn bị cho công nghiệp vĩ đại của các Ngài, được trình bày
trong quyển “Chơn
Sư và Thánh Ðạo,”[48] [47], khi nghĩ đến những thời gian
mênh mang của những kiếp Lluân
Hhồi
đó người ta cảm thấy khổ sở vô cùng. Chắc chắn, có thể đối với các Ngài thời
gian không giống như chúng ta. Dù với các Ngài chúng ta không thể áp dụng đoạn
Thánh Thi : “Trước mắt các Ngài ngàn năm chỉ
bằng một buổi chiều trôi qua,”,
thì cách quan niệm thời gian của các Ngài cũng tuyệt đối khác chúng ta. Vả lại,
chắc chắn công nghiệp của các Ngài là một nguồn an lạc vô biên; như mỗi người
đều biết qua kinh nghiệm, khi đang hưởng hạnh phúc thì thời gian không đáng kể;
trong trường hợp nầy chúng ta luôn luôn muốn thời gian được kéo dài thêm.
Phần nhiều trong các Ttôn
Ggiáo
sự tu khổ hạnh đều bị quan niệm sai lầm. Theo cổ ngữ Hy Lạp Aasketes
có nghĩa thật giản dị là tập luyện như một lực sĩ, nhưng Ggiáo
Hhội
đã sử dụng thuật ngữ nầy và thay đổi ý nghĩa của nó để áp dụng cho sự thực hành
Hạnh Ttừ
Bbỏ
dưới nhiều hình thức khác nhau hầu được tiến bộ trên đường tinh thần; vì Ggiáo
Hhội
cho rằng sự đam mê và lòng khao khát, từ sự sa ngã ở ông Adam là thành lũy của
tội ác cố hữu của loài người và do đó chúng phải được tiêu diệt bằng sự nhịn
đói và sám hối. Trong các Ttôn Ggiáo
Ðông Pphương
đôi khi người ta cũng gặp một ý niệm tương tợ như thế : Hhọ
cho rằng bản tánh của vật chất là xấu, do đó phương tiện duy nhất để đi đến lý
tưởng tốt lành là phải lẫn tránh những sự đau khổ dưới Tthế
Ggian
bằng cách tự chủ hay hành hạ thân xác .
Hai nguyên lý
thuyết nầy
đều chứng tỏ có một sự lẫn lộn lớn lao về tư tưởng. Xác thân và sự ham muốn của nó tự
chúng không tốt cũng không xấu, nhưng thật ra trước khi có thể hoàn thành sự
tiến hoá thực sự, chúng phải được chế phục bởi Chơn Nhơn. Chế ngự xác thân là
điều cần thiết, nhưng hành hạ nó thì thật là vô lý vậy.
Một ý kiến sai lầm dường như rất phổ
biến là muốn được tốt lành thì không bao giờ nên hưởng hạnh phúc và chính sự
vắng thiếu hạnh phúc mới được đẹp lòng Ðức Thượng Ðế. Không có gì lố lăng hơn
một ý niệm như thế. Khốn nỗi ở Âu Châu lý thuyết nầy thường là một trong những di
tặng ghê tởm do sự nhục mạ xấu xa của Pphái
Ttân
Ggiáo.
Chính tôi đã nghe một đứa nhỏ thốt ra những lời nầy : “Muốn
được bằng lòng như thế, tôi phải hết sức hung dữ.”.
Ðó là hậu quả thật
ghê gớm do sự giáo dục độc ác và sai lầm. Lời Tthánh
Ggiáo
khó chịu đó còn một lý lẽ khác nữa : Nngười
ta lầm hậu quả với nguyên nhân. Người ta thấy rằng những người thật sự tiến bộ
có những thói quen giản dị và thường không bận tâm đến đa số sự hoa mỹ mà những
người tầm thường cho là quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên sự lãnh đạm nầy
không phải là nguyên nhân, nhưng là hậu quả của sự tiến bộ của họ; họ dửng dưng
trước những sự nhỏ mọn đó vì thường chúng mất hết vẻ quyến rũ đối với họ và
không còn làm cho họ thích thú nữa, chứ không phải tự chúng đáng ghét. Nhưng
người khác còn quyến luyến những thú vui đó, vì bắt chước mà kiêng cữ chúng
cũng không phải tiến bộ theo lối đó.
Thật ra khi chúng
ta đã thanh lọc lòng mình, bổn phận của chúng ta đối với Tthế
Ggian
cũng chưa hoàn thành. Chỉ khi nào cố gắng hết sức để hy sinh cho Đđồng
Lloại,
chúng ta mới có thể làm tròn bổn phận, vì trong đời sống cao cả nguyên lý sau
đây đã thống ngự : “Mmỗi
người phải cho ra tùy theo khả năng của mình, rồi mỗi người mới nhận được những
gì họ cần dùng,”,
chúng ta đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ rất quan trọng trong lúc nầy, vì là lúc những
ảo ảnh và các Tthể
thấp đã bị hàng phục.
Trong đoạn nầy theo Bà Blavatsky, thì Chơn Ngã tịch tịnh tiêu biểu cho nguyên lý thứ bảy là Atma. Trong sự nghiên cứu ở đoạn nhứt chúng tôi đã chứng tỏ tại sao ý niệm tịch tịnh lại liên hệ với phần nầy thuộc về Chơn Ngã cao siêu.
Nhưng Bbậc
Hhiền
Nnhân
đều khinh thường các lối thực hành nầy. Vị Sư Tử Pháp, Ðấng Từ Bi vô lượng đã
hiểu nguyên nhân thực sự của sự khổ đau của Nnhân
Lloại
liền từ bỏ ngay sự yên nghỉ êm đềm nhưng ích kỷ nơi rừng hoang tịch mịch. Bỏ
cảnh Aranyaka, Người trở nên Bbậc
Thầy của Nnhân
Lloại.
Sau khi Như Lai đạt Niết Bàn, Người đi truyền giáo khắp núi non, đồng nội, và
thuyết pháp trong các đô thị cho Thiên Thần, loài người và Cchư
Thiên nghe.
Tất cả những truyền thuyết thuộc về Pphật
Ggiáo
Bắc Tông và Nam Tông đều đồng ý tuyên bố rằng Ðức Phật từ bỏ chốn cô tịch khi
Ngài đạt quả vị Cchánh
Đđẳng
Cchánh
Ggiác
quyết định nhập Tthế,
và sự Tthuyết
Ggiáo
công khai của Ngài được khởi công tức khắc.
“Aranyaka” có nghĩa là người dân
sống trong rừng. Các bản Kinh thuật lại rằng Ðức Cồ Ðàm đi vào rừng để tham
thiền và Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề với chí nguyện đạt đến sự toàn giác. Khi
đã giác ngộ, Ngài tự hỏi có nên đem Ggiáo
Llý
của Ngài mà truyền bá cho Tthế
Ggian
chăng. Ngài biết rằng đa số Nnhân
Lloại
không hiểu giáo lý của Ngài và do đó chúng có thể gây bất lợi. Nhưng ngay lúc
đó, như chúng ta đã thấy trong phần đầu của đoạn nầy, tiếng kêu của Qquả
Đđịa
Ccầu
vang đến tai Ngài và thỉnh cầu Ngài Ttruyền
Ppháp.
Tôi không hiểu đích xác ý nghĩa tiếng nói của Qquả Đđịa
Ccầu,
nhưng người ta nói rằng chính nhờ tiếng nói đó, Ngài đã quyết định giáo hóa Nnhân
Lloại
tại Ccõi
Hhồng
Ttrần.
Trong đoạn nầy người ta nói rằng Ðức
Phật được Tthế
Ggian
xưng tụng bằng nhiều danh hiệu. Ngài được gọi là Như Lai; theo nghĩa tiếng
Trung Hoa, chữ nầy đồng nghĩa với chữ Tathagatha, là danh hiệu của tất cả Chư
Phật. Tathagatha theo nguyên ngữ có nghĩa là “Nngười
đã ra đi”; nghĩa là con Nngười
đi theo bước chân những Bbậc Ttiền
Bbối
của mình.
Thật ra, khi Ðức Phật thuyết pháp,
không phải chỉ có hạng thính giả thuộc hàng Nnhân
Lloại
quy tụ chung quanh Ngài để nghe và hưởng thụ hào quang của Ngài thôi, mà còn có
hạng Thiên Thần và Chư Thiên.
Con hãy gieo những hành vi tốt và
con sẽ gặt hái những kết quả của hành vi đó. Bỏ sót lại một
hành vi bác ái là vi phạm một tội lỗi nặng nề.
Tôi đã kể đoạn nầy trong Bộ “Giảng Lý
Dưới Châơn
Thầy”
của tôi. Mỗi người phải chịu trách nhiệm và cách sử dụng năng lực của tâm thức
do Yy
phát triển; nếu vì thờ ơ, Yy
xao lảãng
sử dụng chúng, Yy sẽ
phạm tội bỏ sót, tội nầy cũng nặng nề như tội cố ý vậy. Chẳng hạn bổn phận của
chúng ta là phải can thiệp, khi chúng ta có thể làm được mà nếu không làm sẽ
thiệt hại hơn là có lợi, trước sự bất công hay tàn ác đối với thú vật hoặc trẻ
con. Bậc Hhiền
Ggiả
chứng kiến những hành vi ấy sẽ không bị lòng khinh miệt chi phối.;
Nngười
phạm lỗi tội hung ác trên nhiều phương diện còn đáng
thương hơn nạn nhân của Yy
; Yy
cũng sẽ phải đau khổ; vì Lluật
Nnhân
Qquả
bắt buộc như thế. Vậy nếu chúng ta có thể làm cho Yy
nhận biết được đường lối lầm lạc của Yy và
không còn hung dữ nữa, chúng ta đã giúp được cho cả hai người vậy. Khi chúng ta
có bổn phận phải can thiệp mà chúng ta không thi hành bổn phận ấy, chúng ta sẽ
chia sớt Qquả
Bbáo
với kẻ phạm tội. Cũng như khi chúng ta để cho kẻ khác làm hại mình mà không
phản kháng lại là chúng ta tiếp tay cho họ, vậy chúng ta phải chịu một phần Nnghiệp
Qquả
của họ.
Bậc Hhiền
Ggiả
nói như thế nầy :
Con còn kiêng cữ sự hoạt động nữa
chăng ? Không phải làm như thế mà Linh Hồn
con được tự do. Muốn đạt đến Niết Bàn phải đạt được sự Tự Tri, vì chính sự Tự
Tri là con đẻ của hành vi từ thiện.
Chúng ta không thể thực sự hiểu biết
đời sống trước khi bắt đầu làm việc cho kẻ khác. Sự cố gắng nầy giúp chúng ta
nhận biết mình đang ở trình độ nào và những đức tính nào mà chúng ta cần phải
phát triển. Có một ông lão mù lòa sống ở miền Nam Ấn Ðộ. Lão nói sự mù lòa của
lão đã khiến lão hưởng thụ một cách gián tiếp một nguồn hạnh phúc lớn lao. Nghèo
vô cùng, lão đi lang thang từ làng nầy qua làng khác; đến đâu lão cũng khuyên
lơn an ủi những người lâm cảnh bối rối và đôi khi giúp đỡ họ bằng những quyền
năng của Nnhà
Yogi. Lão kể cho họ nghe nhờ tham thiền, lão nhớ lại được những tiền kiếp của
lão. Lão nhớ rằng cách đây vài trăm năm lão là một người rất giàu và rất có thế
lực và lão đã lợi dụng địa vị đó để làm hại những ai có hành động làm cho lão
không thích. Nhận biết sự mù lòa và nghèo nàn là những hậu quả của những hành
động xấu xa đã gây nên trong kiếp vừa qua đó, lão quả quyết rằng nếu lão còn
giàu có, thì có lẽ lão không bao giờ biết yêu thương kẻ đồng loại của mình,
vì lão sống một cuộc đời hoàn toàn ích kỷ. Bây giờ lão phải sống chung với
những người khác mà đa số đều là những người đau khổ như lão. Họ rất tốt với
lão và lão đã thương yêu họ. Lão còn nói, so với hoàn cảnh xưa kia, sự an vui
của tình thương thật vĩ đại vô cùng và theo ý lão không có sự đau khổ lớn lao
thì không thể đạt được. Ông lão đó tự xưng là Đđệ Ttử
của một trong các Ðức Thầy của chúng ta và chắc chắn là ông đã nêu bằng chứng
sống thực và sự tự tri là “con đẻ của hành vi từ thiện.”.
Hỡi thí sinh, con hãy kiên nhẫn
như kẻ không sợ thất bại, không dua nịnh sự thành công.
Con hãy đặt mắt của Ttâm Hhồn
nơi ngôi sao mà con là tia sáng, ngôi sao rực rỡ chiếu diệu trong chốn tối tăm
sâu thẳm của hữu thể trường tồn, trong Ccõi
vô biên vô tận của cái bất khả tri.
Không có sự thất bại nào làm cho vị Đđệ
Ttử
phải sợ hãi, vì Yy
biết rằng Thiên Cơ sẽ phải thực hiện; không có sự thất bại riêng tư nào của
chúng ta làm cho nó thay đổi mảy may. Cơ hội đảm nhiệm mất một
phần trong công việc đó có thể đến với chúng ta; nếu chúng ta không nắm lấy cơ
hội ấy, công tác sẽ được thi hành một cách khác. Ðối với Ðức Thượng Ðế không có
cái gì khác biệt cả, nhưng đối với chính chúng ta thì lại khác biệt vô cùng.
Nếu con người luôn luôn xao lảãng
cơ hội, thì Ðại Thiên Cơ cũng đã dự liệu tất cả. Khi chúng ta để mất cơ hội,
dường như các Ðấng Chơn Sư của chúng ta không thấy, nhưng tôi tin rằng các Ngài
biết rất rõ việc ấy. Bà Blavatsky đôi khi nói về một người nào đó
: “Y biết Yy
xứng đáng được may mắn.”.
Ðức Thầy luôn luôn mong được thấy chúng ta nắm lấy cơ hội tốt.
Người Ssinh
Vviên
cố gắng làm một công việc hữu ích. Nhưng gặp nhữngmột
thế lực chống đối ngăn cản không cho Yy
thực hiện, Yy
sẽ không tỏ ra thất vọng, nản lòng nếu Yy
hiểu rằng mọi cố gắng nhằm thể hiện sự tốt lành ắt phải tạo ra một Nnghiệp
Qquả
tương xứng, dù kết quả đó không thể trông thấy và đối với Pphàm
Nnhơn
nó cũng đem lại sự thỏa mãn trong việc chứng kiến điều thiện được hoàn thành.
Ðối với công việc thực hiện ban đêm trên Ccõi
Trung Giới cũng giống như thế ;
nó cũng đều tốt đẹp và hữu hiệu nếu người phụng sự không giữ được chút hoài
niệm trong óc xác thịt. Kết quả của việc làm chúng ta không hay biết, chúng ta
không nhớ được những hoạt động của mình, nhưng Đđịnh
Lluật
Tthiên
Nnhiên
vẫn không ngừng tác động đối với sự việc ấy.
Thường những người đã hoàn thành
công việc quan trọng nhất trên Tthế Ggian
lại không được thấy kết quả. Chẳng hạn ba năm đi truyền Ðạo của Ðấng Christ.
Ngài chết như một kẻ phạm tội ác, Ngài bị quần chúng ruồng bỏ và trong khi bị
hành hình Ngài chỉ còn được 120 Ttín Đđồ
thôi ; ngày nay Ttín
Đđồ
của Ngài có đến nhiều triệu. William Wilberforce đã tranh đấu gay go trên bốn
chục 40 năm để yêu cầu bãi bỏ chế độ nô lệ tại các
Tthuộc
Đđịa
Anh và ba ngày trước khi chết ông mới hay luật bãi bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ
vừa được ban hành. Thiếu kiên nhẫn và ngã lòng là nguyên nhân của sự hư hỏng.
Trong những sinh hoạt khiêm tốn nhất đối với chúng ta cũng thế. Mỗi người có
thể đảm nhiệm một công việc hữu ích và bền chí theo đuổi với một sự kiên nhẫn
vô cùng và không nao núng, không nghĩ đến kết quả hiện tiền cũng như sự thất
bại.
“Ngôi sao mà con là tia sáng” là
ngôi sao luôn luôn chói rạng trên đầu chúng ta; đối với người nầy nó là Chơn
Nhơn, đối với người khác tiến hóa hơn, nó là Chơn Thần; và cứ như thế cho đến
Ðức Thái Dương Thượng Ðế và đến cả Ðức Thượng Ðế Thái Dương Hệ của chúng
ta. Biết được ngôi sao riêng của chúng ta, cũng chính là biết được chúng ta
thuộc Ccung
nào trong bảy Ccung
đã liên hệ đặc biệt với Ðức Thượng Ðế. Ðó là vấn đề của bảy Cung ấy trong Cchương
liên quan đến các Ðấng Ðế Quân của mỗi Ccung
trong quyển “Chơn
Sư và Thánh Ðạo,” cũng như trong quyển “Bảy Cung” của Giáo
sư Ernest Wood. Khi Chơn Ngã cao siêu làm chủ được Pphàm
Nnhơn
rồi, đối với vị
Đđệ
Ttử,
trở nên đặc biệt trong công việc của Cung thuộc về Chơn Ngã và từ đó, Yy
tiến bộ rất nhanh chóng về quyền năng cũng như về sự hữu dụng.
Con hãy kiên tâm như một kẻ sống đời
đời. Những hình bóng của con vẫn sống và tàn tạ; cái sống mãi ở nơi con, sự
hiểu biết ở nơi con (vì nó chính là tri thức của con) ,
không thuộc về đời sống phù du này, chính con người đã sống, đang sống và sẽ
sống, đối với nó giờ cuối cùng sẽ không bao giờ điểm.
Ngoài đức kiên nhẫn, sự bền chí cũng
cần thiết cho chúng ta và không gì có thể phát triển đức tánh ấy ở chúng ta hay
hơn là hiểu thật rõ ràng sự sống của chúng ta sẽ trải qua nhiều thế kỷ và thấy
rằng cái chết là một sự ngẫu nhiên thoáng qua, không thể làm cho chúng ta đi
lệch ra khỏi con đường của mình. Ðôi khi người ta nói : “Tại
sao tôi phải làm việc nầy hay việc khác ?
Tôi không thể hoàn thành việc đó trong một kiếp sống.”.
Nhưng thật ra chỉ có một kiếp sống duy nhất - đó là kiếp sống của Chơn Nhơn -
nó trường tồn vĩnh cửu để chúng ta có thể thực hiện tất cả công việc. Tốt hơn
là đảm nhiệm việc nào mà bạn ưa thích hay là công việc lớn lao để loại trừ
những tật xấu của bạn, dù bạn đã cao niên rồi cũng thế, vì tất cả việc thiện được hoàn
thành sẽ được mang theo xác thân mới của bạn và nó sẽ xui khiến bạn cảm thấy
muốn tiếp tục công việc khi còn thanh niên. Nếu bạn xếp công việc lại cho một
kiếp tương lai, có thể tuổi già lại đến một lần nữa trước khi cơ hội tốt khiến
bạn chú ý đến việc ấy. Nếu đến 90 chín mươi tuổi
bạn mới được biết Thông Thiên Học và nếu bạn muốn gặp lại nó trong tuổi thanh
xuân của bạn trong một kiếp sau, thì ngay bây giờ tùy theo khả năng của bạn,
bạn hãy dốc hết năng lực để nghiên cứu nó. Còn một lợi điểm lớn lao nữa dành
cho bạn trong thời gian bạn ngụ trên Ccõi
Thiên Ðàường
(trừ phi bạn thuộc những người được đặc ân từ chối giai đoạn nầy), vì ở đây mọi
công việc bạn phải thực hiện vẫn là một đề tài nghiên cứu và cho phép bạn hoạch
đắc những khả năng sẽ giúp ích bạn thật nhiều trong kiếp sau.
Sự bền chí cũng cần thiết, vì không
có công việc quan trọng nào có thể hoàn tất trong một sớm một chiều. Chẳng hạn Nnhà
Nnghệ
Ssĩ
vẽ một bức tranh lớn, trong những ngày đầu, hay kể cả trong nhiều tuần, không
chắc gì Yy
đã hoàn thành
được bức tranh, và cũng có thể Yy
không bằng lòng tác phẩm của mình sau vài tuần lễ, Yy
bắt đầu vẽ lại tất cả.
Hãy nghiên cứu những bước đầu của
Hội Thông Thiên Học, bạn có thể rút ra được một vài bài học quý báu về đức bền
chí. Hai Nnhà
sáng lập vĩ đại, Bà Blavatsky và Ðại Tá Olcott có thể không thành công trong
công việc đem lại cho Hội Thông Thiên Học đặc tính vững bền và bảo đảm nhiều
yếu tố phát triển của nó trong tương lai, nếu hai Ngài không có một cái nhìn
sáng suốt trong khía cạnh ẩn tàng của sự việc và không biết rằng công việc của
các Ngài liên quan đến Thiên Cơ phải theo đuổi xuyên qua nhiều thế kỷ và do đó
chắc chắn phải thành công. Hai Ngài thành lập Hội Thông Thiên Học tại New York
năm 1875, và phải làm việc thật phi thường mới xuất bản được quyển “Isis
Unveiled”
(Nữ Thần Isis Llộ
Ddiện)
đúng lúc. Tuy nhiên, 5 năm năm
sau, cảm thấy gần như cô đơn, hai Ngài phải sang Ấn Ðộ tìm vài người bạn thân
để thực hiện một sự cố gắng mới. Tại đây, từ năm nầy qua năm khác hai Ngài gặp
không biết bao nhiêu sự lo phiền mà ít ai chịu đựng nổi. Nếu Bà Blavatsky, mặc
dù có những đau đớn thể xác, mà có thể viết Bộ “Giáo Lý Bí
Truyền”
và những tác phẩm lớn khác, chính là vì nhờ Bbà
biết được các Vvị
Chơn Sư và khía cạnh Hhuyền
Bbí
của Ssự
Ssống.
Hỡi Đđệ
Ttử,
nếu con muốn gặt hái sự bình an và sự yên nghỉ êm đềm, thì vậy con hãy
gieo hạt giống công lao trên cánh đồng sẽ gặt mùa tới.
Con hãy nhận lãnh những nỗi đau khổ
của kiếp Lluân
Hhồi.
C. W.
L..- Bao
giờ Ðức Aryasanga cũng khuyến cáo các Đđệ Ttử
đi theo con đường cao cả, con đường từ bỏ và không nhận lãnh sự bình an trên Ccõi
Niết Bàn. Người ta định nghĩa sự sống trên Ccõi
Niết Bàn như một sự an nghỉ trong sự toàn giác, nhưng chúng ta phải hiểu
đó chỉ là sự an nghỉ theo nghĩa không có ý thức cố gắng kèm theo sự mỏi mệt. Sự
sinh hoạt phi thường hơn hết đều xảy ra tại Ccõi
ấy, như tôi đã cố gắng giải thích, nó tiêu biểu cho chính bản chất của sự sống.
Sở dĩ con người muốn nghỉ ngơi vì Yy
cảm thấy mỏi mệt, nhưng khi chúng ta rời khỏi xác thân luôn luôn ý thức, chúng
ta sẽ thấy sự mỏi mệt biến mất và chúng ta không còn ao ước được nghỉ ngơi nữa.
Trong tình trạng đó, chúng ta xem sự nghỉ ngơi hơi giống như sự chết tại Ccõi
Ttrần,
chúng ta ước mong không phải để lùi bước, mà để được trông thấy sức mạnh và
năng lực của mà chúng ta đang thụ hưởng tăng thêm. Ðức
Thái Dương Thượng Ðế không bao giờ nghỉ ngơi, dù chỉ trong giây lát thôi; nếu
Ngài nghỉ, dù chỉ trong một giây, thì tất cả chúng ta không ai sống sót được.
Nhiều người đã đạt đến Ccõi
Niết Bàn rồi, không có bổn phận ràng buộc nào
cả đối với sự tiến hóa của Tthế gGian; tuy
nhiên, đối với nhân vật đạt đến trình độ cao cả như thế dường như không lẽ nào
chẳng ban rảãi
sự vinh quang và vinh diệu cho những kẻ còn thấp kém hơn mình; khi mà lòng sùng
tín và tất cả những tư tưởng của người bao giờ cũng hướng đến chỗ cao tột đỉnh
và không hề quay xuống thấp, thì khiến chúng
ta phải tin rằng người không thể không ban rải lòng sùng tín đó xuống cho Nnhân
Lloại
dưới Tthế
Ggian.
Có bảy Ccon
Đđường
được mở ra trước một vị Chơn Tiên ;
đa số các Ngài không thu nhận Đđệ Ttử
dưới Tthế
Ggian,
nhưng dù đi theo Ccon Đđường
nào, các Ngài cũng đều phụng sự Ðức Thượng Ðế. Người ta có thể giả sử là vị
Chơn Tiên nào cũng sẵn lòng đi đến bất cứ nơi nào mà cần
sự hiện diện của Ngài và hữu ích cho việc phụng sự hơn cả, và đồng thời, nếu
được kêu gọi, các Ngài cũng vui lòng ở lại Tthế Ggian
và chấp nhận “những nỗi khổ của sự Lluân
Hhồi.”.
Mọi thái độ khác, nhất là ý tưởng ích kỷ muốn thoát đọa Lluân
Hhồi
và bảo đảm sự sống tự do của Bbản Nngã
chia rẽ, sẽ ngăn cản không cho người chí nguyện vượt cao lên như thế. Ở lại với
loài người để giúp đỡ họ, dường như là thái độ nhân từ hơn cả đối với chúng ta
và điều đó cũng thật tự nhiên, và nếu chúng ta không thể thương yêu con người
gần gũi và quen biết với chúng ta như thế, thì làm sao
chúng ta có thể thương yêu những người xa lạ với chúng ta. Tuy nhiên chúng ta
đừng quên rằng nếu các Ðấng Tinh Quân từ Kim Tinh không chịu rời bỏ Hhệ
Tthống
Hhành
Ttinh
của các Ngài để đến giúp đỡ chúng ta, thì ngày nay sự tiến hóa của chúng ta
phải chịu chậm trễ ít nhất là một Ccuộc
Ttuần
Hhoàn.
Một ngày kia vài người trong chúng ta có thể có bổn phận đi giúp đỡ giống như
thế cho một Hhệ
Tthống
Hhành
Ttinh
khác kém tiến hóa hơn chúng ta.
Ðồng thời chắc chắn những vị Đđệ
Ttử
tiến bộ luôn luôn gia tăng để hoàn thành công quả của các Ðức Thầy dưới Tthế
Ggian.
Vị La Hán được tự do không còn phải chịu sự Lluân
Hhồi,
nhưng đương nhiên các Ðức Thầy của chúng ta muốn thấy chúng ta tiếp tục tái
sinh để phụ giúp cho công việc của các Ngài.
Hãy lui vào bóng tối để cho kẻ khác
hưởng ánh sáng Tthái
Ddương.
Những dòng nước mắt tưới lên mảnh đất khô khan đầy sự nhọc
nhằn và sự đau khổ sẽ làm mọc lên bông và trái theo luật thù đáp
đền
bù của Nnhân
Qquả.
Ở trên lò lửa của đời người và ở trên làn khói đen của nó, ngọn lửa hồng như có
cánh bay lên và những ngọn lửa tinh khiết càng lúc càng bay cao dưới tầm mắt của
Nnhân
Qquả
để cuối cùng dệt nên canh chỉ vinh quang của ba thứ Ðạo Pphục.
Lời mở đầu của đoạn nầy dường như
khiến chúng ta nghĩ rằng không có đủ ánh Tthái
Ddương
cho tất cả mọi người. Bạn chớ tin như thế. Mọi người đều có thể được hạnh phúc.
Cũng như Qquả
Đđịa
Ccầu,
chúng tra
tạo nên bóng tối cho mình. Chúng ta là kẻ gây nên những nỗi phiền não và nhọc
nhằn cho mình; đó chính là Nghiệp Quả của chúng ta, cũng như tất cả những gì
xảy đến cho chúng ta. Ðức Aryasanga muốn nói rằng chúng ta phải luôn luôn sẵn
sàng giúp đỡ kẻ khác, dù phải chịu buồn phiền hay mất mát.
Những hành động đem đến những đau
khổ lớn lao về Nnghiệp
Qquả
rất hiếm. Trước hết, dĩ nhiên là sự hung ác; và kế đó là vài tật xấu khác.
Nhưng hầu hết sự đau khổ của con người đều bắt nguồn từ thái độ bất mãn của Yy
do Lluật
Nnhân
Qquả
mang đến. Lúc đó sự đau khổ mới rõ rệt tiêu biểu cho “Qquả
Bbáo
hiện tiền.”.
Chẳng hạn như sự thương tiếc ích kỷ trước người quá cố trong khi Yy
đã vươn lên một sự sống sung sướng hơn, sẽ gây đau khổ cho mọi người thân
thuộc, kể cả người quá vãng, khiến Yy
càng chán nản và phiền muộn. Không bao giờ Nnhân
Qquả
đem đến cho con người sự đau khổ khiến Yy
không thể chịu đựng nổi hoặc chịu đựng một cách dễ dàng; nhưng đối với những
người có những ý nghĩ, tình cảm hoặc hành động ngông cuồng trước Qquả
Bbáo
của họ thì
họ sẽ nhận lãnh hậu quả khác.
Ba thứ Ðạo Pphục
đó là : Nirmanakaya, Sambhogakaya và
Dharmakaya, thứ y phục tuyệt diệu.
Chúng ta sẽ khảo sát vấn đề ba thứ
Ðạo Pphục
nầy một cách đầy đủ trong Pphần
thứ Bba.
Chúng tiêu biểu cho ba sự khả hữu hiến dâng cho người đắc quả Chơn Tiên. Ngài
có thể, hoặc hưởng thụ Ccõi
Niết Bàn ngay tức khắc, hoặc chỉ hưởng thụ Ccõi
ấy sau khi đã trải qua những kinh nghiệm tinh thần cao tột khác; hoặc là ở lại
như các vị Nirmanakaya ưng chịu liên lạc với Qquả Đđịa
Ccầu
để tạo Tthần
Llực
đầy đủ cho Kkho
Ddự
Ttrữ
; hoặc sau cùng đảm nhiệm một công tác mới tại các Bbầu
hay Ddãy
Hhành
Ttinh
khác. Dĩ nhiên sự lựa chọn sau cùng nầy không bao hàm một sự ích kỷ nào
cả; có thể là sự ích kỷ không đáng kể ở mức độ cao cả như thế
không thể quan niệm được.
Trong lần xuất bản thứ nhứt bản văn
của chúng ta có đề cập đến những vị “Phật Íích Kkỷ,”,
nhưng sau khi qua đời, Bà Blavatsky yêu cầu Bà Hội Trưởng của chúng ta bỏ đoạn
đó, vì nó gây ra nhiều sự ngộ nhận nguy hiểm. Ðó là vấn đề các Vvị
“Ðộc Giác Phật,” ,
các Ðấng Cao Cả ngang hàng với Ðức Phật Đđạo
Đđức
nhưng thuộc Cung thứ Nnhứt,
nhiều vị Phật Ttử
Bắc Tông cho rằng Vvị
Ðộc Giác Phật chỉ làm việc riêng cho mình thôi, đó là ý tưởng phạm thượng đối
với những người biết được Nngôi
Vvị
của các Ngài. Các Ngài đến để giúp đỡ Qquả Đđịa
Ccầu
và hối thúc sự tiến hóa trong phạm vi Cung thứ Nnhứt,
còn Ðức Phật Đđạo
Đđức
(Thích Ca) làm việc thuộc Cung thứ Hhai.
Phê bình các Ngài trong công nghiệp không thuộc về các Ngài thật là vô lý.
Quả thật là áo Shangna có thể mua
được ánh sáng đời đời. Áo Shangna đủ đem lại cho con người Ccảnh
Niết Bàn tịch diệt; nó chấm dứt sinh tử, nhưng hỡi Đđệ
Ttử,
nó cũng giết chết lòng từ bi. Có thể nào Ðức Phật trọn lành, khi đã khoác vào
mình sự vinh diệu của Pháp Tthân
( Dharmakaya ) thì
lại
không thể cứu vớt Nnhân
Lloại
được nữa?.
Than ôi ! Cái Ta cao siêu của đám sinh linh
kia phải chịu hy sinh cho cái Ttiểu
Nngã
đó sao, Nnhân
Lloại
sẽ bị hy sinh cho hạnh phúc của những đơn vị sao ?
Hỡi Đđệ
Ttử
sơ cơ, hãy biết rằng đó là con đường mở rộng,
con đường hạnh phúc ích kỷ, mà chư Vvị
Bồ Tát đi theo con đường Tâm Pháp, chư Ðức Phật từ bi đều xa lánh.
Áo Shangna kém hơn ba thứ áo vừa đề
cập trên rất nhiều. Ở đây nó tiêu biểu cho sự quân bình giữa Nnghiệp
Qquả
và sự tiêu diệt Pphàm
Nngã
bằng cách dập tắt tất cả sự ham muốn, kể cả sự muốn sống. Nó gồm có sự tiến hóa
của Nnhân
Tthể
(Tthượng
Ttrí)
thật cao xa hơn mức đa số Nnhân
Lloại
đã đạt đến, nhưng không phát triển tình thương và lòng từ bi, và cũng không có
ý muốn giúp đời. Người nào thoát được vòng sinh tử như thế có thể cũng như Chơn
Nhơn, lưu lại trên các Ccảnh
ccao
của Ccõi
Hạ Thiên lâu đến vô tận.
Trong đoạn nầy dường như Ðức
Aryasanga phàn nàn những kẻ mặc áo Dharmakaya rồi lại rút lui trên các Ccõi
cao hay các hệ thống xa cách Tthế Ggian;
thật ra tư tưởng đó không phải là ý tưởng của Ngài; Ngài không thể trách các
Ðức Phật ấy ích kỷ được. Các Ðấng Ðộc Giác Phật cũng hoàn toàn tiến hóa như Ðức
Phật Thích Ca của chúng ta; lòng từ bi của các Ngài cũng không khác Ðức Phật Đđạo
Đđức;
nhưng các Ngài không có bổn phận phải thi hành công việc như Ðức Thích Ca. Hàng
ngàn năm qua trước khi đạt đến quả vị cao siêu như thế, các Ðấng Cao Cả không
thể nào có một mảy may tinh thần ích kỷ. Chúng ta đừng quên rằng quyển “Tiếng Nói
Vô Thinh”
được một trong các Đđệ Ttử
của Ngài viết lại, sau khi Ðức Aryasanga viên tịch. Như vậy Ngài hoàn toàn
không chịu trách nhiệm về bản văn nầy. Ở đây dường như có sự khinh xuất của vị Đđệ
Ttử
đã tô điểm cho những ý tưởng của Thầy mình.
Sống để giúp ích Nnhân
Lloại
là bước đầu.
Thực hành sáu hạnh cao quý là bước
thứ nhì.
Khoác áo Nirmanakaya vi diệu là
khước từ hạnh phúc đời đời của chính mình để cứu giúp Nnhân
Lloại.
Ðạt được sự toàn phúc của Ccõi
Niết Bàn nhưng không hưởng thụ, đó là bước cao cả tột cùng, bước chót của con
đường từ bỏ.
Hỡi Đđệ
Ttử,
con nên biết rằng đó là con đường bí mật mà các Ðức Phật trọn lành đã
lựa chọn, các Ngài đã tự hy sinh cho chúng sinh còn yếu đuối.
Sáu hạnh vinh diệu là những Ba Lla
Mmật
mà chúng ta đã đề cập đến ở Chương I của Phần II ;
chúng tiêu biểu cho một trong các phương pháp để đi trên con Ðường Ðạo. Một
phương pháp khác đã tóm lược trong loạt đức tính bắt buộc kể ra trong quyển “Dưới Châơn
Thầyy,” mà người
chí nguyện phải tuân theo để trải qua bốn giai đoạn trên Ðường Ðạo.
Nói rằng các Vvị
Nirmanakaya từ bỏ hạnh phúc cũng không thật đúng, vì chính tự thân Vvị
Chơn Tiên đã đạt được hạnh phúc rồi. Sự thật thì là Vvị
Ðắc Ppháp
có thể ở mãi trên tột đỉnh phi thường mà Ngài đã đạt đến, sonhưng Ngài
lại thích xuống Tthế Ggian
để giúp đỡ Nnhân
Lloại.
Nhưng điều đó không thể lấy mất sự chí phúc vĩnh cửu thuộc về chính bản chất
của Ngài; Ngài chỉ quyết định hoạt động ở các Ccõi
thấp thôi.
Tuy nhiên, nếu Ttâm
Ppháp
quá cao đối với con, nếu con cần tự giúp lấy con và sợ không dám cứu trợ kẻ
khác, thì
vậy
hỡi kẻ nhát gan, con nên cảnh giác đúng lúc, con hãy an phận theo Nnhãn
Ppháp
thì hơn. Con hãy cứ hy vọng. Vì nếu bây giờ con chưa thể theo Con đường bí mật,
thì mai kia nó sẽ vừa sức con. Con nên biết rằng một sự cố gắng, dù nhỏ đến
đâu, trong chiều hướng tốt hay xấu, cũng không thể tiêu mất trong Ccõi
nguyên nhân. Dù cho làn khói bay cũng không thể không để lại dấu vết. “Một lời
nói phủ phàng thốt ra trong những kiếp trước cũng không tiêu mất, mà vẫn luôn
luôn trở lại.”.
Dây tiêu không thể trổ sinh hoa hồng và hoa lài trắng tinh khả ái không thể
biến thành gai góc.
Ngày nay con có thể tạo cơ hội may
mắn cho ngày mai của con. Trong cuộc đại hành trình, tất cả những Nnhân
đã gieo mỗi giờ đều mang lại mùa gặt đầy Hhiệu
Qquả,
vì Đđịnh
Lluật
chí công đã cai quản Tthế Ggian.
Với một sức đẩy mãnh liệt không bao giờ lầm lạc, Lluật
Ccông
Bbình
mang đến cho người quá cố những kiếp sống hạnh phúc hay đau khổ, cái hậu quả Nnghiệp
Bbáo
của tất cả tư tưởng, hành vi của chúng ta từ kiếp trước.
Vậy con hãy nhận lãnh tất cả những
gì mà công lao dành cho con, hỡi con người đầy lòng nhẫn nại. Hãy vui vẻ và an
tâm nhận lấy số phận của mình. Ðó là Nghiệp Quả của con, Nghiệp Quả của các
kiếp tái sinh của con, mà cũng là vận mệnh của những kẻ trong cảnh nhọc nhằn và
đau khổ của họ đã sinh ra đồng thời với con, họ đã vui mừng và than khóc kiếp
nầy sang kiếp khác, liên hệ với các hành động từ kiếp trước của con.
Ngay bây giờ chưa có thể thực hiện
lòng vị tha hoàn toàn, chúng ta cũng không nên thất vọng. Phải theo đuổi những
cố gắng trong chiều hướng tốt lành cho đến một lúc nào đó lý tưởng ấy sẽ dường
như hoàn toàn tự nhiên và do đó có thể thực hiện được một cách tương đối dễ
dàng. Vài người không thể thực hiện lý tưởng cao cả trước mắt như thế lại có
cảm tưởng rằng tất cả công việc mà họ có thể làm được, không việc nào đáng cho
họ phải nhọc công; họ thất vọng và bởi đó vì vậy không
làm gì cả. Nhưng đó là chính một lỗi rất lớn. Ðức Phật của chúng ta đã tỏ ra
rất sáng suốt khi Ngài nói trước những thính giả thuộc đủ hạng người. Ngài cố
tránh cho họ sự ngã lòng thuộc loại như thế. Ðối Vvới
các Đđệ
Ttử
của Ngài,.
Ngài mới dạy giáo lý cao siêu. Ðối Vvới
người tầm thường, Ngài giảng con đường trung đạo và Ngài dạy họ sống một đời
cao thượng hơn, nếu có thể được, để một ngày kia họ có thể gia nhập vào Ggiáo
Hhội
của Ngài. Ngài nói dạy hiện giờ con hãy tạo cơ hội tốt cho ngày
mai, nghĩa là cho kiếp sau của con. Thất vọng chỉ vô ích thôi, vì người nào
biết nắm lấy một
cơ hội tốt sẽ nhận được 10 mười cơ
hội khác và kẻ nào dùng hết khả năng sẵn có của mình, tùy theo sức mình, chắc
chắn sẽ phát triển được những khả năng ấy một cách nhanh chóng phi thường.
Ðoạn chót có đề
cập đến những người sinh ra đồng thời. Thật ra nhiều người tiến hóa từng nhóm
rất thường gặp nhau, hiệp nhất một cách thật chặt
chẽ và kết thân nhau theo nhiều cách. Những gì xảy đến cho cá nhân của một nhóm
như thế sẽ tạo nên phản ứng mạnh mẽ đối với những người khác về phương diện
thiện cũng như ác. Những người chí nguyện phải thấy một sự phấn khích được
gia tăng trong ý niệm đó, vì khi một người trong nhóm thành công
sẽ đưa đến sự lợi ích lớn lao cho nhiều người mà số phận có liên hệ chặt chẽ
với nhau.
Ngày nay con hãy làm việc cho người,
rồi ngày mai, người sẽ làm việc lại cho con.
Chính nhờ mầm từ bỏ Bbản
Nngã
mà trái ngọt của sự giải thoát cuối cùng mới trổ sinh.
Kẻ nào vì sợ Ma Vvương,
e rằng lòng mình còn vị kỷ, mà không dám giúp người, kẻ đó đành phải chịu chết. Kẻ
hành hương mệt mỏi, muốn xuống sông tắm cho mát, nhưng sợ nước cuốn, có thể
chịu nóng không nổi mà chết.
Vì lòng ích kỷ mà không dám làm gì
cả chỉ đưa đến Qquả
xấu thôi.
Người sùng Ðạo ích kỷ sống không mục
đích. Người không làm phận sự ở đời cũng sống vô ích.
Con hãy lăn theo bánh xe đời, phải
lăn theo bánh xe bổn phận đối với chủng tộc và họ hàng, bạn hữu và thù nghịch,
và đừng nghĩ đến những sự vui thú cũng như khổ nhọc. Con hãy làm khô cạn sự báo
thù của Nhân Quả. Hãy đạt những Siddhis cho kiếp tới của con.
C. W.
L.- Vài người tưởng rằng nếu họ không thể
hoàn thành những việc lớn lao hoặc tiến bộ nhanh chóng thì có cố gắng cũng vô
ích. Ðó là lầm to vậy. Ít ra họ cũng có thể sống để giúp đỡ những người mà
Nghiệp Quả đã liên kết với họ. Bao lâu họ chưa chịu nắm lấy mọi cơ hội tốt
trong hoàn cảnh hiện tại, thì họ không bao giờ gặp cơ hội nào khác có lợi hơn.
Nếu họ quyết định làm việc đó, khi ngày giờ đến với họ, lúc họ cần phải cố gắng
thật nhiều trong lần Ðiểm Ðạo thứ Nhứt, thì những bạn bè thân yêu sẽ giúp đỡ
họ. Những người bạn chơn thật đó là bạn của Chơn Nhơn; họ không phải là những
kẻ vì muốn thỏa mãn sự cảm kích riêng rất nhỏ nhen, ttrần
ttục
và thường ích kỷ của mình, ngăn cản không cho kẻ khác tiến lên. Mà họ là những
người lúc nào cũng muốn cho mọi người có được sự tự do cần thiết để đi theo con Ðường Ðạo
cao cả.
Nhiều người tốt không chịu giúp đỡ
đồng loại mình, vì họ sợ chính họ có thể bị thúc đẩy bởi một nguyên nhân ích
kỷ. Thường một hành vi từ thiện không hẳn là do ý muốn giúp đỡ những kẻ bất
hạnh, nhưng là một hành vi nhằm giải tỏa cảm thức khó chịu trước cảnh đau khổ
của họ. Một người như thế không bao giờ chịu khó tìm kiếm những kẻ khốn khó để
giúp đỡ. Những người khác sẵn sàng cho một phần sản nghiệp của họ và chỉ hưởng
phần còn lại mà không hối tiếc. Một Đđệ Ttử
không biết mấy điều đó, đôi khi tự hỏi xem chính mình có trong sạch chăng.
Nhưng không chịu giúp đỡ vì không chắc việc làm
của mình có đúng không, chắc chắn đó là một hình thức ích kỷ. Bất cứ lý do nào,
chúng ta cũng phải giúp đỡ kẻ khác mặc dù trên Ðường Ðạo người ta chỉ thật sự
tiến hóa được khi đã giúp đỡ những kẻ khổ đau
mà không tính toán hơn thiệt.
Muốn giúp đời cần phải có tính phân
biện. Như người Ấn Ðộ thường nói sự giúp đỡ phải tùy người, tùy lúc và tùy nơi.
Tuy nhiên việc suy nghĩ cần thiết đó không được nên gây ra
sự do dự. Trong trường hợp có hai cách hành động, không phải lúc nào chúng ta
cũng đều đạt được sự phân biện khôn ngoan nhất; tuy nhiên chúng ta phải chọn
một cách,
tránh để không bỏ lỡ dịp tốt để làm điều thiện. Ðôi khi cách giúp đỡ duy
nhất mà chúng ta có thể ban cho kẻ khác là sự trợ giúp bằng tinh thần, mà giúp
đỡ về phương diện nầy rất quan trọng. Năng lực của những người đang làm việc
một cách hăng say trên Tthế Ggian
có thể nhờ ở những người khác rải ra sức mạnh tinh thần trong lúc họ tham
thiền.
Bánh xe bổn phận của chúng ta đối
với chủng tộc và gia đình, đối với bạn và thù thường mang đến nhiều cơ hội tiến
hóa tuyệt hảo. Các Ðấng cai quản Luật Nhân Quả canh chừng để cho mỗi
người được ở trong những hoàn cảnh thuận lợi để tăng trưởng. Khi sự phát triển
của một người còn yếu, Yy có
thể tìm thấy trong mười ngàn nơi khác nhau, những hoàn cảnh cần thiết cho sự
tiến hóa của Yy.
Nhưng nếu Yy
đã tiến hóa hơn, sự lựa chọn môi trường cho Yy
phải kỹ lưỡng hơn, vì mỗi người phải cần được
tuyệt đối đặdắt
vào chỗ mà sự tiến hóa của Yy
trở nên nhanh chóng nhất. Như thế nói rằng mỗi người đều có thể thành công bất
cứ trong hoàn cảnh nào thật là lầm lạc vậy; những khó khăn được đặt ra trên
đường đi của Yy
để Yy
vượt qua chúng và do đó có thể mở mang tính tình và những năng lực của Yy.
Ðối với người đã hoàn thành tốt đẹp
những bổn phận hằng ngày của mình, chẳng bao lâu Yy
sẽ được giao phó những công việc quan trọng hơn. Các Ðấng Cao Cả hướng dẫn vận
mệnh Nnhân
Lloại
cần rất nhiều người như thế, mà ai cũng có thể chờ đợi để nhận lãnh một công
tác tốt đẹp và hữu ích. Như Thánh Kinh nói, bạn hãy thành tâm làm những việc
nhỏ, rồi bạn sẽ được đặt thu xếp để nhận lãnh nhiều công tác khác. Ðược đặt
để trước nhiều công tác, tiêu biểu cho một trách nhiệm nghiêm trọng. Theo Hhuyền
Bbí
Hhọc,
muốn được xứng đáng phải tỏ ra thành tâm trong những việc nhỏ. Ðó là cách Ðức
Thầy thử thách chúng ta. Nhiều người chểnh mảng bổn phận thường ngày của họ và
mơ ước được làm việc nầy hay việc khác trong tương lai, có thể đó là công việc
mà sự hữu ích đáng ngờ và cũng không đặc biệt dành cho họ; cũng có nhiều người
tiếc rẻ những sự liên hệ mà họ đã tạo nên trước khi họ biết Thông Thiên Học, vì
hiện giờ họ thấy chúng làm cho họ khó chịu. Dù sao họ cũng phải làm bổn phận
của họ. Ngày nào mà người chí nguyện được tự do làm công việc phụng sự tốt hơn
để phát triển, nhất là công việc hữu ích cho Tthế Ggian,
thì chừng đó những mối liên hệ không thích hợp sẽ được tháo gỡ. Cắt đứt sự liên
hệ đó quá sớm chỉ làm cho con người bối rối, tạo thêm nhiều lo âu và đau khổ.
Nếu con không thể làm Nngôi
Mmặt
Ttrời,
thì hãy khiêm hạ tốn làm một Hhành
Ttinh.
Thật thế, nếu con bị ngăn trở không thể phóng tia sáng như Mmặt
Ttrời
giờ ngọ trên đỉnh núi phủ đầy tuyết trường tồn tinh khiết, thì hỡi Đđệ
Ttử
sơ cơ, con hãy chọn một nghĩa vụ khiêm tốn hơn.
Hãy chỉ đường - dù phải sống lẫn lộn
và mất hút trong đám đông - như Ssao Hhôm
đã chỉ đường cho những kẻ đi trong đêm tối.
Kìa con hãy
nhìn xem con mắt của Migmar xuyên qua lớp lưới bao mặt màu đỏ đậm để lặng nhìn
Ðịa Cầu đang yên giấc. Con hãy xem hào quang rực rỡ đang túa ra từ bàn tay của
Lhagpa một cách thương yêu che chở những nhà tu khổ hạnh. Cả hai bây giờ là tôi
tớ của Nyima, lặng lẽ thức canh trong đêm tối lúc vắng chủ. Tuy nhiên trong
những Kalpas
trước, cả hai đều sáng chói như Nyima và trong tương lai sẽ có thể trở
nên hai Nngôi
Mmặt
Ttrời
trở lại. Ðó là sự thăng trầm của Luật Nhân Quả trong Vvũ
Ttrụ.
Hỡi Đđệ
Ttử,
con hãy noi gương hai Nngôi
Hhành
Ttinh
đó. Con hãy soi sáng và ủy lạo kẻ hành hương khó nhọc và hãy tìm kẻ ít hiểu
biết hơn con, kẻ đang ngồi nản chí và phiền muộn, lòng đói bánh minh triết lẫn
bánh nuôi xác thân, không gặp Thầy, không hy vọng, không một lời an ủi; con hãy
nói Pháp cho Yy
nghe.
Sau đây là lời chú thích của Bà
Blavatsky :
Nyima là Mmặt
Ttrời
theo Kkhoa
Cchiêm
Ttinh
Tây Tạng. Migmar hay Mars (Hỏa Ttinh)
là biểu tượng của một con mắt, và Lhagpa hay Mercury (Thủy Ttinh)
là biểu tượng của một bàn tay.
Ở đây chúng ta gặp nhiều sự tương
đồng lý thú. Ban đêm hai hành tinh nói trên đều sáng chói. Khi Mmặt
Ttrời
đã lặn và tất cả đều tối tăm. Ðối với chúng ta cũng thế. Chúng ta phải giúp đỡ
những người mà sự tối tăm còn thâm sâu hơn chúng ta. Mỗi người đều có thể tìm
những kẻ vô minh hơn mình để dạy dỗ họ. Nếu những kẻ ở chung quanh chúng ta
chưa sẵn sàng dấn thân trên Ðường Ðạo, thì chúng
ta có thể dìu dắt họ theo chiều hướng đúng đắn mà họ
đang theo đuổi.
Trong thời kỳ mà sự sống được di
chuyển từ Mmặt
Ttrăng
đến Qquả
Đđịa
Ccầu,
các Hhành
Ttinh
đều sáng chói như những Nngôi
Mmặt
Ttrời
nhỏ; nhưng ngày nay Hỏa Tinh đã trở nên gần như một bãi sa mạc, và do đó ánh
sáng của nó trở nên vàng hay đỏ dợt. Theo quan điểm của Tthi
Nnhân,
Ttác
Ggiả
của những câu thơ nầy, bây giờ các Hhành
Ttinh
không thể làm gì khác hữu ích hơn là soi sáng chúng ta. Cũng thế ấy, mọi kiến
thức phải bắt đầu bằng những nền móng vững chắc; vì không thấy được, nên nền
móng không đáng kể đối với toàn cảnh, nhưng tòa kiến trúc sẽ được đặt trên nó.
Trong những công việc tầm thường của đời sống hằng ngày, thí sinh cũng có thể
phụng sự xã hội một cách tốt đẹp, đồng thời phát triển những Ssiddhis
cao siêu là những Qquyền
Nnăng
Ttâm
Llinh
của Chơn Nhơn.
Bây giờ các Ðấng
Giáo Chủ dạy cho thí sinh phải nói những gì với những kẻ mà Yy
muốn dìu dắt trên Ðường Ðạo :
Hỡi thí sinh, con hãy nói với Yy,
kẻ nào đem tính kiêu căng và tự ái làm tôi tớ cho lòng sùng Ðạo; kẻ nào còn lưu
luyến cuộc đời nhưng đem tính nhẫn nại vmà
phục tòng Ðịnh Luật, như một đóa hoa tỏa hương thơm dưới chân Ðức Thích Ca Mâu
Ni, kẻ ấy trở nên mộït vị Tu Ðà Huườn
trong kiếp hiện tại. Pháp lực hoàn thiện có thể nháng thấy đàng xa, thật xa,
nhưng Yy
đã bước được bước đầu; Yy đã
nhập lưu và có thể hoạch đắc thị giác của con Pphượng
Hhoàng
trên đỉnh núi và thính giác của con Hhoãng
Ccái
nhút nhát.
Con hãy nói với Yy,
hỡi kẻ chí nguyện, lòng sùng Ðạo chân thành có thể hoàn lại cho Yy
những kiến thức mà Yy đã
có trong những kiếp trước. Thần Nnhãn
và Tthần
Nnhĩ
không thể nào đạt được trong một kiếp sống ngắn ngủi.
Shakya-Thub-pa là Ðức Phật Thích Ca
của chúng ta. Như chúng ta đã giải thích, bậc Tu Ðà Huườn
là những người đã Nnhập
Llưu.
Người ta có thể thành lập một lý thuyết tương tợ giữa sự hành động bên ngoài,
nhờ đó chúng ta đặt dưới chân Sư Phụ những khả năng phụng sự của chúng ta, và
sự thay đổi bên trong, xảy ra trong khi Thượng
Trí ( Manas )
đã phát triển đầy đủ để nhận ra sự hiện diện của Bồ Đđề
Ttâm,
nghiêng mình trước nguyên lý cao cả đó và quyết định vâng lời nó bằng cách hiến
dâng tất cả khả năng của mình. Trong đời sống thường nhật, thường Hạ Trí có
tiếng nói quyết định tối hậu. Chẳng hạn về Kkhoa
Ggiải
Pphẫu
sinh thể, nhiều người cảm thấy kinh tởm trước sự thực hành Kkhoa
ấy nhưng vẫn phải tiếp tục theo đuổi công việc đó, vì họ cho rằng đây chính là
phương thức duy nhất để đạt được vài kiến thức hữu ích cho Nnhân
Lloại.
Một thiểu số hiểu đúng hơn đã nói : “Không,
sự giải phẫu sinh thể không thể đem lại điều gì tốt đẹp. Bản chất cao cả của
chúng ta quả quyết rõ rệt rằng việc giải phẫu sinh thể là một hành động sai lầm
hoàn toàn.”.
Nếu những người quả quyết như thế thuộc đa số, họ sẽ chấm dứt Kkhoa
ấy, rồi vài phương pháp khác sẽ được phát minh để bảo đảm sức khoẻ cho Nnhân
Lloại;
Hạ Trí sẽ làm việc thích ứng với mệnh lệnh của trực giác cao siêu để tìm một
phương pháp hoàn hảo.
Người nào cảm thấy phấn khởi khi
được biết con Ðường Ðạo, thì chắc chắn Yy đã
được hành Ðạo trong kiếp trước hoặc có thể nhiều kiếp trước. Ðiều nầy thật đáng
khích lệ, vì sau đó không bao lâu người ta có thể hy vọng khai mở lại được
những quan năng đã hoạch đắc trong các kiếp trước, Tthần
Nnhãn
và Tthần
Nnhĩ
giúp đáp ứng vớ?i
tiếng nói bên trong và chiêm ngưỡng cuộc sống và thế giới bằng đôi mắt tinh
thần.
Hãy khiêm tốn, nếu con muốn đạt được
sự Mminh
Ttriết.
Hãy khiêm tốn hơn nữa nếu con đã có được sự Mminh
Ttriết.
Hãy giống như biển cả tiếp nhận tất
cả suối và sông. Sự yên tịnh dũng mãnh của biển cả vẫn không thay đổi; nó không
biết có nước sông, suối đổ vào nó.
Hãy dùng sức của Chơn Nhơn để trấn
áp Pphàm
Nnhơn.
Phải đấy, cao cả thay kẻ nào giết chết dục vọng.
Còn cao hơn nữa, kẻ nào mà Chơn Nhơn
đã giết chết cho
đến sự hiểu biết của dục vọng.
Hãy coi chừng Pphàm
Pnhơn,
vì sợ e nó làm ô uế Chơn Nhơn.
Như chúng ta đã biết, người nào được
đứng trước các Ðấng Chơn Sư đều không thể không khiêm tốn, vì Yy
đã ý thức có một hố thẳm chia cách với các Ngài. Chơn Sư hiện ra trong xác phàm
của Ngài không làm cho Yy lo
âu hay ngã lòng; trái lại sự hiện diện của Ngài cho chúng ta được hưởng mọi
phương tiện và chúng ta có cảm tưởng nếu Ngài thành công, thì chúng ta cũng
thành công vậy. Ðối với sự hoạch đắc kiến thức mới cũng giống như thế. Con người
có thể nắm được vài ý tưởng lớn, đồng thời Yy
nhận thấy tất cả những gì còn lại đều cần phải học hỏi, tất cả những sự huyền bí
liên quan đến những sự vật quen thuộc nào đó mà kẻ khác cho là rất đơn giản và
đã hiểu rõ rồi. Vậy người có kiến thức quảng bác có thể rất khiêm tốn
; và người chí nguyện phải được cảnh giác rằng nếu Yy
thấy sự kiêu căng nổi dậy ở Yy,
thì đó chính là dấu hiệu cho biết Yy đã
vô tình khép cánh cửa không cho những kiến thức rộng rãi và cao siêu hơn xâm
nhập Yy.
Thí sinh cũng phải tập sinh hoạt giữa những sự náo động của Tthế
Ggian
luôn luôn ảnh hưởng đến các Thể Xác, Vía và Trí của Yy,
mà không để cho chúng làm rối loạn; Yy
phải tập cho các Tthể
thấp của Yy
quen đáp ứng với những mệnh lệnh nội tâm, chứ không phải những sự kêu gọi của ngoại
cảnh ấy. Chơn Nhơn vốn thiêng liêng; với sự giúp đỡ của Chơn Nhơn ta phải chế
ngự Pphàm
Nnhơn;
điều nầy làm xong rồi đến lượt Chơn Nhơn phải được chế ngự bởi Chơn Thần, cái
Ta vĩnh cửu. Muốn thành công trong việc nầy, Đđệ Ttử
phải luôn luôn canh chừng các Tthể
thấp của Yy
và để ý đến sự tinh khiết về thực phẩm, thức uống và từ điện cũng như phải giữ
sự tinh khiết trong lời nói, tình cảm và tư tưởng của Yy
vậy. Ðiều nầy đã được khai triển đầy đủ trong quyển “Chơn Sư và
Thánh Ðạo.”
Con đường đi đến tự do tối hậu ở bên
trong Chơn Ngã của con. Con đường nầy bắt đầu và chấm dứt bên ngoài Chơn Ngã.
Mẹ của tất cả sông ngòi không được
loài người khen ngợi; bà mẹ đó không đáng kể trước đôi mắt kiêu hãnh của
Tirthika; trước mắt của những kẻ điên cuồng, hình tướng của Nnhân
Lloại
đều trống rỗng, mặc dù nó chứa đầy nước Amrita (Cam Llồ)
ngọt dịu. Tuy nhiên những con sông thiêng đều bắt nguồn từ Thánh Đđịa,
và kẻ nào có sự minh triết đều được tất cả loài người tôn kính.
Thiên Chúa Ggiáo
chính thống thường cho rằng sự phát triển Llinh
Hhồn
trải qua ba trình độ liên tiếp. Trước hết con người làm lành vì sợ bị sa Hhỏa
Nngục.
Kế đó, Yy
làm lành vì muốn lên Ccõi
Thiên Ðàường.
Sau cùng Yy
làm lành vì tình thương Ðấng Christ, bởi Ngài đã tự hy sinh để đánh thức tinh
thần hy sinh đó trong con người. Tuy nhiên vẫn có một giai đoạn thứ tư nữa
: Cchúng
ta tìm thấy con đường đi đến sự hợp nhất với Chơn Ngã. Chừng đó con người làm
lành chỉ vì điều lành, chứ không phải để làm đẹp lòng Sư Phụ Yy,
hoặc để tỏ ra biết ơn Ngài. Như vậy chính chúng ta tự giải thoát mình. Sự tiến
bộ trên Ðường Ðạo của chúng ta không tùy thuộc một lý do nào khác bên ngoài.
Cũng như không phải tùy theo thời gian đã
trải qua ở một trình độ nào nữa; chúng ta sẽ thực hiện được một bước tiến khi
chúng ta đã phát triển được ở chính mình những đức tánh và những năng lực cần
thiết. Bận tâm đến điều nầy chỉ vô ích thôi; vì theo câu tục ngữ Tamil thì
: “Quả đã chín mùi không bao giờ còn ở lại trên cành.”.
Như chúng ta đã biết, người Tirthika
là người Bà Lla
Mmôn
khổ hạnh đi hành hương ở các đền thờ và theo bản văn thì dường như họ hơi tự
đắc. Cũng thế, vài vị Hadjis, người Hồi Ggiáo
đi hành hương đến Mecca cũng đã tự kiêu về cuộc hành trình của mình. Những
người đó giống như người Tthế Ggian
của thời đại chúng ta, họ hãnh diện khi được nói rằng họ đã xem vở kịch cuối
cùng hay đọc một quyển sách vừa mới xuất bản, thật khó nói là họ có lợi gì
trong việc đó. Người sao chép lại lời Ðức Aryasanga là một Phật Ttử,
nên có thể không vượt khỏi tinh thần Ggiáo
Pphái,
vì hình như Yy
xem tất cả những người Tirthikas đều thuộc hạng như thế.
Sự quyến rũ lớn lao của
ở
Benares, Hardwar, Kumbakonam và các nơi Tirthas khác là Llễ
Ttẩy
Tthể
tạiở
các con sông linh thiêng. Tại vùng sau chót trên Thánh Đđịa
nầy, những người hành hương đến đó trầm mình dưới những hồ nước rộng mênh mông
mà họ cho rằng ở đây được nước Ssông
Hằng tiếp dưỡng ngầm dưới đất. Còn về những người Phật Ttử
sao chép lại của chúng ta, Yy
nhận định một cách tự đắc rằng những con sông thiêng chính ở Ấn Ðộ đều bắt
nguồn từ một vùng linh thiêng, đó là xứ Tây Tạng. Có điều rất đáng chú ý là
những con sông lớn như sông Hằng, sông Indus và sông Airavati hay Irrawadi đều
bắt nguồn gần nhau, trong dãy Hy Mã Lạp Sơn rồi hướng về phía Đđông,
phía Nnam
và phía Bbắc,
bao quanh và thắt chặt lại ở vùng Bắc Ấn trên hàng ngàn dậm, trong một khoảng
rộng lớn phi thường. Theo Ttác Ggiả
thì những nhà tu khổ hạnh kiêu hãnh ấy không biết xứ Tây Tạng, nơi mà họ khinh
thường, đó là mẹ sinh ra các con sông linh thiêng nầy; rồi khi so sánh xứ Ấn Ðộ
với Tây Tạng, Ttác
Ggiả
cho rằng theo quan niệm của những kẻ ngông cuồng sai lạc thì Ấn Ðộ là thân thể
chỉ chứa nước tinh khiết trường sinh, và theo Ôông,
Tây Tạng là nguồn Minh Triết đáng được mọi người tôn kính, mà tất cả những
người nầy không phải là những kẻ kém thông minh.
Bậc La Hán và Hiền Giả quáng
thông mọi sự vốn hiếm có như hoa của cây Udambara. Những vị La Hán sinh ra lúc
nửa đêm, đồng thời với cây thiêng có chín và bảy thân, bông thiêng nở trong đêm
tối, dưới giọt sương tinh khiết và trong lòng giá lạnh của đỉnh núi cao phủ
tuyết, nơi mà bàn chân của những kẻ còn mang tội lỗi không bao giờ bước tới
được.
C. W.
L.- Ở trình độ tiến hóa hiện nay, rất ít
người đạt được quả vị La Hán; đó là điều rất tự nhiên, vì Nnhân
Lloại
được giả định cuối Ccuộc
Ttuần
Hhoàn
thứ Bbảy
mới đạt đến Qquả
Vvị
Chơn Tiên và đối với vị La Hán, chỉ còn cách quả vị đó bảy kiếp nữa. Tuy nhiên,
quả vị La Hán vẫn hoàn toàn vừa sức chúng ta; vấn đề chính là hiểu bản chất của mục đích
ấy và dùng ý chí đạt đến nó. Dưới ảnh hưởng của Ðức
Phật của chúng ta, hàng ngàn người đã trở thành La Hán, nhờ từ điện phi thường
của Ngài. Không bao lâu nữa Ðức Phật kế vị sẽ giáng lâm giữa chúng ta, sự kiện
ấy sẽ đem đến cho chúng ta những sự lợi lạc đặc biệt.
Ý nghĩa tượng trưng trong đoạn nầy
chắc chắn có thể giải thích bằng nhiều cách. Lúc nửa đêm có thể là lúc tối tăm
nhất trước khi bình minh ló dạng, lúc mà dường như thí sinh bị tất cả mọi người
bỏ rơi, kể cả Sư Phụ của Yy.
Chính ở cuộc Ðiểm Ðạo lần thứ Tư mà nguyên lý thứ bảy trở nên linh động, khi
thí sinh tiến đến gần Ccõi
Niết Bàn. Cây thiêng liêng có bảy thân cũng như con số chín, có thể tượng trưng
cho điều đó, vì thật ra nguyên lý thứ bảy tiêu biểu cho Ttam
Vvị
trong Nnhứt
Tthể
- khi Ttam
Vvị
được thêm vào sáu vị khác thì thành ra chín. Người Ấn Ðộ cho số chín có đặc
tính thiêng liêng hơn cả.
Trước khi được Ðiểm Ðạo lần thứ Tư
muốn mở mang những đức tính cần thiết, thí sinh phải hoàn toàn chấp nhận những
cuộc thử thách lớn lao và xuống tận nơi sâu thẳm nhấứt
của Ccõi
tối tăm. Hoa thiêng chỉ nở trong Ccõi
tối tăm đó, rồi kết quả của sự phát triển ấy cũng
xảy ra trên Ccõi
Bồ Ðề.
Hỡi Đđệ
Ttử,
không một vị La Hán nào chứng được quả vị nầy trong kiếp mà Llinh
Hhồn
mới lần đầu tiên có nguyện vọng về sự giải thoát tối hậu. Tuy nhiên, con chớ lo
lắng, không một chiến sĩ nào sẵn sàng tình nguyện chiến đấu trong cuộc giao
phong giữa đạo quân sống và đạo quân chết, cũng không một tên tân binh nào, bị
ngăn cản không cho xông pha vào con đường đưa đến chiến địa.
Bởi vì chiến sĩ phải chiến thắng hay
phải ngã quỵ
.
Nếu người chiến thắng, Niết Bàn sẽ
thuộc về người. Trước khi người dứt bỏ hình bóng, di hài của người, cái
nguyên nhân của những ưu tư và đau khổ vô tận, người sẽ được Nnhân
Lloại
tôn kính như một vị Phật.
Nếu người ngã quỵ, thì
sự thất bại ấy cũng không vô ích : Nnhững
kẻ thù mà người đã giết trong trận chiến cuối cùng sẽ không còn sống lại trong
kiếp lai sinh.
Nhưng nếu con muốn vào Niết Bàn hay
không nhận lãnh phần thưởng, con chớ vì lý do hành động hay không muốn hành
động, hỡi con người đầy lòng dũng cảm.
Con nên biết rằng vị Bồ Tát từ chối
sự giải thoát để mang những nỗi khó nhọc của đời sống bí mật được xưng tụng là Bbậc
Tthượng
Ttôn,
hỡi Đđệ
Ttử
tình nguyện chịu sự đau khổ qua các chu kỳ.
Ðức Subba Raow giải
thích sự tranh đấu giữa người sống và kẻ chết như sự chống đối giữa những người
hiểu biết và những người không hiểu biết. Người ta nhớ lại trong những lời dạy
Alcyone, Ðức Thầy Kouthoumi
cũng phân biệt như thế; Ngài nói, Nnhân
Lloại
chia ra làm hai hạng : Nnhững
người hiểu biết và những người không hiểu biết, những người đã thấy Ccon
Ðường Ðạo và những người chưa thấy. Ngài còn nói thêm rằng điều đáng phàn nàn
hơn cả là chẳng những họ là người mê tín và hẹp hòi, mà hàng triệu người đều
cho rằng họ sống hạnh phúc trong sự vô minh của họ, họ tin chắc rằng ngoài
những sự vật dưới Tthế Ggian
nầy không có gì xứng đáng cho họ cố gắng cả. Bà Blavatsky lại thấy
trong cuộc chiến đấu đó sự giao tranh giữa Chơn Nhơn trường tồn và cao cả với Pphàm
Nnhơn
cá biệt hay thấp kém tượng trưng cho kẻ sống và người chết.
Ðối với những kẻ thật sự muốn bước
chân trên Ccon
Đđường
Hhuyền
Bbí
cánh cửa không bao giờ khép lại; người nào cảm thấy có ước muốn nầy đều được
đưa đến cho Yy
một cơ hội thử thách ; nếu Yy
thất bại, sự cố gắng của Yy
cũng không vô ích, vì vài kẻ thù của Yy
như những tật xấu và các nhược điểm đã bị tiêu diệt, và chúng sẽ không còn quấy
nhiễu Yy
nữa. Ít có người phạm tội nặng nề đến nỗi phải thoái hóa, chẳng hạn ở Ấn Ðộ,
phải đầu thai vào một giai cấp thấp kém; nhưng một người theo tà thuậtyết
làm những điều cực ác và sử dụng hầu hết năng lực của Yy
trong việc ấy, có thể hoàn toàn phân cách Chơn Nhơn với Pphàm
Nnhơn
của Yy
và gây ra một thứ nghiệp quả thật xấu bắt buộc Yy
phải trở lại trạng thái cổ sơ. Những trường hợp nầy rất hiếm có. Một người tỏ
ra thật sự không xứng đáng với địa vị hay giai cấp của Yy
thường bị đặt lại trong giai cấp đó, nhưng ở một hoàn cảnh khó khăn hay trong
một giai cấp khác kém hơn. Trái lại, đối với người đã đạt đến một trình
độ cao mà không cố gắng vươn lên, vì sợ thất bại hay chịu trách nhiệm nặng nề
hơn, thì thật là thiếu khôn ngoan.
Ngoài ra, theo bản văn, nếu con
người chiến thắng, Yy sẽ
được tôn kính như một vị Phật vĩ đại và linh thiêng liêng.
Dĩ nhiên vị La Hán không phải là một Ðức Phật theo đúng nghĩa của danh từ nầy,
nhưng Ngài sẽ là Phật theo nghĩa khôn ngoan và sáng suốt.
Theo sự giải thích của Bà Blavatsky
thì “đời sống huyền bí “ là đời sống của vị Nirmanakaya. Ở đây danh từ nầy được
dùng theo nghĩa tổng quát, chẳng những nó chỉ những vị dừng lại ở ngưỡng cửa
giải thoát để làm đầy Kkho
dự trữ Tthần
Llực,
mà còn chỉ tất cả những vị ở lại sau, như vậy bao gồm những nhân vật chính thức
của Quần Tiên Hội, như các Ðức Thầy của chúng ta. Nhưng ngày nay chúng ta gọi
đặc biệt như thế đối với các bậc sau khi đã được Ðiểm Ðạo lần thứ Năm chọn một
trong bảy con đường lớn - đó là những bậc tiếp dưỡng cho Kkho
dự trữ Tthần
Llực.
Ở đây chúng ta còn gặp ý niệm về con
đường đau khổ. Thành ngữ nầy có thể đưa đến hiểu lầm, vì sự dùng sai danh từ
đau khổ. Quả thật một Vvị
Chơn Sư sử dụng xác phàm sẽ không hưởng hạnh phúc của sự làm việc trên Ccõi
Niết Bàn, nhưng Ngài sẽ đáp lại bằng một nụ cười trước ý tưởng cho rằng Ngài
đau khổ. Khi một người đạt được tâm thức của Ccõi
Niết Bàn, tâm thức ấy vẫn không mất vì lý do Yy
giữ Xxác
Pphàm,
trừ phi Yy
hoạt động dưới các Ccõi
thấp. Bất cứ lúc nào, trong khoảng cách giữa lúc viết hai bức thư, hoặc phải
làm hai công việc nào đó, Ngài vẫn có thể đạt được ý thức về Ccõi
cao siêu và theo đuổi công việc đặc biệt của Ngài thật hoàn mãn và vô cùng vinh
quang, tốt đẹp mà không ai dưới Tthế Ggian
nầy có thể tưởng tượng nổi.
Từ các Ccõi
cao trở về Ccõi
Ttrần
thật chẳng khác nào từ Mmặt Ttrời
đi vào Ccõi
hắc ám của ngục tối; nhưng bạn sẽ không cảm thấy điều nầy nếu bạn thấy ở nơi đó
có một người bạn hết lòng thương yêu mà bạn muốn giúp đỡ. Ðời sống Hhồng
Ttrần
bắt buộc phải từ chối sự vinh diệu của các Ccõi
cao, nhưng ý chí giúp đời phải mạnh đến nỗi Linh Hhồn
không còn cảm thấy đau khổ nữa. Vả lại, khi một người chưa tiến hóa cao được
biết một người khác đang đau khổ, và Yy có
thể giúp đỡ một cách hữu hiệu, nhưng Yy từ
chối và đi tìm thú vui ở một nơikẻ
khác, sau đó Yy
sẽ cảm thấy hối hận vô cùng. Như thế sau rốt sự đau khổ của Yy
còn lớn lao hơn nếu trước kia Yy từ
bỏ thú vui của mình. Thật ra hạnh phúc tối cao đối với chúng ta là làm tất cả
điều lành mà chúng ta có khả năng thực hiện được.
Một số lớn thí sinh nếu hiện
nay không bị thất bại, sẽ không có ý thức về sự tiến bộ. Ða số sắp ngã lòng và
có cảm tưởng sự cố gắng của họ vô ích, vì họ không thấy kết quả cụ thể. Những
thí sinh không nên buông theo sự ngã lòng, điều nầy sẽ làm hư hỏng Ccõi
Trung Giới, gây thiệt hại cho kẻ khác và như thế là hành động ích kỷ. Nhưng về
một phương diện khác, điều nầy cũng vô lý, vì họ biết rằng sự tiến bộ bên trong
của họ vẫn luôn luôn diễn tiến. Trước khi họ ý thức được điều nầy trong bộ óc
xác thịt, Thể Vía và cả Thể Trí của họ đã được tổ chức nhờ sự tham thiền, và
không có gì chứng tỏ rằng trong thế giới nội tâm, những người nầy chẳng hoàn
thành được một số công việc rất chơn thật và hữu ích, bằng nhiều cách khác
nhau. Trong đời sống của họ, dường như họ chẳng thành công chi cả; tuy nhiên họ
có thể đạt được nhiều kết quả và chúng sẽ được chuyển sang kiếp sắp tới của họ
để giúp họ có thể tiến bộ một cách đáng kể ngay trên Ccõi
Ttrần.
Trong mỗi kiếp con người đều phát
triển thêm những đức tánh tốt và xấu. Những tánh xấu đều được biểu hiện
trên bốn cảnh thấp của Ccõi
Trung Giới, và vì bốn Ccảnh
nầy chỉ có ảnh hưởng một cách gián tiếp đến bốn Ccảnh
thấp của Ccõi
Hạ Thiên, nên Chơn Nhơn không bị cảm kích. Những xúc động mẫn cảm chỉ biểu lộ
trên ba Ccảnh
cao đều tốt đẹp, như tình thương, thiện cảm, lòng sùng tín ;
những tình cảm nầy tác động trong Nnhân
Tthể
(Tthượng
Ttrí)
của Chơn Nhơn, vì chúng có trú sở ở các Ccảnh
liên hệ với Nnhân
Tthể.
Như thế tất cả những tình cảm, tư tưởng có bản chất cao thượng có thể tác động
trên Chơn Nhơn một cách thường xuyên theo lối máy móc đó. Vì Chơn Nhơn đi trên
Thánh Ðạo, nên mỗi sự cố gắng đúng đắn đều có giá trị tiến bộ đáng kể đối với
nó. Vậy không có lý do gì để thất vọng hoặc gác lại ngày mai những gì chúng ta
có thể làm ngày hôm nay, vì lẽ chúng ta không thể làm tất cả công việc trong
một lúc.
Hỡi Đđệ
Ttử,
Con Ðường chỉ có một, nhưng cuối cùng nó chia làm hai. Các đoạn của nó được
đánh dấu bằng bốn và bảy cửa. Ở cuối con đường bên nầy là hạnh phúc
tức thời trực tiếp, ở cuối con đường bên kia là hạnh
phúc đình hoãn. Cả hai đều là sự ban thưởng công lao. Sự lựa chọn ở trong tay
con.
Một con đường trở thành hai, con
đường công khai và con đường bí mật. Con đường thứ nhứt dắt đến mục đích, con
đường thứ hai dắt đến sự tự hy sinh.
Khi con hy sinh cái giả tạm cho cái
trường tồn, thì phần thưởng sẽ thuộc về con ;
giọt nước trở về nguồn. Con đường công khai dắt đến Ccõi
bất dịch, đến Niết Bàn, đến trạng thái vinh quang tuyệt đỉnh, đến sự toàn phúc
quá sức tưởng tượng của con người.
Vậy con đường thứ nhứt là sự giải
thoát.
Quả thật, con đường chỉ có một thôi,
đó là sự phát triển tánh tốt. Về phương diện nầy, những khả năng của Chơn Nhơn
thật vô cùng; những đức tánh cao cả nhất của các Bbậc
Vvĩ
Nnhân
đều hiện hữu dưới hình thức mầm giống trong tất cả đồng loại của chúng ta và
không chóng thì chầy cũng sẽ trổ hoa. Và sau cùng, khi đã hoàn thành tất cả
những sự tiến bộ có thể thực hiện được đối với loài người, với sự hạn chế của
bộ óc và hoàn cảnh của Nnhân
Lloại,
con đường sẽ được chia làm hai và phải chọn giữa sự giải thoát và sự khước từ.
Ở đây sự giải thoát có nghĩa là chấp nhận Ccõi
Niết Bàn, mặc dù ở mức độ thấp, đôi khi danh từ nầy chỉ sự lẫn tránh bánh xe
sinh tử Lluân
Hhồi,
như chúng ta đã thấy khi nghiên cứu quyển “Dưới Châơn
Thầy.”
Những người không phải là Nnhân
Vviên
trong Quần Tiên Hội sử dụng những phương pháp khác, thường có thể khai mở những
quyền năng tâm linh đến một mức độ tương đối cao, nhưng con đường của Hhuyền
Tthuật
Xxám
( ở giữa Ttà
và Cchánh
Đđạo
) không thiết định những giới luật như sự giáo hóa của Quần Tiên
Hội, nên không sớm thì muộn con người sẽ lạm dụng những quyền năng của Yy,
vì sự cám dỗ quá mãnh liệt. Tuy nhiên, có những người đi theo các con đường
khác, sau cùng phát nguyện theo Quần Tiên Hội nhờ biết được giáo lý của Chánh
Ðạo. Nhất là ở Mỹ Châu, nhiều loại Hhuyền
Tthuật
Xxám
(Mmagic
Ggrise)
được giảng dạy hầu như công khai. Nhưng Ccon
Ðường Ðạo thật sự chỉ có một. Ðó chính là Thánh Ðạo, Ccon
Đđường
Đđạo
Lluyện
Đđức
Hhạnh.
Bốn cửa được đề cập ở đây là bốn
cuộc Ðiểm Ðạo đưa con người đến quả vị La Hán; chúng tôi đã mô tả đầy đủ các
cuộc Ðiểm Ðạo ấy trong Bộ “Chơn Sư và Thánh Ðạo.” Theo một
lối phân biệt khác lại có bảy giai đoạn mà chúng ta sẽ thấy trong Pphần
thứ Bba
của quyển nầy.
Khi người chí nguyện thực hiện được
những bước cao siêu nhất mà Yy có
thể đạt đến, Yy
sẽ nhớ lại những kiếp quá khứ của mình, dù đồng thời tâm thức của Yy
cũng mở rộng vô cùng, bao trùm vô số sinh linh; sau cùng Yy
hiểu rằng năng lực và tình thương của Yy
không thuộc về Yy,
mà đó chính là năng lực và tình thương thiêng liêng. Chỉ có sự chia rẽ biến
mất, và nếu con người nhìn lại phía sau, Yy sẽ
thấy rằng mình đã sống trong một trạng thái cô đơn ảo tưởng. Y cũng thấy rằng
những kiếp sống đã qua của Yy
thật tầm thường vô vị. Thường những khúc quanh quan trọng của đời Yy
không phải là những biến cố rõ ràng và trọng đại nhất mà Yy
đã kinh nghiệm như Yy
tưởng, mà chính trường hợp của đời sống thường nhật mới là nguyên nhân đầu tiên
của những sự tiến bộ quan trọng.
Nhưng Con Ðường thứ hai là sự từ bỏ
; cũng gọi là Con Ðường đau khổ.
Con Ðường bí mật dẫn vị La Hán đến
sự khổ trí không thể tả; khổ vì thấy người sống như chết và xót thương mà vẫn
bất lực đối với những kẻ phải chịu khốn khổ về Nnghiệp
Qquả,
mà Bbậc
Hhiền
Ggiả
không dám xoa dịu.
Vì kinh sách có dạy cho
biết : “Hãy dạy người đừng tạo Nnhân,
còn Qquả
giống như
ngọn thủy triều đang lớn, phải để nó đi xuôi chiều của nó.”.
“Sự khổ trí không thể kể ” mà vị La
Hán cảm thấy trên Đđường
Hhuyền
Bbí,
có nghĩa là sự đau khổ do thiện cảm sinh ra. Vị La Hán thấy được tất cả sự đau
khổ và tất cả sự phiền não của Nnhân
Lloại,
nhưng đồng thời người vẫn hưởng được tất cả sự an vui. Người cảm thấy ở mình
một tấm lòng trắc ẩn sâu xa đối với những kẻ “sống như đã chết,”,
nghĩa là đối với đa số Nnhân
Lloại
không biết rằng có một mục đích xứng đáng để họ cố gắng. Thêm vào sự khổ trí
não đó, lại có lòng thương xót, nhưng bất lực trước cảnh khổ đau do Nghiệp Bbáo
mang lại, đó là hậu quả của việc làm vô lý mà Ngài không thể - chúng ta phải
nói rõ hơn là không dám - xoa dịu. Chúng ta có thể giải thích cho nhiều người
hiểu được Luật Nhân Quả để giúp họ chịu đựng kinh nghiệm đau khổ của họ một
cách tốt đẹp nhất - tương đối được đỡ khổ - chứ chúng ta không thể hủy diệt
hậu quả của những hành động sai lầm của họ.
Dù đối với Thiên Chúa Ggiáo
Ccông
Ttruyền,
sự “tha lỗi” cũng không có nghĩa là hủy bỏ những hậu quả của tội lỗi. Trong Ggiáo
Hhội
Anh Qquốc,
khi một vị Linh Mmục
được lệnh và được quyền tha tội đúng theo lời dạy của Ðấng Christ được chép
trong Kinh Thiên Chúa Ggiáo
cũng thế : “Khi con tha tội kẻ nào, thì tội
lỗi đó sẽ được tha và khi con buộc tội cho kẻ nào, thì tội lỗi ấy sẽ được giữ
lại”;;
đây là lời giải thích cho vị Linh Mmục
: Nnếu
kẻ phạm tội tự gây ra sự sai lầm thì những gì vị Linh Mmục
có quyền làm là thiết lập một sự liên hệ bình thường giữa con người và Ðức
Thượng Ðế. Nói cách khác, khi người phạm tội đã tạo một chướng ngại vật trên
bước đường tiến hóa của mình, thì vị Linh Mmục
có thể đặt người ấy lại đúng theo trào lưu tiến hóa của Yy.
Thật ra đó là một ý tưởng tốt đẹp, nhưng có lẽ không đẹp bằng nhận định sau đây
theo quan điểm Thông Thiên Học : Kkhông
thể tách rời khỏi thiêng liêng; con người dù sa xuống Đđịa
Nngục
cũng vẫn là thành phần của Ðức Thượng Ðế.
Người ta thường thấy nhiều thí sinh
tốt và đúng đắn không dám giúp đỡ một người nào đó, vì sợ can thiệp vào Nnghiệp
Qquả
của Yy.
Không ai có thể thay đổi Luật Nhân Quả, -
cũng như người ta không thể thay đổi Luật Hấp Dẫn. Nếu bạn cầm quyển sách trong
tay, nó chứa thế năng của sự hấp dẫn; lúc nào bạn không dùng năng lực giữ nó
lại, nó sẽ rơi xuống ngay. Luật Nhân Quả cũng tác động giống như thế, Nghiệp
Quả chưa trả cũng giống như thế năng. Nó có thể bị treo hàng ngàn năm hoặc hàng
trăm kiếp, nhưng đúng ngày giờ nó sẽ biểu lộ.
Người ta thường cho rằng Luật Nhân
Quả rất khắc nghiệt; đó là một quan niệm rất sai lầm; Luật Nhân Quả cũng vô tư
như tất cả Lluật
Tthiên
Nnhiên
nào khác. Trên Ccõi Ttrần,
các Lluật
Tthiên
Nnhiên
tác động không kể đến ý hướtưởng
tốt hay xấu. Một đứa trẻ rơi xuống hố, nó bị đau nhiều hay ít tùy theo chiều
sâu của sự rơi và đất dưới đáy hố mềm hay cứng; nó không tùy thuộc một lý do
đạo đức nào của đứa trẻ, như nó muốn giúp đỡ một người bạn đang lâm nguy, hái
một đóa hoa tặng mẹ nó, hoặc nó lao vào khoảng không vì hoảng hốt. Cũng thế,
nếu một người nắm một thanh sắt nóng, có thể là Yy
sợ ngã vào kẻ khác, hoặc trái lại, Yy
cầm lấy để đánh một người, trong trường hợp này hoặc trường hợ»£p
kia, vết phỏng ở tay Yy
đều giống hệt nhau. Ðó là cách tác động của Luật Nhân Quả tại Ccõi
Ttrần.
Nhưng trên Ccõi
Hạ Thiên, thì sự cố ý rất đáng kể, vì tư tưởng quy định tánh tình của ta trong
tương lai.
Vậy đừng bao giờ tránh né việc giúp
đỡ kẻ khác khi chúng ta có được phương tiện. Dù hết sức cố gắng, nếu bạn vẫn
thất bại, bạn có thể tự nhủ rằng : “Nghiệp
Qquả
của Yy
không cho phép giúp được,”,
hoặc : “Nghiệp Qquả
của tôi không cho tôi được hân hạnh giúp Yy
nữa,”,
mà chỉ đến thế thôi. Làm việc cho kẻ khác, đó mới là vấn đề chính. Sự làm việc
sẽ được mở rộng và tăng dần lên tạo nên sự bành
trướng và tích lũy;, nếu bạn hướng dẫn một người vào Hội
Thông Thiên Học, Yy có
thể hướng dẫn thêm 10 mười người
khác, và mỗi người trong nhóm đó lại dẫn dắt thêm 10 mười
người nữa.
“Hậu quả của Nghiệp Báo mà các Bbậc
Hhiền
Ggiả
cũng không dám xoa dịu,”,
còn có thể hiểu theo một ý nghĩa nữa. Dù cho một Vvị
Ðại Chơn Tiên diệt trừ được một tai họa hiển nhiên nào đó như sự nghèo khổ,
chẳng hạn - hành động của Ngài thực sự không phải là việc làm tốt đẹp, mà chỉ
là hành động chống lại Lluật
của Thượng Ðế. Tôi không muốn nói tai họa đó là do ý muốn của Ðấng Tối Cao. Cho
rằng Cơ Trời gồm có sự đau khổ cần thiết do Ðức Thượng Ðế tạo ra là một quan
niệm phạm thượng. Con người thường hay vi phạm những điều cấm kỵ một cách rõ
rệt; sự đau khổ không có nguồn gốc nào khác hơn. Có lẽ mỗi người đều gặp sự đau
khổ. Chúng tôi tin rằng không ai luôn luôn đều có thể chọn điều tốt đẹp mà
chẳng hề sai lầm; nhưng bao giờ sự đau khổ cũng đem cho chúng
ta về đường ngay nẻo thẳng khi chúng ta không chịu học hỏi theo con đường nào
khác hơn. Như thế sau cùng chắc chắn Lluật
Tthiên
Nnhiên
sẽ đưa cho chúng ta đến sự toàn phúc vô cùng
của Ccõi
Niết Bàn.
Con vừa đạt đến mục đích của con
đường công khai cũng là lúc con cởi bỏ thân Bồ Tát để đi vào trạng thái vinh
quang của Dharmakaya, tức là quên mất Tthế Ggian
và Nnhân
Lloại.
Con đường bí mật cũng dắt đến sự
toàn phúc của Ccõi
Ðại Niết Bàn, nhưng sau khi đã trải qua vô số Kalpas ;
sau bao lần được Ccảnh
Niết Bàn và không nhận lãnh vì lòng từ bi vô lượng đối với chúng sinh vô minh.
Nhưng người ta nói rằng
: “Kẻ nhận lãnh sau cùng sẽ có quả vị cao nhất.”.
Samyak Sambuddha, Ðức Thầy trọn lành đã bỏ Chơn Ngã để cứu vớt chúng sinh trên Tthế
Ggian
bằng cách dừng lại ở ngưỡng cửa Niết Bàn, trạng thái tinh khiết.
Chúng ta đã đề cập đến ba thứ Ðạo Pphục
và thấy rằng không có cảm thức ích kỷ nào có thể tồn tại nơi người đã chọn một
trong ba thứ Ðạo Pphục
đó. Các Ðấng Nirmanakayas thích trầm mặc, cung cấp Tthần
Llực
Tthiêng
Lliêng
cho Kkho
Ddự
Ttrữ
để các Vvị
Chơn Tiên ban phúc cho thế giới chúng ta. Có chừng 5 năm
hoặc 60 sáu mươi Cchức
Vvị
mà các Ðấng nầy có thể lựa chọn. Vị Nirmanakaya giữ các hạt nguyên tử trường
tồn của các Ngài và tôi nghĩ rằng nếu các Ngài xét thấy tốt đẹp, Ngài sẽ cung
cấp cho một trong các nơi cần dùng ấy, nếu ở đó thiếu. Nhiệm vụ của Ðức Bồ Tát
cũng bị khiếm khuyết mỗi khi có Ggiống
Ddân
chánh ra đời, nhưng nhiều Vvị
đã được chỉ định để làm việc trong một tương lai xa xôi hơn và đã được chuẩn bị
ngay từ bây
giờ. Trong lúc Ðức Phật của chúng ta giáng lâm, nhiều vị đã đắc quả
La Hán còn ở lại như một Ðấng Nirmanakaya theo giáo lý của Ngài.
Tất cả những chức vụ ấy đều phải
được thi hành và những vị đã từ bỏ Ccõi
Niết Bàn chỉ đảm nhiệm một cách tự do công việc mà chúng ta xem như không được
trong sạch. Ðối với một Vvị
Chơn Tiên, nếu chúng ta có thể nói được,
thiếu mất một sự an vui cũng không đáng kể bao nhiêu so với công việc của Ngài
trên Ccõi
Niết Bàn sẽ có hiệu quả cả triệu lần nhiều hơn công việc được hoàn thành dưới Tthế
Ggian;
tuy nhiên phải có người thi hành nhiệm vụ thấp kém đó dưới Tthế
Ggian.
Trong Tthiên
Ccơ
công việc nhỏ mọn nhất cũng cần thiết như công việc vĩ đại nhất; chẳng hạn vô
dầu mỡ đầu máy xe lửa cũng cần thiết như cho nó chạy vậy.
Thân Bồ Tát được đề cập ở đây là Tthân
của tất cả những vị tình nguyện ở lại Ccõi Ttrần
để giúp đỡ Nnhân
Lloại
chứ không phải Tthân
của những Vvị
Chơn Tiên rất hiếm mà sau nầy sẽ trở thành những vị Phật.
Dừng lại trước ngưỡng cửa Niết Bàn
có nghĩa là không lên Ccõi
Niết Bàn bằng cách rời bỏ hoàn toàn các Ccõi
thấp, như nhiều Vvị
đã từng làm và như Ðức Phật cũng có thể làm, nếu Ngài muốn. Vị nào từ chối
không lên Ccõi
Niết Bàn như thế, vẫn ý thức đầy đủ các Ccõi
cao siêu; đồng thời vẫn ý thức được tại Ccõi Ttrần
và do đó có thể hành động hữu hiệu trên bất cứ Ccõi
nào. Người ta nói rằng ở trình độ của Ngài, Ðức Phật không còn bị lệ thuộc Thái
Dương Hệ nầy nữa. Vậy Ngài có thể đến tất cả Hhành
Ttinh
thuộc hệ thống ấy, cũng như vài người trong chúng ta có thể đến một Hhành
Ttinh
khác. Tuy nhiên đối với chính Ngài cũng có một giới hạn, vì Ngài cũng chưa đi
vào tâm thức của Ðức Thượng Ðế được. Tôi không biết Mmặt
Ttrời
có phải là thành phần thuộc phạm vi tâm thức của Ngài không. Một hôm Ðức Subba
Raow có nói rằng Mmặt
Ttrời
là một trung tâm của Ssự Ssống
rất mãnh liệt mà chính một vị Ðế Quân có thể vào đó vẫn khó khăn.
Dường như chúng ta có thể đi đến Ccõi
Bồ Ðề ở mọi nơi trên Dãy Đđịa Ccầu
của chúng ta. Lúc ấy tâm thức Niết Bàn sẽ bao trùm toàn thể Thái Dương Hệ. Sự
Ðiểm Ðạo lần thứ Tư giống như một tia chớp của sự sống tại Ccõi
Niết Bàn, chứ không phải tâm thức Niết Bàn trọn vẹn; như thế chỉ là đi vào vùng
thấp của Ccõi
Niết Bàn và còn phải vươn lên, từ Ccảnh
nầy đến Ccảnh
khác cho đến lúc đạt được tâm thức của Ccõi
ấy hoàn toàn.
Về Ðức Phật, người ta có nói rằng
Ngài đã đạt đến Ccõi
Ðại Niết Bàn. Ðiều nầy khiến chúng ta nghĩ rằng Ccõi
Niết Bàn có thể gồm nhiều trình độ, tức là các Ccảnh
của Ccõi
Atmic (Niết Bàn), kế đó là hai Ccõi
thuộc Ddãy
Hhành
Ttinh
chúng ta còn cao hơn nữa, đó là Ccõi
Ðại Niết Bàn và Tối Ðại Niết Bàn .
Bây giờ con đã biết rõ về hai con
đường. Hỡi con người đầy lòng thành khẩn, đến một ngày kia, khi con đã đi tới
cuối đường và qua khỏi bảy cửa, con sẽ phải chọn lấy một. Tâm trí của con đã
sáng suốt. Con không còn bị bối rối trong những ảo tưởng, vì con đã biết tất
cả. Chân Llý
đã lộ nguyên hình tự phát hiện và
nghiêm nghị nhìn ngay mặt con. Nó nói :
“Vì thương chính mình mà hưởng
nhậân Qquả
an nghỉ và giải thoát cũng có ngọt dịu đôi chút;
nhưng Qquả
của bổn phận lâu dài và cay đắng, của sự từ bỏ vì thương kẻ khác, vì thương anh
em đồng loại đau khổ, còn ngọt ngào hơn nữa.”.
Vị Bồ Tát đã chiến thắng, đã nắm
phần thưởng trong tay, nhưng vì lòng từ bi vô lượng nên nói :
“Vì lòng thương người, tôi xin
nhường phần thưởng to tát nầy lại,”,
Ngài đã làm đại nguyện từ bỏ.
Ngài là một Ðấng Ccứu
Tthế.
. . . . . . .
Con hãy xem !
Mục đích của chân phúc và cCon
đường đau khổ xa diệịu
vợi ở chốn thăm thẳm kia. Con có thể chọn một trong hai con đường, hỡi kẻ chí
nguyện chịu buồn thảm trong những chu kỳ sắp tới !
Aum Vvajrapani
Hhum.
Sự từ bỏ lớn lao là không làm công
việc cao cả sau khi đã biết nó, để làm một công việc thấp kém, nhưng cũng rất cần
thiết. Sự từ bỏ những ham muốn của Pphàm
Nngã
là sự từ bỏ thuộc loại vô cùng thấp kém hơn nữa.
Ở đây chúng ta không nên nghĩ
đến ý niệm của người Thiên Chúa Ggiáo
bình thường cho rằng có một Ðấng Cứu Rỗi đến lôi kéo chúng ta ra khỏi những sự
khốn khổ triền miên. Dĩ nhiên đây là sự biến thể ghê gớm của giáo lý tối cổ và
Thiên Chúa Ggiáo
chính thực, chẳng hạn như Origen tin vào sự tôn sùng con người qua Ðấng Christ.
Người nào có liên lạc thật sự với Chơn Sư và đã đồng hóa được với
Ngài thì được an toàn và chắc chắn rằng sẽ đi đến cuối Ðường Ðạo trong chu kỳ
hiện tại. Chúng tôi đã giải thích ý nghĩa đầu tiên của danh từ “cứu rỗi” trong
quyển “Chơn
Sư và Thánh Ðạo.”[49] [48].
Khi chúng ta nói về các Ðấng
Nirmanakaya như bức trường thành bảo vệ, chúng ta không có ý cho rằng các Ngài
che chở chúng ta chống lại những thế lực hắc ám tìm cơ hội để tấn công Nnhân
Lloại.
Như chúng tôi đã nói, các Ngài tiếp dưỡng Kkho Tthần
Llực
để Quần Tiên Hội dùng ban phát cho Nnhân
Lloại
mỗi khi cần, đó là sự giúp đỡ và hướng dẫn về mặt Ttinh
Tthần
và cứu vớt Nnhân
Lloại
khỏi biết bao tội lỗi mà họ đã phạm phải và những đau khổ do tội lỗi gây ra.
Phần nầy không chấm dứt bằng câu “Om
Mmani
Ppadme
Hhum”
như Pphần
thứ Nnhứt,
nhưng lại kết thúc bằng một công thức khác : “Aum
Vvajrapani
Hhum.”.
Vajra có nghĩa là Ssấm Ssét
hay Kkim
Ccương.
Thành ngữ nầy khiến chúng ta nghĩ đến Thần Jove, vũ trang bằng Ssấm
Ssét
và Thần Thor, vị Thần của người Thụy-Na-Ðan. Sấm Ssét
ấy là Ddorje,
Ccây
Ppháp
Llịnh
mà chúng ta đã mô tả trong Bộ “Chơn Sư và Thánh Ðạo.”[50] [49]
PHẦN THỨ BA
PHẦN THỨ
BA
Bạch Sư Phụ, con đã nhất quyết, con
khao khát sự Mminh
Ttriết.
Bây giờ Sư Phụ đã xé tan bức màn che trước con đường bí mật và dạy Ppháp
Đđại
Tthừa
Yana. Con nguyện sẵn sàng vâng theo lời Sư Phụ chỉ dạy.
C. W.
L.-.
Theo một cước chú thì chữ Acharya có nghĩa là bậc Huấn Sư về tinh thần hay vị
Ðạo Sư. Theo sự giải thích ở đó: Nnhững
vị Phật Ttử
Bắc Tông thường chọn các bậc Huấn Sư nầy trong các nhân vật thánh thiện tinh
thông về Kkhoa
Gotrabhu-Jjnana.
Vị Gotrabhu là người đã sẵn sàng nhận một cuộc Ðiểm Ðạo nào đó và người tiêu
biểu cho tất cả những đức tánh cần thiết, chỉ còn chờ được phép trình diện.
Gotrabhu-Jjnana
là sự hiểu biết về các đức tánh ấy. Các vị Chơn Sư - Chơn Tiên thu nhận Đđệ
Ttử
hay Đđệ
Ttử
tập sự - là những người có kiến thức ấy.
Chúng ta đã đề cập đến danh từ Yana trong Chương I.
Tốt lắm, Thinh Vvăn,
con hãy chuẩn bị đi, bởi vì con phải khởi hành một mình.
Thầy chỉ có thể chỉ đường cho con thôi. Ðối với mỗi người Con Ðường chỉ có một,
nhưng những phương tiện đạt đến mục đích thay đổi tùy theo mỗi kẻ hành hương.
Chữ Sshravaka
có ngữ căn Shru nghĩa là nghe. Theo chú thích “Nngười
Nnghe”
là người theo học những Ggiáo
Llý
của Ttôn
Ggiáo.
Qua phần học lý thuyết đến sự thực hành phép tu khổ hạnh, người ấy trở thành
một vị Shramana, do chữ Shrama là cố gắng. Hai danh từ nầy gần đồng nghĩa với
chữ Aakoustikhoi
và Aaskitai
của người Hy Lạp.
Tất cả những người đã dấn thân trên
Ðường Ðạo đều phải hoạch đắc những đức tánh giống nhau, nhưng về cách áp dụng
khác nhau rất nhiều. Có bảy hạng người hay bảy Ccung
và tùy theo Ccung
của mỗi người, người chí nguyện được hấp dẫn đến vị Huấn Sư thuộc Ccung
của Yy.
Sự huấn luyện phải thích hợp với nhu cầu cá nhân trong mỗi hạng người. Do đó
các Đđệ
Ttử
của một vị Chơn Sư thường được hướng dẫn theo một đường lối khác nhau. Chính vì
thế mà một vị Chơn Sư có thể gởi một Đđệ Ttử
vào chốn cô tịch và một người khác vào cuộc đấu tranh dưới Tthế
Ggian.
Ngài cũng có thể giúp một người đạt được nhiều kiến thức, trong khi để cho một
người khác sống trong sự thiếu sự hiểu
biết trong một
thời gian lâu dài. Trong Bộ “Chơn Sư và Thánh Ðạo” chúng tôi
đã khai triển đầy đủ về sự huấn luyện và các mẫu người khác nhau ấy.
Con chọn con đường nào, hỡi con
người đại hùng đại lực ? Bốn bậc Thiền Đđịnh
của Nhãn Ppháp,
hay là con
đường Ba Lla
Mmật
Đđa
có sáu hạnh, sáu cửa đức hạnh ấy dắt đến Bồ Ðề và đến Prajna, bậc thứ bảy của Mminh
Ttriết
.?
Con đường gay go của bốn bậc Thiền
Ðịnh đi lên một cách quanh co, khúc khuỷu. Kẻ leo lên đến đỉnh cao tột quả thật
là siêu việt.
Muốn đến đỉnh của Ba Lla
Mmật
Đđa
con phải trải qua một con đường còn gay go hơn nữa. Con phải mở một con đường
xuyên qua bảy cửa, bảy pháo đài được trấn thủ bởi những sức mạnh hung bạo và đa
mưu, là hiện thân của dục vọng.
Phần nầy ít đề cập đến Ttứ
Tthiền
mà nói đến các Ba Lla Mmật
Đđa
nhiều hơn. Sự Ttham
Tthiền
hay Ddhyana
luôn luôn có ba bậc, như chúng ta đã thấy khi nghiên cứu Pphần
thứ Nnhứt
và ba bậc này gọi chung lại là Ssannyama.
Ba bậc đó là sự Đđịnh
Ttrí,
Ttham
Tthiền
và Nnhập
Đđịnh,
nhưng trước ba giai đoạn nầy phải tập giai đoạn sơ khởi là Ppratyahara
thành bốn giai đoạn tất cả. Chúng ta cũng đã nghiên cứu các Ba Lla
Mmật
Đđa
ở Pphần
thứ Hhai.
Ở đây con đường dắt đến sự hoạch đắc các đức hạnh đó được cho biết xuyên qua
bảy cửa và tại mỗi cửa thí sinh phải chiến đấu và tiêu diệt một lỗi hay một tội
lớn lao.
Chúng ta có thể cảm thấy hơi bối rối
khi gặp phải sự tương phản giữa một đàng là sự tham thiền và đàng khác là sự
phát triển các đức hạnh ấy, vì cả hai đều cần thiết. Một người Nếu không
thể tham thiền được mà không có các đức tánh đó, và một người
không thì cũng có thể phát triển hoàn toàn các đức tánh
đó mà không cần tham thiền. Có thể trong thời kỳ ấy Ðức Aryasanga muốn cho thấy
sự tương phản giữa hai con đường sống ẩn dật của người lẫn tránh sự phiền toái
và những thú vui của Tthế Ggian
để tham thiền trong chốn cô tịch và con đường của những người theo đuổi đời
sống tinh thần, mà vẫn vừa làm mọi việc trong cuộc sống hằng ngày và vừa thực
hành những lý tưởng cao siêu. Trong trường hợp nầy, Ðức Aryasanga nói về con
đường thứ nhứt như một con đường cao cả, nhưng con đường thứ hai lại còn cao
thượng khó khăn hơn. Kinh sách Ấn Ðộ vẫn thường nhắc đến những người đã đạt đến
chỗ trọn lành, dù họ vẫn dấn thân trong công việc thường ngày. Các vị Ðại Sư
của Mahabharata vẫn tích cực trong phòng hội đồng cũng như trên bãi chiến
trường; trong số các Ngài người ta còn thấy một kẻ buôn bán, trong con người
của Tuladhara. Kinh Bhagavad Gita dạy con đường của bổn phận và hành động, và
Ðức Krishna nói với Đđệ Ttử
của Ngài là Arjuna rằng Janaka và những người khác đã đạt được sự trọn lành nhờ
hành động và chính con cũng phải theo gương họ bằng cách hành động vô cầu đối
với kết quả mà chỉ vì tình thương Nnhân
Lloại
.[51][50].
Khi quan sát sự tương phản trong các
Ba Lla
Mmật
Đđa,
người ta thấy bản chất của những sức mạnh “tàn bạo và quỷ quyệt” mà chúng ta
phải chiến thắng. Con người chỉ quay vào với chính mình, quên rằng Yy
là một đơn vị trong toàn thể và theo lời của Epictetus thì nếu không có Nnhân
Lloại
chung quanh chúng ta, chúng ta không phải là một con người nữa. Lòng từ thiện
và sự mở mang đạo đức nói chung, hay đạo đức theo ý nghĩa trọn vẹn của danh từ
nầy sẽ chấm dứt thái độ tự kỷ trung tâm ấy và mở rộng tâm hồn ra để nó nghĩ đến
kẻ khác hơn chính mình, trở thành ân nhân của những sinh linh đau khổ, trở
thành người bạn hữu ích của đồng loại mình và sau cùng trở nên Đđệ
Ttử
xứng đáng của Sư Phụ mình.
Người thực hành hạnh nhẫn nhục
thường bị sự bực tức quấy rầy; người ta cảm thấy sự xúc phạm, bất mãn; con
người sẽ tự phiền trách mình, nếu Yy
không có một
thái độ cởi mở. Dĩ nhiên người ta quên rằng dù có một Lluật
công bằng luôn luôn bảo đảm sự thanh toán nợ nần giữa người nầy với người kia,
thì vẫn có sự bất côđồng
bề ngoài. Ban đầu lắm khi con người muốn thấy kết quả việc làm của mình, vì Yy
nghĩ đến chính mình hơn là nghĩ đến công việc, Yy
muốn khoe khoang hay ít ra là sự khích lệ mình vì đã hoàn thành được công việc
ấy. Kế đó, Yy
buồn rầu vì thấy sự cố gắng trong chiều hướng tốt đẹp của Yy
vẫn vô ích; tất cả điều nầy còn biểu lộ một sự bất mãn, một sự thiếu kiên nhẫn
nào đó. Sau cùng, Yy
mới thấy rằng, chỉ có sự cố gắng mới là điều quan trọng chớ không phải kết quả. Giải trừ được
những cảm thức ấy, Y mới đạt được hạnh nhẫn nhục.
Hơn nữa, bản tính con người
vốn lười biếng. Họ thích tắm nắng ngoài trời và chỉ hoạt động khi
nào bụng kêu đói hoặc vì hiếu danh muốn lột da đầu thiên hạ để mang thêm vào
dây lưng, họ mới chịu hành động trong khi đồng bọn hung
bạo của họ còn say ngủ. Làm việc không biết mệt và kiên cường không phải là một bản
tính tự nhiên. Các bạn hãy xem Bà Hội Trưởng của chúng ta: Bà tận dụng mọi
khoảnh khắc trong ngày, làm việc không ngừng và không để mất thời giờ. Bạn tưởng rằng
xưa kia Bà cũng có bản tính luôn luôn làm việc như thế sao? Sở dĩ Bà hoạt
động vì
Bà đã thấy được mục đích tốt đẹp, Bà muốn trở thành một kẻ phụng sự Nhân Loại.
Sự tham thiền cũng thế, nó không
phải là một bản tính tự nhiên. Nó đòi hỏi phải chịu nhiều khó nhọc, một sự cố gắng
lớn lao về tinh thần và sự chế phục thể xác. Muốn đạt được sự Minh Triết còn phải
nghiền ngẫm và thực hành, đôi khi phải có can đảm để đương đầu với
những kinh nghiệm khổ nhọc và ngay cả sự nguy hiểm nữa.
Hãy can đảm lên, hỡi Đệ Tử; con hãy nhớ lấy Luật vàng.
Một khi con đã vượt qua cửa Srotapatti, “làm kẻ Nhập Lưu”; một khi con đã
bước vào lòng sông chảy đến Niết Bàn trong kiếp nầy hay trong một kiếp tương lai, con
chỉ sẽ còn Luân Hồi trong 7 kiếp nữa thôi, hỡi con người của
ý chí cứng rắn như kim cương.
Từ cuộc Điểm Đạo lần
thứ Nhứt đến lần thứ Tư, trung bình phải trải qua 7 kiếp, nhưng nếu có một ý
chí khá dũng mãnh, con người có thể đạt đến mục đích nhanh chóng hơn. Sự kiện ấy cũng giống như
việc chuẩn bị cho một Sinh Viên đi thi. Người
ta giả
định một thời gian nào đó đủ cho một Thí Sinh trung bình học hỏi để dự thi, nhưng một Sinh Viên khác có thể bắt buộc phải
chuẩn bị mau hay lâu hơn. Thường trải qua 2 kiếp cũng đủ cho một người được
Điểm Đạo lần thứ Nhứt đạt quả vị La Hán. Có vài người đạt ngay đến mục đích ấy chỉ trong một kiếp.
Nguyên tắc nầy cũng được áp dụng trong việc đạt đến quả vị
Chơn Tiên, vì bậc La Hán ở khoảng giữa cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhứt và lần thứ Năm.
Con hãy xem dưới
mắt con có những gì, hỡi kẻ có chí nguyện đạt đến sự Minh Triết Thiêng Liêng?
Màn hắc ám bao trùm vật chất, con đang vẫy vùng trong những làn xếp của
bức màn đó. Bạch Sư Phụ, bức màn ấy trở nên sâu thẳm dưới mắt
con, bàn tay chuyển động của Sư Phụ phá tan hắc ám. Một cái bóng lung
linh, bò đi giống những lượn khúc của con rắn vươn dài ra. Nó lớn lên, phồng to và biến mất trong bóng tối.
Đó
là cái bóng của chính con ở bên ngoài Đường Đạo rọi lên tội lỗi đêm
tối của con.”
Ở đây người ta thích dùng chữ “lầm lạc” hay
“yếu đuối” hơn là chữ “tội ác.” Trên Đường Đạo
không có gì trở nên nguy hiểm bằng lỗi lầm. Muốn tiến bộ chúng ta
cần phải tiêu diệt chúng hoàn toàn và ngay tức khắc. Khi nhận ra một
lỗi lầm ở nơi bạn, bạn phải điều chỉnh lại một cách thật đúng đắn, không lúc nào
ngừng nghỉ cho đến khi nó tiêu mất. Ít có người chịu làm như thế. Đôi khi một người rất
thành thật yêu cầu chúng ta chỉ cho Y những gì đã ngăn trở bước tiến của Y. Nếu làm việc ấy, chúng ta sẽ
hy sinh tình bạn. Thường Y nổi giận và đáp lại rằng, nếu Y có nhiều tật xấu,
thì điều mà chúng ta chỉ cho Y biết vẫn không đúng; vậy theo ý Y sự phán đoán lẫn
trực giác của chúng ta đều vô giá trị. Cũng có vài trường hợp ngoại lệ, nhưng trường
hợp trên vẫn là trường hợp chung.
Trên
Đường Đạo
con người phải tuân theo những nguyên tắc của chính mình chớ không theo những
nguyên tắc
và ước lệ của môi trường xã hội mà Y sống trong đó. Do đó những khó khăn và
nguy hiểm mới gia tăng đối với Y. Nhưng Y - phải tập cố gắng hết sức mình - chúng ta có thể chắc chắn rằng Y không nên làm
khác hơn; ngược lại, Y sẽ đánh mất kết quả của những sự cố gắng mà Y đã vun trồng
trong nhiều kiếp và như thế quả là một sự dại dột. Kẻ khác không có phương thế nào để
phán đoán Y. Y đã nắm trong tay chiếc chìa khoá mà những kẻ khác không có; do
đó mọi sự vật đối với Y đều có vẻ mới mẻ. Y cần những tư
tưởng nhân từ chớ không phải những lời chỉ trích của kẻ khác trước
những điểm mà họ không thể hiểu. Vì Y rất nhạy cảm, nên những tư tưởng nhân từ có thể
giúp Y tiến bộ rất nhanh chóng và
góp phần vào sự nâng cao Nhân Loại.
“Bạch Sư Phụ, con
nhìn thấy Con Đường, chân nó ở trong bùn, đỉnh của nó mất hút trong ánh sáng
vinh quang của Cõi Niết Bàn. Và bây giờ con thấy mấy cánh cửa, càng đi tới
càng thu hẹp lại trên con đường gồ ghề đầy chông gai của Jnana (Trí Huệ).”
Hỡi
Đệ Tử, con
thấy rất đúng. Mấy cánh cửa đó dẫn kẻ chí nguyện vượt qua sóng gió đến bờ bên kia.
“Bờ bên kia” là một thành ngữ thường
được nhắc đi nhắc lại. Có hai loại tượng trưng được dùng trong lời nói ẩn dụ nầy.
Trong
loại thứ nhứt, kiếp sống được so sánh với một Đại Dương mà con người
phải vượt
qua, nhờ Đại Thừa hay Tiểu Thừa để thoát vòng sanh tử. Trong loại thứ
hai, ý nghĩa của nó có tính cách chuyên biệt hơn. Trong cuộc Điểm
Đạo lần thứ Nhứt con người đã chấm dứt sự tiến hoá tổng quát, Y đã hoàn thành trọn
vẹn những gì thuộc về sự tiến hoá đó, và khởi đầu cuộc tiến hoá đặc
biệt. Trong
bộ “Chơn Sư và Thánh Đạo,” chúng tôi đã đề
cập đến những điều có thể tiết lộ trong Lễ Điểm Đạo đó, kể
cả mấy lời sau đây: “Con đã Nhập Lưu. Không bao lâu nữa con có thể đến bờ bên kia.”[52] Bờ ấy là quả vị Chơn Tiên.
Muốn
mở mỗi cửa phải có một chìa khoá vàng; và cái chìa khoá ấy là:
1.
Dana, chìa khoá Bố Thí và Từ Bi Vô Tận.
Bố Thí ở đây không có nghĩa là sự ban cho của cải, cũng không phải là
một thái độ từ thiện nói chung, dù thái độ ấy vẫn cao đẹp hơn phần hình thức, nhưng Bố Thí ở đây có nghĩa là
con người tuyệt đối sẵn sàng hy sinh chính bản thân Y và tất cả những gì Y có cho việc cứu
trợ. Trên Thế Gian nầy rất hiếm có người sẵn sàng sử dụng tất cả
thì giờ, năng lực, tiền bạc, tình cảm và tư tưởng của mình để
phụng sự một cách đắc lực hơn. Vả lại những người đạt đến trình độ nầy phải tiến xa hơn nữa,
vì họ còn có thể phạm những lỗi lầm là muốn hưởng lợi khi công việc đã hoàn
thành, thay vì tự đồng hoá với nó. Có nhiều người muốn
đảm
nhiệm một công việc lớn lao, nhưng rất ít người chịu quên mình để
làm một công việc nhỏ mọn, không ai biết đến và cũng không xứng đáng
cho kẻ khác cám ơn. Vị Đệ Tử Chơn Sư phải tìm kiếm để thấy công việc kẻ
khác không chịu gánh vác và chính Y có thể làm công việc đó. Y không nên khinh
rẻ một
công việc hèn mọn và nói: “Tôi dư sức làm việc đó.” Trong công việc của Đức Thầy
không có một chi tiết nào kém quan trọng hơn chi tiết khác, mặc dù có vài phần
việc
khó hơn công việc khác, do đó cần phải được chuẩn bị đặc biệt, hoặc phải có những
năng lực hay thiên tư riêng.
Muốn
hy sinh một cách trọn vẹn, bạn phải hy sinh luôn cả tình cảm của bạn.
Bạn có hay hờn giận chăng? Khi bạn phung phí một số năng lực trong sự bất bình
thì bạn
không thể sử dụng nó để làm việc hữu ích. Bạn nên luôn luôn làm việc với tất cả
khả năng của bạn và chớ nên nghĩ rằng: “Như thế chẳng có gì
là kém.”
Chúng ta cũng phải
có “Tình Thương Vô Tận.” Như Tennyson đã nói mấy
lời
sau đây về người chết:
Cũng như Thượng
Đế, họ đi theo vận hành của thời gian
Mắt họ mở to rộng hơn chúng ta,
Để chứng tỏ cho chúng ta
thấy sự quảng đại của họ.
Đức Thượng Đế biết
tất cả và Ngài không bao giờ nản lòng. Giữa chúng ta nếu có sự ngã lòng, chúng ta
hãy tha thứ cho nhau ngay, Đức Thượng Đế
không hành động như chúng ta. Người ta thường nói rất chí lý: Hiểu biết tất cả là tha thứ tất
cả.
2. Shila, chìa
khoá điều
hoà trong lời nói và việc làm, chìa khoá tạo sự thăng bằng giữa Nhân
và Quả, và không còn gây Nghiệp nữa.
Chữ Shila thường chỉ dịch là “hạnh kiểm,“ nhưng ở đây Tác Giả nhấn mạnh đến
ý niệm điều
hoà. Người thực hành hạnh Shila không bao giờ xao lảng bổn phận của
mình, dù Nghiệp Quả đặt Y ở vị trí nào, Y vẫn làm việc hết sức
chuyên cần. Đó cũng là đức tính giúp Y trả Quả mau chóng hơn để Y được rảnh rang tăng
trưởng luôn luôn và gặp nhiều cơ hội tốt thường hơn làm điều
thiện.
3.
Kshanti, đức Nhẫn Nhục Dịu Dàng, không gì làm cho phật lòng được.
Đến giai đoạn đó, thí sinh phải phát triển đức tính ấy đến một mức độ đáng
kể, nhưng sau nầy Y phải đạt đến chỗ hoàn toàn. Sự an nhiên,
không có gì có thể lay chuyển chứng tỏ con người đã đạt được một
trình độ tiến hoá cao siêu. Bậc La Hán được gọi là Bậc Toàn Thiện - Bậc Đáng Kính - tuy nhiên Người còn 5 chướng ngại nữa phải dứt bỏ trước khi đạt
đến quả vị Chơn Tiên và trong số đó có chướng ngại thứ tư là không để cho bị lay động
bởi bất cứ sự việc gì.
4.
Vairagya, thản nhiên đối với khoái lạc và đau khổ, nhận
chân ảo ảnh, thấy rõ Chân Lý.
Trong phần bình giảng quyển “Dưới Chân Thầy” tất cả Phần Thứ Ba
đều bàn về hạnh Vairagya, đức tính nầy được dịch là “Từ Bỏ.” Như chúng ta
đã biết, chữ nầy cũng thường được dịch là thản nhiên hay không đam mê.
Người
nào có đức tính nầy tỏ ra sâu sắc mẫn tiệp trong công việc của Y, nhưng không bao
giờ chịu
để cho sự nể trọng riêng tư ngăn trở mình. Y không còn tật hay
giận hờn nhưng vẫn đầy thiện cảm. Thản nhiên trước những sự vật thường làm cho nhiều
người thiếu tự chủ, Y cũng không bị sự đam mê làm cho xao động; sự phán đoán
của Y thật bình tĩnh,
an nhiên. Tính “thản nhiên” nầy không có nghĩa là con người
làm việc thiếu nhiệt thành, mà trái lại, sự nhiệt thành của
Y vẫn nguyên vẹn,
dù công việc có khổ nhọc, khó khăn cũng như thích thú. Khi đức tính nầy
phát triển mạnh, con người nhận thấy rằng đa số sự vui thú và khổ cực của chúng
ta đều là ảo ảnh vì chúng ta không hiểu sự vật đúng với thực chất của chúng. Chừng
đó chúng ta mới nhận ra Chân Lý trong câu châm ngôn của Phái Khắc Kỷ thuở xưa: “Chúng ta bị xáo trộn nhiều
vì cách phán đoán sự vật của mình chớ không phải do chính bản chất của sự vật.”
5.
Virya,
hùng lực dũng mãnh mở đường thẳng đến Chân Lý siêu việt, ngoài vòng bùn nhơ của sự gian trá
Thế Gian.
Ai tiến bước trên Đường Đạo cũng đều có những đức tính đặc
biệt của mình. Vậy Y sẽ nhận thấy vài cánh cửa nầy hơi dễ vượt qua hơn và các
cánh cửa khác, trái lại rất khó qua. Chẳng hạn, đối với Đệ Tử Đông Phương, đức nhẫn nhục dễ
hoạch đắc hơn; đối với Đệ Tử Tây Phương, đức tính dễ dàng
chính là năng lực tinh tấn. Khi khảo sát bản liệt kê nầy lần đầu tiên, vài người
trong chúng ta đã tự hỏi sao những đức tính khó đạt nhất lại được
đặt ra cho chúng ta trong bước đầu tiên. Sự thật, ý nghĩ ấy
không đúng. Đức Phật của chúng ta là một người Ấn Độ, Ngài kể ra những đức
tính mà người Ấn Độ cần phải đạt được và có lẽ Ngài đã kể những đức tính phải có
trước tiên để thực hiện những sự tiến bộ dễ nhất.
Sau
khi đã phát triển hùng lực hay Virya đến một mức độ cao, chắc chắn là kế đó
khó hoạch đắc tính dịu dàng và
nhẫn nại, hay Kshanti. Một người có hùng lực ấy khi nghe nói đến con Đường
Đạo,
muốn đi từ đầu đến cuối ngay - nhưng nếu Y thiếu nhẫn nại, Y sẽ rải ra dọc
theo con đường đi chung quanh Y một sự xáo trộn và tạo nên một số
Nghiệp Quả xấu làm chậm trễ sự tiến hoá của Y khá nhiều. Trái
lại, người kiên nhẫn nhưng thiếu hùng lực đành phải chịu trì trệ - và
sự tiến bộ của Y quả rất chậm chạp.
Ở Đông Phương một
khuynh hướng giống như thế còn rõ nét. Ở Tích Lan, tôi còn nhớ có
nghe nói là hồi xưa người ta có thể đạt đến Cõi Niết Bàn thật sự, nhưng trong thời đại
gian ác của chúng ta - người ta gọi là Thời Đại Hắc Ám hay Thời Mạt Pháp -
những
sự thành công như thế không thể thực hiện được nữa. Có thể sau nầy, trong một
Thời Đại Hoàng Kim xa xăm, sự kiện ấy sẽ có thể thực hiện lại được. Nhưng những
bậc Đại Huấn Sư vẫn còn bên chúng ta và như Thánh Kinh
Thiên Chúa Giáo đã cho biết, nếu Cánh Cửa đã khép chặt và Con Đường bị thu hẹp lại,
ngày nay cũng như bất cứ lúc nào, chúng ta vẫn có thể tìm được Cánh Cửa ấy và đi
theo Con Đường.
Trong
vấn đề nầy không ai có thể nói là mình đang ở trình độ nào. Đối với nhiều người
Thông Thiên Học, nhớ lại được một hoài niệm nào đó, chứng tỏ rằng họ
đã hoạch đắc những khái niệm về Đường Đạo trong những kiếp trước. Nếu trong thời kỳ
xa xăm trước kia, một người đã thực hiện những cố gắng lớn lao để đạt đến
Con Đường Đạo, thì vài cố gắng được tăng thêm trong kiếp nầy sẽ đưa Y trở lại Con Đường
ấy ngay. Nhưng nếu Y chỉ bắt đầu những cố gắng hiện giờ, thì đó
chính là một kỳ công gần như siêu phàm đối với Y để được bước đi
trên Đường
Đạo trong kiếp nầy.
Những
sự cố gắng của nhiều Nhà Thông Thiên Học đã tạo nên một sự căng thẳng lớn
lao; đó
là lý do tại sao trong Hội Thông Thiên Học có nhiều sự nhiễu loạn, nhiều sự
phẫn nộ,
nhiều sự gây gổ. Tôi nghe nói ở những Hội khác ít xảy ra những sự khốn
khổ buồn phiền như thế. Đó là lẽ dĩ nhiên. Nếu bạn là Nhân Viên
của một
Hội Địa Lý, Địa Chất hay một Hội khác tương tự như thế, bạn chỉ gia nhập
vào một nhóm người muốn hoạch đắc những kiến thức tương đối tầm thường về một vấn đề đặc biệt. Nhưng
trong Hội Thông Thiên Học một số đông người đã đặt Thể Vía và Thể Trí của mình
vào một trạng thái căng thẳng và sự căng thẳng ấy gây phản ứng trên Thể Xác của
họ. Do đó, từ lâu,
chúng ta gặp phải những người nhạy cảm nhưng chưa hoàn
toàn mà sự tiến bộ lại mau chóng hơn bản chất trong những tình trạng
bình thường không định trước, nên chắc rằng Hội Thông Thiên Học còn tiếp tục xảy ra nhiều
sự rối loạn. Tuy nhiên đến một ngày nào đó, lúc ấy mỗi Hội Viên sẽ đạt được “đức nhẫn nhục
dịu dàng, mà không có gì có thể làm phật lòng được.”
6. Dhyana, mà cánh cửa
vàng một khi đã mở, sẽ dẫn vị Narjol đến quốc độ vĩnh cửu của Sat và sự đại
định thường xuyên.
Trong lần xuất bản thứ nhứt của tác phẩm nầy, chúng
ta thấy có chữ “Naljor” viết sai. Lỗi ấy được sửa chữa
trong những lần xuất bản kế tiếp. Sở dĩ có sự sai lầm trên vì Bà Blavatsky đã đọc chữ ấy
trên Cõi Trung Giới. Khi đọc một quyển sách cách nầy, người ta thấy cùng một lúc
các chữ
hiện ra ở phía trước trang giấy và các chữ ấy cũng lộn ngược ở trang sau. Dĩ nhiên người ta phải
tránh không chú ý đến chữ ở mặt trái, mà chỉ đọc những trang đang mở
ra trước mắt thôi; lúc ấy các trang nầy vẫn hoàn toàn rõ
ràng và trang sau vượt ngoài thị trường của chúng ta. Tuy nhiên, trong
khi đọc
theo cách đó, rất dễ lầm lẫn vì thấy vật bị đảo ngược. Nhất là lúc đọc
các số. Như số 7, chúng ta nhận ra ngay khi nó bị đảo ngược, nhưng
số 18 có thể đọc là 81 dễ dàng.
Đối
với Bà Blavatsky, Bà vẫn thấy sai số bị đảo ngược theo lối ấy. Bà thường đọc bằng Thể Vía
những sách hiếm có, các sách ấy chỉ có một hay hai bản thôi. Vài Huynh Đệ
trong chúng tôi đã đến kiểm lại một dẫn chứng của Bà tại Bảo Tàng Viện Anh Quốc, mà theo Bà ở
trang 931, thì các bạn ấy lại thấy ở trang 139 chẳng hạn. Thường
chúng tôi thấy những chỗ dẫn chứng của Bà đều đúng, những chỗ sai không đáng kể và rất
ít. Tôi còn nhớ một hôm Bà quên dùng chữ phủ định “không,” nên đã hỏng mất hết ý nghĩa! Vì
Bà Blavatsky không biết chữ Bắc Phạn, Nam Phạn và chữ Tây Tạng nên khi sử dụng các thứ chữ
đó, Bà phải vận dụng trí nhớ hoàn toàn. Có điều đáng ngạc nhiên là chẳng phải Bà không
lầm lạc, nhưng sự sai lầm của Bà rất ít.
Chữ Narjol,
nguyên nhân của sự lạc đề nhỏ nầy là chữ Tây Tạng, nó có nghĩa
là Chơn Tiên hay Thánh Nhân, hay hơn nữa là Yogi; nó phát sinh từ một chữ có nghĩa là “bình an.” Vậy chữ
Narjol có
nghĩa là Người đi tìm sự an tĩnh nội tâm.
Chính Dhyana hay
thiền định
đã mở những cánh cửa bước vào Đại Ngã cao siêu. Cũng nhờ sự sáng suốt chúng ta mới hoạch đắc được
đa số những kiến thức Thông Thiên Học và những kiến thức mà chúng ta đã trích lấy trong
những bản văn Linh Thánh cổ xưa. Một số những kiến thức mênh
mông khác đang chờ những bậc đầy đủ trí huệ tham khảo chẳng hạn trong
Khoa Hoá Học Huyền Bí chúng ta đã nghiên cứu các Nguyên Tố và vài hợp chất, nhưng một công
trình vĩ đại hơn phải thực hiện cần có một người có thiên tư và Thần Nhãn và khả năng phóng đại,
không kể đến sự kiên nhẫn để quan sát và đếm nhiều lần các Hạt Nguyên Tử.
Những
đoạn trong Kinh Dzyan phải được viết bởi một Tác Giả có thể đọc được
tư tưởng các vị Thiên Thần thuộc cấp hướng đạo và do đó đã biết rõ được
ý định
của họ. Những
gì mà chúng ta nói về giới hạn và các Cuộc Tuần Hoàn có thể không đúng, nhưng sự hiểu biết
về Cõi Trung Giới và Cõi Hạ Thiên là kết quả của hàng ngàn sự quan
sát, có lẽ không sai với sự thật. Những sự sai lầm còn có thể phát sinh từ một thế hệ
còn trẻ nữa - điều nầy đã xảy ra trong tất cả Khoa Học - vì một sự kiện bất
thường được xem như bình thường, hoặc hơn nữa là sự ngộ nhận vai trò của một loạt hiện
tượng nào đó trong lý thuyết tổng quát. Tôi xin nêu lên một thí dụ những ý niệm xưa
của chúng ta có liên hệ đến khoảng thời gian giữa hai kiếp sống,
cũng như sự tái sinh đều đều của Linh Hồn trong các Giống Dân Phụ kế tiếp,
mà chúng ta đã thấy ở cuộc tiến hoá bình thường; cho đến ngày
chúng ta khám phá được có một loạt Linh Hồn hầu như ở mãi
trong một Giống Dân Phụ và tái sinh thường hơn các Linh Hồn khác gấp hai lần. Có thể có hơn nửa
tá loại Linh Hồn chúng ta đã biết đối với tất cả, điều mà chúng ta
có thể nói là chúng ta chưa hề gặp các Linh Hồn ấy.
Những bản văn Linh
Thánh xưa đặc biệt rất quý, vì chúng thường được các Vị có Thần Nhãn sáng suốt trước tác. Các bản
văn ấy dường như thường khô khan vì lối trình bày ý tưởng, đôi khi cũng do lối
văn cổ xưa. Mỗi thời đại đều có cách diễn đạt tư tưởng riêng. Phương pháp của
thời đại chúng ta không có tính cách tưởng tượng nào cả. Chúng ta diễn tả sự vật cũng giản
dị như sự khả hữu của nó. Ở Ai Cập thuở xưa, muốn nêu lên một thí dụ khác biệt,
tất cả đều phải diễn tả dưới một hình thức thật thi vị. Những tác phẩm duy
trì cũng bao gồm những ý tưởng theo lối tượng trưng phức tạp. Muốn nghiên cứu quyển sách
đề cập đến những người đã qua đời hay Pitis Sophia, dù chúng ta
có chấp nhận sự chính xác của bản dịch, thì trường hợp ấy vẫn
chưa hẳn là bao giờ cũng đúng, vậy phải tìm lại thái độ tinh thần đặc biệt
của thời đại mà các tác phẩm ấy đã thành hình, nhưng đó là sự cố gắng rất khó khăn. Muốn
thực hiện điều nầy phải có nhiều thì giờ, và người ta vẫn hiểu rằng
thường thời đại của chúng ta ít có thì giờ nhàn rỗi, nếu phải làm
việc ấy đồng thời với công việc mưu sinh.
Thuở xưa, đời sống
an tĩnh hơn nhiều, người ta có thói quen làm cho mọi việc trở nên tốt đẹp và dễ dàng đối với mọi
người và người ta gác lại ngày mai tất cả những gì có thể không cần làm
ngay trong ngày hôm ấy. Khi quan sát đa số những kiếp sống trong quá khứ, tôi
nhận
thấy khắp nơi đều giống nhau. Lúc ấy không có xe lửa nên báo hay tạp chí không
xuất bản
đúng ngày giờ. Tất cả những gì gần như sự xuất bản định kỳ của chúng
ta là một loạt văn thư được công bố theo khoảng cách thật dài và hoàn toàn bất
thường đến
đỗi giữa hai lần đôi khi cách nhau cả mấy tháng.
Dù
sao, những người ở thời đại xa xưa đó vẫn đạt được quả vị Chơn
Tiên, nhưng sự hoạch đắc đức tánh Virya, hùng lực dũng mãnh để đi trên Đường Đạo đối với họ
dường như rất khó. Người nào muốn có năng lực ấy, thường cũng phải hết
sức cố gắng. Nếu trong công việc làm ăn họ không tỏ ra đúng đắn và cần mẫn, thì sự cạnh
tranh quyết liệt của kẻ khác sẽ làm cho họ mất phần ăn. Còn đối với
Sinh Viên Huyền Bí Học, Y tự kềm chế chính mình, Y luôn luôn làm việc
một
cách ung dung tự tại. Không vội vã, cũng không xôn xao, vì Y muốn cho công việc
của Y được hoàn thành
một cách tốt đẹp.
Ở đây sự tai hại chính
có lẽ vì làm việc quá ít, hoặc chểnh mảng đối với công việc của mình. Tuy nhiên, vài người bị hỏng việc vì họ đã
cáng đáng quá nhiều sự việc. Bà Besant đã nêu một gương sáng tuyệt đẹp về phương pháp làm
việc có tính cách chiết trung. Lúc nào cũng bận rộn, Bà làm việc theo đúng thời
dụng biểu của Bà để có lợi tối đa, nhưng chỉ đảm trách những
công việc nào Bà có thể làm được. Bà thường nói: “Công việc nầy không phải là việc của
tôi, vì tôi không có thì giờ dành cho nó.”
Có
một chân lý ẩn tàng trong câu ngạn ngữ cho rằng người bận rộn nhất bao giờ cũng là người nhàn rỗi nhất, lý do là Y không để mất thời giờ.
Nhưng có nhiều người gánh vác quá nhiều công việc đến nỗi họ
không thể hoàn thành được, vì đôi khi họ nghĩ rằng những người chung quanh họ
không thể thực hiện công việc ấy tốt đẹp
như họ. Mấy năm trước, việc nầy đã xảy ra ở một vị Tổng Thư Ký của một Xứ Bộ Thông
Thiên Học. Anh là một tay làm việc rất xuất sắc và có nhiều
tài năng, và có lẽ anh nghĩ rằng mình có thể hoàn thành mọi việc tốt đẹp hơn người khác. Nhưng Anh đảm trách quá nhiều việc, nên việc làm của Anh dở dang vì
không đủ
thời giờ nên bị tích tụ lại cho đến khi người kế vị của Anh đến nhận đã gặp một
sự rắc rối hầu như không thể gỡ nổi.
Về
phương diện nầy tốt hơn là nên giữ một thái độ chiết trung, chúng ta nên phân định
công việc của mình một cách kỹ lưỡng và dành thì giờ để dạy dỗ và huấn
luyện thêm những người cộng tác với chúng ta. Giải thích cho kẻ khác biết cách
thức làm một công việc thường vất vả hơn chính mình thực hiện công việc ấy, nhưng chúng ta hy vọng
rằng sau khi giải thích cho Y một hay hai lần hoặc 10 lần nếu cần, Y sẽ có thể làm lấy
một mình hàng trăm lần, do đó sau cùng sẽ có lợi hơn.
7. Prajna, Bát Nhã
là chìa khoá làm cho con người trở nên bậc Thần Tiên và đào tạo người thành Bậc Bồ Tát, con của
Dhyanis.
Đó
là các chìa khoá vàng để mở cửa.
Chúng ta hiện đang đề cập đến đức tính cuối cùng của
các đức tính bắt buộc. Prajna, có nghĩa là Minh Triết - theo ý nghĩa là một quan năng của
tâm thức hơn là trí thông minh, đó là Minh Triết vì nó đạt đến
sự sống ở bên kia sắc tướng. Jnana, cũng được dịch là Minh Triết, nhưng nó không phải là
một quan năng, chỉ có Prajna mới thật là một quan năng thôi.
Người ta nói rằng đức
tính nầy tạo nên Vị Bồ Tát. Danh từ Bồ Tát ở đây được dùng theo một nghĩa rộng.
Theo
nghĩa chuyên biệt, Vị Bồ Tát là Đấng được chuẩn bị để trở nên một Đức Phật,
Ngài phải
làm lễ phát nguyện với một Vị Phật tại thế là phải đảm trách chức vụ như thế
trong một
kiếp sống tương lai. Nhưng tất cả chúng ta, nếu đi theo con đường riêng của
mình, cũng sẽ đạt đến quả vị Bồ Tát. Có 7 Con Đường vĩ đại thuộc
Hành Tinh và trên mỗi Đường ấy (hay mỗi Cung) có các Vị Chơn Sư làm việc
và thu nhận Đệ Tử. Mỗi người đi theo Cung riêng của mình, sau cùng sẽ thấy mình được
hấp dẫn đến với Vị Chơn Sư chưởng quản Cung đó. Tuy nhiên, vì lòng ngưỡng mộ đặc biệt
một Vị Chơn Sư, người ta cũng có thể chuyển từ một Cung nầy sang Cung khác, nhưng việc ấy đòi hỏi
những sự học hỏi và cố gắng vượt bực, vì chỉ ở Cung của mình
con người mới thích ứng một cách dễ dàng hơn cả với sự huấn luyện thuộc về
Huyền Môn.
Ai
muốn
trở thành một Vị Phật, thì nhiều ngàn năm trước phải tạo nhân duyên với một Vị Phật đang
tại thế qua một cuộc Lễ Phát Nguyện. Rồi từ đó người ta cho rằng ảnh hưởng của
Vị Phật tại thế sẽ bao phủ lấy Ngài và đến khi Ngài thành Phật rồi, thì sức mạnh của Đức
Phật tinh thần sẽ bay lượn chung quanh để bảo trợ Ngài trên Thế Gian. Người
ta nói rằng Đức Phật Thích Ca của chúng ta đã làm Lễ Phát Nguyện với Đức Phật
Dipankara, và người ta cho rằng Đức Phật nầy vẫn còn theo trợ
giúp Đức Phật Thích Ca trong nhiều năm, khi Ngài đi thuyết
pháp. Về vấn đề cao siêu nầy người ta chỉ có thể lặp lại những gì đã được tiết
lộ, nhưng chắc chắn đây cũng là một ý niệm thật đẹp và cũng tự nhiên, vì chúng
ta đã
biết rằng ở một trình độ thấp hơn nhiều, thì Đức Thầy bao giờ cũng che chở vị Đệ Tử trong
hào quang của Ngài để cho vị ấy trở nên thành phần Tâm Thức của Ngài.
Trước khi đến gần cửa
cuối cùng, hỡi kẻ ra tay thêu dệt tự do, dọc theo con đường
khổ nhọc, con phải chiếm đoạt những Paramitas hoàn thiện đó, những
đức tính siêu việt gồm có 6 và 10 hạnh.
Hỡi Đệ Tử, vì trước
khi để cho con được gặp Sư Phụ con, mặt đối mặt, ánh sáng đối ánh sáng, người
ta đã nói gì với con?
Trước
khi có thể đến gần cửa thứ nhứt con phải tập tách lìa thân con ra khỏi trí
con, phá tan bóng tối và sống trong trường tồn. Muốn được như thế
con phải sống và thở trong tất cả, cũng như tất cả những gì con nhận thấy đều thở trong
con; con phải cảm thấy con ở nơi vạn vật và vạn vật ở trong Đại Ngã.
C.W.L.- “Gặp Sư Phụ, Ánh Sáng đối Ánh Sáng” là lối diễn
tả một Chân Lý quan trọng. Khi Đệ Tử tiếp
xúc với tâm thức của Chơn Sư và lần thứ nhứt khi Chơn Sư bao phủ Y, thì ánh sáng của
Ngài sẽ làm cho hào quang của Đệ Tử sáng rực lên như chúng tôi đã giải thích
trong Bộ “Chơn Sư và Thánh Đạo.”[53]
Coi đoạn văn nầy phần
nhiều
lặp lại những ý kiến đã được trình bày trước tiên trong Phần Thứ Nhứt. Tách rời xác thân ra
khỏi Thể Trí theo nguyên văn có nghĩa là phải tập tạo thành Mayavi Rupa, và nói theo nghĩa
bóng là phải phân biệt sự thật và hiểu rằng con người không phải là xác thân.
Thể Vía là hình bóng của xác thân; chúng ta không nên huỷ diệt nó, nhưng người Đệ Tử phải chấm dứt
ảnh hưởng của nó đối với mình. Chúng ta phải biết dùng nó song làm thế nào cho nó
không chi phối chúng ta. Sống trong vĩnh cửu không phải là từ bỏ Thế
Gian, mà bao giờ cũng xét đoán sự vật theo quan điểm của đời sống vĩnh cửu. Chúng ta đã
khảo sát tất cả điều nầy trong Bộ “Giảng Lý Dưới Chân Thầy.”
Người
nào tập sống trong vĩnh cửu và biết rằng Linh Hồn phải chịu Luân Hồi, thì không bao
lâu sẽ biết những sự tiếp xúc bên ngoài không có gì quan trọng cả. Khi đọc
quyển “Những kiếp sống của Alcyone” chúng ta nhận thấy rằng những
người được đề cập đến trong đó, đa số đều đau khổ vô cùng. Vì vài
người trong số đó chính là chúng tôi hôm nay, nên chúng tôi hiểu rằng sự đau khổ chỉ là tạm
thời và bây giờ nó không còn làm cho chúng tôi khốn khổ nữa. Khi hồi tưởng lại
thời gian qua đôi khi chúng tôi tự hỏi rằng làm thế nào các Linh
Hồn nầy có thể chịu đựng được những sự đau khổ như thế. Tuy
nhiên họ đã qua cuộc thử thách một cách an toàn. Không phải lúc nào chúng ta cũng cảm
thấy mình đang trải qua những sự đau khổ ấy một cách dễ dàng, vì chúng ta đang ở trong thời
kỳ thử thách đó, chớ không phải nhìn nó từ một vị trí bên ngoài. Chúng ta không thể
hy vọng xét đoán được một cách rõ ràng và đầy đủ một kinh nghiệm hay biến cố nào mà hôm
nay chúng ta đang chìm đắm trong đó. Chẳng hạn trên bãi chiến trường một chiến
sĩ biết rất ít về những gì đang xảy ra và thường Y không biết được
sự quan trọng của một cuộc di chuyển đặc biệt hay một cuộc hành quân mà Y đang tham dự. Bề
ngoài, vai trò của Y có vẻ không đáng kể, nhưng nó có thể là một yếu tố quan trọng
trong sự quyết định cuộc chiến đấu. Y cũng có thể được chú ý đặc biệt và nổi bật,
nhưng thật ra không quan trọng nhiều trong sự thành công.
Tuy
nhiên, tôi không tin rằng người ta có thể đánh giá sự quan trọng của Hội Thông
Thiên Học một cách quá đáng. Đó là một trong những Phong Trào quan trọng nhất mà
thế giới không biết đến. Dưới con mắt của người đời, của Vua Chúa, và của những
Nhà Chính Trị, nó không có gì khác biệt với những Hiệp Hội khác. Nó chỉ là một nhóm nhỏ.
Tuy
nhiên Hội Thông Thiên Học đã được sáng lập bởi hai Vị Chơn Sư, mà một ngày kia
hai Ngài sẽ cầm đầu Giống Dân Chánh Thứ Sáu, và sẽ lựa chọn trong
hàng ngũ
chúng ta những người có thể tham dự vào sự phát triển đầu
tiên của Giống Dân đó. Trái lại rất
dễ mà thêu dệt vai trò của chúng ta trong Công Nghiệp của Hội. Các Vị Huynh Trưởng của chúng
ta, Bà Blavatsky và Đại Tá Olcott đã qua đời, nhưng Hội vẫn sống,
nó tiếp tục truyền bá lý tưởng của nó đi khắp nơi, vì các Đấng Chơn Sư vẫn tồn
tại.
Các
vị Đệ
Tử Chơn Sư phải tập đồng hoá tâm thức của họ với tâm thức của những người chung
quanh; muốn được như thế, Y phải thực hành vài phương pháp luyện tập. Thường những
kết quả đạt được rất bất ngờ, khi người Đệ Tử thoạt tiên tìm cách đi vào tâm thức của các
Loài Vật. Ý nghĩ của chúng ta rất thiển cận và người quan
sát những sinh hoạt của chúng theo kinh nghiệm của mình thường mắc phải một
sự khác biệt từ căn bản. Mặt khác, Thú Vật còn nghĩ xa hơn những tư tưởng ít oi của chúng
mà người ta không ngờ. Do đó, khi thì chúng ta cho rằng chúng có những khả năng
thật cao, khi thì gán cho chúng những khả năng thật thấp so với khả năng thật
sự của chúng.
Thường
vị Đệ Tử phải nhập xác một người khác để có thể hiểu những tình cảm
của Y và cũng để tự biết
mình qua các Thể khác. Một kinh nghiệm như thế rất khổ nhọc mà
cách đây nhiều năm Mr. Damodar K. Mavalankar đã kể lại cho tôi
nghe. Một ngày kia Anh bị lôi ra khỏi xác và nhập
vào xác một Anh Thuỷ Thủ say rượu, trên một bến tàu xa lạ.
Đối với Anh là một người
Bà La Môn, Anh cảm thấy một sự ghê tởm di truyền như bất cứ một người
Bà La Môn nào khác, khi tiếp xúc với một vật bất tịnh, mà
người Tây Phương chỉ cảm nhận một cách yếu ớt, trong khi nó là một sự va chạm khủng
khiếp ở Anh. Có thể nói rằng
Anh bị chìm trong đống
bùn dơ,
chớ không thể gọi là gì khác hơn. Tuy nhiên, trong trạng thái ghê tởm mà Anh đã rơi vào thình lình đó,
Anh vẫn có thể duy
trì được cảm thức của mình và thầm nhủ: “Không, tôi không phải là cái đó, tôi
là Damodar.”
Rồi Anh giữ được sự
bình tĩnh và nghĩ rằng: “Cái đó cũng là Nhân Loại; tôi vẫn có thiện cảm với
cái đó.” Vậy Anh đã tự giải thoát một cách khá tốt đẹp.
Khi
gặp phải một thử thách như thế, nhiều người bị rối loạn vô cùng, họ cho điều đó
như một
cơn ác mộng khủng khiếp và giãy giụa một cách cuồng
loạn, nên họ rất đau khổ. Đối với nhiều người, cảm thức đầu tiên
có lẽ là sự ghê tởm. Đối với Vị Chơn Tiên, lại khác hẳn. Ngài không bao giờ bỏ qua một
sự sai lầm nào. Ngài hiểu nó rõ rệt hơn chúng ta, nhưng Ngài không
bao giờ cảm thấy ghê tởm. Ngài phân biệt được tất cả những biến tượng của đời
sống Nhân Loại. Ngài nhớ lại
đã có trải qua hoàn cảnh nào đó giống như thế - trong một thời
gian vô cùng xa xăm, có lẽ trên một Tinh Cầu khác. Vả lại, tâm thức Bồ Đề của
Ngài cũng
đã hoàn toàn phát triển, nó có thể bao trùm ngay cả những người tội lỗi. Vậy Ngài không hề
ghê tởm những người phạm tội. Ngài chỉ có một ý muốn duy nhất là giúp đỡ tất cả
mọi người
càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên đối với hạng người ấy không thể ban cho họ nhiều,
mà còn phải thận trọng nữa. Chỉ có thiện cảm thôi chưa đủ. Chúng
ta còn phải sáng suốt để tìm ra những lời lẽ có thể cảm hoá kẻ khốn khổ; sau cùng
chúng ta cũng phải có đức nhẫn nại và tính thiệp thế để chỉ cho kẻ ấy
thấy một đời sống tốt đẹp khá cao hơn cuộc sống của Y hiện thời.
Nhờ
kinh nghiệm đồng hoá đó, người ta học được đức tính gọi là sự thiện cảm sáng suốt; tôi không tin
rằng còn một phương pháp nào khác có thể mang đến kết quả hoàn toàn như thế. Chừng đó người ta
mới hiểu rằng tại sao một người làm các việc nào đó và chúng được
thực hiện ở Y như thế nào. Những người chưa có kinh nghiệm ấy phải cố gắng đặt mình
vào quan điểm của kẻ khác, càng nhiều càng tốt.
Con chớ để cho
giác quan của con nô đùa trong Trí con.
Con
không được
tách riêng hữu thể của con với Bản Thể và Vạn Vật, mà con rót biển cả vào trong
giọt nước, giọt nước vào trong biển cả.
Như
thế con sẽ hoàn toàn hoà hợp với mọi Sinh Vật; con sẽ thương yêu mọi người như các huynh đệ
đồng
môn của con, như các đạo sinh đồng chung một Sư Phụ, con đồng
chung một mẹ hiền.
Câu châm ngôn đầu tiên nhắc chúng ta nhớ lại Phần Đầu của
Đoạn Thứ Nhứt, trong đó có câu: “Cái Trí là tay đại phá hoại sự
thật. Người Đệ Tử phải tảo trừ tay phá hoại đó.” Cái Trí là tay phá hoại vì chúng ta đã
dung túng cho những thành kiến tăng trưởng trong đó. Mỗi người đều biết
rằng chúng ta chẳng bao giờ thấy kẻ khác mà chỉ thấy ý tưởng do chúng ta tạo ra
về Y. Tuy nhiên, “tiêu diệt kẻ phá
hoại” không có nghĩa là chúng ta không cần đến trí khôn và chỉ nghe theo bản năng
của chúng ta là quan năng thấp kém. Chúng ta phải vươn lên đến Cõi Trực Giác là nơi
cao hơn Cõi Trí và để cho Trực Giác quyết định phải hướng tư tưởng
chúng ta đến những đối tượng nào.
Nếu
con người thấy hiệu quả của những thành kiến trên Thể Trí,
thì Y sẽ ngạc nhiên vô
cùng. Vật chất tạo nên Thể Trí bị lôi cuốn trong dòng lưu chảy
liên tục và có tiết điệu. Nhiều khu phân của Cái Trí đều liên hệ với các loại
tư tưởng khác nhau. Một thành kiến trong một loại tư tưởng nào đó sẽ
gây ra một sự ứ đọng trong một khu phân tương ứng; tại điểm
đó dòng lưu chảy bị chậm lại. Hiệu quả sanh ra trên Thể Trí do sự ứ đọng đó giống
như một mụt cóc to. Ở bất cứ điểm nào trên Thể Trí chúng ta cũng có thể
nhìn ra ngoài, nhưng mụt cóc đó gây chướng ngại đối với cái nhìn như
thế của chúng ta. Chúng ta hãy thử nhìn xuyên qua chỗ ấy của Thể
Trí, chúng ta sẽ thấy các vật thể đều bị biến dạng như chúng tôi đã giải thích.
Do
đó, Cái Trí chính là tay phá hoại sự thật. Ngay cả những người xuất chúng cũng có vài thành kiến. Chẳng hạn một người tự hào rằng
mình thoát khỏi thành kiến về điểm nào đó - như thành kiến về
giai cấp hay màu da - vẫn mắc phải những thành kiến về những điểm khác, có thể là về lối
xử thế. Một người có nước da ngâm ngâm, trắng, xậm như đồng
hay vàng, không quan trọng đối với Y, nhưng nếu hắn ăn bằng dao hoặc nói bằng giọng quê mùa
ở Tỉnh,
thì Y lại không thích.
Trong
những thành kiến đó, tệ hơn cả là những thành kiến mà chúng ta không biết chúng có từ hồi
nào, có thể là chúng đã xuất hiện từ thuở thơ ấu của chúng ta. Muốn tiêu diệt
chúng tận gốc rễ thật khó khăn vô cùng. Cách duy nhất để
thành công hoàn toàn chính là tình thương. Nếu cử chỉ của một người không được
nhã nhặn, thì một ngày kia Y cũng sẽ đạt đến chỗ hoàn thiện - nếu không phải là
trong kiếp nầy thì ít ra cũng trong kiếp tới - vì người đó cũng như tất cả chúng ta, đều là thành phần
của Đức Thượng Đế. Tình thương của Đức Thượng Đế cũng như sự bình an của Ngài vượt lên trên tất
cả mọi sự hiểu biết, chẳng những tình thương đó tha thứ cho tất cả, mà sự
cần thiết được tha thứ cũng không còn hiện hữu trong đó nữa.
Chúng
ta phải tập thương yêu mọi người cũng như tất cả là những bạn đồng môn của chúng ta vậy.
Sự kết hợp giữa các Đệ Tử của một vị Chơn Sư là mối liên hệ bền
chặt nhất ở Thế Gian nầy, ngoại trừ sự hợp nhất của các nhân vật trong Quần Tiên
Hội. Sau
rốt vị Đệ Tử tập mở rộng khả năng thương yêu của Y đến vô cùng mà Y đã đạt được
trong trạng
thái Nhứt Thể và mỗi khi gặp bất cứ người nào mà Y sẽ gặp thì ban rải tình thương
đó cho họ.
Có
nhiều Sư Phụ, Hồn Mẹ là một trong số đó, đó là Alaya, là Hồn Vũ Trụ.
Con
hãy sống trong Đức Sư Phụ đó cũng như những tia sáng của Người sống nơi con. Con
hãy sống trong đồng loại con cũng như họ đang sống trong Người vậy.
Sau đây cũng là ý niệm hợp nhất, bằng những ngôn từ
còn đẹp hơn nữa.
Trước
khi bước đến ngưỡng cửa của Con Đường Đạo, trước khi vượt qua Cửa Thứ Nhứt, con
phải hỗn hợp cả hai vào một, hy sinh Phàm Ngã cho Chơn Ngã, và do
đó phá
bỏ con đường ở giữa đôi bên – Antahkarana.
Ý nghĩa tổng quát trong đoạn văn nầy
không có gì khó hiểu, nhưng chữ Antahkarana rất ít khi được sử
dụng, nhất là theo nghĩa do Bà Blavatsky chú thích. Bà nói rằng: “Antahkarana là Hạ Trí, con đường
giao thông giữa Phàm Nhơn và Thượng Trí hay Chơn Nhơn. Khi con
người chết nó bị huỷ diệt như là con đường hay phương tiện giao thông, và phần
còn lại của nó vẫn tồn tại trong hình tướng của trạng thái Kamarupa
- như cái vỏ.”
Khoảng
cuối Quyển Thứ Ba của Bộ “Giáo Lý
Bí Truyền,” đôi khi Bà gọi là Kama-Manas, cái mà bây giờ chúng ta gọi là Hạ Trí, nghĩa là Cái
Trí mà bản tính được cấu tạo do ảnh hưởng của Kama trong lúc Phàm Nhơn sống tại Cõi
Trần.
Do
đó người ta có thể coi Antahkarana như Hạ Trí thuần khiết, không ô nhiễm, là tia sáng của Thượng Trí.
Trong khi còn sống, con người có thể liên lạc với Thượng Trí nhờ con kinh đó, và như
chúng ta đã thấy trong Bộ “Chơn Sư và Thánh Đạo,” vị Đệ Tử bao giờ cũng chú tâm đến
việc mở rộng con kinh hoàn toàn để cho sự hoạt động của Thượng Trí có thể biểu lộ
không ngừng trong Phàm Nhơn. Nhưng sau khi qua đời, người trình độ trung bình
không còn được tự do đi vào những sinh hoạt mới và thu thập những kinh
nghiệm mới. Bây giờ, Y sống trong những hậu quả của những nguyên nhân do Y tạo ra dưới Cõi Trần và
trong trạng
thái của Thiên Đàng trước hết Y phải lợi dụng những cảm xúc tại Cõi Trung Giới, kế
đó là những cảm xúc cao hơn trên Cõi Hạ Thiên. Trong một ý nghĩa nào đó, con
kinh Antahkarana không còn giữ vai trò của một vận hà đi xuống
nữa. Nhưng điều ấy không đúng đối với người đã làm chủ tình cảm và tư tưởng của mình, cũng như
đối với vị
Đệ Tử có thể tự do di chuyển trên Cõi Trung Giới và Cõi Hạ Thiên.
Trong
khi con người còn sống, Chơn Nhơn trong Nhân Thể đã dành một
phần năng lực của nó để tìm những kinh nghiệm hữu ích cho Phàm
Nhơn. Trong trường hợp mà Phàm Nhơn tỏ ra thấp kém trước nhiệm vụ của nó, thì năng lực
đó, những tia sáng đó của Thượng Trí sẽ bị mất mát. Chúng chỉ còn là
trung tâm của lớp vỏ ngoài hay sự sinh sản của một kẻ “giữ thềm Đạo,” nếu
chúng khá mạnh để có thể tồn tại đến kiếp sau.
Theo thuật ngữ
Thông Thiên Học thông thường, con người sau khi chết còn sống trên Cõi Trung Giới
lâu hay mau tuỳ theo số lượng và cường độ những ước muốn ích kỷ, tinh
ròng hay phức hợp của Y. Sau đó Y phải chết một lần thứ nhì nữa, tức là rời bỏ Thể
Vía, và đi qua Cõi Devachan (trạng thái đặc biệt của Cõi Hạ Thiên) bằng Hạ Trí.
Ở đây
Y sẽ cải đổi cho hoàn
thiện tất cả những tham vọng và ước muốn vô vị lợi của mình. Trong giai đoạn sống
trên Cõi Devachan, có một phần Thể Vía của Y đã bị bỏ lại có thể tiếp tục đi lang thang, nếu nó
gặp môi trường thích hợp và nếu Thể ấy còn thô trược. Tất cả những điều nầy đã được
giải thích trong hai quyển sách nhỏ của tôi nhan đề là “Cõi Trung Giới” và “Cõi Devachan.” Sự mô tả đầy đủ
những trạng thái bên kia cửa tử ở đây sẽ làm cho khuôn khổ của quyển sách trở
nên quá to.
Khi
viết
bài nói về những Linh Hồn bị bỏ rơi trong quyển “The Inner Life,” tôi chỉ muốn giải
thích sự tương quan giữa Thượng Trí và Hạ Trí. Một phần rất lớn của Chơn
Nhơn đều ở Cảnh Cao Nhất của Cõi Thượng Thiên; một phần nhỏ hơn
ở Cảnh Thứ Nhì, và một phần nhỏ hơn nữa ở Cảnh Thứ Ba. Vậy chúng ta có
thể trình bày Chơn Nhơn sống trên ba Cảnh bằng một lược đồ có hình
dạng trái tim mà đầu nhọn quay xuống dưới. Đối với người thường chỉ có điểm nhỏ ấy
tiếp xúc với Phàm Nhơn, nghĩa là chỉ có một phần cực nhỏ của Chơn Nhơn sinh hoạt
trong Phàm Nhơn.
Đối
với người chưa tiến hoá, nhiều nhất chỉ có 1% của Chơn Nhơn linh
hoạt thôi. Đối với Sinh Viên Huyền Bí Học, thì thường thường nó hoạt động đôi chút tại Cảnh
Thứ Nhì. Đối với những Sinh Viên tiến hoá hơn thì một phần lớn của Cảnh ấy đã hoạt động.
Sau
cùng dưới trình độ của bực La Hán một chút, phân nửa hay gần phân nửa của
Chơn Nhơn hoạt động được tại Cảnh đó.
Chơn Nhơn chỉ chế
ngự được một phần thật nhỏ các Thể Thấp của nó. Chúng ta có thể coi Antahkarana như một
cánh tay vươn ra giữa phần nhỏ của Chơn Nhơn linh hoạt được và phần đưa
xuống thấp là bàn tay, mà bàn tay ấy hay quên phần ở trên cao và thường
chống lại nó nữa. Khi hai phần đã hoàn toàn hợp nhất, sợi dây thu hẹp lại rồi biến mất.
Theo
tiếng Sanskrit,
chữ Antahkarana
có nghĩa
là cơ quan hay dụng cụ bên trong, sự huỷ diệt nó là biểu hiệu cho thấy rằng Chơn Nhơn
không cần đến dụng cụ nữa và tác động trực tiếp trên Phàm Nhơn.
Chính
Chơn Nhơn sẽ bị mất mát một phần khi sự kết hợp được xét trong toàn
bộ của nó yếu kém hơn sức mạnh mà nó muốn khống chế. Tuy nhiên nó cũng thu
hoạch được vài điều lợi ích trong cuộc sống (trừ trường hợp một đời sống cực ác) và sự
thu hoạch nầy lớn lao hơn sự mất mát xảy ra do sự rối loạn
trong Hạ Trí. Trong lúc chết lần thứ nhì, Chơn Nhơn còn lại một phần nhỏ bé của
nó và một chút Hạ Trí tại Cõi Kama-Rupa. Vậy chúng ta phải coi Antahkarana như sợi dây nối liền
Chơn Ngã với Phàm Ngã, sợi dây đó sẽ biến mất khi cả hai đều
tuân phục một Ý Chí Duy Nhất.
Con
phải chuẩn bị để trả lời với Dharma, luật nghiêm khắc, tiếng nói của nó sẽ thét lên để hỏi
con tại đầu đường, ở Bước Thứ Nhứt.
Con
đã sống đúng theo tất cả qui điều, hỡi con người của ước vọng cao
siêu!
Con
có hoà hợp Tâm lẫn Trí của con với Tâm và Trí của toàn thể Nhân Loại chăng? Vì cũng giống như
tiếng gầm thét của con sông Thánh đáp ứng với tất cả âm thanh của vạn vật, Tâm của kẻ muốn
Nhập Lưu phải rung động đáp lại mọi tiếng thở than, mọi tư tưởng của những loài biết
sống, biết thở.
Ở đây
chúng ta thấy một chú thích bất hủ của Bà Blavatsky: Bà nói rằng những Phật Tử
Bắc Tông và hầu hết những người Trung Hoa thấy rằng trong tiếng
gầm thét sâu xa của vài con sông lớn Linh Thiêng có chủ âm của Vạn Vật. Bà cho rằng
trong Khoa Vật Lý cũng như trong Khoa Huyền Bí Học, ai cũng biết rằng có
sự hợp nhất giữa Âm Thanh trong Thiên Nhiên - chẳng hạn như tiếng
gầm thét của Trường Giang, tiếng gió lay động ngọn cây trong rừng
già, hoặc tiếng ồn ào của một đô thị được nghe từ xa, là một âm điệu hoàn
toàn rõ rệt, một thứ âm thanh có giá trị rất đáng kể. Tất cả điều nầy quả thật đúng,
âm thanh sâu xa của Tạo Vật luôn luôn có thể nghe được đối với người
quen nhận ra nó. Mỗi Hành Tinh cũng đều có âm thanh riêng của nó. Trong khi vận
chuyển trong không gian nó phát ra âm thanh đặc biệt của nó và nhờ âm thanh nầy Đức
Thượng Đế nhận biết các Bầu Hành Tinh của Ngài vận chuyển điều hoà hay không, điều ấy cũng hơi
giống như một anh thợ máy đầy kinh nghiệm nhận biết được tiếng
động cơ, nếu bộ máy của nó vận chuyển hoàn hảo.
Mấy
lời trên đây nhắc chúng ta nhớ tới lòng thiện cảm, đặc tính được nhấn mạnh rất
nhiều trong quyển sách nầy. Thường chúng ta tưởng rằng chúng ta hiểu các bạn chí
thân của mình, nhưng thật ra chúng ta đã lầm, vì một người đứng bên
ngoài có thể nhận thấy việc ấy một cách dễ dàng. Nhưng một Đấng Chơn
Sư luôn luôn hiểu đúng. Ngài không thể lầm. Khi chứng kiến một việc nào đó, Ngài có thể
phát biểu những lời không tán đồng; tuy nhiên, thiện cảm của Ngài vẫn còn
nguyên vẹn và Ngài vẫn hiểu mà không cần một lời biện bạch của chúng ta. Chúng ta phải nỗ lực tìm hiểu đồng
loại của chúng ta bằng cách cố gắng xem trong đôi mắt họ, hiểu
rõ tư tưởng của họ chớ không phải bằng hành động họ đã thể hiện.
Người ta có thể
ví Đệ Tử như những sợi dây của cây đàn Vina, kích động những tiếng
vang nơi tâm hồn; Nhân Loại như phiếm đàn và bàn tay lướt nhẹ trên đó như hơi
thở điều hoà của Đại Hồn thế giới. Sợi dây nào không đáp lại ngón
tay của Sư Phụ trong sự điều hoà êm dịu với tất cả những dây khác sẽ đứt và bị
tháo bỏ. Tinh Thần tập hợp của các Đệ Tử Thinh Văn cũng thế.
Tất cả phải hoà hợp với tinh thần của Sư Phụ, làm một với
Linh Hồn siêu việt hay là phải nát tan.
Quần Tiên Hội dùng các Đệ Tử như những sợi dây của
một cây đàn
Vina, để cho bản nhạc cao siêu của sự tiến hoá trổi lên và toàn thể Nhân Loại có thể nghe
những tiết điệu của nó. Nếu là Nhạc Sĩ bạn sẽ làm gì với dây đàn không chịu hoà hợp với những
dây khác, trong khi bạn muốn cố gắng chơi cho thật xuất sắc. Chắc chắn là bạn
sẽ loại bỏ nó ra. Người nào muốn làm theo ý mình, tìm cách tự
học hỏi hoặc tự giải thoát cho mình, nhắm đến một mục tiêu cá
nhân nào đó, sẽ không xứng đáng trở thành một Đệ Tử Chơn Sư. Trên phương diện
nầy, mọi Đệ Tử đều phải chịu thử thách. Nhiều công việc được đưa
ra cho Y và sẽ không có
ai làm nếu
Y chểnh mảng. Trong trường hợp một công tác quan trọng, Đức Thầy
luôn luôn có sẵn một người thay thế, nhưng nếu đó là công việc không quan trọng,
nó có thể
được bỏ qua. Lúc đó sợi dây sẽ bị tháo bỏ.
Vị
Đệ Tử chẳng những phải hoà hợp với tôn ý của Sư Phụ Y, mà còn hoà hợp
với tất cả những người phụng sự khác nữa. Mỗi người phải
hoàn thành công tác riêng của mình mà không xen vào công tác của những kẻ khác.
Khi nào công việc của họ có liên hệ đến Y, Y có thể giúp đỡ
hoặc ngăn trở họ, nhưng bổn phận của Y là phải giúp đỡ những huynh đệ của mình và làm cho
sự cố gắng của họ được dễ dàng càng nhiều càng tốt. Tính nhẫn nại và giúp đỡ lẫn nhau đó
tác động như chất dầu trong bộ máy; bộ máy ấy khi thiếu dầu vẫn có thể tiếp tục
chạy, nhưng khó khăn hơn và không được tốt, phải tăng thêm năng lực để vận
chuyển nó. Nếu chúng ta làm việc hết sức mình, nhưng sự xích mích
sẽ làm suy giảm sự
cố gắng ấy, cũng như chúng ta chỉ ra sức có một phần nhỏ thôi. Đối
tượng của chúng ta không phải là sự tiến bộ cá nhân, cũng không phải
là sự thành công trong công việc đặc biệt của chúng ta, nhưng là sự tốt đẹp chung cho
tất cả.
Đó là hành động của
những anh em trong bóng tối - những kẻ giết chết Linh Hồn của họ, Phái
Dad-Dugpa mà người ta rất sợ.
Trong tất cả những tác phẩm của Bà
Blavatsky, Bà đều gọi Phái Dugpa là những anh em trong bóng tối
- những
Nhà Huyền
Thuật hắc ám, như chúng ta cũng thường gọi họ như thế. Gán danh từ sau
cùng nầy cho họ có thể hơi tệ hại, nhưng những người Dugpa hoàn toàn không xứng đáng với tất
cả những danh hiệu bất hảo nào khác để nhắc đến họ.
Ở
Tây Tạng, trước khi Phật Giáo du nhập vào xứ nầy, sự thờ cúng
các Tinh Linh và các vị Thần trong Thiên Nhiên rất thịnh hành, người ta dâng các
lễ vật để cầu phúc, cầu
an đều đều. Tôn Giáo như thế thuộc về một trình độ thấp kém, cũng như tất cả những Tôn
Giáo mang bản chất ấy đều chịu chung số phận. Bà Blavatsky
nói rằng các Phái Bhons và Dugpas cùng những Phái Mũ Đỏ khác được
xem như rất giỏi về Tà Thuật. Họ ở miền Tây Tây Tạng, Tiểu Tây Tạng và xứ
Bhutan. Như
vậy Tôn Giáo cổ xưa vẫn còn tồn tại.
Trong
những Tôn Giáo khác cũng xảy ra việc giống như thế. Đối với Thiên
Chúa Giáo chẳng hạn, như tôi đã từng lưu ý, Đức Jehovah của
quan điểm thấp kém - Thần Linh của Bộ Lạc, bị các Thần khác ganh tị. Trước khi bị lưu đài
ở Assyrian,
người
Do Thái không biết đến Đức Thượng Đế duy nhất và cao cả. Ở đây
họ đã cố gắng đồng hoá Đức Thượng Đế tối cao mà họ đã nghe nói với
vị Thần của dân lạc hậu; do đó đã gây ra một sự lầm lẫn lớn
lao. Rủi
thay, Thiên
Chúa Giáo lại thừa hưởng Giáo Lý nầy mà chúng ta đã thấy trong lúc
làm Lễ Dâng Thánh Thể trong Giáo Hội Anh Quốc. Lúc bắt đầu Cuộc
Lễ nầy người ta đọc 10 Giới Răn của Do Thái Giáo, trong đó đề cập đến một
vị Thần đố kỵ , mà sau nầy cũng trong một Cuộc Lễ như thế, chúng
ta đã
thấy Đức Thượng Đế được gọi là “Thượng Đế của Thượng Đế, Ánh Sáng của
Ánh Sáng, Thượng Đế thật của Thượng Đế thật.” Ý niệm xưng về sự
cầu phước cũng được truyền lại cho Thiên Chúa Giáo trong khái niệm lạ lùng ấy là Đức
Chúa Cha khi được Chúa Con hy sinh cho Ngài thì Ngài mới được thoả mãn.
Ở
Tây Tạng
mặc dù Phật Giáo du nhập vào không quá ba Phái Đoàn và hầu hết mọi
người đều là Phật Tử, song Tôn Giáo cổ thời vẫn tồn tại, vì dân
chúng rất tha thiết với nó. Ở Ý Đại Lợi cũng xảy ra hiện tượng giống
như thế ở vùng Appenines là nơi mà người ta khám phá ra được Tôn Giáo cổ của
người Etrusque,
còn xưa hơn Tôn Giáo La Mã. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo muốn bài trừ song vẫn vô
hiệu. Một thí dụ khác rõ rệt hơn ở tại đảo Tích Lan. Những người Cinghalais đều là tín đồ Phật
Giáo, trong số đó có nhiều người là con cháu của những người trước
kia bị người Bồ Đào Nha bắt buộc theo Đạo Thiên Chúa. Tuy nhiên, đến
lúc nguy kịch - bịnh hoạn trầm trọng hay thiên tai - Tín Đồ Phật Giáo lẫn
Thiên Chúa đến cầu cứu đều đều Tôn Giáo cổ xưa của họ “sự cúng tế
Ma Quỷ.” Nếu chúng ta
hỏi lý do, họ sẽ đáp: “Là Tín Đồ Phật Giáo hay Thiên Chúa Giáo, dĩ nhiên chúng tôi
cũng đều
là những người văn minh; nhưng dù sao đi nữa cũng có thể có vài điều hay trong
tín ngưỡng xưa của chúng tôi; tin vào khía cạnh tốt của nó vẫn
không có hại gì.”
Tiếp
vĩ ngữ
Pa chỉ có nghĩa là “Người.” Do đó, những Tín Đồ của Đức Thầy
Kuthumi ở Tây Tạng được gọi là Kut-Hum-Pa. Những người Bhon-Pa là những Tín Đồ thuộc Tôn Giáo
sơ khai. Con cháu của những người theo Phật Giáo do đợt
truyền giáo lần thứ nhứt gọi là Ninma-Pa. Sự xâm nhập đầu tiên đó của Phật Giáo bị
Tôn Giáo xưa gây thiệt hại một cách nhanh chóng. Phái Kargyu tiêu biểu cho những
người theo Phật Giáo do Phái Đoàn truyền Đạo đợt thứ hai, đã được phái đến
Tây Tạng nhiều thế kỷ sau đợt thứ nhứt. Phái Dug-Pa hay Mũ Đỏ thuộc Phái thứ hai nầy
và do đó có liên quan với Phái Bhon-Pa. Giáo lý của họ cũng bị hư hỏng và những tín ngưỡng xưa
đã lẫn lộn trong đó.
Kế
là Phái Đoàn Truyền Giáo lần thứ ba đến và
sau cùng được Tsong-Ka-Pa cải cách lại. Những Tín Đồ của Phái nầy gọi là
Gelug-Pa hay là những người
Mũ
Vàng. Phái nầy thuộc quyền lãnh đạo của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma hay Teshu Lama, và cả
chánh thể của xứ Tây Tạng hiện nay. Bề ngoài, hai Đức Thầy của
chúng ta cũng ở trong Phái nầy. Trong các cuộc lễ quan trọng những người
trong Phái đều mặc áo
dài màu vàng và đội những chiếc mũ cao kỳ lạ, nhọn như những nón chụp.
Lúc
bấy giờ
Đức Aryasanga thuộc Phái Mũ Vàng; cũng như Alcyone trong kiếp chót là Đệ Tử của Ngài. Có lẽ Alcyone nói
hơi quá đáng khi đề cập đến những lời mà Sư Phụ ông gán cho Phái Mũ Đỏ. Gọi
họ là “những
kẻ giết chết Linh Hồn” không biểu lộ được tinh thần của Đạo Phật một
cách tuyệt đối.
Như
vậy Phái Dug-Pa vẫn xứng đáng hơn
mọi sự mô tả nó chút ít. Thêm vào Phật Giáo họ còn thờ phượng những sức mạnh
Thiên Nhiên. Những kẻ
thù của họ quả quyết rằng sự thờ phượng cổ xưa nầy đòi hỏi
sự hy sinh thú vật và kể cả sự hy sinh chính con người ở một thời kỳ nào đó.
Phái Mũ Vàng tìm
cách duy trì Phật Giáo thuần tuý hơn đã
chống lại Phái Dug-Pa. Giới Luật của họ nghiêm khắc hơn và họ rất ít chịu thờ phượng
những sức mạnh Thiên Nhiên, mặc dù chính họ cũng không thành công trong
việc
bài trừ
chúng một cách hoàn toàn. Người ta thấy rằng một ngày kia nếu cần
rất có thể họ sẽ thực hiện một cuộc canh tân. Vài người Tây Tạng
đã bỏ Phái Dug-Pa để theo Phái Mũ
Vàng và vẫn được các Đức Thầy của chúng ta chú ý, vậy có thể họ đã không
hoàn toàn đi sai Chánh Đạo. Những người thuộc Phái Bhon-Pa là những nhà Phù Thuỷ Tả Đạo không mấy
tiến bộ và cũng không mấy đáng kính. Như vậy họ cũng không xứng đáng, dù trong hạng đặc
biệt của
họ, được gọi là “anh em trong bóng tối.”
Con
đã hoà hợp tâm hồn con với sự đau khổ lớn lao của Nhân Loại chưa, hỡi Đệ Tử sắp vào trong ánh
sáng?
Nếu
con đã thực hiện rồi, con có thể vào. Tuy nhiên trước khi đặt chân
trên con đường đau khổ, tốt hơn con nên biết trước những bãi lầy của con đường đó.
Ở đây vẫn còn ý niệm về con đường đau
khổ. Nhưng trên con đường nầy không có gì là đau khổ cả. Trong khi làm việc người ta cũng tìm
thấy hạnh phúc lớn lao hơn hết bên cạnh sự cố gắng liên tục. Nhiều vị Huấn Sư đã nói về sự an
vui nầy,
với kết quả ấy mà đôi khi Đệ Tử của các Ngài gặp những khó khăn đầu tiên đã chán
nản. Dĩ
nhiên là Đức Aryasanga không hề muốn mê hoặc các Đệ Tử của Ngài, nên
Ngài đã nhấn mạnh đến những nỗi khó khăn.
Còn một giai đoạn
khó khăn mà mọi người đều phải trải qua, nó tạo thành khoảng cách giữa hai sự xác thực. Trong thời
kỳ đó nhiều người không còn chút thích thú nào đối với những sự
vật Trần Gian. Nếu họ có tiền, có
nhà tốt, quần áo đẹp chẳng hạn, thì điều đó đối với họ cũng không mấy quan trọng.
Nếu tiền
của đến với họ, thì đó là một trách nhiệm mà họ phải đảm nhận như một
trách nhiệm nào khác, song họ cũng được thoả mãn, nhu cầu của họ được bảo đảm, thế thôi. Dưới con mắt của họ, những đối
tượng thấp kém không làm cho họ thích thú nữa, còn những đối tượng cao
cả chỉ là vấn đề tin tưởng, chứ không phải kiến thức hay kinh nghiệm. Trong tình trạng đó,
chắc chắn con người phải sống một cuộc đời buồn tẻ và đôi khi khốn khổ.
Cuộc sống ấy có thể kéo dài lâu hay mau, hoặc còn tái diễn nhiều lần.
Trong
khi mục đích cao cả xuất hiện một cách rõ ràng, tất cả đều thay đổi và
hạnh phúc chiếu rực rỡ trên Đường Đạo. Huynh hãy xem Bà Hội
Trưởng
(Besant)
của chúng ta; nếu Bà hy sinh cho mục đích Thế Gian tất cả thì giờ
và tài năng của Bà, chắc chắn Bà sẽ tự tạo cho Bà một địa vị sáng
chói cùng mọi thứ khác; nhưng nếu Huynh thử hỏi xem Bà có vui lòng bỏ công việc đã chọn
để theo đuổi những tham vọng Trần Gian chăng, chắc chắn Bà sẽ trả
lời: “Dĩ nhiên là không; tại sao tôi phải làm như thế. Không có gì có thể so
sánh với hạnh phúc khi được phụng sự Đức Thầy.”
Không
có cuộc sống Trần Tục nào có thể đem đến nhiều an lạc như đời sống của
vị Đệ Tử, dù hoàn cảnh
có thi vị đến đâu. Vị Đệ Tử từ bỏ tất cả mọi thứ chiếm hữu riêng tư, nhưng Y từ bỏ như thế để
làm gì? Bên
Ấn Độ thường xảy ra chuyện một nhân vật vĩ đại, có thể là một Cựu Thủ Tướng của một quốc gia độc
lập, có nhiều uy thế, danh vọng và tài sản, rồi một ngày đẹp trời nào đó bỗng nhiên người từ
bỏ tất cả mọi thứ ấy, đắp một mảnh y vàng rồi rời bỏ gia đình không giữ lại bất
cứ món gì. Sở dĩ quyết định như thế vì ông hoàn toàn hiểu biết
về hai lối sống và ông thấy rất rõ rằng đời sống bị từ bỏ sẽ ít an vui và lợi
lạc hơn cuộc sống của một nhà ẩn tu hay vị tu sĩ khổ hạnh đi
ta bà. Thường đó cũng là trường hợp của một nhân vật có địa vị cao, như một vị Hoàng Đế
cuối
cùng của nước Nga, lâm vào hoàn cảnh gần như không thể giúp ích gì được cho Nhân Loại. Người nào ở
trong tình trạng như thế không có hy vọng bước vào con đường Huyền Bí Học. Tôi nhớ
lại trường hợp của một Sinh Viên rất tiến bộ được phép lựa chọn: Hoặc là sống trong
sự âm thầm vô danh hoặc vượt lên một địa vị cao siêu trong một những quốc
gia lớn nhất trên Thế Giới. Ông đã chọn lối sống thứ hai
và sau cùng trở nên một vị Thủ Tướng Anh Cát Lợi. Trong địa vị nầy ông đã
bị kiệt quệ vì thế lực và quyền lợi ích kỷ và bị Giáo Hội chống đối. Khuất phục trước trách nhiệm nặng
nề, ông đành phải giải quyết vấn đề bằng đòn Chính Trị hoà giải. Mặc dù mục tiêu của
ông là đem lại tự do cho dân tộc và củng cố Đế Quốc - và ông đã lựa chọn lối
sống thứ nhì - ông luôn luôn hối tiếc sự lựa chọn đó và đã chết trong sự
thất vọng, tuy nhiên đó cũng là sự lựa chọn hoàn toàn vị tha.
Võ
trang bằng chìa khoá Bố Thí, Bác Ái và Tình Thương dịu dàng, con có thể an tâm trước cửa Dana, cánh cửa dựng lên ở đầu
Đường Đạo.
C.W.L.- Đức Aryasanga còn trở lại một lần nữa với bảy cánh Cửa Đạo. Theo Ngài
chúng đánh dấu nhiều giai đoạn trên Đường Đạo, được nhìn từ quan điểm đặc
biệt như những cái bẫy đầy nguy hiểm đối với người chí nguyện. Trong
lúc đó Ngài chưa nghĩ đến việc thí sinh cần phải nhận lãnh ánh sáng, sự khích lệ
và sức mạnh. Người thí sinh tự nhớ lấy điều ấy là việc rất
hay, nếu không, sự buồn thảm vô cùng chắc chắn sẽ hiện đến.
Như chúng tôi đã
giải thích Dana không chỉ có nghĩa là bố thí tài vật thôi, cũng không phải là lòng thiện
cảm suông; Dana còn bao hàm sự hiến dâng vô giới
hạn chính bản thân mình cho công việc phụng sự Nhân Loại.
Hãy nhìn xem, hỡi kẻ hành hương
hữu phước! Cánh cửa trước mặt con cao và rộng, dường như rất dễ đi vào. Con đường đi
xuyên qua đó thẳng tấp, phẳng lì và xanh mướt như khoảng rừng thưa ngập nắng giữa một
cánh rừng tối mịt, một điểm ở Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà phản chiếu xuống Trần Gian. Nơi đây, những
con chim quyên của hy vọng, những con chim cánh lông rực rỡ cũng hót
trong những lùm cây xanh tươi khúc ca chào mừng sự thành công của
những người hành hương dũng cảm. Chúng ca hát năm hạnh của Vị Bồ Tát, năm ngọn
suối của năng lực Bồ Đề, và bảy bước trên đường tri thức.
Con
hãy bước qua! Con đã có chìa khoá; con sẽ được an toàn.
Đoạn văn nầy mô tả quang cảnh
tuyệt đẹp và đầy thi vị của Con Đường Đạo như đang hiện ra trước mắt kẻ hành hương
hữu phước. Lúc đầu, y cảm thấy đầy vui tươi đẹp đẽ và dễ đi. Khi Thánh Grail
hiện ra trước mắt chúng ta, rất dễ mà từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Nhưng chẳng bao
lâu cái nhìn của chúng ta có thể bị phai mờ, sự phấn khởi đầu tiên rơi mất và
chúng ta thấy chán nản. Bản tính con người lúc nào cũng khao khát sự thay đổi.
Bạn hãy xem những kẻ tìm kiếm sự mới lạ; sự thích thú của họ tiêu tan rất
mau, việc theo đuổi của họ trở nên buồn tẻ và sự chú ý của họ lại
xoay qua hướng khác.
Khi
tìm hiểu những kiếp sống của Alcyone, thường chúng ta thấy những sự tiến
bộ diễn ra rất chậm, dù trong một loạt 20 hay 30 kiếp. Trong tập tài liệu
về các kiếp sống, khi đã biết Y mang tên gì và biết rằng trong
50.000 năm trước Y vẫn gần giống như bây giờ, một người kia đã viết thư cho tôi:
“Nếu người ta nói với tôi rằng trong 20.000 năm về trước tôi
chỉ là một người dã man sống trong rừng, tôi không tin điều đó.” Tôi sẽ trả
lời rằng:
“Nếu 20.000 năm trước Anh là một người dã man sống trong rừng, có lẽ ngày nay Anh vẫn còn dã
man.”
Nhưng khi con người
có lòng nhiệt thành với mục đích tinh thần, Y sẽ tiến bộ nhanh
chóng. Nếu Y để cho nhiệt tâm của mình suy giảm thì thật đáng
tiếc, nhưng trong khi Y tiến bộ chắc chắn là có cái gì đã dành sẵn cho Y trong kiếp nầy.
Nếu thêm vào ý kiến tiến thủ của chúng ta, lại có những kiến
thức rộng rãi giúp chúng ta tiến tới, thì các lợi thế nầy sẽ ngăn cản không cho
chúng ta rơi lại phía sau.
Chúng
ta phải luôn luôn cố gắng giữ vững lòng nhiệt thành và đừng bao giờ để cho nỗi phiền muộn nhất
thời cảm nhiễm đến chúng ta, sao cho chúng ta không bị lệ thuộc vào ảnh hưởng của Cõi Vật Chất và các Cõi Tâm Linh. Khi Bà Blavatsky
qua đời, lòng nhiệt thành của chúng tôi bị một sự thử thách thật lớn
lao; khi Bà rời bỏ chúng tôi, tôi đã nhớ lại cách nó muốn thối lui. Bà có tài năng giữ
gìn sự hoạt động cho tất cả chúng tôi và sau khi Bà ra đi chúng tôi cảm
thấy không còn năng lực nữa, mặc dù vài người trong chúng tôi có thể liên lạc trực
tiếp với các Đấng Chơn Sư.
Và gần đến cửa
thứ nhì con đường vẫn còn xanh tươi, nhưng dốc đứng và khúc khuỷu; thật thế, con
đường lên đến đỉnh núi đầy đá, đầy mây mù xám ngắt lơ lửng trên trần thẳng đứng
và gồ ghề và xa hơn nữa tất cả đều tối tăm. Hành giả càng đi tới, khúc ca hy vọng
trong lòng Y càng vang lên yếu ớt. Bấy giờ sự hoài
nghi làm cho Y rùng mình, bước chân Y trở nên thiếu vững
chắc.
Hãy đề phòng điều
đó, hỡi thí sinh! Hãy đề phòng sự lo sợ, nó giống như đôi cánh đen yên lặng
của con dơi bay nửa đêm giương ra chắn ngang giữa ánh trăng của tâm hồn và mục tiêu vĩ
đại lờ mờ ở tận đàng xa.
Hỡi
Đệ Tử, sự lo sợ tiêu
diệt ý chí và làm tê liệt mọi hành động. Nếu thiếu hạnh Shila, kẻ hành hương sẽ vấp
vào những sỏi đá Nhân Quả làm trầy trụa chân Y trên con đường khổ nhọc.
Thường thường vị Đệ Tử bắt đầu bằng một đà tiến rất tốt
đẹp; nhưng sau đó Y bước chậm dần. Có lẽ trong việc ấy có một lý do thầm
kín, kể
cả đời Y, đó là Y trông chờ một sự
thay đổi trong đời sống. Có thể Y tưởng tượng rằng nhiều hiện tượng sẽ dồn dập xảy đến
trong cuộc sống hoặc Y luôn luôn ý thức được sự hiện diện của Chơn Sư và
vì thế
Y có thể duy trì được mọi sự sở đắc của
mình. Thật ra đời sống của Y đã thay đổi, nhưng không giống với những điều Y mong đợi.
Đối
với vài vị Đệ Tử, khi xảy ra sự nghi ngờ, ấy chính là sự hoài nghi liên
hệ đến toàn thể kiến thức Thông Thiên Học; vì chưa liên lạc được với các Vị Chơn Sư, họ bắt
đầu nghi ngờ sự hiện diện của các Ngài và tự hỏi có phải họ đang
theo đuổi một con ma trơi nào chăng? Tôi hy vọng rằng ở đây
không có ai nghi ngờ như thế, nhưng nếu có, tốt hơn nên quay về với những
nguyên tắc đầu tiên. Huynh hãy trở lại khởi điểm; hãy khảo sát lại những
lý do của Huynh; hãy xem xét những chứng cớ.
Cũng
có khi xảy ra sự hoài nghi chính mình, đôi khi sự hoài nghi ấy đã tấn công kẻ sơ cơ. Có thể
người ta chưa biểu lộ sự thiêng liêng của mình đúng như ý họ muốn.
Tuy nhiên phải cố gắng nữa, đừng nghi ngờ chi cả, vì sự thành công đối
với mọi người là điều chắc chắn và sự hoài nghi là chướng ngại lớn lao hơn cả. Giả sử có
một người nào đó lúc khởi đầu tin chắc rằng Y không thể tập lội
được,
thì không bao giờ Y thành công. Đó không phải là một điều khó khăn thực sự
trong việc
nổi trên mặt nước mà chỉ là một sự nghi ngờ thôi. Một người khác; được trợ lực
bởi đức
tin, hầu như lội được ngay tức khắc.
Rủi
thay, nhiều người chí nguyện trên Đường Đạo lại không chắc rằng mình
thành công. Vậy chúng ta hãy củng cố đức tin và tháo bỏ thành kiến đối với chính
mình - vì chính do
thành kiến - đã sinh ra lý lẽ ấy. Hãy nên tự nhủ lòng rằng: “Tôi sẽ thực hiện
việc ấy, được hay không cũng mặc.”
Những
lối so sánh của Đức Aryasanga luôn luôn tuyệt đẹp. Ở đây Ngài nói về ánh trăng trong
sáng của Linh Hồn. Ánh sáng của nó là sự phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời, ánh sáng của
Đức Thượng Đế cũng như ánh sáng của Linh Hồn hay Bồ Đề và ánh sáng
của Tinh Thần hay Atma. Không nên để
cho vật gì che khuất nó, nếu không Linh Hồn sẽ ở trong trạng thái u tối.
“Đôi
cánh yên lặng của con dơi bay nửa đêm,” là lối diễn tả linh động
cách thế sự lo sợ len lỏi trong lòng người. Không có gì tai hại bằng sự lo
sợ; nó tấn công chúng ta đủ mọi mặt, vì nó tràn đầy khắp nơi dưới vô số hình thức.
Trong
công việc làm ăn chẳng hạn, mỗi người đều luôn luôn cảm thấy lo âu; kẻ làm công nghi ngờ
sự phê phán của cấp trên, vì sợ mất việc làm. Những người theo
Tôn Giáo sợ chết hay sợ phải vào Địa Ngục; số phận của bạn bè
thân thiết đã quá cố của họ và đủ thứ chuyện vô lý đều khiến họ lo sợ. Nhiều đứa
trẻ sống trong sự lo sợ thường xuyên đối với anh chúng, cha chúng và thầy
giáo trong Trường của chúng, như chúng tôi đã giải thích
trong quyển “Dưới Chân Thầy.”
Đức
Aryasanga nói rất chí lý: “Hãy đề phòng sự lo sợ.” Nó làm cho Linh Hồn đen tối
và làm phai mờ ánh sáng của Đức Thượng Đế. Đức Thượng Đế là Tình Thương và theo sự diễn tả của Thánh
John thì: “Tình Thương hoàn toàn khai trừ được sự lo sợ.”[54]
Hạnh
Shila chính là sự điều hoà, là hạnh kiểm tốt. Luật Đạo Đức Huyền
Môn khác với Đạo Đức của Thế Gian ở điểm nó nghiêm khắc hơn nhiều. Chẳng phải Nhà
Huyền Bí Học liên hệ với những nguyên tắc và qui điều xã hội, mà Y liên hệ với cái vô cùng
mạnh mẽ hơn - những nguyên tắc của đời sống Thần Bí ngăn cản không cho Y xa lìa dù là một
chút - Chân Lý, tình thương, một đời
sống trọn hiến cho công việc
phụng sự và không dành một chỗ hở nào cho những lạc thú cá nhân.
Hỡi
thí sinh, hãy bước cho vững. Hãy tắm Hồn con trong nước hương
Kshanti; vì lúc nầy con đã đến gần cửa mang tên nầy, cửa dũng cảm và
nhẫn nại.
Bây giờ chúng ta đã đến cửa thứ ba. Kshanti là đức
nhẫn nại và sức mạnh của Linh Hồn. Lòng nhiệt thành liên tục rất
cần thiết, không phải thứ nhiệt tâm căng thẳng, đáng lo ngại, giựt gân nó làm cho con người
kiệt
quệ trước khi thực hiện được cái gì hữu ích.
Con chớ nhắm mắt
và hãy coi chừng Cây Pháp Trượng Dorje; những mũi tên của Ma Vương
luôn luôn bắn ngã kẻ không đạt được hạnh Vairagya (Dứt bỏ).
Mara là vua của dục vọng, nó được nhân cách
hoá như thế; do đó người ta nói rằng những mũi tên luôn luôn bắn
ngã những người không đạt được trạng thái Vairagya, tức là
Tánh Dứt Bỏ.
Bà
Blavatsky thêm một chú thích về chữ Dorje. Dorje hay Vajra, là sấm sét, cây Pháp Trượng cũng
được đề cập đến trong phần thứ nhì. Bà nói:
Dorje
tiếng Sanskrit là Vajra: Là một vũ khí hay
dụng cụ trong tay một số Kiết Thần (Các Thần Dragshed của Tây
Tạng, các Devas che chở con người) và người ta gán cho nó
tính chất
Huyền Bí có thể khử trừ những ảnh hưởng
xấu cùng tà khí như chất Ozone trong Hoá Học. Đó cũng chính là một Mudra, một tư thế được sử
dụng trong việc tham thiền. Tóm lại, tư thế hay phù phép, chính là một biểu tượng của
sức mạnh đối với những ảnh hưởng vô hình. Tuy nhiên, các Phái Bhons hay Dugpas
chiếm đoạt
biểu tượng đó và đem sử dụng trong Tà Thuật. Đối với Phái “Mũ Vàng” hay
Gelugpas thì đó chính là biểu tượng của uy quyền cũng như cây
Thánh Giá đối với Tín Đồ Thiên Chúa Giáo, và điều ấy không có
gì là mê tín. Đối với Phái Bhons, nó cũng như cặp tam
giác đảo ngược, là biểu hiệu của quyền thuật.
Cây Pháp Trượng được cất giữ tại Bạch Ngọc Cung (Shamballa)
và được
sử dụng trong các cuộc Lễ Điểm Đạo có thể là một thứ phù phép mạnh nhất tại Bầu Hành Tinh của chúng ta. Đồng
thời nó cũng là một biểu tượng lớn lao không gì có thể chống lại nổi,
mà nếu chúng ta cảm nhận được, thì sự lo sợ sẽ chấm dứt.
Bùa
Phép không phải chỉ là những
di sản mê tín của Thời Trung Cổ. Nếu là một người nhạy cảm chút ít, khi đến gần những
tủ kiến chứa đồ châu báu của Phái Thần Bí Triết Học xưa tại Bảo
Tàng Viện Anh Quốc, thì Y sẽ dễ dàng bị các vật ấy thu phục, vì ảnh hưởng toát ra từ
vài vật đó có thể cảm nhận được một cách rất rõ rệt. Một món Bùa Phép là một vật nhỏ có từ điện
rất mạnh. Nó được dùng để xua đuổi tất cả những ảnh hưởng không phù hợp với từ điện của
nó. Tác động của nó có thể so sánh với tác động của con quay. Nó xoay chuyển
theo cách của nó và có khi thà chịu bể nát chứ không
chịu thay đổi chiều hướng riêng của mình.
Đồ trang sức dùng
làm bùa chú tốt nhất, vì kim loại quý giữ từ điện lâu bền hơn
cả. Trong những trường hợp bình thường sự lo sợ ban đầu rất yếu và nó chỉ
tăng thêm dần dần. Trong những trường hợp đó, một món bùa chú có từ điện thích ứng rất
có hiệu lực, vì nó xua đuổi các rung động đầu tiên và yếu ớt của sự lo sợ. Vậy người nào mang
nó trong mình có thì giờ dừng lại, thu góp tất cả năng lực của mình hầu giúp
cho sự rung động trái ngược lại vận chuyển trong Thể Vía của Y.
Đức
Aryasanga trở lại vấn đề lo sợ nữa:
Con
chớ run rẩy. Dưới làn hơi của sự lo sợ chìa khoá Kshanti rỉ sét; chìa khoá
sét sẽ không mở cửa được.
Con càng đi tới,
chân con sẽ càng gặp những bãi lầy. Con đường của con đi được soi sáng bởi một
ngọn lửa, bởi ánh sáng dũng cảm, đang cháy trong tim. Người càng gan dạ
sẽ càng tiến. Người càng sợ sệt, ánh sáng càng mờ và chỉ có ánh sáng mới
có thể hướng dẫn con người. Cũng như ánh nắng chiều còn sót lại trên đỉnh núi cao, khi
tia sáng vừa tắt là đêm tối tiếp theo ngay; cũng thế, khi ánh sáng trong tâm tắt đi, thì một
bóng tối dày đặc và đáng sợ sẽ phát ra từ chính tâm con rọi lên đường đi và sự hãi hùng sẽ gắn chặt chân
con tại chỗ.
Hỡi
Đệ Tử, hãy đề phòng
cái bóng u tối đó. Không một tia sáng nào của Tinh Thần có thể phá tan
cảnh hắc ám của Linh Hồn ở phía dưới, trừ phi mọi tư tưởng ích kỷ đều rút lui hết
và kẻ hành hương thầm nhủ: “Ta đã từ bỏ cái hình bóng thoáng qua nầy; ta đã phá
tan nguyên nhân: Nhân đã tiêu thì Quả là những bóng tối phản chiếu lại
cũng chấm dứt.”
Vì
đây là trận giao phong tối hậu, cuộc chiến đấu cuối cùng đang diễn
ra giữa Chơn Ngã cao siêu và Phàm Ngã thấp kém. Con hãy xem, chính bãi chiến trường bây giờ
đã bị trận
đại chiến thôn tính và không còn nữa.
Nhưng
một khi vượt qua được cửa Kshanti, bước thứ ba của con đã hoàn tất.
Xác thân con là tôi tớ của con. Bây giờ con hãy chuẩn bị để vào cửa thứ tư, cửa của những sự
cám dỗ con người nội tâm.
Các đoạn văn nầy giúp chúng ta hiểu rõ là thí sinh
cần phải
tuyệt đối dẹp Tiểu Ngã qua một bên. Chính Tiểu Ngã mới hay lo sợ vì trên đời nầy
không có gì có thể làm cho Chơn Ngã cao siêu phải lo sợ. Một nhà Hiền Triết La Mã lão
thành xưa kia đã nói: Sự lo sợ duy nhất mà con người thật có thể cảm thấy
chính là việc không được sử dụng đầy đủ tất cả những đức tính
hoặc tài năng của Y để làm việc thiện.
Thói
ích kỷ cũng thuộc về Tiểu Ngã thấp hèn và về phương diện nầy chúng ta có thể thay đổi toàn vẹn những thói quen
đã được
duy trì qua hằng trăm kiếp sống. Trong một thời gian nào đó tình cảm vẫn còn khăng khăng
vị kỷ, mặc dù thói ích kỷ đã bị dứt khoát từ bỏ trong thâm tâm. Cũng như khi máy của một
chiếc tàu bị hãm thình lình để nó dừng lại, mà nó vẫn tiến tới dù máy đã tắt, nhưng sau đó
động tác lướt tới trước sẽ bị vô hiệu hoá toàn vẹn,
con tàu hoàn toàn dừng lại.
Bao
giờ con
người
chưa giải thoát khỏi tánh ích kỷ đó, Chơn Ngã cao siêu không thể hoàn toàn soi
sáng Phàm Ngã được. Chơn Nhơn hay chính Linh Hồn có thể giả vờ tỏ ra ích kỷ, nhưng
Phàm Nhơn thì không thể làm như thế được. Chơn Nhơn có thể
không biết đến kẻ khác, nếu nó chỉ là Manas thôi chứ không trở thành
Manas-Taijasi, nghĩa là Manas liên hệ trực tiếp với
Buddhi, và do đó, nó có thể tỏ ra ích kỷ; nhưng không bao giờ nó lầm lẫn như cho
rằng sự mất mát đối với kẻ khác có thể là sự lợi lạc đối với chính
nó mà đa
số người dưới Thế Gian vẫn lầm lạc. Chẳng hạn trên thương trường, có nhiều người
thường làm những điều bất chánh. Họ tưởng rằng họ được lời trên số lợi của đồng bào họ;
nhưng sự sai lầm của họ thật lớn lao. Chưa kể Luật Nhân Quả tác động một cách hiển
nhiên, người
nào tìm cách gian lận sẽ phải chịu sự tác động của tất cả sức mạnh về tư tưởng
và ước muốn do Y tạo ra theo chiều hướng ấy. Y đã mắc phải một thói
quen và khi có dịp để hành động bất chính một lần nữa, Y sẽ nhượng bộ sự
cám dỗ dễ dàng thêm một chút và cũng tăng thêm một chút khó nhọc trong
việc tự chủ lại và thi hành bổn phận. Nếu Y có thể nhìn qua một cách bao quát sự giao dịch chứ
không phải một phần nhỏ, Y sẽ thấy rõ là Y không được lợi chi cả
mà đã mất mát thật nhiều.
Một Chơn Nhơn
không thể bị mù quáng như thế. Kẻ phỉnh lừa chỉ nghĩ đến những kết quả nhất thời đạt được trên Cõi Vật Chất cũng giống như một vị Tướng
vì muốn chiếm một vị trí nhỏ đã xao lảng toàn thể địa thế của bãi chiến trường.
Ông ta
có thể chiếm được vị trí đó, nhưng bị thất trận.
Khi
đã huỷ diệt được tánh ích kỷ, bạn có thể nói: “Ta đã tiêu diệt được
nguyên nhân”; – nguyên nhân của tất cả sự đau khổ, tất cả sự phiền não dưới Thế Gian.
Bãi chiến trường
“đã bị thôn tính và không còn nữa” là con kinh Antahkarana đã biến mất khi
Chơn Ngã cao siêu nuốt trửng Phàm Ngã thấp hèn, và Phàm
Ngã không còn tồn tại nữa.
Ở đây
dường như Đức Aryasanga có ý niệm 7 cửa đó tương ứng với 7 nguyên lý trong
con người. Có một sự liên quan giữa 3 cửa thứ nhứt với 3 nguyên lý thấp trong Phàm
Nhơn, còn nguyên lý thứ tư thì phù hợp với Hạ Trí thuần tuý dưới thấp, là ánh sáng của
Thượng Trí và cũng là Antahkarana. Về phương diện nầy sự cám dỗ bắt đầu trở
thành những quyến rủ của các nguyên lý cao; vậy chúng thuộc về những
cám dỗ của con người sống nội tâm.
Bây giờ con hãy
chuẩn bị để đi qua cửa thứ tư, cửa của những sự cám dỗ sẽ quyến rủ con người bên
trong.
Trước
khi con có thể đến gần mục đích nầy, trước khi đưa tay mở khoá cửa thứ tư, con phải chế ngự
mọi sự biến đổi của Cái Trí ở chính con và tiêu diệt đạo quân tư tưởng cảm giác
vừa tinh tế vừa quỷ quyệt, âm thầm len lỏi vào Thánh Đường sáng rỡ của
Linh Hồn.”
C.W.L.- Nhiều kẻ chí nguyện trên Đường Đạo đã nhận thấy rằng
những lỗi lầm thông thường đã phạm và được sửa chữa trong đời sống hằng ngày, sau đó
lại tái hiện dưới một hình thức khác.
Chẳng
hạn bạn có thể xoá bỏ tính kiêu căng dưới những hình thức thế tục thông
thường, nhưng nó sẽ xuất hiện lại dưới hình thức kiêu hãnh về mặt tinh thần. Cũng như bây giờ
bạn có thể không ham muốn những sự lợi lộc Thế Gian, nhưng lần nầy
nó sẽ
trở lại dưới hình thức ham muốn sự tiến bộ cá nhân hoặc kiến thức để thoả mãn cá
nhân và hưởng thụ cảm giác của kẻ giàu kiến thức. Rồi khi thiện cảm đã
bắt đầu được củng cố trong đời sống, thói ích kỷ lại cố gắng xâm
chiếm lấy nó và đưa bạn đến chỗ chỉ muốn giải thoát những gì gây ra
khó khăn, buồn phiền cho bạn và loại ra xa đối tượng đau khổ trước mắt bạn. Điều nầy
làm chúng ta nhớ đến (nếu giống như thế ) bà nội trợ không thích thấy bụi bặm nên đã quét dọn,
nhưng lại giấu nó dưới tấm thảm, thay vì quét sạch toàn thể căn phòng.
Chính
sự ganh ghét đã xuất hiện lại và dường như rất khó tin rằng
một tật xấu thô bỉ như thế lại có thể biểu lộ ở những người đã cố gắng sống một cuộc đời
cao thượng. Vài Sinh Viên trong hàng ngũ của chúng ta cũng gần như đã tỏ
lộ tật xấu nguy hiểm đó, nếu bạn đồng song với họ không đồng ý với họ -
chẳng hạn về các Dãy Hành Tinh, hoặc về vấn đề Hoả Tinh và Thuỷ Tinh có thuộc về Dãy
Hành Tinh của chúng ta hay không? Dĩ nhiên, nếu người ta hỏi
thẳng họ: “Bạn có ghét bạn ấy vì Y không đồng ý với
bạn về điểm ấy không?” Họ liền phủ nhận điều đó;
nhưng sẽ không tới lui với bạn ấy, và nếu họ gặp Y họ sẽ tỏ ra bối
rối và kém vui trừ phi họ che giấu tình cảm của họ dưới bộ mặt vui
tươi giả tạo hoặc dịu dàng, như lớp dầu trên mặt nước.
Đây là một tật xấu
khó sửa đổi; nhiều sự khốn khổ lớn lao đều phát sinh từ đó. Vào thế kỷ thứ
tư, toàn thể Tín Đồ Thiên Chúa Giáo đều bị xáo trộn và chia rẻ chỉ vì
một điểm
trong câu của một bức thư duy nhất? Ý nghĩa câu văn tuỳ theo dấu chấm có hay không: Phải
chăng Đức Thượng Đế Ngôi Hai đồng bản chất với Đức Thượng Đế Ngôi
Một, hay chỉ có bản chất tương tự? Do đó sanh ra cuộc tranh luận gây phẫn nộ giữa những
người được gọi là Arians và Chính Thống Giáo. Và ngày nay không
còn tình trạng hàng triệu người Công Giáo phải chia rẻ nhau về vấn đề Đức Thượng Đế Ngôi Ba
phát sinh trực tiếp từ Ngôi Một, hay là từ Ngôi Một xuyên qua Ngôi Hai?
Cuộc tranh biện nổi tiếng về vấn đề đám rước của Chúa Thánh Thần cũng gây ra sự phân
ly giữa hai Giáo Phái lớn trong Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hội Đông Phương
hay Hy Lạp chủ trương rằng Chúa Thánh Thần hay Đức Thượng Đế Ngôi Ba chỉ phát sinh từ
Chúa Cha – do đó đám rước phải đơn độc – nhưng Giáo Hội Tây Phương hay La Mã chủ trương rằng
Ngài phát sinh đồng thời từ Chúa Cha lẫn Chúa Con – do đó phải tổ chức
đám rước đôi. Cuộc tranh luận nầy liên quan đến một điểm mà
không ai có thể biết chi cả và trên thực tế cũng không liên hệ gì đến ai. Theo vài đồ hình được
trưng ra cho chúng ta thấy, thì những người Thông Thiên Học có thể kết luận
là đôi bên đều có lý, nhưng không Phái nào chịu chấp nhận ý kiến của chúng tôi.
Thí dụ khác:
Trong Phật Giáo hai Phái lớn không đồng ý với nhau về điểm sau đây: Bè để trên mặt nước
dùng trong việc tế lễ nên làm bằng 3 hay 4 tấm ván? Thế rồi
hai Tông Phái đó không thể cùng nhau cử hành cuộc lễ ấy.
Có
gì là quan trọng trong khi mà Hoả Tinh hay Thuỷ Tinh có liên hệ
hay không với Dãy Hành Tinh của chúng ta? Dù sao đi nữa, chúng ta cũng vẫn là những người nam
hay nữ, tất cả đều đạo đức, đều là những công dân tốt, những người Thông Thiên
Học nhiệt thành, những người phụng sự đắc lực Chơn Sư và chúng ta hy vọng rằng tất cả đều
là những người bạn tốt, dù ý kiến của chúng ta có khác nhau. Riêng phần tôi,
tôi nghiên cứu và quan sát hết sức kỹ lưỡng; sau đó tôi nói lên những
gì tôi biết, vì tôi nghĩ rằng đó là bổn phận của tôi, nhưng tôi không bao giờ tự phụ rằng tôi
không lầm lạc và tôi cũng lo tìm hiểu, học hỏi mỗi ngày. Tôi không bao
giờ phiền trách một người không đồng ý với tôi. Vả lại, hơn một lần tôi đã nghe Bà Hội Trưởng
của chúng tôi nói rằng Bà mong sao đừng bao giờ có người nào biến lời nói
của Bà thành Tín Điều và làm cho chúng trở thành một trở ngại cho sự tiến
bộ trong tương lai của Hội Thông Thiên Học và gây nên mầm móng chia rẽ.
Nếu Bà có biểu lộ sự lo âu nào thì đó chính là sự nguy hiểm trên phương diện nầy.
Đối
với Nhà Thông Thiên Học
không thể có ý tưởng cho rằng mình không bao giờ lầm lạc về nguồn
kiến thức nào. Khi có một ý niệm mới được công bố, chúng tôi tự hỏi:
“Ý kiến đó có đúng thật không?” Nếu không thì: “Ai đã nói? Ý kiến đó được rút ra từ
tác phẩm nào?” Tuy nhiên có nhiều người không còn tin mù quáng nơi
Thánh Kinh nữa, đã quay sang Bộ “Giáo Lý Bí Truyền,” đó là Bộ Sách được
ví như một
Kho Tàng Minh Triết, nhưng theo
lời Tác Giả, nó vẫn chưa được
hoàn hảo. Bà xác nhận rằng quyển sách nầy là một sự hợp tuyển
những đoạn thuộc về lý thuyết căn bản của Giáo Lý Bí Truyền. Nhiều Văn Sĩ nghiên cứu vài
sự kiện trong đó đã thấy chúng biến dạng đến nỗi không còn nhận ra được Chân Lý. Và Bà đã trưng
dẫn câu nói của Montaigne: “Ở đây tôi chỉ tuyển chọn các thứ hoa rồi cột thành bó.”
Trong
mấy thế kỷ rồi, Bộ ”Giáo Lý Bí Truyền” đối với người
Thông Thiên Học vẫn còn là một Kho Tàng thật sự;
chúng ta hãy đề phòng việc tác phẩm nầy trở thành Giáo Điều độc đoán.
Không ai có thể nói tiếng nói tối hậu trong Huyền Bí Học. Những kiến thức mà
chúng ta thu thập được cho đến nay chỉ biểu lộ một góc nhỏ của một
tấm màn vĩ đại. Chúng ta không thể biết trước cái gì sẽ được tiết lộ,
khi một phần khác sẽ được vén lên.
Đức
Aryasanga nói trước khi hy vọng được bước qua cửa thứ tư,
chúng ta phải chế ngự mọi sự biến đổi của Cái Trí nơi chúng ta. Khí chất
thay đổi và nhuộm đầy màu sắc thế giới bên ngoài trước mắt chúng
ta. Con người khó hiểu được rằng khi sự
chán nản
bao trùm như một đám mây, thì thế giới bên ngoài không phải không đen tối hơn
trước. Nếu
Y cảm thấy một sự
buồn phiền nặng trĩu chăng, Y sẽ ngạc nhiên khi thấy Mặt Trời vẫn chiếu
sáng, mọi
người vẫn tươi cười hay cười to khi Y ra khỏi nhà.
Một
người chỉ thấy riêng phần mình rất khổ sở đôi khi nổi giận khi thấy những kẻ khác
vẫn sung sướng như thường; theo Y thì người đời rất tàn nhẫn và ít chịu quan tâm đến
Y. Y quên rằng mới
hôm qua đây trong khi chính Y sung sướng, kẻ khác cũng lâm cảnh khốn khổ và thay
vì chú ý đến sự đau khổ ấy, Y không hề bận tâm
đến họ.
Tôi vẫn
biết sự chán nản có thật, nhưng cũng do con người tạo ra nó hay để cho nó xâm chiếm mình. Đôi
khi sự chán nản cũng bắt nguồn từ một tình trạng sức khoẻ suy yếu, một
sự mệt nhọc quá độ hay thần kinh bị căng thẳng. Đối với những kẻ
khác, sự chán nản phát sinh từ Cõi Trung Giới, Cõi của những người
chết đang
bị xâu xé bởi sự thất vọng, nản lòng. Vậy không phải chúng ta luôn luôn đều chịu trách
nhiệm khi bị sự chán nản xâm chiếm, nhưng nếu chúng ta không xua đuổi nó, thì đó
chính là lỗi của chúng ta vậy.
Dường như nhiều
người tin rằng thái độ của họ đối với thực tại có thể thay đổi được nó. Họ nói: “Ồ, không, không bao giờ bạn có thể làm
cho tôi tin điều đó!” Họ làm như thể việc không tin của họ tạo ra Định Luật. Nhưng một sự thật
vẫn là sự thật, dù người ta có tin nó hay không. Đây cũng là một
lối biểu lộ tính tự phụ một cách kỳ lạ của con người.
Chúng ta cũng phải
đề phòng những tư tưởng phát sinh một cách thình lình đã ngăn cản không cho chúng ta sẵn
sàng làm việc thiện, hoặc mất cơ hội tốt để giúp đỡ một người nào chỉ vì chúng ta không bằng lòng Y - chẳng hạn lối để tóc của Y. Đây chỉ là một
chi tiết nhỏ nhưng nó biểu lộ hiện trạng của Cái Trí và tính tình
của chúng ta. Thường chướng ngại là một tư tưởng liên quan đến chủng tộc hay giai cấp; ở
Ấn Độ người Bà La Môn hay chểnh mảng bổn phận của họ đối với người thuộc
giai cấp Paria cũng vì lý do đó. Không ai nghĩ đến việc chối bỏ sự khác biệt
lớn lao về giai cấp, nhưng mỗi người cần phải có cơ hội tốt để vươn
lên về mặt xã hội cũng như đạo đức, tuỳ theo khả năng mình. Dĩ nhiên, trong một thời gian ngắn
người ta không thể thay đổi địa vị của hàng triệu người. Người ta không thể
nâng hạng người Panchama lên địa vị người Bà La Môn, nhưng luôn luôn vẫn có thể chứng
tỏ lòng ưu ái và sự quan tâm đặc biệt đối
với những
người nầy, và giúp đỡ tất cả những người mà chúng ta có thể giúp đỡ.
Nếu con không muốn
bị chúng hại con, thì những gì do con tạo ra, con cũng phải làm cho
chúng trở nên vô hại, những đứa con của tư tưởng con, tuy vô hình, không sờ mó được, nhưng
chúng vẫn quây quần cả bầy chung quanh Nhân Loại, chúng là con cháu và là những kẻ kế thừa của
con người và là di hài của họ để lại dưới Thế Gian. Con phải
nghiên cứu sự trống rỗng của cái dường như đầy đủ, và sự đầy đủ của cái dường
như trống rỗng.
Sự đầy đủ của cái dường như trống rỗng là một lối
diễn tả đầy ý nghĩa. Trước hết người ta nghĩ đến chất Koilon, chất Dĩ
Thái trong Không Gian. Quan niệm chung cho rằng Không Gian trống rỗng,
nhưng sự thật nó chứa đầy Chất Khí mà tỷ trọng hầu như không thể
tưởng tượng nỗi. Đó là Chất, bề ngoài tuy đặc, nhưng “trống rỗng,” Chất có thể thấy được,
trong thực
tế gồm những lỗ trong Chất Khí thật, được thổi phồng thành bọt trong Koilon. Như một Nhà Bác Học Pháp mới
đây đã nói: “Không phải vật chất nữa, mà chỉ là những lỗ trong Chất Dĩ Thái.” Tiếng nói tối hậu
của Khoa Học liên hệ đến Chất Dĩ Thái trong Không Gian cho rằng tỷ trọng của
nó lớn bằng 10.000 lần tỷ trọng của nước và khoảng 500 lần lớn hơn
kim loại nặng nhất; thật không thể tưởng tượng được Chất gì nặng hơn nữa.
Người
Ấn Độ nói về nguồn gốc của vật chất hay Mulaprakriti, mà tôi tưởng chất
Koilon là một hình thức đông đặc lại. Họ nói rằng khi Đức Thượng Đế thị
hiện chính Ngài cũng khác Đấng Tuyệt Đối, và khi nhìn lại sau về phía Đấng
Tuyệt Đối, thì không thấy Ngài nữa, vì có một tấm màn bao phủ Ngài và tấm màn
đó là Mulaprakriti. Trong “Bộ Giáo Lý Bí Truyền” Bà Blavatsky trưng
dẫn lời của Đức T. Subba Row về vấn đề nầy như sau:
“Vừa khi Ngài [nghĩa là Đức
Thượng Đế < . . . sự biểu hiện đầu
tiên hay trạng thái của Đấng Tối Đại Phạn Vương (Parabraman)>] bắt đầu sống có ý
thức, … theo quan điểm khách quan của Ngài, thì Đấng Parabraman hiện ra cho Ngài thấy như là
Mulaprakriti. Tôi xin bạn hãy nhớ kỹ điều nầy . . . vì nguyên nhân của tất cả những sự khó khăn
về vấn đề Purusha và Prakriti mà nhiều Tác Giả khi luận giải về Triết
Lý Phệ Đà đã gặp phải . . . Mulaprakriti đó là vật chất
đối với Ngài (the Logos), cũng như một vật bằng vật chất đối với chúng ta. Mulaprakriti đó
cũng chưa phải là Parabraman, mà sự kết hợp của những đặc tính tượng trưng cho một
cây trụ lại không phải chính là cây trụ đó. Parabraman là một thực tại
vô điều kiện và tuyệt đối, còn Mulaprakriti là một thứ màn
phủ lên đó. Chính Parabraman không thể thấy được như Ngài đang hiện
hữu. Đức
Thượng Đế đã thấy được Ngài qua một tấm màn bao phủ lên Ngài, và tấm màn đó như đại
dương mênh mông của vật chất trong Vũ Trụ ...” [55]
Đức
Thượng Đế được đề cập ở đây là Đức Thượng Đế của Vũ Trụ chúng ta gồm
hàng triệu Thái Dương Hệ - chứ không phải Đức Thượng Đế của một Thái Dương Hệ duy nhất.
Chính hơi thở của Ngài đã thấm vào vật chất nguyên thuỷ tạo
thành những cái lỗ trong không gian để sinh ra Vũ Trụ. Mười bốn ngàn triệu bọt đó tạo thành một hạt nguyên tử Hồng Trần, và 18 hạt nguyên
tử đó tạo thành một nguyên tử Khinh Khí, là nguyên tố nhẹ nhất trong các nguyên tố Hoá Học.
Vậy
đây là một sự thật mà tất cả những gì chúng ta cho là vật chất, tựu trung
chỉ là những lỗ trong vật chất thật sự. Áp lực của vật chất
nguyên thuỷ đó mỗi Pouce[56] nặng đến cả mấy triệu tấn. Nếu chúng ta phá huỷ được
áp lực đó, chúng ta có thể sử dụng năng lực kỳ diệu ấy làm sức phát động;
chúng ta có thể dùng năng lực của Đức Thượng Đế sẵn có ở hạt nguyên tử chống
lại áp lực vĩ đại đó. Nhưng năng lực đầu tiên có thể dùng được là năng
lực do sự phân tán hạt nguyên tử Hồng Trần cung cấp.
Sự
đầy đủ của cái trống rỗng bề ngoài và sự trống rỗng của
cái đầy đủ bên ngoài có thể nghiên cứu được nhờ những kinh nghiệm
khác
biệt
thông thường. Tư tưởng của những người khác và những sinh linh khác đều tràn đầy
trong không gian. Như trong Bộ “Thế Giới Huyền Bí’ đã nói:
“Mỗi tư tưởng do con người phát ra đều đi vào thế
giới bên trong và trở thành một thực thể linh động
bằng cách kết hợp, bám chặt - nếu chúng ta có thể nói như thế - vào Tinh Linh, nghĩa là một trong những mãnh lực bán tiến hoá (semi-intelligent)
của thế
giới vô hình. Nó tồn tại như một trí khôn linh hoạt - tạo vật do Cái
Trí sinh ra – trong một thời gian lâu hay mau tuỳ theo cường độ tác động đầu
tiên của bộ óc sản xuất ra nó.”
Người ta có thể tham thiền trong một gian phòng trống
không, hoặc trong một gian phòng có nhiều người khác. Trong trường hợp thứ hai,
gian phòng có thể trống rỗng đối với chúng ta, vì những người đó
không làm rộn chúng ta nhiều. Tuy nhiên trong trường hợp thứ nhứt, gian phòng
có thể chứa đầy sự hiện diện và ảnh hưởng của những sức mạnh vô hình bị lôi cuốn đến đó
do sự tham thiền và bề ngoài chúng ta chỉ có một mình nên họ cố gắng trút đổ
thần lực của họ xuống cho chúng ta.
Trong
nhiều trường hợp khác của cuộc sống, cũng có nhiều sự việc tương tự như thế. Nhiều
biến cố bề ngoài xem ra rất quan trọng, đã xảy ra, nhưng lại không đụng
chạm đến chúng ta, trái lại, một sự kiện nhỏ nhặt lại có thể phương hại đến toàn
thể cuộc sống của chúng ta. Một người thân của chúng ta qua đời hay sản nghiệp
của chúng ta bị tiêu tan, chúng ta cho là quan trọng cho đến nỗi khi mới xảy ra chúng ta
nghĩ là nó sẽ luôn luôn ảnh hưởng đến suốt đời mình, nhưng sau cùng sự việc lại
khác hẳn. Tôi đã gặp kinh nghiệm đó. Khi còn là thanh niên, năm
1866 tôi bị mất một số tiền khá to trong cuộc thất bại lớn về tài
chánh. Trong thời kỳ đó, biến cố xảy ra có vẻ trầm trọng đối
với tôi; tuy nhiên sự kiện đó không làm tôi đau khổ. Nhưng sự
gặp gỡ bất
ngờ với một người đã nói cho tôi biết về Bà Blavatsky lại gieo một ảnh hưởng quan trọng
trong cuộc đời tôi. Sự gặp gỡ nầy dường như tình cờ, nhưng nó được tính toán và
sắp đặt
trước, trong cái trống không bề ngoài thật sự là đầy đủ tất cả.
Một
thí dụ
khác: Một buổi sáng Chúa Nhật, trong khi tôi đang đàm thoại cùng vài Huynh Đệ Thông Thiên Học
tại Adyar, một vị Thiên Thần đi ngang qua đã ghé lại tôi. Ngài
chỉ cho tôi biết vài cách thức trong buổi đầu của Giống Dân Chánh Thứ Sáu các vị
Thiên Thần sẽ dùng Tôn Giáo ảnh hưởng đến con người như thế
nào. Trong
lúc đó tôi chỉ thấy đây là một hành động tốt của một người bạn qua đường, ngày
nay tôi tin chắc rằng đó chính là sự lợi lạc lớn lao hơn những hậu quả của
sự hiểu biết. Như thế việc ấy đã tiết lộ nhiều chi tiết về bước
đầu của Giống Dân mới. Những sự sưu tầm về vấn đề nầy đã được dùng làm
nền tảng cho Phần thứ Hai của quyển sách “Con Người: Từ đâu đến và đi về đâu.” Sau đó ít
lâu, những
sự sưu tầm của Bà Annie Besant và tôi được thu thập lại để làm thành Phần thứ Nhứt của tác phẩm đó.
Sự quan sát cộng đồng trong tương lai cho thấy rằng kỷ niệm Bà Bác Sĩ Besant sẽ sống
mãi nhờ quyển sách nầy. Khi tất cả những tác phẩm trước của Bà đều bị lảng quên,
nhưng
tác phẩm căn bản mà lịch sử sẽ giữ gìn như ký ức vẫn còn phải viết thêm.
Hỡi thí sinh dũng
cảm, hãy xem kỹ tận đáy lòng sâu thẳm của con và hãy trả lời. Con có
biết những quyền năng của Chơn Ngã chăng, hỡi kẻ đã nhận thấy bóng tối của bên
ngoài?
Sự tinh khiết có một giá trị rất lớn lao, nhưng vẫn
chưa đầy đủ. Trẻ con rất tinh khiết vì nó chưa biết điều lành
và điều ác. Kiến thức cũng cần thiết để giúp chúng ta hành động, và ý chí cũng thế, nó biến đổi
kiến thức ấy thành ra hành động. Thú vật tinh khiết hơn con người;
nhưng thảo mộc còn tinh khiết hơn nữa. Chúng không có tưởng tượng đã đẩy con người đi
tìm thú vui vật chất và bất chấp hay không chịu nhìn nhận những Định Luật Thiên Nhiên. Tuy nhiên,
con người phải trải qua kinh nghiệm vật chất để thu hoạch kiến thức và sau đó lại trở về với
Nguồn Cội Thiêng Liêng mà Y đã đi xuống từ đó hầu tìm lại
sự khiết bạch đầu tiên của mình. Con người phát sinh từ Đức Thượng Đế như một Đám Mây Thiêng Liêng, nhưng khi
trở về với Ngài Y đã trở thành một Nhân Vật Thiêng Liêng có những quyền năng nhất định.
Con
người khi dấn thân trên Đường Đạo đều nhận biết mình là một Nhân Vật Thiêng Liêng; Y thoát khỏi ảnh hưởng của Cõi tối tăm. Thực
tại tối tăm ấy chỉ tương đối và có lúc phải biến mất so với
thực thể của đời sống nội tại là sân trường của kinh nghiệm có ý thức, vô cùng rộng lớn hơn
sự kích thích do sự đụng chạm của những sự vật bên ngoài gây ra. Con người cứ
cho rằng những bóng tối có thật, tuyệt đối thật, còn thật hơn tất cả những
thứ khác
và cứ tưởng như thế trong không biết bao nhiêu kiếp Luân Hồi dài đăng đẳng. Nhưng mọi điều
nầy đều
cần thiết, vì không có sức thu hút của chúng, không bao giờ con người tỉnh ngộ,
không bao giờ Y chịu chú ý, không bao giờ Y học hỏi được cái
gì.
Nếu con chưa biết,
con sẽ lâm nguy.
Bởi
vì trên đường thứ tư, ngọn gió thoảng nhẹ của nhiệt vọng hoặc tham dục cũng sẽ làm lay
chuyển ánh sáng yên tịnh trên vách và tinh anh của Linh Hồn. Làn sóng nhỏ li
ti nhất của nguyện vọng hay luyến tiếc đối với danh lợi hảo huyền của Ma Vương cũng
làm gợn sóng Antahkarana - con đường nối liền Tinh Thần với Bản Ngã của con, đại lộ của những
cảm giác, sự kích thích khó chịu của Ahamkara - mọi tư tưởng dù nhanh như chớp cũng sẽ
làm cho con mất hết ba phần thưởng mà con đã nhận được.
Ở đây Đức Aryasanga đề cập đến đức tính Vairagya (Từ Bỏ
hay Đoạn Tuyệt), Ngài nói, khi hành giả muốn hoạch đắc đức tính Vairagya một cách hoàn toàn mà còn để ý một chút đến
những đối
tượng hấp dẫn hay chỉ mảy may ham muốn thụ hưởng đối tượng ấy, thì
Y liền rơi ngay vào trạng thái của
hạng người vọng động. Điều nầy gợi lên sự so sánh Linh Hồn như mặt nước hồ trong suốt trên
núi cao, được mô tả trong Phần thứ Hai. Bây giờ Ngài lại so sánh Linh Hồn như ngọn đèn để
diễn tả
sự cố định, mà chúng ta phải đạt đến. Một tư tưởng bất
ngờ hiện ra cũng đủ ném chúng ta ra phía sau; thật thế, nhưng
chúng ta nên nhớ rằng đây là một tư tưởng của chính mình. Như tôi đã giải
thích, nếu đó chỉ là phản ảnh tư tưởng của kẻ khác, một hình tư tưởng vởn vơ nào đó
làm chúng ta chú ý đến nhưng không thích hợp, thì sự tinh khiết,
sự an tịnh và tính đoạn tuyệt của chúng
ta sẽ
không bị vẩn đục.
Nhiều
người xuất chúng đôi khi cũng bị những tư tưởng trôi giạt gây khốn khổ. Họ có cảm
tưởng là người nào có những ý tưởng như thế ắt phải thật
hung dữ. Nhưng nếu họ tránh đừng tiếp nhận chúng, không dung dưỡng, không tăng cường chúng
và sau đó đừng phân phát chúng ra, giúp thêm nọc độc cho chúng, thì những người
đó quả
thật không phạm lỗi nào. Có thể chúng ta không ý thức đến một tư tưởng xấu hay
bất tịnh, nếu nó không gặp một nguyên lý tương tự như thế ở chúng ta, nhưng
điều đó có nghĩa là chúng ta chưa được hoàn toàn. Nếu có một tư tưởng
thuộc loại ấy đi qua Cái Trí của một Vị Chơn Tiên, Ngài cũng không để ý đến nó, nhưng nếu nó vây
quanh Ngài quá nhiều, có thể Ngài cảm thấy cần phải đuổi nó như người
ta đuổi ruồi, muỗi vậy. Như thế chúng ta không nên để cho bị xáo trộn
một cách vô ích bởi những sự chấn động thuộc bản năng của sự phẫn nộ hay ích kỷ
hoặc bởi những tư tưởng vẩn vơ bất hảo. Bạn nên tránh dung nạp những tư tưởng ấy nếu
không, chẳng những
chúng ta không thể hoạch đắc được tính đoạn tuyệt, mà còn phải mất ba phần thưởng đã
chiếm được, rồi trở lại bước thứ nhứt và bắt đầu đi lên lại.
Ở đây Antahkarana
được gọi là đại lộ của giác quan; đó là phương tiện huyền bí để những đối tượng
vật chất kích thích tâm thức; đó cũng là con kinh nối liền đối tượng
và chủ thể; nhờ con kinh đó, mà một đối tượng chạm đến giác quan được
biểu lộ thành một cảm giác trong tâm thức. Một cảm giác hay tri giác trực tiếp như thế còn
linh động hơn tất cả những sự mô tả bằng ngôn từ. Nghe thấy, cảm nhận một vật sẽ
cho chúng ta một cảm thức về thực tại ấy cao hơn cảm thức đạt được
bằng cách chỉ nghĩ đến nó. Đó là lý do tại sao tri giác bằng
Thần Nhãn ở các Cõi khác có giá trị hơn những sự mô tả mà chúng ta
có thể
nghe được và tại sao các tác phẩm Yoga nói về tất cả những chứng cớ của người khác, về
những ý kiến của họ đối với những sự vật mà người chí nguyện chưa từng thấy, nên Y phải thay thế nó
bằng chính sự tri giác trực tiếp của Y, chỉ có việc đó mới cho Y thấy sự thật rõ
ràng.
Những
cảm giác ở đây được gọi là những kích thích khó chịu của Ahamkara. Aham
nghĩa là “Tôi” và Kara là “Làm”; vậy Ahamkara có nghĩa là “Kẻ tạo ra Cái Tôi.” Sự linh hoạt của
chính kinh nghiệm trực tiếp nầy tạo ra sự linh động tình cảm của cuộc sống của chúng ta. Và,
vì sự hoạt động nầy tái diễn mãi trên mọi trình độ, nên nó tăng cường Phàm Nhơn
hão huyền bao lâu con người còn sống trên Thế Gian. Khi con người
đã cương quyết dấn
thân trên Đường Đạo và ảo ảnh của Phàm Nhơn đã hoàn toàn tan rã, nó mới chịu nhắc đến
Chơn Ngã, Atma, ý chí trong con người Tinh Thần.
Trong Phần thứ Nhứt chúng ta đã
nghiên cứu hình thức cao cả nầy của Ahamkara mà Triết Học Ấn Độ thường
đề cập đến.
Bởi
vì, con nên hiểu, Đấng Vĩnh Cửu không biết đến sự thay đổi.
Tóm lại, chúng ta phải chấp nhận hy sinh Tiểu Ngã
cho Đại Ngã. Người ta không thể đem theo những sự nghiệp Thế Gian lên Cõi Trời. Những quy luật và
những điều kiện của Cõi cao siêu không bao giờ biến đổi để chìu theo sự
ham muốn của bất cứ một người chí nguyện nào.
Con
hãy vĩnh viễn dứt bỏ tám thứ khổ ách. Nếu không chắc chắn
con sẽ không thể đạt được Minh Triết và sự giải thoát, đó là lời dạy của Đức Thế Tôn, Đấng
Như Lai toàn thiện, Đấng đã theo dấu các bậc tiền bối của Ngài.
Tám thứ khổ ách đó là: Tà tâm, lãnh đạm, kiêu hãnh, nghi
ngờ, ham muốn, ảo tưởng, vô minh và những kiếp lai sinh. Sự khổ não cuối cùng ấy ban đầu có vẻ kỳ dị,
nhưng nó có nghĩa hiển nhiên như thế: Đời sống trên Thế Gian nầy là một sự
đau khổ so với những gì chúng ta được thụ hưỏng trên các Cõi cao.
Danh
hiệu Như Lai được dịch ở đây là “Đấng đã theo dấu các bậc tiền bối.” Ở
Tích Lan người ta cho chúng tôi biết nghĩa của danh từ ấy là “Đấng được
biệt phái đi”; nghĩa là một nhân vật do Quần Tiên Hội phái xuống Trần như một Sứ Giả. Do đó lịch sử
Điểm Đạo
trong các truyền thống của nhiều dân tộc khác nhau đều ít sai biệt, nhất là
dưới hình thức của cái mà người ta gọi là Thần Thoại về Ngôi Mặt
Trời.
Hạnh Vairagya rất
nghiêm khắc và đúng mực. Nếu con muốn được bảo đảm trên con đường của mình,
con phải giữ gìn tinh thần và tri giác của con trong sạch hơn trước, đối
với mọi hành động tệ hại.
Con phải thấm nhuần
Alaya tinh khiết hợp thành một với Tư Tưởng Linh Hồn của vạn vật. Nếu con hợp
nhất với
nó, thì không gì có thể thắng con được; nếu con chia lìa với nó, con sẽ là sân chơi tự
do của Samvriti,
là nguồn
gốc của tất cả ảo mộng ở đời.
Sau đây là một chú thích dài về danh từ Samvriti:
Samvriti là một
trong hai Chân Lý thuyết minh tính chất ảo mộng hay trống không của mọi vật.
Đó là một Chân Lý tương đối trong trường hợp nầy. Phái Đại Thừa có dạy sự dị
biệt giữa hai thứ Chân Lý đó – Paramarthasatya và Samvritisatya
(Satya, Chân Lý). Đó là chỗ tranh
chấp giữa Phái Madhyamikas (Trung Quán) và Phái Yogacharyas (Duy
Thức),
Phái thứ nhứt phủ nhận và Phái thứ nhì cho rằng mọi vật hiện hữu nhờ một nguyên
nhân trước hay là do sự duyên sinh liên tục. Phái Madhyamikas chủ trương sự hư vô
và phủ nhận, đối với Tông Phái nầy tất cả đều là Parikalpita, là một
ảo ảnh và một sự lầm lạc trong thế giới tư tưởng và trong vũ trụ chủ quan cũng như khách
quan. Phái Yogacharyas là Học Thuyết Duy Tâm. Vậy Samvriti về mặt Chân Lý tương đối là
nguồn gốc sinh ra ảo tưởng.
Đây là tính phân biện, đức tính đầu thuộc
về bốn đức tính bắt buộc phải có, nó luôn luôn giúp chúng ta phận biện sự chân
thật với
sự tương
đối mà đôi khi chúng ta gọi là sự giả (the unreal). Mỗi khi nhìn xuyên
qua cái giả, chúng ta sẽ thấy sự thật, điều nầy rất dễ thực hiện lại, vì cái mà
chúng ta nhận là sự thật, chính là Đức Thượng Đế ở trong lòng
chúng ta. Chân lý nầy càng hiển lộ, chúng ta càng dễ nhận ra cứu cánh
của nó trong mọi vật và sự sống của nó trong đồng loại của chúng ta.
Alaya tinh khiết
vừa ở trong chúng ta và vừa ở sau Thần Trí Thiêng Liêng hiện diện trong khắp Thiên Nhiên. Những người có Thần
Nhãn trong các Tôn Giáo đều nhận biết được nó. Tôi xin nêu ra câu châm ngôn của nhà thông thái
Hồi Giáo mà nhiều người đều biết: “La ilaha illa’llah,” câu nầy không có nghĩa
là “Không
có Thượng Đế nào khác hơn Thượng Đế nữa” như người ta thường dịch, mà có
nghĩa là “Chỉ có Đức Thượng Đế hiện hữu.” Ông giải thích
cho tôi nghe, trong tiếng Á Rập, đối với người theo nghĩa từng chữ có thể hiểu nghĩa
thứ nhứt, nhưng nghĩa thứ hai là ý nghĩa Huyền Bí, được mật truyền
cho Tín Đồ. Đó là sự trình
bày chủ nghĩa Nhất Thần một cách đúng đắn. Không thể có nhiều
Thượng Đế, mà chỉ có một Đức Thượng Đế duy nhất xứng đáng với danh hiệu ấy và sự tôn thờ của
chúng ta. Nếu sự giải thích theo Bí Truyền đó đúng, nó sẽ hợp thành một sợi dây liên lạc
mật
thiết với Ấn Độ Giáo là một Tôn Giáo nói về “Đấng Độc Nhất vô nhị,” Đấng Độc Nhất
vừa có cái hữu (being) và cái vô (non-being) trong đó.
Tất cả đều vô thường
nơi con người, ngoại trừ cái tinh hoa thuần khiết của Alaya. Con
người là một tia sáng trong suốt của nó, một làn ánh sáng
tinh khiết bên trong, một hình tướng bằng cát bụi Hồng Trần bên ngoài. Tia sáng đó là người
hướng đạo cuộc đời con và là Chơn Ngã của con, là Đấng Canh Chừng và Đấng Im Lặng suy tư,
nạn
nhân của Cái Ngã thấp kém của con. Linh Hồn con chỉ có thể bị thân xác vô minh
của con làm tổn hại thôi; con hãy điều khiển và chế ngự cả
hai, rồi con sẽ vượt qua “cánh cửa thăng bằng” sắp tới một cách bình an.
Chỉ có Đấng Duy Nhất mới vĩnh cửu. Bản Ngã của con
người
rất ngắn ngủi - nó chỉ kéo dài đến cuối thời kỳ tại Cõi Thiên Đàng của
nó. Chơn Nhơn thì sống qua nhiều kiếp Luân Hồi của con người,
có thể trải qua trọn Dãy Hành Tinh của chúng ta. Chơn Thần chắc chắn
tồn tại lâu hơn, nhưng chính nó cũng vô thường. Chỉ có Đấng Duy Nhất trường tồn.
Nhưng
không phải vì thế mà chúng ta bị mất. Chúng ta có thể nói theo Emily Bronte:
Địa Cầu và con người sẽ biến mất,
Các Ngôi Mặt Trời và Vũ Trụ
sẽ không còn nữa,
Và Bạn sẽ bị bỏ lại một
mình,
Nơi quý Bạn sẽ còn tất cả
Sự Sống.
Chơn Thần trong con người là một Tia Lửa Thiêng Liêng độc nhất, nếu để ý theo thời
gian, thì dường như nó vẫn luôn luôn tiến hoá. Chúng ta có thể nói với tất cả
lòng tôn kính rằng chính Đức Thượng Đế hình như cũng tiến hoá như thế. Nếu chúng ta quan
niệm Thượng Đế là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn chấp nhận, tuy nhiên về phần Ngài, Thái Dương
Hệ chỉ
là bước
đầu chứ chưa phải là mức cuối cùng, vì hệ thống nầy đối với Ngài chỉ
là một kiếp Luân Hồi.
“Hình tướng bằng
cát bụi Hồng Trần” thì giúp ích con người để phát triển Tia Sáng Linh Quang ấy ở Y. Phần vật chất không thể
xâm phạm đến Tia Sáng Linh Quang ấy, nghĩa là không bao giờ làm hại nó một
cách tích cực, nhưng nó có thể làm cho tia sáng ấy nảy nở mau hay chậm hơn, như vậy
có nghĩa là Tia Sáng Linh Quang có thể được giúp đỡ hay bị làm hại. Do đó,
người ta mới gọi nó là nạn nhân của Tiểu Ngã.
Ở đây
cửa thứ tư được gọi là
cửa thăng bằng, vì nó phù hợp với nguyên lý trung độ trong con người.
Vấn đề là luôn luôn
biết cái nào sẽ thắng, cái bên trong hay là
cái bên ngoài. Sau khi phát triển và thanh lọc các Thể thấp của mình
- Thể
Xác, Thể Vía và Thể Trí - lúc bấy giờ thí sinh phải hướng những sự cố gắng của Y lên các Thể cao để phát triển
chúng, đó là mục đích chính của Y.
Hãy can đảm lên,
hỡi kẻ
hành hương dũng cảm muốn đến bờ bên kia. Con chớ nghe tiếng thì thầm của bè lũ Ma Vương; hãy
tránh xa những kẻ cám dỗ, những hung thần, những Lhamayin ganh tị trong không gian vô tận.
Theo một chú thích, bọn Lhamayin là những Tinh Linh và Ác Quỷ, kẻ thù nghịch
của loài người. Không có sinh vật nào làm ác chỉ vì điều ác, nhưng
có vài Tinh Linh rất nguy hiểm
đối với loài người: Chúng có đời sống riêng của chúng, nhưng chúng ta hay làm
phiền chúng. Các Tinh Linh giống như thú rừng, không phải là kẻ thù của loài người,
nhưng chúng không thích con người đi vào địa phận của chúng và chúng hay thù
oán loài người vì chúng bị đối xử độc ác.
Tinh
Linh trong Thiên Nhiên là những tạo vật vui vẻ.
Chúng ta có thể trách cứ chúng nhiều nhất vì chúng chơi những trò tinh quái nhỏ
nhặt, không tốt đẹp đối với những người là nạn nhân của chúng. Chúng không thích
con người vì họ hay làm nhiều điều khả ố và quấy rầy chúng. Chúng sống một cách
sung sướng
và thoả thích ngoài đồng áng. Thú vui của chúng là nô đùa với những thú rừng
còn tơ. Chúng mến những con thú ấy như chúng ta thích hoa và cây cối.
Chúng rất ngây thơ và không hề lo âu. Chúng không cần làm việc để lo
ăn, lo mặc như con người, vì chúng không có nhu cầu.
Con
người đã đột nhập vào chốn rừng núi thần tiên ấy. Họ rượt bắt và giết chóc thú rừng là bạn
thân của chúng. Họ hạ những cây cối mà chúng thương yêu để cày đất hoặc cất
nhà; họ làm ô uế không khí bởi hơi rượu và khói thuốc. Cảnh an lạc của chúng trở thành một bãi sa
mạc ghê tởm, bắt buộc chúng phải lánh xa. Chúng có thể còn đôi chút cảm tình đối với nhà Nghệ Sĩ khi người chứng
kiến những cảnh đẹp bị tàn phá và làm cho xấu xa bởi những nhà máy với
những ống khói nhả khói đen và chất hơi đã giết chết cỏ, hoa và cây cối.
Chúng
ta gọi hiện tượng đó là sự tiến bộ; nhưng các Tinh Linh trong Thiên Nhiên lại thấy khác, vì nơi cư ngụ của chúng bị phá
hoại và bạn bè của chúng bị chết chóc.
Đó
là lý do tại sao các Tinh Linh trong Thiên Nhiên hay lẫn tránh con người và nếu có một người đi
du ngoạn trong rừng hay rảo bước trên một đường mòn, chúng liền lẫn trốn khi
Y đến gần chúng. Người ấy có thể
khắc phục được sự oán ghét của chúng, cũng như đôi khi người ta chế phục được
tính nhút nhát của thú rừng. Một nhà Yogi ngồi tham thiền có thể vuốt
ve những con thú đến gần Y. Bạn hãy ra đồng và bạn nằm dài không cử động chừng một
hoặc vài giờ, những loại thú rừng nhỏ như sóc hay chim sẽ đến thật gần bạn.
Cũng giống
như thế, nếu bạn trú ngụ lâu tại một vùng nào đó, lần lần các Tinh Linh sẽ khám phá
ra bạn là một mẫu người hiền lành vô hại; đến một ngày kia,
chúng sẽ sẵn sàng làm quen với bạn. Chúng sẽ nhảy nhót chung quanh bạn và rất
hãnh diện được làm bạn với một người. Trên Cõi Trung Giới các sinh vật đó
coi con người như những kẻ xâm chiếm khó chịu và nguy hiểm, cũng giống như một đạo
binh xâm lược đối với chúng ta. Do đó chúng mới làm cho những người đến phá chúng
phải sợ. Nhưng chúng không phải là những kẻ cám dỗ. Một phần lớn những hình tư tưởng xấu
xa do chính con người tạo ra mới giữ vai trò đó.
Nhiều người, đôi
khi được gọi là những kẻ tà đạo đã tìm cách chống đối lại sự tiến
bộ tinh thần của Nhân Loại, họ đã tin rằng những cảm xúc cao thượng của
chúng ta xấu xa và trong đó còn lưu lại những tình cảm và dục vọng thuộc bản
chất thấp hèn. Những hạng Phù Thuỷ ấy có thể chú ý đến một người ở trong
một vị thế đặc biệt không, và phải chăng người tiến hoá cao trên Đường Đạo vẫn bị ảnh
hưởng của họ? Họ có thể cho là người tà giới khi họ dùng một Tinh Linh chọn sẵn để
lay chuyển Y hầu làm cho Y bị rối loạn để ngăn
trở công việc của Đức Thầy. Đó là việc gần giống như Ma Quỷ cám dỗ mà người Thiên
Chúa bình dân thường tin tưởng. Tuy nhiên không có người chí nguyện nào phải sợ
những tấn
công đó, vì bọn Tà Đạo bất hảo nhất cũng không thể ảnh hưởng hay lợi dụng
được một
người có ý chí cứng rắn chỉ nghĩ đến công việc của Chơn Sư và không hề nghĩ đến
mình.
Hãy đứng vững
vàng! Bây giờ con đã đến gần cửa giữa, cửa của đau khổ với muôn ngàn cạm
bẫy.
Hãy
làm chủ tư tưởng của con, hỡi kẻ phấn đấu để đạt sự toàn thiện, nếu con muốn vượt qua cửa đó.
Hãy
làm chủ Hồn con, hỡi kẻ đi tìm Chân Lý bất tử, nếu con muốn đạt đến mục đích.
Hãy
tập trung cái nhìn của Linh Hồn vào ánh sáng tinh khiết duy nhất, thứ ánh sáng
không gì kích thích được và hãy đem Chìa Khoá Vàng của con ra mà sử dụng.
Đức Aryasanga nói thật đúng về muôn ngàn cạm bẫy,
vì thường thí sinh tin rằng mình đã đạt được tính đoạn tuyệt hay từ bỏ, sẽ
thấy nhiều
cái bẫy giống y như thế tái hiện một cách khó phân biệt và lúc
nào cũng bám sát theo bước chân của Y. Chính Linh Hồn hay Thượng Trí phải được Thể Bồ Đề
chế ngự.
Như chúng ta đã thấy, đời sống tại Cõi Bồ Đề bắt đầu từ Cuộc Điểm
Đạo lần thứ Nhứt, nếu không được sớm hơn, và thí sinh vào Cõi Bồ Đề rồi sẽ tiến
lên từ Cảnh nầy đến Cảnh khác. Muốn cho sự thăng tiến nầy được hoàn toàn, chính
Linh Hồn hay Thượng Trí phải tham dự vào và trở thành kẻ phụng
sự cho Nguyên Lý cao siêu đó.
Công việc nầy hoàn tất, thí sinh mới sẵn sàng đi vào Cõi kế đó; Y sẽ được Điểm Đạo lần thứ Tư và sẽ vượt qua
một ngưỡng cửa mới.
Ý
nghĩa thật
sự của Vairagya ở đây là Ánh Sáng không gì kích thích được, Ánh Sáng không thể bị lu mờ.
Công việc khó khăn
đã hoàn tất, sự nhọc nhằn của con hầu như đã chấm dứt. Cái hố rộng há miệng
để nuốt gần như đã vượt qua khỏi.
. . . . . . .
Bây
giờ
con đã qua khỏi hào thành bao quanh cửa nhân dục. Bây giờ con đã
thắng được Ma Vương và lũ bộ hạ hung hăng của nó.
Con
đã rửa
tâm con sạch hết vết nhơ và con đã nặn ra hết máu của dục vọng ô trược.
C.W.L.- Công việc khó khăn đã gần như hoàn thành đối với thí sinh; chúng ta nên hiểu
cho thật đúng nghĩa câu ấy. Đấng Nirmanakaya ở trên địa vị vô cùng cao cả vẫn còn làm việc,
và người ta có thể nói chính Đức Thượng Đế cũng vẫn làm việc.
Nhưng có lẽ chúng ta phải phân biệt công việc khó nhọc để khai trừ những
tật xấu của Phàm Nhơn với công việc vinh quang được theo đuổi trên các Cõi cao,
khi Phàm Nhơn đã được chế ngự.
Đối
với những cố gắng, chúng ta cũng cần phân biệt như thế. Sự làm việc
không ngừng là một thử thách khó khăn đối với xác thân, nhưng trên Cõi của
Linh Hồn, sự làm việc là một lạc thú hoàn toàn; ở đó không hề
có sự khác biệt giữa việc làm và trò chơi như chúng ta biết tại các
Cõi thấp. Khi một người thấy được sự hy sinh vĩ đại của Đức Thượng
Đế và cách mà các Vị Chơn Sư tận tuỵ với công nghiệp của các Ngài, Y không thể không dấn thân
vào công việc đó và hết lòng trợ giúp theo khả năng mình.
Ở đây
còn vấn đề một người chưa hoàn toàn trong sạch, vì Y còn mang nhiều dấu vết ích kỷ.
Một tư tưởng còn một chút dấu vết đó vẫn là chưa trong sạch, dù có nhiều đức
tính tốt khác. Đó có thể là một cảm thức kiêu căng nhỏ nhặt như: “Người ta sẽ nghĩ
tốt về mình nhờ việc làm nầy.” Trên con Đường Đạo dẫn đến các Cõi cao siêu, đó là điều mà
người ta gọi là thiếu trong sạch.
Chẳng những chúng
ta phải xa lánh nó, mà còn phải làm sao cho nó đừng bao giờ xâm phạm đến chúng
ta nữa.
Nhưng hỡi chiến sĩ
quang vinh, công việc của con chưa hoàn tất. Hỡi Đệ Tử, hãy xây cao tường
thành vây quanh Thánh Đảo, cái đập giữ cho trí con khỏi kiêu căng và tự
mãn, vì cho rằng đại chiến công đã hoàn thành.
Một
cảm thức kiêu căng sẽ làm hư hỏng công nghiệp. Đúng thế, con hãy xây đắp cho thật chắc,
vì e sợ
những lượn sóng hung dữ từ biển cả của Ma Vương bao trùm Vũ Trụ ào đến đập vào bờ của
con, cuốn mất kẻ hành hương và Thánh Đảo, dù lúc đó con đã thắng trận rồi.
Đảo
của con là Con Nai, tư tưởng của con là bầy chó cứ quấy nhiễu và theo đuổi
nó mãi trong khi nó chạy đến dòng sông của Sự Sống. Khốn nạn cho
Nai nếu Bầy Chó Quỷ theo kịp nó trước khi
nó đến thung lũng trú ẩn, gọi là
“Jnana-marga,” “Con đường hiểu biết trong sạch.”
Muốn đứng vững trong vị thế của mình để
chống lại áp bức tư tưởng thật lớn lao của hàng triệu kẻ khác – áp lực mà chúng tôi
thường đề cập đến – lúc bấy giờ người chí nguyện cần phải có một sự tập trung mãnh liệt
và một cái trí thật sự mạnh mẽ. Sức mạnh rất cần thiết cho Y trước khi có thể
thực hành sự tham thiền một cách hữu hiệu. Phép tham thiền đó
sẽ đưa Y lên đến đỉnh cao
tột của Cõi Bồ Đề.
Bà
Blavatsky nói “Thánh Đảo” là Chơn Nhơn cao cả hay Cái Ngã suy tư. Mọi tư tưởng thấp
hèn đều phải loại trừ để cho Chơn Nhơn có thể biểu lộ. Tuy nhiên điều
nầy không khác với tình trạng đồng cốt bao nhiêu. Trục xuất ra khỏi
một nơi hay cho phép được xâm nhập vào nơi ấy thật khác nhau rất xa; đó chính
là sự khác biệt giữa nhà Yogi và người đồng cốt. Đó cũng chính
là chỗ phân biệt giữa người Thông Thiên Học và nhà Thần
Linh Học. Cả hai đều nhìn nhận rằng con người vốn trường cửu
và sự
tiến hoá của nó vô hạn, nhưng người thứ hai nghĩ rằng đối với con
người điều hay hơn cả là nên làm đồng cốt cho những Thần Linh tốt, trái lại, người thứ nhứt
cho rằng trong mọi hoàn cảnh con người đều phải giữ gìn tâm thức của mình cho được
trong sạch và tích cực và chủ trương rằng mọi thứ gì mà đồng cốt tiêu cực có thể thực
hiện, thì ý thức sáng suốt có thể ban cho chúng ta.
Đức
Aryasanga nói: “Khốn nạn cho Con Nai nếu nó bị theo kịp”
có nghĩa là khổ cho Chơn Nhơn nếu nó để cho những thành kiến lôi cuốn, vì không
thể chống
lại với áp lực của những tư tưởng bên ngoài. Nó không thể đạt đến
Cõi tư
tưởng chơn thật. Bà Blavatsky nói về con đường của sự hiểu biết trong sạch (Jnana-marga) như
sau: “Theo
nguyên nghĩa đó là con đường Jnana (Trí Huệ), con đường hiểu
biết trong sạch, của Paramartha hay của Svasamvedana (theo
tiếng
Sanskrit), là sự phản ảnh hiển nhiên nơi tự thân, kẻ phân tích
Tiểu Ngã.” Đối với người Ấn Độ, Jnana là sự hiểu biết cao cả, Minh Triết, nó không phải là kiến thức
thấp kém có đối tượng dưới Thế Gian được gọi là Vijnana (Thức).
Trước khi con có
thể trú ngụ trong Jnana-marga và gọi nó là con đường của con,
Linh Hồn con phải trở nên như trái xoài chín: Phải ngọt dịu như
thịt trái xoài vàng đẹp đối với những đau khổ của kẻ khác, cũng như phải
cứng rắn như hột xoài đối với những nỗi sợ hãi, phiền não của chính con, hỡi kẻ
chinh phục hạnh phúc và đau khổ.
Hãy
luyện cho Linh Hồn con cứng rắn đối với những mưu toan quỷ quyệt của Phàm Nhơn; hãy làm cho nó
xứng đáng với danh hiệu Linh Hồn Kim Cương.
Viên
Kim Cương bị vùi sâu trong lòng đất không thể phản chiếu được ánh sáng của Trần Gian; cũng thế,
khi Linh Hồn và trí con chìm sâu trong Jnana-marga, cũng sẽ không thể
phản chiếu được ảo ảnh nào của Ma Vương.
Về sự phiền não cá nhân của chúng ta, ông
Longfellow đã ca ngợi như sau:
Bây giờ nó đã rời ta.
Nó đang ở dưới
đáy sâu của biển cả,
Còn những nỗi khổ
nhọc của kẻ khác
Chỉ có hình
bóng của chúng bao phủ lấy ta thôi.
Chúng
ta phải làm sao hay hơn nữa và đừng để cho bóng dáng của bất cứ sự đau khổ nào bao
phủ chúng ta. Khi bạn lo nghĩ đến nỗi thống khổ của kẻ khác, chẳng những bạn
không giúp đỡ được cho Y, mà bạn còn gia tăng mối buồn phiền của Y. Trái lại, nếu bạn
tỏ ra có thiện cảm thật sự với Y, bạn hãy biểu lộ tình thương và bạn hãy tích cực giúp
đỡ người anh em của bạn. Đức Thầy luôn luôn tỏ lòng thiện cảm mà không
bao giờ sầu muộn. Ngài không thể đau khổ, mặc dù Ngài là một với những kẻ đau
khổ, vì
là một với họ. Ngài biết được sự an vui của đời sống
trên các Cõi cao và sự vinh quang không thể tả tại Cảnh Giới mà
họ sắp tiến đến một cách chắc chắn tuyệt đối.
Đối
với đa
số người vẫn có sự nguy hiểm. Khi họ khai trừ sự phiền não ra khỏi lòng họ đồng thời với một
khuynh hướng làm mất luôn thiện cảm của họ; trong trường hợp nầy họ có thể lạc
qua con đường Tà Đạo, con đường Bàng Môn Tả Đạo. Những anh em
trong bóng tối đều hoàn toàn lãnh đạm đối với tình cảm của kẻ khác, cũng như tình cảm
của chính họ; họ dập tắt tất cả những tình cảm không chút xót thương; họ chỉ nhìn thấy
phung phí năng lực trong việc đó.
Khi
con đạt đến trạng thái ấy, thì những cửa mà con phải vượt qua sẽ mở rộng cho
con qua, và những uy lực dũng mãnh nhất trong Thiên Nhiên cũng không
thể ngăn cản con được. Con sẽ làm chủ con đường bảy ngả; nhưng con không thể
hoạch đắc trước khi đạt đến địa vị đó, hỡi cử tử của những cuộc
thi khó khăn không thể diễn tả nổi.
Những bài thi không thể diễn tả đó có thể không phải
là những sự nguy hiểm và khó khăn khá lớn lao không thể mô tả, nhưng đó là một bài thi mà
người Thế Gian không thể hiểu và chỉ có
Chơn Nhơn mới biết thôi. Con đường mà Đức Aryasanga đề ra cho các Đệ Tử Ngài là con đường nội tâm đối với Chơn
Nhơn. Khi
Phàm Nhơn đã bị chế ngự tại các Cõi Giới bên ngoài, thì Chơn Nhơn còn phải
leo lên những Cõi cao hơn nó; nó phải hoàn thành một công tác không thể mô tả được.
Cũng có thể giải
thích theo một lối khác như sau: Thí Sinh có thể khám phá thấy Y có thể làm những gì
trên sức Y. Như thế người thường có thể nói, chẳng hạn lòng vị tha và sự tinh
khiết mà chúng ta đã đề cập đến nhiều lần không thể vừa sức Y; cái đức tính đó
hoàn toàn không thể đạt được, mà chúng được khuyến cáo phải đạt đến chỗ hoàn
toàn. Nhưng
đến một ngày kia, nếu Y cố gắng hoạch đắc được các đức tính nầy và không để
cho sự
ham muốn cũng như những cố gắng của Y suy giảm, thì Y sẽ thấy sự thành
công hoàn toàn tự nhiên và dễ dàng.
Khi
người ta tuyên bố một việc gì không thể thực hiện được, Y không chịu cố gắng,
nhưng chúng ta nên noi gương Hoàng Đế Nã Phá Luân, hãy xoá bỏ chữ Không Thể trong ngôn ngữ
của chúng ta. Đối với người đọc trang nầy, không phải là việc đạt đến
quả vị Chơn Tiên trong 24 tiếng đồng hồ không thể được; Y có thể đạt đến
quả vị ấy nếu Y có đầy đủ ý chí; nhưng ý chí ấy hầu như không ai
có. Chúng ta hãy gác qua vấn đề thời gian; độc giả có thể đạt
quả vị Chơn Tiên với điều kiện là Y đừng xao lảng mục đích và chí hướng về đó mà
không nghĩ đến thời gian trôi qua rồi Y sẽ được toại nguyện một cách nhanh chóng.
Từ
đây đến đó, một công việc hết sức khó khăn đang chờ con; con phải cảm thấy
chính con là tất cả tư tưởng, tuy nhiên con phải đuổi tất cả tư tưởng
ra khỏi Linh Hồn con.
Con phải đạt đến
trạng thái tâm trí cố định mà trong đó không có một luồng gió nào, dù mạnh
đến đâu cũng không thể đưa một tư tưởng Phàm Tục nào tới nơi nầy được. Được thanh lọc như
thế, Thánh Đường phải thật trống
rỗng, không còn một hành vi, một âm thanh, một ánh sáng Thế Gian nào, như con bướm gặp phải
gió lạnh, té chết ngay nơi ngưỡng cửa, vậy tất cả tư tưởng phàm tục phải té chết trước
Thánh Đường.
Trước
khi ngọn lửa vàng có thể cháy sáng rực rỡ, cây đèn phải để trong chỗ kín đáo, nơi không có ngọn
gió nào thổi đến.
Đó là lối mô tả phép tập trung tư tưởng một cách thi vị.
Thượng Trí được chú định một cách hoàn toàn, dù trên Cõi Thượng Thiên, cũng
không có gì ở bên ngoài có thể xâm nhập vào được. Tập trung tư
tưởng đồng nghĩa với Dharana, được đề cập trong Phần thứ Nhứt, mặc dù trong
Dharana, có thể gọi là Virya, nghĩa là sức mạnh, nhưng đó không phải là sức mạnh
của thân xác, mà chính là sự dũng mãnh bất khuất và vững vàng của Chơn Nhơn.
Trong
Phần thứ Nhứt, Dharana được gọi là giai đoạn
thứ sáu, nhưng ở đây Virya là cửa thứ năm. Vẫn không có sự lầm
lẫn nào trong hai thứ
tự nầy, vì cửa thứ năm đưa đến giai đoạn thứ sáu; đó là giai đoạn mà con
người đem ra thi hành đức tính mà Y đã hoạch đắc được trong giai đoạn thứ năm, để được
thu nhận vào giai đoạn thứ sáu, sau khi đã vượt qua cửa thứ năm.
Đức
tính đó cũng được dùng như chiếc chìa khoá để đi vào Cõi Bồ Đề. Đạt đến
trình độ nầy, trong phút chốc con người làm cho sự hoạt động của Thượng
Trí trở nên yên tịnh và lúc bấy giờ thay vì đồng hoá với tư tưởng của mình, Y cảm thấy chính
mình là tư tưởng đó; Y trở thành một với những kẻ đồng loại của Y và tư tưởng của họ là
tư tưởng của Y. Trong giai đoạn nầy Y cảm thấy được
tính chất duy nhất của Đức Thái Dương Thượng Đế. Và lúc bấy giờ đối với Y, Ngài là một thực
tại cụ thể, một kinh nghiệm trực tiếp, chứ không phải là một
ý niệm đẹp đẽ hay một cảm hứng sống động nhất thời. Tất cả điều nầy sẽ đi vào
óc xác thịt nhiều hay ít, đó là việc khác; một phần lớn
không thể vào được. Phép tập trung và tham thiền ở trình độ cao nầy thường
xảy ra ở ngoài xác thân, trong lúc ngủ.
Chúng ta thường
nói đến cuộc tranh đấu với những tư tưởng và tình cảm dưới Thế Gian. Đó là giai đoạn mà chúng ta xem chúng như ngang hàng
với
chúng ta, nhưng trong giai đoạn hiện tại, chúng đã ngã gục chết trước ngưỡng cửa của
hào quang. Các Thể rung động mãnh liệt đến nỗi những hình tư tưởng thấp thỏi bị giạt qua một bên
và không thể xâm nhập vào. Tại Cõi Trần, chúng ta có nhiều thí dụ chứng minh điều
đó. Khi một bánh xe quay chậm, bạn có thể ném một quả cầu vào giữ căm của nó; nhưng
nếu nó quay nhanh, bạn không thể làm như thế được. Nếu một vòi nước
phun thật mạnh, bạn không thể chặt đứt nó bằng một lưỡi gươm,
vũ khí ấy bị dội ngược lại như chạm phải một vật cứng. Một chuyện Thần Thoại được nhiều
người biết nói về một người đứng dưới một cơn mưa, Y có thể múa gươm thành những vòng tròn trên đầu
nhanh đến nỗi không một giọt nước nào có thể xuyên qua và rơi trên mình Y.
Dẫn
chứng về
ngọn đèn được rút trong Bhagavad Gita. Kinh ấy cũng cho rằng: “Người nào tham
thiền say mê trong phép Yoga về Chơn Ngã sẽ trở nên nhà Yogi.”[57] Và “Trước khi được thấy Chơn Ngã, Y bằng lòng sống trong đó, Y đã tìm thấy sự an lạc tuyệt
vời mà Y nghĩ rằng ngoài
nó không có sự lợi lạc nào lớn lao hơn nữa, và Y không còn bị lay chuyển,
dù đứng
trước một sự đau khổ lớn.”[58]
Kinh
nghiệm đó là một trực giác thực sự của Nhà Yogi vì nó
phát xuất từ bên trong, từ một vùng của bản thể còn thâm sâu hơn các Cảnh của Cõi Thượng
Thiên. Một trực giác như thế sẽ truyền vào Phàm Nhơn như thế nào? Điều nầy tuỳ
thuộc mẫu người kinh nghiệm nó. Có hai cách di chuyển chánh; trong cách thứ nhứt, trực giác
ấy từ Cõi Thượng Thiên đi xuống Cõi Hạ Thiên; trong cách thứ hai nó đi xuống
trực tiếp từ Cõi Bồ Đề đến Cõi Trung Giới.
Sự
dễ dàng tương đối của lối di chuyển thứ nhứt hay thứ nhì tuỳ thuộc vào cách
con người thoát kiếp thú nhờ ý chí muốn hiểu biết mạnh mẽ; những người khác nhờ ảnh hưởng của một
cảm xúc cao thượng, có thể là tình thương mến đối với người chủ.
Trong cách di chuyển thuộc loại thứ nhứt trực giác đi vào trong Hạ Trí như một
sự tin chắc, không đòi hỏi một lý luận nào để xây dựng Chân Lý của mình trong
hiện tại, mặc dù Chân Lý đó phải được hiểu hoặc trong những kiếp trước,
hoặc ngoài Thể Xác, trên Cõi Hạ Thiên. Trong trường hợp con người được
đầu thai làm người nhờ sự cảm xúc, trực giác được tiếp nhận không theo đường trí thức mà
theo đường tình cảm.
Dù
trong trường hợp nầy hay trong trường hợp kia, trực giác không thể
xuống một cách dồi dào nếu các Thể không được định tỉnh. Điều nầy giống như
sự di chuyển âm thanh trong âm nhạc; âm thanh không những truyền đến chúng ta qua
không khí mà còn xuyên qua một lớp tường dày, nó có thể suy giảm trong
một mức độ nào đó và có thể trở nên khác xa với lúc phát ra. Nếu nó đi xuyên
qua một vùng rối loạn nào đó - như một trận bão chẳng hạn - âm giai sẽ trở
nên kém rõ ràng hơn nữa. Sự so sánh sau cùng rất thích ứng với trường
hợp Thể Vía và Thể Trí bị xáo trộn dữ dội.
Và
lúc bấy giờ, hỡi kẻ theo đuổi Chân Lý, Hồn con sẽ như con
voi điên cuồng gây náo loạn trong rừng. Lầm tưởng cây rừng là kẻ thù của nó, nó
phải vong mạng trong khi lao đến chém giết những bóng cây lung linh trên vách đá phơi mình dưới
ánh Mặt Trời.
Trong rừng rậm, tôi không biết sự việc có xảy ra
như thế không, nhưng ý tưởng trên cho biết rõ là khi Con Voi trở nên điên
cuồng, nó tưởng cây cối là kẻ thù của nó, hoặc tệ hơn nữa, nó đâm
đầu vào các tảng đá và bỏ mạng. Cũng thế, nhiều người có thể nhận thấy năng
lực mới
được
khơi động từ Chơn Ngã tuôn xuống, Cái Trí nổi loạn một cách hung
hăng vô cùng để chống lại với
chủ mới của nó; trong sự kiêu căng và kinh hãi, nó không thể từ bỏ sự độc lập
của nó đã hưởng thụ từ lâu. Rồi nó điên cuồng, ngờ vực và nghi kỵ, nó bỏ những
nơi ẩn náu cuối cùng của mình và quay lại chiến đấu với ánh sáng, vì nó
cho rằng mỗi tia sáng là một kẻ thù của nó. Cái Trí là sào huyệt
của sự kiêu căng và cái mà nó chấp chứa trong đó cũng nổi lên như
khí giới chống lại cấp trên của nó, như những người ngược đãi Chúa Kitô đã nổi lên chống
lại và giết chết Ngài, vì họ không chịu nổi sự khiết bạch và cao cả của Ngài, so với bản chất
thấp hèn của họ.
Hãy coi chừng vì
quá lo lắng cho Chơn Ngã mà Linh Hồn phải hụt chân trên mảnh đất tri thức của
Deva.
Hãy
coi chừng vì lảng quên Chơn Ngã mà Hồn con mất uy quyền kiểm soát Cái Trí
run rẩy,
và như thế sẽ bị mất kết quả chính đáng của công lao chiến thắng.
Tri thức của Deva có nghĩa là, vì bản chất tối cao,
kiến thức thiêng liêng là nền tảng của mọi sự biểu hiện. Thí Sinh bận tâm tìm
hiểu xem mình có đi đúng đường hay không sẽ gặp sự nguy hiểm
là không phải Y trở nên ích kỷ, nhưng lại rút lui về với chính
mình. Ở
đây có một sự phân biệt rõ ràng giữa hai điều nầy. Không một ai trong chúng ta muốn chiếm hữu một
vật nhỏ mọn nào để gây thiệt hại cho kẻ khác. Một khuyết điểm như thế sẽ tương ứng với
màu nâu xám trong hào quang. Nhưng vẫn có sự nguy hiểm trong việc rút lui về với chính mình, vì
quá xem trọng những vật riêng tư của mình. Trong trường hợp nầy một vật cứng sẽ hiện
ra trong vùng ngoại biên hào quang để chống lại sự xâm nhập của những cảm
giác.
Có
một sự báo hiệu khác liên quan đến Cái Ngã duy nhất mà chúng ta không được
quên. Người chí nguyện phải luôn luôn nhớ rằng tất cả là một, và trong mỗi người đều có Cái
Nhứt Thể Thiêng Liêng. Đó là điều phải học thực hành tại mỗi Cõi trên phương
diện thể xác, con người phải sạch sẽ, lương thiện và ngay thẳng để kẻ
khác không bị truyền nhiễm; về phương diện tình cảm và trí tuệ, những tình cảm
và tư tưởng của Y phải trong sạch và cao thượng, không phải để Y thoả mãn với
chúng mà vì lợi lạc cho những người chung quanh.
Hãy đề phòng sự
thay đổi,
vì sự thay đổi là kẻ đại thù của con. Sự thay đổi sẽ tấn công
con và ném con ra khỏi con đường mà con đang tiến bước, để con rơi xuống đầm lầy
của sự
hoài nghi.
Trước hết lời khuyên hãy đề phòng sự thay đổi khiến
chúng ta hơi ngạc nhiên, nhất là chúng ta nhớ lại rằng luôn luôn chúng ta đang
thay đổi và trong khi đi trên Đường Đạo chúng ta phải trở nên con đường
đó. Như thế chúng ta vẫn phải chuyên chú vào sự thay đổi đó của mình. Ở đây
chúng ta nên biết rằng trong giai đoạn đổi thay, chúng ta không nên thay đổi nền tảng,
thái độ chính yếu của mình. Có một thời gian chúng ta phải chịu thử thách, đó là lúc người
ta phải từ bỏ những đối tượng dưới Thế Gian trước kia họ đã quá quý trọng, mà chưa nghĩ đến tính
cách cao cả của Công Nghiệp Tinh Thần. Trong những giờ phút đặc biệt mà chúng ta cảm
thấy sáng suốt nhất những Công Nghiệp ấy sẽ hiện
ra với chúng ta, nhưng không lâu, và chúng ta lại rơi vào trạng
thái tinh thần khô khan mà nhiều Nhà Thần Bí đã đề cập đến. Điều cần thiết là
duy trì được thị kiến đó giữa tất cả những sự thăng trầm và không thay đổi thái
độ
chính yếu của chúng ta. Những sự thay đổi đó có thể do nhiều nguyên nhân sinh
ra. Đôi
khi do sự sung huyết hay thiếu máu chút ít trong bộ óc cũng đủ gây ra. Ảnh hưởng
đó tác động trên các Thể thấp, nhưng chúng ta không nên để cho nó phạm đến con người
thật của mình. Khi những sự biến động xảy
ra chúng ta nên nói rằng: “Ta đã biết điều nầy sẽ xảy ra. Ta biết đôi mắt ta
không thấy lầm. Bây giờ thị kiến đó phai mờ và ta bắt đầu nghi ngờ; nhưng chúng ta biết
rằng sự suy yếu đó sẽ chấm dứt; một sự biến động trong Thể Vía của ta sẽ là nguyên nhân
duy nhất của việc ấy.”
Có
khi chúng ta phải chịu thử thách thật nặng nề và thật khổ sở vì phải từ bỏ đức
tin tuyệt đẹp từ thời thơ ấu của mình, khi chúng ta nhận thấy rằng nó không phù
hợp với
những sự thật của đời sống và không còn đáp ứng được với nhu cầu của trí khôn và
tình cảm. Bấy giờ chúng ta thường nghi ngờ tất cả, chúng ta giống như một con
thuyền không lái, và trong những trường hợp trầm trọng hơn, tình trạng nầy có thể
kéo dài trong nhiều kiếp. Chừng đó chúng ta phải nghe, đọc, suy tư và chọn các giả thuyết
giải thích những sự kiện đúng hơn cả cho đến một ngày kia sớm hay muộn gì sự
hiểu biết chắc chắn cũng sẽ đến với chúng ta, sẽ đánh tan sự ngờ
vực. Dĩ nhiên chúng ta không cần phải trải qua giai đoạn của thuyết hoài nghi.
Rất có
thể chúng ta nên từ bỏ những ý niệm phụ thuộc và dần dần nghiên cứu sâu rộng
Tôn Giáo của chúng ta cho đến khi bức thông điệp của Thông Thiên Học trở nên
sáng tỏ đối với chúng ta.
Con hãy chuẩn bị
và đề phòng đúng lúc. Nếu con đã cố gắng và bị thất bại rồi,
thì hỡi chiến sĩ bất khuất, con chớ nên ngã lòng; hãy tiếp tục chiến đấu.
Là
chiến sĩ
dũng cảm, khi xác thân bị thương trầm trọng, máu đào tuôn chảy, vẫn phải tiếp tục
tấn
công kẻ thù, đuổi Y ra khỏi chiến luỹ của mình, và
chiến thắng Y trước khi chính mình trút hơi thở cuối cùng. Vậy hãy
hành động, hỡi tất cả các chiến sĩ bị thua và đau khổ, hãy hành
động như những chiến sĩ dũng cảm đó, hãy đuổi ra khỏi thành luỹ của Linh Hồn mình
tất cả kẻ thù – tham vọng, sân hận, thù ghét, cho đến bóng tối của dục vọng – dù các con đã thất
trận . . .
Con
hãy nhớ, hỡi kẻ đang chiến đấu để giải thoát Nhân Loại: Mỗi sự thất bại
là một sự thành công và đối với thời
gian, mỗi sự cố gắng chân thành sẽ được thưởng công. Những mầm thánh thiện nẩy nở và tăng
trưởng trong Hồn người Đệ Tử ; những chồi trở nên cứng cáp thêm mỗi lần chịu
thử thách; chúng uốn mình như cây sậy nhưng không bao giờ gãy, mà cũng không
chết. Nhưng khi thời giờ đã điểm, chúng trổ bông . . .
Nhưng
nếu con đã chuẩn bị, thì bây giờ con chớ lo sợ.
Trong một chú thích được ghi nhận ở đây, Bà
Blavatsky đề cập đến một sự tin tưởng mà nhiều người đều
biết về một vị Thánh mới được nhận vào hàng ngũ của những người làm việc
để giải thoát Nhân Loại và trong những xứ theo Phật Giáo Bắc Tông, nơi
mà giáo lý các Đấng Nirmanakayas được đem ra giảng
dạy, mỗi Vị Tân Bồ Tát được gọi là “Đấng giải thoát Nhân Loại.” Dĩ nhiên
chúng ta phải nhớ rằng Bà nói đến tất cả những vị La Hán, chứ
không phải chỉ nói đến những Đấng Cao Cả được giữ chức vụ Bồ Tát thôi. Sự tiến bộ do mỗi
người thực hiện được là sự tiến bộ đối với tất cả.
Theo
con đường nầy Thí Sinh không nên ham muốn cái gì cho riêng mình. Ham muốn vinh diệu
cho chính mình là ích kỷ, vả lại từ lâu rồi người chí nguyện đã từng tranh đấu
quyết liệt chống lại với tất cả dục vọng như thế. Đệ Tử Chơn Sư không nên
nói: “Đâu là ý muốn của tôi?” mà phải nói: “Đâu là ý muốn của Sư Phụ tôi?” Khi chúng ta nghĩ
rằng chúng ta là những Tia Linh Quang của Thượng Đế, chúng ta có thể nghĩ đến ý chí
của Ngài. Chúng ta là những thành phần của Ngài; tách rời khỏi Ngài,
chúng ta không thể có sự vinh diệu nào cả; sự vinh diệu đối với chính
mình chỉ là một ảo tưởng hoàn toàn.
Đối với người trì
chí cố gắng, không phải sợ một sự thất bại nào cả. Có lẽ Y không thành công
đúng như Y đã dự định trong một lúc nào đó, nhưng một sự cố gắng
mãnh liệt không bao giờ mất đi, và vì sự tác động và phản động đều bằng và đối
nghịch nhau, thì mỗi dự định mới sẽ tác động trên chính nó và truyền nhiều sinh lực
trong tương lai. Ngoài ra, mỗi người nếu cố gắng đều phải thành công, vì chính Y đang ở trong
dòng tiến hoá. Y không biết bức thành kiên cố của chướng ngại do
Nghiệp Quả gây nên mà xuyên qua đó Y phải vượt qua và
đến lúc nào Y sẽ tìm thấy ánh sáng ở bên kia.
Trong
tình trạng nầy tuyệt vọng chỉ là hoàn toàn vô lý hoặc không chịu cố gắng vì lý do
chúng ta chưa đạt được một sự thành công cụ thể nào. Trong bài thơ tuyệt tác của
Frederick Myers, tức là Thánh Paul, chúng ta thấy có mấy câu sau đây:
“Hỡi con người ơi, tại sao ngươi lại thất vọng? Thượng Đế sẽ tha thứ cho ngươi tất cả,
nhưng Ngài sẽ không tha thứ cho sự tuyệt vọng của ngươi.” Tuyệt vọng
chính là phạm tội với Chúa Thánh Thần. Tuyệt vọng vì sức mạnh
của quí bạn cũng là tuyệt vọng vì sức mạnh của Ngài, bởi Ngài hành động qua bạn
và như thế là bạn ra tay xây dựng bức tường ngăn cách giữa Ngài với bạn.
Đức Aryasanga kể
cho Thí Sinh nghe gương người
chiến sĩ chiến đấu và đem lại chiến thắng trong lúc trút hơi
thở cuối cùng. Y phải dũng cảm đến phút cuối cùng và không bao giờ hèn yếu. Đấng chỉ giáo
biết rằng cái chết cũng không có gì là quan trọng, và chúng ta không
nên để ý đến nó trong công nghiệp của mình. Nó sẽ đến với mỗi người trong
chúng ta. Vài lão già có thể còn phải sống thêm vài năm nữa; trái lại nhiều thanh
niên sẽ bị chết đi thình lình. Chúng ta vẫn theo đuổi công việc của mình sau
khi chết cũng như chúng ta đã thực hiện nó trước đó vậy.
Từ
đây con đường của con đã quang đãng, đi thẳng đến cửa Virya, cửa
thứ năm trong bảy cửa. Bây giờ con đang ở trên đường dẫn đến
Dhyana, cửa thứ sáu tức cửa Bồ Đề.
Cửa
Dhyana giống như một cái bình bằng bạch ngọc trắng tinh và trong suốt, trong đó ngọn
lửa vàng cháy yên tịnh, ngọn lửa Bát Nhã chiếu ánh Atma.
Con là cái bình đó.
Ở đây chúng ta có hình ảnh tuyệt đẹp, đó là cái
bình bằng
bạch ngọc trắng tinh và trong suốt, trong đó một ngọn đèn bất động cháy rực rỡ. Hình ảnh ấy rất
thích hợp với Thể Bồ Đề tuyệt đối trong suốt và ở trình độ đó không có sức kháng cự nào
chống lại nổi với cái nhất thể của Sự Sống. Dhyana là sự
tham thiền cao siêu mà Nhà Yogi chìm đắm trong Thể Bồ Đề - sự tham thiền đó
nhằm tìm kiếm ý nghĩa thâm sâu nhất của sự vật, hoặc chú định tư tưởng
vào một Đấng Cao Cả và cố gắng tìm hiểu chính mình như một thành phần của Ngài.
Không còn kiến thức nào cần phải thu thập từ bên ngoài nữa. Nhà Yogi không
còn hướng ra ngoài và không xem đối tượng xa lạ với mình nữa, trong khi hợp nhất
với nó, Y đạt đến chỗ hiểu
biết được bản chất của sự vật và quán tưởng nó từ bên trong.
Con đã đoạn tuyệt với những
đối tượng của giác quan, con đã trải qua con đường của thính giác và con đường
của thị giác và con đứng vững trong ánh sáng của tri thức. Bây giờ con đã
đạt đến trạng thái Titiksha.
Hỡi
Nardjol,
con đã được bình an.
Như chúng ta đã thấy, cũng danh từ Titiksha nầy đã được dùng để
chỉ một
trong các đức tính cần phải có, một trong các yếu tố của hạnh kiểm tốt, có nghĩa
là nhẫn nại. Danh từ nầy còn được sử dụng ở trình độ cao hơn
nữa. Trong một chú thích Bà Blavatsky cho nó là “sự lãnh đạm tuyệt
đối”; sự khắc phục nếu
cần, đối
với cái mà người ta gọi là lạc thú và đau khổ của mọi người, nhưng không phải lấy
sự khắc phục đó để thoả thích hoặc đau khổ - nói tóm lại đó là trở
nên lãnh đạm và vô cảm đối với lạc thú cũng như đau khổ về phương diện thể xác,
tinh thần và tình cảm.
Tất
cả những điều nầy được diễn tả không thật rõ ràng. Thí Sinh không hành động
vì sung sướng hay đau khổ. Y chỉ làm những gì Y cho là bổn phận
của mình. Cũng như tất cả những người khác, Y còn cảm thấy
sung sướng và đau khổ trong các Thể của Y. Nhưng người ta
có thể nói rằng ở trình độ đó sự an vui của Y thật lớn lao, tư tưởng
của Y chú định rất vững chắc
trên mục
đích, mà sự vui sướng hay đau khổ không còn chi phối Y nữa. Đấng Christ vẫn cảm
động khi Ngài thốt lên: “Chúa ơi! Chúa ơi! Sao Chúa lại bỏ rơi con?” rồi trong lòng
Ngài lại vang lên những lời khác: “Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa đã làm cho con vinh quang biết bao!” Đó
là những gì tôi đã giải thích trong quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo,”
khi viết về Cuộc Điểm Đạo lần thứ tư.
Con
nên biết, hỡi kẻ chinh phục tội lỗi, mỗi khi một người Sowani đã đi qua
con đường thứ bảy, toàn thể vạn vật run sợ một cách vui sướng và phục tùng. Ngôi sao
bạc lấp lánh thông báo tin lành cho những đoá hoa nở đêm, suối tuôn chảy
thông báo cho sỏi đá; những ngọn hải triều đen ngòm gầm thét thông báo cho những tảng đá to đầy
đá ngầm bao bọc; ngọn gió nồng đượm mùi hương đang
ca hát, thông báo cho các thung lũng và những cây thông oai vệ thì thầm một
cách bí mật: “Một Đức Thầy đã tiến lên, một Đức Thầy của thời đại ngày nay.”
C.W.L.- Một Đức Thầy của thời đại ngày nay là Đấng được an toàn
trong suốt
chu kỳ hiện tại; vậy đây cũng là vấn đề được đề cập đến thí sinh đã được Điểm Đạo lần thứ
nhứt và những vị đã đạt đến bờ bên kia. Toàn thể vạn vật đều vui mừng trước biến cố
ấy như một sự kiện được diễn tả một cách tuyệt đẹp và thi vị ở đây. Lúc đó
nhiều người cảm thấy hân hoan không thể tả và đôi khi tinh thần rung chuyển lạ thường. Trong các Giống
Dân văn minh như chúng ta, đa số người cảm nhận được chút ít đối với biến cố ấy,
nhưng những người nhạy cảm có thể tự nhủ rằng: “Lạ thật, sao hôm
nay tôi cảm thấy sung sướng như thế nầy. Điềm lành nào có thể đã xảy ra đây?” Trong Thiên Nhiên cũng thế, cảm giác được
nhận
thấy vẫn là cảm giác phúc lạc chung.
Phần
nhiều người ta chỉ lo mở mang Cái Trí, do đó họ đã bị mất nhiều cảm giác;
cảm giác ít lệ thuộc vào sự phát triển Cái Trí bằng sự mở mang
tình cảm và cảm xúc. Những người cổ sơ thuộc hạng tiến bộ rất nhạy cảm, nhưng họ thường có
cảm giác một cách mơ hồ và bất định và không thể làm chủ được cảm
giác của họ. Họ nhận được nhiều ấn tượng và thường có thể tiên đoán được vài biến cố một
cách tổng quát. Tất cả điều nầy sẽ trở lại với chúng ta một cách rõ
ràng và chính xác ở một trình độ cao hơn, khi hình xoắn khu ốc xoay trở lại
trên chính nó, những cảm xúc cao thượng của chúng ta sẽ phát triển. Chừng đó chẳng những
chúng ta cảm nhận được một cảm thức khoan khoái và phúc lạc trong những trường
hợp quan trọng nầy, mà còn biết lý do của chúng nữa; chúng ta cũng biết từ trung
tâm nào phát sinh khúc hoan ca vĩ đại đó. Phần còn lại
trong Thiên Nhiên mà chúng ta đã
trải qua, đến nay chúng ta không còn quyến luyến những đối tượng vật chất đó như nhiều người
khác. Ngoại trừ sự ham muốn thoả mãn đói khát hoặc một nhu cầu vật chất nào khác,
trong một mức độ nào đó, con thú cũng cảm thấy vui mừng như thế.
Mục
tiêu quan trọng của Hội Thông Thiên Học ít quan tâm đến sự phát triển
Thể Trí mà chỉ lo giúp đỡ con người có đủ khả năng đáp ứng với những ảnh hưởng
thuộc Cõi Bồ Đề, đánh thức sự mẫn cảm trên cao điểm hình xoắn ốc
của Hội Viên; sau cùng chuẩn
bị cho Nhân Loại bước qua Giống
Dân mới. Chẳng phải Hội không biết mở mang Cái Trí – nó còn
biết nhiều hơn nữa – nhưng nó chỉ lo chuẩn bị cho con người một
trình độ cao hơn, khi tình thương từ trực giác phát sinh sự điều hoà và Tình Huynh Đệ, thì một ngày
kia nó sẽ dùng Cái Trí đã phát triển để tạo một nền văn minh mới xây dựng trên cái ý niệm
đó. Hội chúng ta đặc biệt chú ý đến các Cõi cao và rất mẫn cảm với những
sức mạnh tự do nhờ sự giáng sinh của một “Đức Chúa Con” mới. Triều lưu mãnh liệt tiếp xúc với Hội
lần đầu đã tạo cho nó một đà tiến mới; nó đang gia tăng và
bành trướng các hoạt động của mình; số Hội Viên nhiều thêm và Tình Huynh Đệ cũng phát triển.
Tuy
nhiên, đôi khi sự khích động đời sống đó gây ra sự bất hoà, vì thiếu sự tương xứng.
Khi một
tư tưởng hay nảy ra trong trí một Hội Viên thì ý tưởng đó được tăng thêm sức mạnh; vậy không có gì
hay hơn nếu Y là một người trầm tĩnh làm theo ý kiến riêng của mình mà
không chỉ trích ý kiến của kẻ khác. Nhưng ở đâu có sự hẹp hòi và thiếu thăng bằng thì sự
bất đồng ý kiến có thể gia tăng. Trong Hội Thông Thiên Học, mỗi người đều
làm theo đường lối sinh hoạt riêng của mình, nhưng sự tai hại bắt đầu manh
nha khi có người nghĩ rằng đường lối riêng của Y phải được toàn
thể Hội Viên noi theo và
ca ngợi.
Cũng có nhiều người khác sửa đổi ý kiến của họ lại cho hoàn hảo hơn, vì họ cho
rằng ý kiến đó không đem lại kết quả đúng mức cho Hội, nên họ
không nhận được một sự giúp đỡ nào. Dĩ nhiên trong những trường hợp như thế, đôi
khi lòng nhiệt thành cũng gây nên bất hoà, lúc bấy giờ Tình Huynh Đệ và tính khoan
dung thực sự đi lệch sang hàng thứ yếu.
Bà
Hội Trưởng
của chúng ta nói rằng Bà thường hợp tác với “ý kiến bực nhì hay bực ba” của người khác. Vẫn
biết rằng ý kiến nào là hay hơn cả, song Bà vẫn bình tĩnh ưng
thuận, trước hết để cho sự điều hoà không bị xáo trộn, sau đó để cho những người đưa ra
ý kiến đó có thể thu thập kinh nghiệm bằng cách thực hiện ý hướng của họ. Có người đến
trình cho Bà, với tất cả tấm lòng nhiệt thành, một chương trình thường
không được hoàn hảo, nhưng Bà không làm cho Y nản lòng. Bà nói:
“Được lắm,
hãy tiến lên! Hãy cố gắng rồi sẽ thành công.” Rồi Y nỗ lực, có thể trong một năm
hoặc hai năm, nhận thấy chương trình của mình bị sai lạc; chừng đó Y sửa đổi lại. Nhưng
đôi khi cũng đạt được kết quả tốt.
Để
cho con người làm theo ý kiến riêng của Y hầu như luôn
luôn là thái độ khôn ngoan, nhưng bao giờ cũng là điều đáng buồn,
nếu chúng ta thấy Y bắt buộc kẻ khác làm theo ý kiến của Y. Kinh nghiệm lúc
nào cũng xác nhận rằng không có gì quan trọng hơn sự điều
hoà giữa các Hội Viên trong Hội. Người ta có thể nói rằng chính sự điều
hoà giữa
những người làm việc với nhau còn quan trọng hơn sự thành công trong một công
việc. Vậy
phải để cho mỗi người được tự do làm theo cảm hứng tốt đẹp nhất của Y; nhưng mỗi người phải
dành cho ý kiến riêng của kẻ khác tất cả thiện cảm của mình. Nếu không có
gì nguy hại khi sự điều hoà đó làm cho Hội trở thành con kinh hoàn hảo
đối với thần lực cao siêu và cánh cửa luôn luôn mở rộng đối với
ảnh hưởng của các Đấng cao cả, để chúng ta dấn thân vào một hoạt động hăng say,
thì không còn gì hay hơn nữa, nếu không được như thế, chúng ta không nên làm
khác hơn.
Ngôi
sao bạc được đề cập trong bản văn cũng có thể có nghĩa là ngôi sao của Lễ Điểm Đạo. Đó
là biểu
hiệu của tư tưởng và sự hiện diện của Đấng Chủ Tể. Trong Cuộc Lễ Điểm Đạo, Vị được thay thế
chỗ của Đấng Duy Nhất cầm quyền Điểm Đạo, cầu xin Ngài chuẩn y những gì đã
được hoàn thành và để đáp lại lời cầu xin đó, ngôi sao bạc hiện ra và chiếu sáng rực.
Bây giờ Ngài đứng
như một cây trụ trắng ở Phương Tây, trên mặt trụ ánh Triêu Dương của tư tưởng trường tồn rọi
những tia sáng đầu tiên rực rỡ nhất. Trí người giống như mặt Đại Dương yên tịnh
không bờ bến, mênh mang trong Không Gian vô tận. Người nắm quyền
sinh tử trong bàn tay mạnh mẽ của Người.
Thật thế, Người có hùng lực.
Quyền năng sống động được biểu lộ nơi Người, quyền năng ấy chính là Người, có thể xây Đài Mộng Huyễn vượt cao hơn
Cõi Chư Thiên, Cõi Đại Phạm Thiên và Đế Thích.
Nhờ Quần Tiên Hội tất cả ánh sáng đều tuôn xuống Thế Gian soi sáng các
Cõi Vô Minh của đời sống Nhân Loại và hối thúc sự
tiến hoá của loài người tiến tới mãi mãi. Quần Tiên Hội thường tượng trưng
cho biểu tượng ở Đông Phương, do đó người ta có thể nói rằng nhân viên nào hiến mình
phụng sự Thế Gian là đã hướng về Tây Phương.
Mộng
huyễn đã được đề cập ở đây là thứ ảo mộng của trạng thái
chia rẽ. Bây giờ người chí nguyện đã thoát khỏi ảo mộng đó rồi, Y tiến lên từng bước
trên Đường Đạo, từ Cõi nầy đến Cõi khác; sau cùng Y đánh tan ảo ảnh
trên mỗi Cõi, Y sẽ trở thành Thầy của chính Y trên tất cả trình độ của
Sự Sống Nhân Loại. Độ cao mà
con người có thể đạt được hầu như vô giới hạn; vậy điều mà người
ta nói về Đấng Phạm Thiên và Đế Thích vẫn không quá đáng, mặc dù câu văn đó chắc phải
hiểu theo nghĩa tổng quát. Nó cũng làm chúng ta nhớ tới câu sau đây trong “Ánh Đạo Phương Đông”: “Quí Ngài có thể
nâng địa vị của mình lên cao hơn địa vị của Thần Đế Thích.”[59]
Trong thực tế
châm ngôn nầy có thể áp dụng trong sự thay đổi Cung như đã được mô tả
trong quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo.” Trong Đẳng Cấp tại Dãy Địa
Cầu của chúng ta, có thể vượt xa hơn ở Cung thứ Nhứt so với Cung thứ Nhì và cũng cao hơn ở
Cung thứ Nhì so với một trong năm Cung khác. Vị nào đã đạt được Điểm Đạo lần
thứ Bảy trên năm Cung
sau cùng, phải sang Cung thứ Nhì hay Cung thứ Nhứt, nếu muốn được
Điểm Đạo lần thứ Tám và chỉ ở tại Cung thứ Nhứt nếu muốn đi xa hơn nữa. Bộ
“Giáo Lý Bí Truyền” so sánh Đấng Đế Thích với Đức Thượng Đế Ngôi
Hai, tức Đức Thái Dương Thượng Đế, và Đấng Phạm Thiên với Đức Thượng Đế Ngôi Ba, tức
Đấng Sáng Tạo. Trong Quần Tiên Hội, đại diện tối cao của Cung thứ Nhì là Đức Phật; và Đức Văn Minh Đại Đế
cai quản năm Cung khác (từ Cung thứ Ba đến Cung thứ Bảy). Đức Ngọc Đế Chủ Tể Địa Cầu thuộc Cung thứ Nhứt, và Ngài ở
ngôi vị cao hơn các Đấng khác.
Bây
giờ Người sẽ chắc chắn chiếm được phần thưởng to tát!
Phải
chăng Người sẽ không dùng
những phần thưởng đó cho sự an nghỉ và hạnh phúc của Người, cho sự phú
quý và vinh diệu của Người, hỡi Con Người chiến thắng đại ảo mộng?
Không,
hỡi Cử Tử tìm hiểu sự bí ẩn
của Cõi Thiên Nhiên! Nếu con người muốn
nối gót Đấng Như Lai, thì những phần thưởng và quyền năng đó không
phải các thứ dành cho mình.
Con
muốn đắp đê để ngăn dòng nước dưới núi Sumeru lại chăng? Con sẽ xoay chiều đổi
hướng cho dòng nước chảy về con chăng? Hay là con sẽ cho dòng nước chảy về nguồn của
nó thuở sơ khai?
Ở đây chúng ta còn trở lại một lần nữa vấn đề giải thoát
khỏi sanh tử và ý niệm liên quan đến sự giải thoát đó, ý niệm về sự an nghỉ.
Trong
giai đoạn nầy ở dưới Thế Gian chúng ta không cảm thấy một cảm thức mệt nhọc
hay cực khổ nào; nhưng từ Cõi thấp của chúng ta, nếu xét lại số phận của
một Vị Chơn Tiên phải hoá thân trong hàng triệu năm, chúng ta sẽ thấy
chán ngán vô cùng. Vì Đức Aryasanga nói với thí sinh còn ở trình độ thấp, nên
Ngài không muốn Đệ Tử Ngài nhận định tương lai một cách trái ngược, mặc
dù trong lúc nầy khuôn mặt đen tối của cảnh vật vẫn hiển nhiên. Có lẽ, Đấng chỉ giáo
không thể mô tả những nỗi vui của đời sống cao siêu đó; nó không thể diễn tả được bằng bất
cứ thứ ngôn ngữ nào của Thế Gian dùng để diễn đạt chính những nỗi vui mãnh liệt nhất, như
chúng ta được biết; vậy rất có thể nguy hiểm khi trình bày điều đó như một
sự hấp dẫn thí sinh, khiến Y hiểu lầm đối tượng của Y như một hình thức
hạnh phúc thấp kém mà không hay; do đó sự tiến bộ của Y có thể bị trì trệ.
Núi
Meru
hay Sumeru là núi của Chư Tiên, có thể tạm so sánh với núi Olympus của người Hy Lạp.
Mọi hạnh phúc đều bắt nguồn từ đó; nó tuôn chảy vào mỗi nhân viên của Quần Tiên Hội
và qua mỗi Vị nó phải được ban rải ra khắp Thế Gian; trong trường
hợp ngược lại, dòng lưu chảy bị bế tắc, đó là do sự thiếu sót của nhân viên phụ trách.
Nếu con muốn cho
con sông tri thức chiếm được một cách khó nhọc đó, con sông Minh Triết bắt nguồn từ
Cõi Trời, còn là một dòng nước ngọt dịu và lưu thông, thì chớ để cho
nó đọng
thành ao tù.
Con
nên biết, nếu con muốn cộng tác với Phật A Di Đà vô lượng thọ, thì con phải rót
ánh sáng thu thập được, giống như hai Vị Bồ Tát đã thực hiện trên ba Cõi.
Bà Blavatsky đã thêm chú thích sau đây:
Theo
biểu tượng của Phật Giáo Bắc Tông, thì Đức Phật A Di Đà
(Amitabha) hay Không Gian vô tận (Parabrahman) có hai Vị Bồ Tát ngụ tại Cực Lạc Quốc của
Ngài -
Đức
Quan Thế Âm (Kwan-shi-yin) và Đại Thế Chí
(Tashishi) - luôn luôn phóng ánh sáng xuống ba Cõi thế giới là nơi
hai Ngài đã từng sinh sống, kể cả thế giới của chúng ta, hầu
dùng ánh sáng ấy giáo hoá các vị Yogi để họ lại cứu độ Nhân Loại. Theo câu
chuyện ẩn dụ thì ngôi vị cao cả tại Cực Lạc Quốc của Phật A Di Đà đều
do hành động từ bi của hai Ngài còn là hai vị Yogis tại Cõi
Trần.
Chú thích trên có hơi rắc rối và cần phải giải
thích thêm. Bà Blavatsky cho rằng Đức Amitabha ngang hàng với Đấng Parabrahman,
nhưng thật khó hiểu như thế, vì Đức Amitabha là Ánh Sáng vô lượng, sự Minh Triết vô biên,
tinh hoa của tất cả Chư Phật. Parabrahman là Ngôi thứ nhứt
trong Tam Vị Nhất Thể; Avalokiteshvara (Đức Quan Thế Âm) là Ngôi thứ
nhì, Ngài cũng là Amitabha (Phật A Di Đà) được gọi là “nguyên lý trung gian” của Đức Phật.
Chúng ta có thể hợp tác với nguyên lý thứ nhì đó hay nguyên lý trung gian, nhưng không thể hợp
tác với Đấng Parabrahman.
Tuy
nhiên đôi
khi Bà cũng đồng hoá các Vị đó. Bấy giờ Đấng Parabrahman là sự
minh triết ẩn tàng; Ngài biểu hiện như Đức Avalokiteshvara, Đức
Ishvara biểu
lộ, Đức Logos (Thượng Đế). Khi nhìn từ dưới lên trên, trong chúng ta, trong tất
cả chúng ta, có một Đức Thượng Đế có thể thấy được (Vị thứ hai trong ba Vị) và
một Đức Thượng Đế ẩn tàng (Vị thứ nhứt trong ba Vị).
Nguyên
lý trung gian cũng được gọi là Bồ Tát (Bodhisattva), nó được mô tả như
lưỡng tính, trạng thái nam và nữ, đó là Quan Thế Âm (Kwan-shi-yin) trạng thái Dương và Quan Âm
(Kwan-yin), trạng thái Âm của Đức Avalokiteshvara. Người ta nói rằng
Vị nầy có thể tự ý lấy mọi hình tướng để cứu độ Nhân Loại.
Theo
một chú thích “ba Cõi Thế Giới là những Cõi Hữu Hình, Cõi Trần,
Cõi Trung Giới và Cõi Hạ Thiên.” Ở đây Bà Blavatsky dùng danh từ “Trung Giới” trong một ý
nghĩa bất thường, đó là điều Bà cũng làm khi Bà luận
giải về đề tài ấy trong Bộ “Giáo Lý Bí Truyền.” Khi xem xét toàn
thể con người, từ Chơn Thần đến các Thể vật chất, Bà chia nó ra làm ba phần;
trước
hết là phần Tinh Thần, đó là Chơn Thần; thứ hai là phần Trung Gian gồm có: Atma-Buddhi-Manas của chúng
ta, nghĩa là Tam Thể Thượng đối với giác quan; thứ ba là phần Vật Chất
hay Hồng Trần, gồm có các Thể Hạ Trí, Thể Vía, và Xác Thân.
Về
hai Vị Bồ Tát còn có thể giải thích theo một nghĩa khác; như thế hai Ngài
là hai Huynh Đệ vĩ đại, Đức Phật Cồ Đàm
và Đức Di Lạc Bồ Tát của chúng ta, hai Ngài tiêu biểu cho hệ
thống nguyên lý trung gian; Đức Phật lo chăm sóc các Cõi cao, Đức Di Lạc
Bồ Tát nhìn xuống dưới thấp để chăm lo cho Nhân Loại trên các Cõi
thấp. Trong quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo” chúng tôi có kể lại những sự cố gắng và những
sự hy sinh tuyệt vời của hai Ngài.[60]
Còn
một lối
giải thích nữa theo quan điểm nhân tính và có tính cách thực tiển hơn cả. Nếu Đức Phật Cồ Đàm
và Đức Phật A Di Đà là một, thì chính Đức Cồ Đàm đã thành Phật rồi; Ngài còn hoạt động
trên các Cõi cao, nhưng dưới Thế Gian Ngài thị hiện thành hai Vị Bồ Tát, mà trạng thái nam là Đức
Quan Thế Âm, tức là Đức Di Lạc Bồ Tát của chúng ta, và trạng thái nữ là Đức
Quan Âm, người bạn bí mật của Ngài mang hình thức nữ trong hầu hết các Tôn
Giáo.
Con nên biết rằng
dòng Tri Thức Siêu Phàm và Minh Triết Thiêng Liêng mà con đã chiếm được phải
từ nơi con chảy vào một lòng sông khác, con chỉ làm một vận hà
của Alaya thôi.
Hỡi
Narjol của con đường bí mật, con nên biết rằng dòng nước tinh khiết và mát mẻ phải làm cho
dịu bớt
những lượn sóng đắng cay của biển cả - biển khổ mênh mông do nước mắt loài người
tạo ra.
Có thể kiến thức siêu phàm nghĩa là chìa khoá được
trao cho người được Điểm Đạo lần thứ nhứt ngay từ bước đầu của Y. Người được Điểm
Đạo nhiều lần sẽ có nhiều kiến thức mà Y không được phép truyền lại cho kẻ khác; Y phải hành động
thích hợp với những kiến thức ấy, do đó Y cần phải có một cách thức làm việc và một nếp sống
đặc biệt. Những người khác có thể chú ý đến các hành động ấy
rồi theo bằng cách bắt chước hoặc do sự ngưỡng mộ. Những người
có tính hay phản kháng một cách tự nhiên hay bác bỏ lối bắt chước những
người phi thường; họ nhận xét rằng người như thế có thể đáng phục về vài phương diện
nầy, nhưng
lại khiếm khuyết trên nhiều phương diện khác, nếu bắt chước họ, người ta có thể
trở nên dị đoan một cách dễ dàng, như trong câu chuyện con mèo và cây làm giường ngủ. Họ cũng
nói thêm rằng sự phát triển năng lực phải do chính mình tạo ra. Tất cả điều nầy đều
đúng, nhưng
cả hai phương diện đồng thời đều có mang đến sự lợi lạc đáng kể và sự
tai hại phải đề phòng. Do đó mỗi người phải chọn con đường
tự nhiên nhất đối với mình, nhưng phải cẩn thận tìm hiểu và kính trọng người đi con đường
khác với mình. Nếu chúng ta bắt chước hành vi của những người hiểu biết nhiều hơn
chúng ta chút ít, thì sự bắt chước đó vẫn không vô lý. Một đứa trẻ bắt chước những người trưởng thành
vì nó cho rằng họ hiểu biết nhiều hơn nó, xét chung nó vẫn có lý. Đứa
trẻ trung
bình nhận
thấy cha nó tài giỏi hơn thiên hạ có hại gì không? Và khi nghĩ đến
nó có ai cho rằng nó sai lầm chăng?
Thần
Triết tức là Minh Triết Thiêng Liêng mà chúng ta gọi
là Thông Thiên Học. Đó là kiến thức của nhiều thế giới có sự sống của Đức Thượng
Đế, chứ
không phải chỉ là những Cõi Giới bên ngoài. Đức Aryasanga luôn
luôn phân biệt cái người ta biết thật sự với điều người ta tin. Nếu
Ngài có thể nói chuyện trong các buổi họp Thông Thiên Học, Ngài có thể phát biểu: “Các bạn phải tin rằng
có các Cõi Trung Giới và Thượng Giới, vì đó là một sự hợp lý tất yếu. Nhưng các bạn không thể quả quyết nếu
không có kinh nghiệm trực tiếp.” Nếu kiến thức đó siêu phàm, chỉ vì trong thời đại chúng ta
nó không vừa tầm hiểu biết của Nhân Loại còn tầm thường; trái lại một ngày kia nó sẽ
thích hợp với mọi người bực trung.
Kinh
nghiệm trực tiếp giữ một vai trò đáng kể trong cách mà chúng ta đạt
được sự hiểu biết những Chân Lý lớn lao đó. Có một lần, ông W.T. Stead nói rằng ông đã miệt mài nghiên cứu và sưu tầm các
vấn đề tâm linh một
thời gian lâu dài, nhưng một ngày kia ông hoạch đắc Thần Nhãn
ông mới nhìn thấy được một màu sắc và một thực tại về các vấn đề đó. Lúc ông sắp ngủ, ông
thấy
trong một khung cảnh nhỏ, một bãi biển và những lượn sóng tan vỡ trên các tảng đá.
Việc ấy
không đáng kể, nhưng rất bổ ích cho sự học hỏi. Ông nói: “Bây giờ tôi mới hiểu ý nghĩa của
một vật nào đó đối với người có Thần Nhãn.”
Có
một sự khác biệt lớn lao biết bao đối với Bà Bác Sĩ Besant và
ngay cả chính tôi khi lần đầu tiên chúng tôi có thể quan sát trực tiếp các
Cõi vô hình. Học hỏi theo sách vở chúng ta vẫn quen thuộc với những
sự kiện liên quan đến các Cõi Trung Giới và Thượng Giới, nhưng chính cái
nhìn trực tiếp cho chúng ta thấy được sự linh động trên các Cõi ấy. Ngay cả những vấn đề trên Cõi Trần,
người ta chỉ học hỏi theo sách vở đã cắt xén làm khô cứng kiến thức, nhưng
người nào đã sống với sự hiểu biết của mình sẽ làm cho nó trở nên đầy màu sắc
và tươi sáng. Tôi nhớ đã có nhận thấy sự khác biệt ấy giữa các Tăng Sĩ Phật
Giáo mà
tôi đã giao du ở Tích Lan. Có vị Sư thuộc làu hết kinh điển và
có thể
dẫn chứng chúng qua tất cả những nguyên lý của Đạo Phật; vị khác chỉ có vài
kinh nghiệm trong lúc tham thiền, thuộc kinh điển ít, nhưng
lại có thể phát biểu được nhiều hơn.
Thần Nhãn không
hiện ra thình lình dưới một hình thức nào đó để chúng ta có
thể tin tưởng. Một người muốn đạt đến chỗ thấy đúng, hiểu được những
gì mình đã thấy và giải trừ sự cân bằng riêng tư, cần phải được huấn luyện lâu dài. Người ta có thể đặt vào tay một
người cái kính viễn vọng và giả sử rằng dụng cụ đó sẽ giúp Y học hỏi được tất cả những
gì liên hệ đến các tinh tú – nhưng Y sẽ học hỏi được rất ít cho đến khi nào Y được huấn luyện để
sử dụng cái kính ấy một cách đúng đắn trong lúc quan sát, với nhiều
kiến thức và khôn ngoan. Các nhà Thiên Văn Học thấy rằng chính họ cũng phải
chú ý đến phương trình cá nhân trong lý thuyết của họ.
Trong
sự quan sát bằng Thần Nhãn người ta thấy bằng nhiều cách - người ta có thể thấy
đối tượng lớn hơn, xanh hơn hoặc đỏ hơn một chút, v.v… Yếu tố cá nhân cũng biểu hiệu dưới
hình thức những thành kiến. Chính vì thế mà một Bà có Thần Nhãn, cũng là một Tín Đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo,
mỗi khi thấy người ta rót nước, Bà cho rằng hành động đó có ý nghĩa của phép rửa tội
và khi có người đưa ra một ý kiến khác, Bà cho
là hoàn toàn sai lạc. Dù hết sức cố gắng,
chúng ta cũng không thể thấy được cái gì một cách trọn vẹn,
cũng như đạt đến một sự chính xác hoàn toàn. Có thể kể cả ở
trình độ các Ngài, trình độ của bậc Chơn Tiên, các Đấng Chơn Sư vẫn
phải chú ý đến những “phương trình” riêng của các Ngài, khi các Ngài hành động trên các Cõi
thấp.
Tuy nhiên, vị Đạo
Đồ nhờ kinh nghiệm trên nhiều phương diện, đã đạt được một
niềm tin vững chắc giúp Y làm một vận hà cho thần lực cao siêu. Vì lòng tin đó biến
đổi được sự phân cực của các Thể Trí và Nhân Thể, nên Y có thể được chọn
làm dụng cụ, trong khi những người khác không thể được sử dụng như thế, mặc dù họ đã
phát triển trên nhiều phương diện.
Hỡi
ôi! Con phải như ngôi sao cố định ở tận nền Trời xanh, từ khoảng không
gian sâu thẳm đó, ngọn đèn Trời ấy phải chiếu sáng cho tất cả, ngoại trừ
chính con. Hãy ban ánh sáng cho tất cả, mà đừng lấy của một ai.
Chúng ta không nên cho là ngôi sao chiếu sáng một
cách miễn cưỡng. Nó chiếu sáng vì nó không thể làm khác hơn. “Tất cả tạo vật đều
sống theo bản tính của chúng. Bạo động đối với chúng có lợi gì?” (Bhagavad Gita,
III, 33). Sự áp đảo bao giờ cũng đáng buồn. Người yêu Nhân Loại lúc nào cũng muốn
ban ánh sáng cho họ và khi không làm được như thế thì lại cảm thấy rất buồn.
Những thực thể mang
tiềm lực dưới hình thức những hạt gạo, những lá liễu của Mặt Trời đã cho chúng
ta thấy một gương mẫu lớn lao. Nhờ sự trung gian của chúng, sức nóng, sinh lực mới
có thể tuôn tràn xuống khắp cả Thái Dương Hệ. Ở đây luôn luôn người ta
thấy rằng đó là phần hy sinh của chúng; nhưng vai trò của
chúng vẫn tự nhiên như thế; đó chính là cách biểu lộ bản chất bên trong của
chúng. Thay
vì sống một cuộc đời rực rỡ trên các Cõi cao mà chúng ta không hề biết đến,
chúng lại
giữ xác thân Phàm Trần và sống như thế vì sự lợi lạc cho các thế giới quần tụ
chung quanh Ngôi Mặt Trời của chúng ta. Thật ra chúng tạo nên một thành trì bảo
vệ mà Alaya có thể theo đó chảy vào một lòng sông mới.
Hỡi
ôi! Con sẽ trở nên như tuyết tinh anh trong các thung lũng của núi non, chạm
đến thì lạnh lẽo và tê buốt, nhưng lại che chở cho hột giống
yên giấc trong lòng nó một cách ấm áp. Bây giờ thì chính tuyết đó phải nhận lãnh sự đông
giá cắt thịt, gió bấc lạnh thấu xương, để che chở cho đất khỏi nanh vuốt bạo
tàn, đất ấy có chứa mùa màng đầy hứa hẹn, mùa màng đó sẽ nuôi kẻ đói.
Sự so sánh với tuyết ở trên thật đẹp, nhưng không nên đi
quá xa. Vị Đệ Tử phải trở nên như tuyết để trong trắng, tinh
khiết, không vết nhơ. Khi nói
với các Đệ Tử của mình, có lẽ Đức Aryasanga đã chỉ họ những đỉnh
núi phủ
đầy tuyết, ở khắp nơi đều trông thấy.
Nếu
tuyết vô thụ cảm không phải tự nó gây ra tai hại, nhưng vì sự
giá lạnh không làm cho nó cảm xúc được. Dù thời tiết có xuống thấp đến đâu thì tuyết
vẫn như thế, vì không bị tác động, nó có đặc tính che chở cho đất chống lại
sự giá lạnh mãnh liệt hơn. Người chí nguyện phải đạt mục đích tương tợ như tuyết. Y phải trở nên vô
cảm, nhưng chỉ theo ý
nghĩa chịu đựng một cách lãnh đạm trước tất cả những sự rối loạn và
những đòn
đến từ bên ngoài để không ngừng che chở cho hạt giống đang yên giấc.
Hạt
giống chính là Mầm Thiêng Liêng trong con người; nó bắt đầu thức tỉnh ở
những người
chú ý đến những vấn đề cao thượng và cố gắng tự phát triển. Đó cũng chính là mầm giống mà
chúng ta phải yêu quý ở những kẻ khác. Kinh Upanishad nói rằng
trong hạt trái dẻ rừng đã có tiềm tàng sự hiện hữu của cây sồi; nó chỉ
phát triển bằng cách rút lấy ở không khí, đất và ánh sáng Mặt Trời những yếu tố
làm cho nó có thể tăng trưởng. Chơn Thần cũng thế, là Điểm Linh Quang của
Đức Thượng Đế trong chúng ta, nó chứa đựng tất cả những tiềm năng của Ngài, nên nhờ đó một ngày kia
chúng ta cũng trở nên một Đấng Thượng Đế như Ngài vậy, tuy nhiên Chơn Thần cần phải
tự phát triển.
Chúng
ta cần phải cung cấp cho những Hạt Giống Thiêng Liêng đó những điều kiện giúp nó phát triển tốt đẹp nhất tại
các Cõi thấp. Vì thế chúng ta phải chịu lạnh cắt
da và gió bấc thấu xương để che chở cho những ai có thể bị thời
tiết bất lợi ấy chi phối và làm cho trì trệ. Có nhiều người sẵn sàng nhận
lãnh Giáo Lý Thiêng Liêng, chúng ta phải cho họ thức ăn
tinh thần đó. Họ đang đói, chúng ta phải mang đến cho họ những thực phẩm mà họ cần để tăng trưởng.
Họ chưa biết rõ những gì họ cần, nhưng khi thức ăn vừa dọn ra cho họ,
họ liền chiếm lấy.
Trong
Hội Thông Thiên Học, kinh nghiệm đó cũng xảy ra ở vài huynh đệ của chúng ta.
Khi vừa
bắt gặp Giáo Lý Thông Thiên Học,
chúng ta thầm nhủ: “Đây đúng là những gì mình đã chờ đợi,” mặc dù trước
khi nghe nói đến nó chúng ta không biết mình cần cái gì. Biết bao người đang chờ đợi, cũng như
chính chúng ta đã chờ đợi Giáo Lý ấy và chúng ta phải giống như tuyết, nhận lãnh
vai trò che chở trong khi sự giá lạnh còn tồn tại và sau đó, dưới ánh Mặt Trời, nó sẽ tan ra
và biến mất.
Điều
nầy đúng như chúng ta phải thực hiện đối với trẻ con trong gia đình. Khi gặp
thời
buổi khó khăn hay có việc lo buồn, chúng ta phải giữ gìn cho trẻ con đừng biết chi cả.
Thức ăn không đầy đủ chăng, chúng ta phải lo cho trẻ con ăn trước, cha và mẹ phải chấp nhận
phần còn lại. Một đặc ân đã ban cho chúng ta: Đó là bản năng thiêng liêng
được biểu lộ khá đầy đủ ở mỗi người để chúng ta nhận thấy có bổn phận phải che
chở cho tuổi thơ không được bảo vệ.
Tinh thần đó phải
được áp dụng trên nhiều phương diện của đời sống. Chúng ta hơi tiến hoá hơn những
người hoàn toàn vô minh. Chính những người đó mới đáng thương hại hơn cả, chứ không phải
những người tin rằng họ đang chịu những sự khó khăn quan trọng về
tinh thần, chẳng hạn những người lo âu rằng Tôn Giáo của họ không đáp
ứng nổi nhu cầu của họ một cách trọn vẹn. Tình cảm không cần
thiết nhất đối với những người đó, vì ít ra họ cũng đã thức tỉnh và cố gắng tìm ra ánh
sáng. Không, chính phần lớn Nhân Loại còn vô minh, chính những người chưa biết rằng có một
mục đích xứng đáng cho họ cố gắng, những người ấy mới cần đến tình thương hơn cả.
Chúng ta không thể làm gì nhiều cho họ. Tất cả những gì mà người ta có thể làm
cho một
con gà ở trong cái trứng, chính là duy trì hơi ấm cho nó thôi. Sức nóng biểu lộ
cho sự
sống mà chúng ta có thể truyền cho nó. Chúng ta phải có lòng tốt, Tình Huynh Đệ và sự chính trực. Khi
kẻ khác cần sự giáo hoá, chúng ta hãy ban bố cho họ, nhưng chúng ta luôn luôn
có thể
cho họ tình thương và những tư tưởng cao thượng, vì nếu họ nhận được mấy điều nầy
một cách đúng đắn, thì họ sẽ cảm thấy ấm áp như con gà con ở trong trứng vậy.
Người
ta nói rằng sự Thuyết Giáo là một việc làm tuyệt hảo, nhưng bài thuyết pháp cao cả hơn hết chính là
một Đời Sống Tốt Đẹp. Đây là một lý
do: Chính sự thuyết giáo như thế khích động những người còn chưa
biết họ thiếu cái gì. Đa số người chỉ lo sinh sống và săn sóc
gia đình của họ, họ không hề bận tâm đến Thông Thiên Học hay Tôn Giáo. Ở
Anh, xứ được xem như rất mến chuộng Tôn Giáo ở Âu Châu, những nơi thờ phượng
không có đến 1/10 dân chúng đến dự. Tại các Nhà Thờ, Thánh Đường lớn nhỏ đủ
loại thường cũng không đầy người được tới phân nửa, do đó chúng ta có thể
nói rằng
không có đến 1/20 dân chúng đến dự thường ngày một buổi
lễ chánh thức. Những bài thuyết giảng hấp dẫn về Thông Thiên Học của
chúng ta cũng không tạo được ấn tượng nào trên khối quần chúng đó,
cũng
như khi họ nghe một điệu nhạc hay đọc một bài thơ. Trái lại, bao giờ họ cũng
chú ý đến những người cao thượng, tiến hoá hơn họ và xét đoán những người
mà trình độ học vấn và giai cấp xã hội cao hơn họ. Ai sống một cuộc đời đức hạnh
chơn thật, trong sạch và vị tha sẽ luôn luôn thuyết giáo cho tất cả
những người
đó còn hơn những bài diễn văn làm cho họ thờ ơ lãnh đạm.
Nhiều Nhà Truyền Giáo thật đáng trách
vì bài Thuyết Giáo của họ không đi đôi với việc
làm. Một Nhà Truyền Giáo tạm trú trong một Câu Lạc Bộ, tại một thị trấn
nhỏ ở Ấn Độ; chung quanh ông hầu hết là những
người Ấn Độ trường trai và trì giới; còn vị Giáo Sĩ thì đòi ăn thịt
bò và thường mang theo một bình rượu uýt-ki hoặc rượu mạnh khác, ông cũng
không đến
nếm thử thịt chim hoặc thịt thú rừng với mấy người bạn Âu Châu của ông. Sau đó
ông lại thuyết giảng về đức tinh khiết và lòng bác ái của Đấng
Christ;
đôi khi ông còn dám xúc phạm đến những vật thờ phượng của dân chúng. Kết quả do ông thu hoạch
được thường không có chi cả, ngoại trừ những người đạo đức giả đi theo ông để hưởng
lợi về
vật chất. Tại các Trường Học ông thường tìm cách phá hoại Tôn Giáo của trẻ em mà không vun
trồng được Đạo Giáo của ông. Ít khi ông lôi cuốn
được một người Ấn Độ lương thiện thành một người Công Giáo tốt, thành thử việc làm ấy
không có ích lợi chi cả, mà thỉnh thoảng ông lại còn biến một người tốt thành một
người Công Giáo tồi tệ. Nếu ông chịu sống một cuộc đời thánh thiện thì sẽ đẹp đẽ hơn biết
bao, nhờ đó những người Ấn Độ sẽ hiểu ông hơn, rồi ông có thể nói với họ về Đấng
Christ
là Sư Phụ của ông, Ngài đã gây cảm hứng cho ông và nhờ Ngài nên ông mới được như ngày
nay.Trên phương diện cá nhân, đây cũng là một lối tuyên truyền tuyệt hảo, vì người Ấn Độ có
tinh thần khoan dung và thường sẵn sàng tôn kính các Đấng Thiêng Liêng được kẻ khác sùng
mộ như chính các Đấng Hoá Thân Linh Thiêng của họ vậy.
Chúng
ta thường nghe nói chắc chắn rằng các vùng Đông Phương bị Cơ
Đốc hoá rất nhanh; đó là người ta muốn nói rằng các vùng đó
theo đòi
văn minh tân tiến – như xài đèn điện và theo nguyên tắc vệ sinh, hoặc là
từ bỏ vài cổ tục xã hội, như các thiếu phụ thuộc giai cấp thượng lưu tự giam
mình trong chốn phòng the và tục tảo hôn, vả lại tục lệ nầy cũng thường thấy
trong giới Thiên Chúa Giáo Âu Châu cách đây một hoặc hai thế kỷ. Có lẽ người ta
đã quên những người Công Giáo chính thống chống lại Khoa Học
và những sự cải cách xã hội như thế nào và những sự tiến bộ nầy
phải bị loại ra khỏi một thứ “Thiên Chúa Giáo” thật giống như điều
mà chính các Nhà Truyền Giáo còn thuyết giảng hiện nay.
Tự nguyện sống
trong những Kalpas sắp tới, mà không được người mang ơn và nhận biết; đứng bất động như
một hòn đá giữa vô số tảng đá khác tạo thành Bức Tường Bảo Vệ, đó là tương lai của
con nếu con qua khỏi cửa thứ bảy. Bức tường đó được tạo dựng do những bàn tay của
nhiều Đức Thầy từ bi, xây đắp bởi những nỗi thống khổ, củng cố
bởi xương
máu của các Ngài, bức tường che chở Nhân Loại từ thuở con
người thoát kiếp thú và bảo vệ cho con người khỏi bị khốn khổ nhiều hơn và
khỏi những khổ đau thống thiết hơn.
Tuy
nhiên, con người không hề thấy điều đó, nó không nhận thức được
việc đó và cũng không để ý đến những lời khôn ngoan . . . vì nó không
biết điều đó.
Nhưng
con đã nghe và biết tất cả, hỡi kẻ có tâm hồn nhiệt thành và chơn thật . . . con
hãy lựa chọn. Rồi con lại
nghe thêm.
Tôi nghĩ rằng về vài phương diện các Đệ Tử của Đức Aryasanga có
thể cũng chưa được tiến bộ nhiều, vì hình như cần phải nhắc nhở họ nhiều lần
rằng không nên trông đợi cái gì cho chính mình. Chúng tôi cũng được nhắc nhở
như thế, nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta là những Sinh Viên Huyền Bí Học đã
đạt đến trình độ, mà chúng ta phải dửng dưng nếu người đời không
biết ơn hoặc không chú ý đến những sự cố gắng của chúng ta.
Dường
như sự ước muốn được tri ân như thế là đặc tính của một trình độ còn thấp kém. Muốn đạt đến chỗ
không mong đợi kết quả việc làm của chúng ta, hoặc những sự biết ơn, những thoả mãn cá
nhân, chúng ta phải hành động một cách thận trọng với sự phòng xa. Nhà Huyền Bí Học
phải toan tính trước về hậu quả của hành động với lời nói của mình và không
nên để cho phạm phải một lỗi bất cẩn nào. Vai trò của chúng ta là phải hành động càng
tốt đẹp càng hay và phải coi chừng, nếu chúng ta thất bại thì không phải vì chúng ta
thiếu cố gắng, dù chúng ta có thấy kết quả hay không cũng không đáng kể.
Giả
sử một Hội Viên trong Hội của chúng ta đảm
trách việc thành lập một Chi Bộ tại một vùng nào đó. Với sứ mạng ấy, Y tận tuỵ hết lòng,
biểu lộ tất cả những khả năng sẵn có của Y, nói tóm lại, Y đã làm hết sức
mình. Dù những Hội Viên gia nhập có đông hay không, Y vẫn không bận
tâm vì điều đó. Y sẽ vấp phải sự lầm lỗi nặng nề nếu tiếc rẻ mà cho rằng:
“Chắc một người khác ở địa vị của tôi bây giờ, Y sẽ thành công hơn.”
Sứ mạng được giao phó cho Y phải thi hành với tất cả khả năng và
phương tiện của Y chứ không phải của kẻ khác. So sánh mình với kẻ
khác chính là một sự sai lầm vậy.
Rất
ít người hiểu đúng thành ngữ “Bức Tường Bảo Vệ.” Đó là một biểu tượng thật đẹp, nhưng
cũng như mọi biểu tượng khác, chúng ta không nên hiểu quá xa. Không
có sự nguy hiểm nào đe doạ Nhân Loại cả, nếu không phải do chính họ tạo ra. Chúng ta
không có kẻ thù nào khác hơn chính mình. Mỗi người đều chịu trách nhiệm về sự lỗi lầm của mình
và thực ra không ai có thể giúp cho một người nào giải thoát giùm Y được. Tất cả những
gì người khác có thể làm chính là chỉ dẫn cho Y cách gỡ rối, hoặc đặt Y vào một hoàn cảnh nào đó, mà nếu
không đề phòng, Y phải chịu đau khổ. Ngoài đời, một người cho rằng Y bị xúc phạm bởi những lời
nhục mạ của một kẻ khác, thật ra nếu người ấy nổi giận là làm hại chính mình. Không có
gì bắt buộc Y phẫn nộ. Người ta nói rằng sự giận dữ là một điều
tự nhiên; đối với người chưa tiến bộ điều ấy có thể xảy ra, nhưng đối với người
có giáo dục chút ít thì không.
Thành
ngữ “từ khi con người thành người” có thể giải thích theo hai nghĩa. Hoặc là Bức Tường
Bảo Vệ đã có từ thuở con người thành người, hoặc bức tường nầy đã được dựng lên vì con người
yếu đuối
tự làm hại mình rất nặng nề, trừ phi Y nhận được sự giúp đỡ, che chở, hoặc hướng dẫn từ
Cõi trên. Có lẽ cả hai sự giải thích trên đều đúng. Chúng
ta biết rằng Quần Tiên Hội rất cổ xưa và đã có trước khi Nhân Loại khá tiến hoá để
có thể đào tạo được các Bậc Chơn Tiên. Và các Đấng Cao Cả
nầy đã thuộc về những Dãy Hành Tinh khác cổ xưa hơn.
Trên
con đường Sowan, hỡi Srotapatti, con đã được yên ổn. Thật thế trên con
đường nầy kẻ hành hương mệt mỏi chỉ gặp cảnh tối tăm, tuy bị gai cào chảy máu, chân
bị đá rắn nhọn cắt đứt và Ma Vương tấn công với những vũ khí lợi hại nhất – bên
kia con đường một phần thưởng lớn lao đang chờ sẵn.
Bình
tĩnh và kiên trì, kẻ hành hương lướt trên dòng sông đưa đến Niết Bàn. Người
biết rằng chân càng chảy máu bao nhiêu, thì chính người sẽ càng được
rửa sạch bấy nhiêu. Người biết rằng sau bảy kiếp Luân Hồi ngắn ngủi và
nhanh chóng, Niết Bàn sẽ ở trong tay Người.
Đó
là con đường Dhyana, bờ bến của Nhà Yogi, mục đích chí phúc mà vị Srotapattis khao khát.
C.W.L.- Sowan là danh từ Phật Giáo, nó cũng có nghĩa là Srotapatti - người được Điểm Đạo
lần thứ Nhứt. Ở đây gọi là con đường
Dhyana, tức là sự tham thiền giúp người vượt qua các Cảnh của
Cõi Bồ Đề một cách liên tục để được Điểm Đạo lần thứ Tư, rồi
sau đó người bước vào Cõi Niết Bàn.
Người
không dừng bước, dấn thân trên con đường của bậc La Hán đưa đến cửa Bát Nhã
(Prajna). Danh từ nầy có lẽ chỉ sự dứt bỏ chướng ngại cuối cùng là sự vô minh
hay Avidya. Chúng ta thấy dịch là “Vô Minh” không thật chính xác, đúng hơn có thể dịch là “Thiếu Minh Triết.” Ý tưởng đó
có nghĩa: Dù con người đã thu hoạch được kiến thức về những sự vật bên
ngoài, Y vẫn Vô Minh; nhưng khi Y hoạch đắc được
kiến thức do sự quan sát nội tâm, khi Y đứng trước Chơn Ngã, Đấng Duy
Nhất, hiện diện trong mỗi người, Y sẽ thấy được bản tính thâm sâu của tất cả sự vật, Y sẽ trở nên một bậc Hiền Triết.
Jnana có nghĩa là Minh Triết và trong chữ Prajna cũng có nghĩa như
thế, tiếp đầu ngữ Pra bao hàm ý niệm hoạt động hay tiến bộ. Do đó
Prajna có
khi được dịch là “tâm thức,” có khi dịch là “trí huệ,” hoặc dịch là “phân
biện,” hay là “minh triết.”
Trên
thực tế,
điều đó không có nghĩa là Bậc Đắc Pháp hiểu biết tất cả, nhưng Ngài có thể sử
dụng mọi
kiến thức theo ý muốn. Chẳng hạn lần đầu tiên khi tôi được đặc ân gặp Đức Thầy
Morya, thì Ngài nói tiếng Anh chưa được hoàn chỉnh và bằng một
giọng rất nặng. Rồi từ đó Ngài nói rất dễ dàng, mặc dù giọng nói chưa
hoàn toàn. Đức Thầy Kuthumi luôn luôn nói tiếng Anh rất đúng và không
có chỗ khuyết điểm nào về âm điệu, nhưng vẫn còn một vài đặc điểm nhỏ như người
ta có thể nhận thấy ở mọi người, và nhờ đó chúng ta mới có thể nhận ra bút pháp
của Ngài.
Tôi
còn nhớ một trong những kinh nghiệm đầu tiên của tôi. Một trong các Đức Thầy muốn gởi một bức thư
bằng chữ Tamil. Vì Ngài không biết chữ đó, nên Ngài nhờ một vị Đệ Tử biết rành thứ tiếng
ấy nghĩ ra trong trí những gì Ngài muốn nói. Rồi Đức Thầy theo dõi cách những tư tưởng ấy được
diễn tả trong trí của vị Đệ Tử và thế là Ngài tạo được một bức thư đúng theo ý
Ngài, mặc dù trong xác thân của Ngài, Ngài không biết được ý nghĩa những biểu tượng của
chữ viết.
Tôi
nhớ rằng lòng sùng mộ và tôn kính của tôi có hơi bị va chạm trước ý
tưởng một Đấng Chơn Sư lại có thể không biết chữ Tamil; nhưng tôi kịp nghĩ
ra ngay rằng đối với một Vị Chơn Tiên biết tất cả theo quan điểm chúng ta vẫn
không cần thiết. Tôi còn nhớ lời nói của một người rất thông
minh về một điểm trong vấn đề Thiên Văn Học hay một Khoa Học khác. Một người bạn của
Y lấy làm lạ khi
thấy Y dốt về vấn đề ấy
nên đã
nói với Y: “Có thể anh
không biết về vấn đề đó sao?” Y đáp: “Không, tôi không
biết thật. Hơn nữa, dù bây giờ anh nói với tôi như thế, tôi vẫn gác ý tưởng đó qua một bên
và có thể quên nó hoàn toàn. Bộ óc tôi không thể chứa thêm một số
kiến thức nữa, vả lại tôi muốn chọn một ngành chuyên môn theo sở thích của tôi.”
Khả
năng của bộ óc chúng ta có giới hạn, thu thập quá nhiều kiến thức lạ đối với đời sống
và việc làm của chúng ta là một thái độ thiếu khôn ngoan. Tôi gặp một thanh niên nói với
tôi rằng Y đã đọc nhiều quyển sách tham khảo
trong một thư viện ở miền Bắc Anh Cát Lợi một cách hăng say, cho đến một ngày
kia Y tính thời gian mà Y dùng để đọc hết tất cả
những sách Y muốn nghiên cứu trong thư viện đặc biệt đó xem bao
lâu. Y thấy rằng nếu mỗi ngày Y dành 8 giờ đồng hồ để đọc sách, thì Y cần phải sống
khoảng
500 kiếp mới đọc xong! Do đó Y quyết định chọn lựa thật kỹ lưỡng số sách sẽ đọc.
Vậy
chúng ta phải thu thập những kiến thức nào? Đó là một trong những vấn đề quan trọng của cuộc sống.
Luật Nhân Quả sẽ đặt trong tầm tay chúng ta tất cả những gì cần hiểu biết đối
với sự tiến hoá trực tiếp của chúng ta. Chúng ta có thể tiến xa hơn và dành thì
giờ lẩn
năng lực của chúng ta cho một sự học hỏi, không có lợi cho chính mình, nhưng rất quan trọng
đối với kẻ khác. Càng học hỏi chúng ta càng thấy dốt nát trước
sự vật mênh mông như biển cả. Chúng ta giống như những con sâu nhỏ ở trong một cái
phòng to, đang nhìn từ một góc phòng.
Khi
quan sát những kiếp sống dài đăng đẳng, chúng ta sẽ thấy mình
nhỏ bé trước cảm thức mênh mông đó. Vì có những thời kỳ dài như thế, nên chúng ta
phải dùng đến sự phân điểm biến vị (the precession of the equinoxes) để giới hạn
chúng. Những
Nhà Thiên Văn quy định
nó khoảng
25
ngàn năm,
còn những người có nhãn quang cao siêu định cho nó khoảng 31 ngàn năm.
Nếu trong những vấn đề nầy các dữ kiện Khoa Học thiếu chính xác, chính vì sự sưu tầm căn cứ
trên một kỳ gian hơi ngắn - chỉ vài trăm hoặc vài ngàn năm nếu người ta tính
theo niên giám Chaldeans. Như vậy những sự quan sát thu hẹp lại thành một
vòng cung thật nhỏ mà chúng ta phải suy diễn ra toàn bộ, đến nỗi
sự sai lầm nhỏ nhặt bị gia tăng gấp nhiều lần. Nhưng không có gì còn ý nghĩa
khi so với tuổi của Phạm Thiên, tức là 311.040.000 triệu năm. Sau cùng,
những khoảng cách lớn nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng đã
trở nên vô nghĩa đối với những năm ánh sáng phân cách các vì sao.
Chúng
ta có thể tưởng tượng ra hai loại hay hai mẫu người nghiên cứu. Có người học hỏi
bằng cách tích trử hàng khối kiến thức. Có người chỉ đọc một số sách được chọn
lọc kỹ
lưỡng và chỉ thu thập những kiến thức cần thiết cho Y ở trong đó. Kiến
thức của Vị Chơn Sư cũng hơi giống với kiến thức của những
người thuộc hạng thứ nhì. Ngài không cần có một thư viện, nhưng Ngài có khả năng biết trong
phút chốc tất cả những gì Ngài cần đến. Muốn hiểu một đối tượng chăng, Ngài có
thể đồng
hoá với đối tượng ấy, đi sâu vào nó, rồi thong thả quan sát những chi tiết phụ
thuộc.
Vị Chơn Tiên xem xét một vấn đề từ trên Cõi cao,
như thế
chúng ta có thể nghĩ rằng ở trình độ thấp của chúng ta, có nhiều sự vật Ngài
không biết đến. Tôi có thể nghĩ rằng hình như ngay bây giờ, nếu một Vị Chơn
Tiên hiện diện giữa chúng ta, chúng ta sẽ nhận thấy rằng đối với vài vấn đề chúng ta sẽ hiểu biết nhiều hơn Ngài. Trái lại,
nếu chúng ta muốn hiểu thực tại, trên khía cạnh thâm sâu của
vấn đề, muốn nắm được những gì là chính yếu, thì Vị Chơn Sư sẽ hiểu
biết nhiều hơn người thông thái nhất trong chúng ta. Chúng ta hãy thử
tìm hiểu điều nầy qua một thí dụ nghiên cứu về Địa Chất.
Sinh Viên mua một số sách khái
luận và đem về học trong nhiều tháng hay nhiều năm. Khi muốn biết về Địa Chất một
Vị Chơn Sư phải
làm sao? Từ một vùng nào đó trên Cõi Bồ Đề hay Cõi Niết Bàn, Ngài sẽ nắm lấy ý tưởng
căn bản về Địa Chất Học và đồng hoá với ý tưởng đó, rồi trong tư thế
người quan sát, Ngài sẽ có trong tâm hồn tất cả những chi tiết mà Ngài có thể cần đến. Do đó,
vài người trong chúng ta đã ngờ vực rằng có những kiến thức mà một Vị Chơn Sư sẽ
không biết
đến, trái lại các Ngài có những phương tiện hiểu biết khác hẳn chúng ta.
Một
Vị Chơn Tiên muốn dùng tất cả năng lực và thì giờ của Ngài cho những
mục đích thật rõ ràng mà Ngài luôn luôn tìm cách đạt đến, có thể
Ngài gác qua một bên nhiều sự vật khác và không bận tâm đến chúng. Không phải chỉ có
thế; chúng
ta còn phải để ý rằng không những tâm thức của Ngài rộng lớn
hơn tâm thức chúng ta, mà còn có một bản chất khác và chắc chắn hoàn toàn không thể
mô tả được vì chúng ta chưa đạt đến trạng thái đó.
Theo
nguyên tắc thông thường, một vị La Hán còn 7 kiếp nữa mới đạt đến quả vị
Chơn Tiên, nhưng vị nầy không cần phải sống trong xác phàm; nếu người bị bắt buộc phải xuống
tới
Cõi Trung Giới thì không có gì buộc người phải phải lấy xác phàm
trong 7 kiếp ấy. Trong một lúc nào đó, ở trong Thể Vía, người có
thể hưởng được tâm thức Niết Bàn. Nhưng tại Cõi Trần,
người
ta chỉ có thể vươn lên Cõi cao kế đó là Cõi Trung Giới. Vị La Hán còn giữ xác
phàm muốn
có kinh nghiệm về Cõi Niết Bàn, phải lìa bỏ thân xác trong giấc ngủ hay trong
lúc xuất
thần. Cõi Bồ Đề là trình độ bình thường của tâm thức một vị La Hán. Nếu người phải
nói chuyện với ai tại Cõi Trần, hay làm một công việc cần phải chú ý, thì người chú tâm vào bộ
óc xác thịt; nhưng nếu người xao lảng hay ngưng chú ý giây lát, thì người lại trở lại
trình độ bình thường của người là tâm thức Bồ Đề. Vì một loạt nhiều Cõi đều mở rộng cho người,
nên người có thể chú định tụ điểm của tâm thức vào một trình độ nào tuỳ ý; tuy nhiên ở
hậu cảnh tâm thức Bồ Đề hay Niết Bàn của người vẫn luôn luôn linh hoạt.
Chúng
ta phải cẩn thận để khỏi phán đoán sai lầm những người thường sử dụng tâm thức cao siêu có thể
xảy ra việc ấy đối với một người như thế. Khi có ai nói chuyện
với Y, Y không trả lời
ngay một
cách thích đáng; vì trong lúc đó Y bận chú tâm đến chuyện khác, nên Y đã bị hiểu lầm. Trong những
trường hợp đó đôi khi Y gây cho người quan sát một ấn tượng lạnh lùng và
xa cách. Tốt hơn là chúng ta nên tìm hiểu những gì đang xảy
ra. Nếu câu trả lời tiết lộ một sự bận tâm nào đó, chúng ta nên rút lui
và chờ dịp khác sẽ đến. Thường thường khi đến gặp Sư Phụ tại nhà Ngài,
tôi nhìn vào bên ngoài hào quang của Ngài thì biết Ngài đang bận. Trong trường hợp ấy tôi chờ cho Ngài
xong việc hoặc đi làm một công việc khác rồi sau đó sẽ trở lại.
Trong đoạn nầy và
các đoạn tương tự khác, tôi thấy những sự mô tả tượng trưng về người hành giả mệt nhọc, bị
gai đâm rách thịt chảy máu v.v… có hơi nặng nề. Mặc dù là lối
dùng ngôn ngữ tượng hình để diễn tả một cách khó khăn, mà trong một
mức độ nào đó, tất cả những người chí nguyện đều phải gặp, nhưng
tôi lại thích dùng những hình ảnh đẹp đẽ hơn. Dĩ nhiên là mỗi
người đều khác nhau và chúng ta nhận thấy câu đó đối với người nầy dường như ghê tởm
lại được những người khác chấp nhận một cách tự nhiên. Tôi không bao giờ có thể
chịu được lối tượng trưng của Hồi Giáo, trong đó bao giờ cũng đề cập đến việc ẩm tửu và
vài trang tượng trưng về Puranas, biểu lộ một cách
hoàn toàn thô bỉ lòng sùng tín của các cô Gopis đối với Đức Shri Krishna.
Tôi hiểu
rất rõ thế nào là ý nghĩa của chữ Sufi (Sự huyền bí theo Hồi Giáo): Cũng giống như người uống
rượu thật say quên tất cả, vậy người ấy phải được đầy đủ sự Minh Triết Thiêng Liêng cho đến khi tất cả nó
đều trở thành Y. Tôi thích nói theo tác giả Thánh Thi như sau đây hơn:
“Như con nai kêu bên những dòng nước, Linh Hồn con cũng thở dài như thế theo Ngài,
hỡi Thượng Đế mến yêu.”
Khi
con đã vượt qua con đường ấy và đến con đường của vị La Hán, thì không
còn phải như thế nữa.
Nơi đó Klesha đã
hoàn toàn bị tiêu diệt, những gốc rễ của Tanha đã được nhổ sạch. Nhưng hỡi
Đệ Tử, con hãy chờ đợi
. . . còn một lời nữa. Con có thể nào huỷ diệt lòng từ bi
thiêng liêng chăng? Lòng từ bi không phải là một đức tính phụ thuộc. Đó là Pháp của các Pháp, là sự điều
hoà vĩnh viễn, Chơn Ngã của Alaya; một tinh chất đại đồng
vô bờ bến, ánh sáng của sự công chính trường tồn, sự thích ứng với vạn vật, luật bác
ái vĩnh cửu.
Con
càng hiệp làm một với lòng từ bi, bản thể của con càng tan trong bản thể của nó, Linh Hồn càng hợp
nhất với cái hằng hữu, con càng trở nên từ bi tuyệt đối.
Đó là con đường
Arya, con đường của Chư Phật trọn lành.
Về đoạn nầy Bà Blavatsky chú thích như sau: “Klesha là sự ưa
thích khoái lạc hay sung sướng ở đời, tốt cũng như xấu,” còn Tanha là sự tham sống, là nguồn gốc của sự Luân Hồi.” Theo thuật
ngữ, người Ấn Độ hiểu chữ Klesha là một mê luyến Cõi Trần dưới năm hình
thức tạo ra những sự ưu phiền và chướng ngại lớn lao trên Đường Đạo. Chúng tôi đã đề cập
đến vấn đề nầy trong Phần thứ Nhứt. Như đã giải thích Tanha có nghĩa là Chơn Nhơn
khao khát những rung động mãnh liệt dưới Thế Gian trong giai đoạn
tiến hoá đầu tiên của nó, nhờ đó nó đã hiểu rõ về đời sống của nó hơn.
Cũng
có một chú thích khác về lòng từ bi như sau:
Lòng từ bi đó
không nên hiểu là “Thượng Đế, Tình Thương Thiêng Liêng” theo nhãn quang của Nhà Thần Học. Ở đây
lòng từ bi là luật trừu tượng vô ngã mà bản chất là sự điều
hoà tuyệt đối những rối loạn do sự bất hoà, đau khổ và tội lỗi
gây nên.
Ở đây tôi luôn luôn có cảm tưởng rằng hình như
nhà sáng lập vĩ đại của chúng ta đối xử không mấy công bằng với những Nhà Hữu Thần Luận.
Bà nói không nên nghĩ rằng lòng từ bi tuyệt đối như Thượng Đế, Tình
Thương Thiêng Liêng. Về phần tôi, tôi nghĩ rằng nên nghĩ như
thế nhưng đồng thời chúng ta cũng phải tạo thêm một ý niệm cao cả siêu việt về Đức
Thượng Đế, Tình Thương Thiêng Liêng hơn nhiều người đã quan niệm.
Trong những tác
phẩm về lòng sùng tín ý niệm ấy đều mang một đặc tính cá biệt.
Trong vài quyển sách Công Giáo La Mã về lòng kính tín; cũng như trong những tác
phẩm của Phái Vô Vi, chúng tôi đã thấy có những thành ngữ như “Đấng Christ, Người
yêu của Giáo Hội,” dường như thích hợp với tình thương của Nhân Loại tại Cõi Trần
hơn. Bên Ấn Độ, những tín đồ của Phái Chaitanya cũng như các Phái khác cũng dùng những cách diễn tả
cụ thể tương tự như thế; họ nói về lòng từ bi giống như tình thương của loài
người, nhưng vinh diệu hơn.
Có lẽ vì thế mà
Bà Blavatsky cho rằng chúng ta không nên đồng hoá lòng từ bi tuyệt đối với ý niệm về Tình
Thương Thiêng Liêng. Tình Thương Thiêng Liêng mãnh liệt hơn nhưng rất trừu tượng,
khi diễn
tả bằng lời; nó không phải là một đặc tính của Thượng Đế, nhưng chính là
Ngài; Ngài là tất cả tình thương và không có cái gì hiện hữu mà
không phải
là tình thương. Vậy tôi cho rằng lòng từ bi tuyệt đối chỉ là cái mà chúng ta gọi là Thượng Đế, không phải là Đức
Thượng Đế hữu ngã, mà là một thực tại tối hậu ẩn tàng trong chốn
thâm sâu nhất của vạn vật. Vì đó là lòng từ bi tuyệt đối, nên chúng ta là một đối
với kẻ khác. Chúng ta cảm thấy cần phải giúp đỡ họ.
Tuy
nhiên, đâu là ý nghĩa của Bản Văn Linh Thánh khiến con nói:
“Aum! Tôi tin rằng không phải tất
cả các vị La Hán đều hưởng quả vị ngọt ngào trên con đường đưa đến Niết
Bàn.”
“Aum!
Tôi tin rằng không phải tất cả Đức Phật đều nhập vào Nirvana-dharma.”
Thật thế, trên
con đường Arya con không còn là một Srotapatti nữa, con là một vị Bồ Tát. Con
đã qua sông.
Khi người ta nói rằng không phải tất cả Đức Phật đều
nhập vào Nirvana-dharma, dù danh từ Phật được dùng theo nghĩa tổng quát và có nghĩa là những bậc
giác ngộ, sáng suốt hay những bậc hiền triết, Bà Blavatsky nói rằng theo ngữ pháp
Phật Giáo Bắc Tông thì tất cả những bậc Đại La Hán, Chơn Tiên và những bậc Thánh đều
được gọi là Phật. Vậy câu “Ngươi là một vị Bồ Tát” được dùng để nói với người
nào chuẩn bị trở thành một vị Phật theo nghĩa tổng quát, người ta có thể xem danh từ nầy
tương đương với danh từ La Hán. Ở đây bản văn nói đến con đường Arya, trong khi
phần trước đã đề cập đến “con đường Arhata.” Arya có nghĩa là cao quý, và cũng có thể danh từ Arhat được dùng để
chỉ định
con đường đó còn giữ
một chút nghĩa tổng quát của nó là “xứng đáng” hay “đáng kính.” Vậy con đường đó chẳng phải là
con đường của vị La Hán thôi mà còn là con đường đáng kính hay
cao quý mà chúng ta không nên lầm lẫn với con đường nào khác,
ngoại trừ con đường dẫn đến Niết Bàn, mà Đức Aryasanga hay người đã lặp lại những
lời đó có ý khinh thường, như chúng ta đã nhận thấy.
Tôi
xin lặp lại danh từ Bồ Tát có ít nhất là ba nghĩa, mà nghĩa thứ nhứt chỉ Đức
Phật tương lai trong Quần Tiên Hội, hiện giờ Ngài là Đức Chưởng Giáo của
Chư Tiên và Nhân Loại thuộc một Giống Dân Chánh mới. Ở đây có một
chú thích của Bà Blavatsky cho rằng: “Lòng sùng tín của quần chúng đối
với nhân vật cao cả nầy còn lớn hơn đối với một Vị Phật toàn
thiện.” Dĩ nhiên Đức Phật có nhiều nhiệm vụ quan trọng hơn, nhưng vì
Đức Bồ Tát đối với Giống Dân Chánh của chúng ta bây giờ là Đức Di Lạc,
tức là Đức Chưởng Giáo của những Cõi thấp, nên người ta có thể nói Ngài liên hệ
chặt chẽ và trực tiếp với họ, do đó lòng sùng tín của họ đối với Ngài nồng nhiệt và tích
cực hơn. Cũng giống như lòng yêu mến và sự trung thành đối với một vị Hoàng Tử cai trị một tỉnh
nào đó có thể lớn hơn những tình cảm dành cho vị Hoàng Tử vĩ đại ở xa mà
họ rất ít khi hoặc chẳng bao giờ trông thấy.
Người
ta thường
hỏi: “Hàng Phật Tử có thờ phượng Đức Phật chăng?” Trong quyển “Phật Giáo Cương
Yếu,” Đại Tá Olcott có trả lời vấn đề nầy như sau: “Đức Phật có phải là
Thượng Đế không?” Phật Tử người Miến Điện đáp rằng: “Không,” Phật Tử
Tích Lan, người Sinhalese thì nhìn nhận là có. Ở Tích Lan, Đức
Phật của chúng ta được xem như là Đấng Toàn Thiện, như một vị Giáo Chủ
đáng kính với tất cả tấm lòng biết ơn sâu xa nhất của mọi người. Nhưng ở Miến Điện Tôn
Giáo có tính cách sùng tín hơn. Trên vài phương diện, hai ý kiến trên đều đúng cả.
Mọi người đều có bản chất thiêng liêng; trong những người bất
toàn thì bản chất trên đã bị che khuất, nhưng ở Đức Phật
chúng ta thì Đức Thượng Đế đã hiển hiện rực rỡ.
Những
sự khác biệt về địa phương, Triết Lý và lòng sùng tín đó đều do tính khí của
dân chúng cư ngụ trong hai vùng ấy. Đạo Phật biểu hiện hai trạng thái đó. Ban đầu tất cả những
Tôn Giáo lớn đều thích hợp với mọi hạng người; nhưng trải qua nhiều thế kỷ, vài phần
hay vài đặc tính của Giáo Lý đã rơi vào hàng thứ yếu, trong khi các phần khác
lại nổi
bật lên. Ngày nay Thiên Chúa Giáo hầu như chỉ thích hợp với hạng người sùng
tín. Về
kiến thức và Triết Lý mà nó đã có dưới hình thứ Giáo Lý Thần Bí thì còn lại rất ít. Hồi
Giáo trước tiên cũng mời gọi những người có lòng sùng tín, mặc dù người ta vẫn tìm thấy một
thứ Triết Lý trong phần Huyền Bí của nó. Trong Đạo Do Thái cũng thế; tuy nhiên Kinh
Talmud vẫn biểu lộ một hệ thống Triết Lý. Ngày nay trong tất
cả các Tôn Giáo có lẽ chỉ có Ấn Độ Giáo còn chứng tỏ được cả hai đặc tính về Triết
Học lẫn sùng tín cùng sự rực rỡ và nhiệt thành.
Quả
nhiên là con có quyền lãnh bộ Pháp Phục Dharmakaya; những kẻ lãnh bộ Pháp Phục Sambhogakaya còn cao cả hơn vị
sống trong Niết Bàn, và vị lãnh bộ Nirmanakaya – Vị Phật Từ Bi lại
còn cao thượng hơn nữa.
C.W.L.- Bây giờ chúng tôi xin đề cập đến ba bộ Pháp Phục. Bà Blavatsky
đã chú thích rất dài dòng về vấn đề nầy, còn tôi sẽ bình giảng cho đầy đủ. Các
bộ Pháp Phục đó tiêu biểu cho những loại sinh
hoạt mà Vị Chơn Tiên được 5 lần Điểm Đạo sẽ lựa chọn. Những gì được nói
ra về vấn
đề 7 con đường mở rộng để đi xa hơn trình độ bậc Chơn Tiên thì quá vắn tắt, nhưng
chúng tôi xin tóm lược trong đoạn sau đây những điều mà người ta biết về phương diện nầy:[61]
Khi giai đoạn làm người đã vượt qua, và con
người đứng trước ngưỡng cửa của Đời Sống Siêu Nhân, là Chơn Thần
được giải thoát, thì 7 con đường được mở rộng để cho Người lựa chọn: Con đường thứ nhứt đưa
đến đời sống say mê sự toàn tri và toàn năng trên Cõi Niết
Bàn, ở đó có nhiều cách sinh hoạt ngoài sự hiểu biết của chúng ta đang chờ đợi Người,
và Người có thể trở thành một Vị Avatar, một Đấng Hoá Thân
Thiêng Liêng trong thế giới tương lai nào đó, như thế người ta cũng
gọi là “khoác bộ Pháp Phục Dharmakaya.” Con đường thứ
hai đưa con người vào “Thời Kỳ Tinh Thần,” thành ngữ đầy bí ẩn
nầy chắc có nghĩa là “mặc bộ pháp phục Sambhogakaya.”Con đường thứ ba đưa
Con Người đến làm một
nhân viên của Đức Thượng Đế tham dự vào việc tích trữ Thần Lực để ban
phát cho Nhân Loại, đó là “mặc bộ Pháp Phục Nirmanakaya.” Nếu đi vào con đường
thứ tư, Người trở thành
nhân viên của Quần Tiên Hội để điều hành và che chở thế giới: Nơi mà Người đã đạt được
sự toàn thiện. Con đường thứ sáu sẽ đưa Người đến Dãy Hành
Tinh kế đó để trợ giúp cho sự kiến tạo những hình thái ở đó. Người sẽ đi vào đường
tiến hoá vẻ vang của Thiên Thần. Kế đó là con đường thứ bảy, Người có thể hiến thân cho công
việc Đức Thượng Đế ngay và được Ngài sử dụng theo một tầm mức nào đó
trong Thái Dương Hệ, làm Người Phụng Sự và Sứ Giả, Người chỉ sống để thi hành
Thiên Ý và hoàn thành công nghiệp của Ngài trong toàn thể Thái Dương Hệ do Ngài điều khiển. Cũng
giống như một Vị Đại Tướng có Bộ Tham Mưu mà Ông giao cho các nhân viên mang những bức thông điệp
đến một điểm nào đó trên chiến trường, vậy những Vị theo con đường nầy là những Vị trong Bộ
Tham Mưu của Đức Thượng Đế, khi Ngài ra lịnh thì tất cả Nhân Viên đều phải vâng lời
Ngài.
Ở một thời đại xa xưa hơn, tại Dãy Nguyệt Tinh, có
lẽ con
đường đó được mở rộng cho vị La Hán, vì tại Dãy Hành Tinh nầy bậc
La Hán tiêu biểu cho trình độ cao nhất được quy định do sự tiến hoá của Nhân Loại. Con đường của
những bậc
còn ở tại Địa Cầu của chúng ta chưa rời khỏi hệ thống Quần Tiên Hội đưa đến Cuộc Điểm
Đạo lần thứ Sáu, là Cuộc Điểm Đạo của Bậc Đế Quân (The Chohan) rồi đến Cuộc Điểm Đạo lần thứ Bảy là Cuộc Điểm Đạo
của Đức Văn Minh Đại Đế (The Mahachohan). Đó
là Cuộc Điểm Đạo chót có thể dành cho các Vị Đế Quân
Cung thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy, nhưng trên Cung thứ Nhì, còn có thể
tiến thêm một bước nữa, đó là quả vị Phật và trên Cung thứ Nhứt còn một bước
nữa, là cấp bậc của Đức Ngọc Đế.
Trong nhóm của bảy con đường nằm trong ba khu
vực, có con đường làm việc cho Quần Tiên Hội dành cho những Bậc Chơn
Tiên, ở đây gọi là Nirmanakaya; vậy còn một con
đường khác nữa, đó là con đường của các Đấng Nirmanakayas cũng liên quan đến
Quần Tiên Hội. Các Đức Thầy của chúng ta đều còn giữ xác phàm vì vài
lý do liên quan đến công việc của các Ngài, mà phần lớn là giúp đỡ Nhân Loại ở trong những
trình độ cao. Các Ngài thường tác động trên Nhân Thể của Nhân Loại và đôi khi còn trên
Thể Bồ Đề hoặc Thể Niết Bàn.
Đấng Nirmanakaya
thường sống trong Nhân Thể của Ngài, nghĩa là Augoeides, Thể Vinh Quang do
Ngài tạo thành qua cuộc tiến hoá của Ngài. Ngài cũng thường
giữ các hạt nguyên tử trường tồn của các Thể Hạ Trí, Thể Vía và Thể Xác hầu có thể
hiện ra trên các Cõi đó, khi nào Ngài thấy cần (nhưng rất ít khi
xảy ra việc ấy). Ngài thường sống trong Nhân Thể của Ngài và
không ngừng tạo ra Thần Lực thiêng liêng tuôn vào kho dự trữ để sau đó
các nhân viên trong Quần Tiên Hội và Đệ Tử của các Ngài đem ban phát ra. Bà Blavatsky cho
chúng ta biết rằng: “Các Bậc Chơn Tiên dù thuộc hạng nào cũng đều thích sống tại Cõi Trần
một cách vô hình trong Nhân Thể để cứu giúp Nhân Loại bằng cách
dùng ảnh hưởng của các Ngài dìu dắt họ sống theo Luật Thiêng
Liêng.”
Chỗ khác, Bà cũng định nghĩa: “Vị Nirmanakaya
như một người đã bỏ xác phàm, lấy hình thể bằng Chất Thanh Khí để hiện ra trong
Thể Vía – nhưng vẫn có đầy đủ kiến thức
như một Vị Chơn Tiên. Vị Bồ Tát vẫn khai mở Thể ấy ở chính người
theo sự tiến bước trên Đường Đạo, khi đạt được mục đích và từ
chối quả vị của Người, Người vẫn ở lại Thế Gian như một Vị Chơn Tiên. Khi Người qua đời, thay vì lên
Cõi Niết Bàn, Người sống trong Thể Vinh Quang ấy do Người tạo lấy cho
chính mình mà người chưa được Điểm Đạo không thể thấy được, để
trông nom và che chở cho Nhân Loại.”
Ở đây Bà Blavatsky định nghĩaThể Vía
rất khác với nghĩa tổng quát mà Bà thường dùng và chúng ta quen
sử
dụng hiện nay, nhưng Bà đã dùng như thế trong một bài báo mang tựa đề là Sự Huyền Bí về Đức
Phật, được in lại trong quyển ba của Bộ Giáo Lý Bí Truyền. Theo sự giải thích của Bà,
Đức
Shri Shankaracharya xuất hiện tại Ấn Độ sau khi Đức Phật của chúng ta tịch diệt một thời
gian ngắn, là một Vị Hoá Thân của Đức Phật theo một ý nghĩa nào đó, vì Ngài sử dụng các “Thể
Vía” còn lại của Đức Cồ Đàm (Gautama). Bà nói rằng trong “Thể Vía” như thế chúng ta phải
thấy ở đó ánh sáng của Quyền Năng Thiêng Liêng riêng biệt hay độc lập hơn là
những đối tượng vật chất. Để chấm dứt, Bà nói thêm rằng: “Do đó, cách trình
bày Chân Lý một cách đúng
đắn là phải nói lên những nguyên lý khác nhau, Đức Bồ Tát, Đức
Phật Gautama, không chịu lên Cõi Niết Bàn, đã kết hợp nhau một lần
nữa để tạo thành nguyên lý trung gian của Shankaracharya, Thực Thể Hồng Trần.”
Muốn hiểu được sự
huyền bí về Đức Phật, trước hết chúng ta phải hiểu rõ sự cấu tạo của những hạt
nguyên tử Hồng Trần và kế đó là cách nó tiến hoá khi được sử
dụng trong Thể Xác, một cách tổng quát khi nó vừa tạo nên những
phân tử và đồng thời là một cách đặc biệt như những hạt nguyên tử trường tồn. Nếu
dùng Thần Nhãn để quan sát hạt nguyên tử Hồng Trần nhỏ nhất, trước hết chúng ta sẽ thấy nó
giống
như một cái lồng bằng lưới sắt; kế đó, khi nhìn gần hơn, chúng ta sẽ thấy mỗi sợi lưới được cấu tạo
bằng một sợi dây tế vi hơn nữa vòng lại, và chung tất cả có bảy loạt
loa
trạng khuẩn (spirilla) như thế. Một trong các loa trạng đó hoạt động
trong mỗi Cuộc Tuần Hoàn, vì chúng ta hiện đang ở trong Cuộc
Tuần Hoàn thứ tư của Dãy Địa Cầu, nên từ đó đến nay chỉ có bốn loại loa
trạng khuẩn hoạt động được trong đa số hạt nguyên
tử.
Mỗi Cuộc Tuần Hoàn tương ứng với sự phát triển của một loạt loa trạng
khuẩn mới; vậy trong Cuộc Tuần Hoàn thứ bảy tất cả bảy loa trạng
khuẩn đều hoạt động được. Trong Cuộc Tuần Hoàn đó những nguyên tử sẽ
hoàn hảo hơn hiện nay, và loài người lúc đó sẽ đáp ứng với những năng lực
tinh thần và sống một cuộc đời cao thượng dễ dàng hơn Nhân Loại ngày nay.
Nếu những hạt
nguyên tử ấy thức tỉnh và tiến hoá chính vì chúng được sử dụng trong thể xác của sinh
vật, từ loài kim thạch đến loài người. Tất cả đều được tạo thành
bởi nguyên tử, chúng bay lơ lửng chung quanh chúng ta nhiều vô số. Có lẽ nhiều hạt chưa từng được sử dụng,
nhưng
một số khác thường xâm nhập vào thể xác sinh vật và sau đó bị trục xuất ra. Có vài hạt bao
giờ cũng kết hợp với con người, được dùng như những hạt
nguyên tử trường tồn, đi theo con người từ kiếp nầy qua kiếp khác, trải qua tất
cả chu kỳ
tái sinh. Như vậy những hạt nguyên tử sống với chúng ta và tạo thành các Thể
của chúng ta. Người ta nói rằng những bộ phận
nhỏ trong xác thân cứ bảy năm đều đổi ra mới; vài Nhà Bác Học lại cho rằng
nó được đổi mới trong ba năm. Có lẽ xương cốt thay đổi chậm hơn, còn các bắp
thịt sẽ
không thay đổi hoàn toàn hơi sớm hơn ba năm. Các thành phần nhỏ trong máu
còn thay đổi nhanh chóng hơn, chúng sẽ được thay thế trọn vẹn trong
vài ngày.
Tất cả những nguyên tử bị sinh vật hấp thụ đều chịu
những sự thay đổi đáng kể. Những nguyên tử thuộc thành phần của đất tiến hoá rất chậm, nhưng những nguyên tử
tạo thành đá quý tiến hoá rất nhanh. Thảo mộc và thú vật còn tạo cơ hội thuận lợi hơn
cho những nguyên tử, nhưng sự tiến hoá tuyệt hảo chỉ có thể xảy ra đối
với những nguyên tử được hấp thụ trong các Thể của con người. Đối với
loài người, những người sống đời sống tâm linh tạo điều kiện tốt
hơn những người kém tiến hoá vì họ dùng thực phẩm và thức
uống tinh khiết hơn (hoặc ở bậc cao hơn nữa, họ không ăn uống chi cả). Chính
chúng ta, trong khi tiến hoá, chúng ta cũng thu hút những hạt
nguyên tử tốt và sa thảy dần những hạt nguyên tử kém tiến hoá.
Khi trở nên Bậc Chơn Tiên, con người
chỉ có thể biểu lộ bằng những hạt nguyên tử vừa với trình độ đó. Người cần phải có
những hạt nguyên tử đặc biệt tiến bộ và thanh bai, vì các Thể của người phải
thật tinh khiết hơn các Thể của chúng ta và có thể rung động đến
một mức độ mà các Thể của chúng ta không thể chịu đựng nổi.
Khi đạt đến quả vị Phật, con người hoàn toàn không gặp được những
hạt nguyên tử thích hợp, ngoài ra những hạt nguyên tử đã được dùng làm nguyên tử trường
tồn, luôn luôn là thành phần của xác thân con người, không kể thời gian cách
khoảng giữa những kiếp tái sinh. Những hạt nguyên tử trường tồn tiến hoá hơn những hạt nguyên tử
khác rất nhiều; ở những người sắp đắc quả Chơn Tiên, chúng đã phát
triển
hoàn toàn như những hạt nguyên tử của Cuộc Tuần Hoàn thứ bảy. Sự phát triển của
chúng cũng
phải được trọn vẹn hơn cả và chúng phải tiêu biểu cho tất cả những đức tính do chúng
thu hoạch được trong những kiếp trước.
Những hạt nguyên tử trường tồn của
tất cả những người trên Địa Cầu của chúng ta tại
Dãy Hành Tinh nầy khi đắc quả Chơn Tiên đã sa thảy đều được Đức Phật Gautama hay ý muốn của
Ngài thu góp lại. Người là Vị Phật đầu tiên trong Nhân Loại của chúng ta.
Tất cả những Vị Phật trước đều đến từ một cuộc tiến hoá khác và có lẽ
các Ngài mang theo tất cả những yếu tố cấu tạo thể xác để dùng. Nhưng Đức Phật Thích
Ca là người đầu tiên trong Nhân Loại của chúng ta đắc quả, nên Ngài
phải tạo các Thể của Ngài bằng vật chất tại Dãy Hành Tinh của chúng ta. Vậy những Thể đó
của Ngài phải được Ngài hay những Nhân Vật cao cả hơn Ngài cấu tạo. Nhân Thể của Ngài
được tạo bằng những “yếu tố còn lại” hay những hạt nguyên tử
trường tồn của tất cả Nhân Thể được các Nhân Vật cao cả trên sử dụng; Thể Trí của Ngài
làm bằng những Thể Trí do các Nhân Vật thu góp lại, sau cùng Thể Vía của Ngài
được tạo bằng những hạt nguyên tử trường tồn Trung Giới của các Nhân Vật ấy. Những hạt
nguyên tử trường tồn nầy không hoàn toàn đủ số để tạo nên Thể
Vía trọn vẹn, do đó phải dùng đến những hạt nguyên tử trường tồn khác
thuộc loại tốt nhất; nhưng những hạt nguyên tử nầy phải được mạ điện và được
những nguyên tử khác làm cho hoạt động và được thay thế bằng những
hạt nguyên
tử trường tồn của Vị Chơn Tiên vừa mới mặc Pháp Phục Sambhogakaya hay Dharmakaya. Một loạt Thể duy
nhất tuyệt đối đều được kết hợp lại như thế. Tại Bầu Hành
Tinh nầy không có Thể nào khác, không hề có vật liệu nào
để tạo một lần thứ hai. Các Thể ấy đã được Đức Thích Ca dùng, và sau Ngài,
chúng sẽ
được giữ lại.
Tất cả những điều nầy giúp chúng ta
hiểu
sự quả quyết của Bà Blavatsky, khi Bà cho rằng những nguyên chất của Đức Phật được dùng như
nguyên chất trung gian của Đức Shri Shankaracharya, nhưng Đức Shankaracharya bằng xương thịt là
một người rất khác biệt và Nhân Thể không hề giống với Nhân Thể của Đức Phật. Ba Thể
trung gian đó đã được Đức Shankaracharya dùng và bây giờ Đức Di Lạc Bồ Tát lại sử
dụng. Trong một bài báo của Bà, Blavatsky đã dùng một Danh Pháp hơi kỳ lạ.
Thánh Paul phân biệt trong con người gồm có ba phần: Tinh Thần, Linh Hồn và Xác Thân. Có lẽ Ngài
muốn nói Tinh Thần (Spirit) là cái mà chúng ta gọi là Chơn Thần
(Monad); Linh Hồn (Soul) là Chơn Nhơn (Ego) và Xác Thân (The Body) tức là Phàm Nhơn (The Personality). Bà Blavatsky
cũng ám chỉ bộ ba đó, nhưng Bà cho rằng Đức Phật là một nhân vật quá
cao cả nên chúng ta không thể nói đến những nguyên chất cấu tạo xác thân Ngài như nói đến những
nguyên chất của một người thường. Do đó khi nói đến Chơn Thần của Đức Phật, Bà gọi nó là Dhyani
Buddha.
Kế đó, Bà cũng gọi nguyên chất trung gian của Ngài là thân Bồ Tát của Ngài; sau cùng Bà gọi
xác thân vật chất của Phật là Manushya Buddha. Tóm lại, những nguyên
chất của Đức Phật được trình bày như sau: Chơn Thần của Ngài, được
gọi là Dhyani
Buddha (vì Ngài là một với Chơn Thần theo một ý nghĩa mà
bây giờ chúng ta chưa biết được); kế đó là thân Bồ Tát; sau cùng là Manushya Buddha,
tức là sự biểu hiện của Ngài tại Cõi Trần. Thể Vía và Thể Trí không
bị phân tán đều gồm trong thân Bồ Tát.
Trước hết đa số chúng ta rất bối rối
trước
việc sử dụng thuật ngữ của Bà Blavatsky, nhưng sự thật sẽ trở nên rõ ràng hơn, chúng ta
bắt đầu hiểu những gì Bà muốn nói khi Bà cho rằng Manushya sẽ chết và sẽ
mất, Dhyani Buddha sẽ vào Niết Bàn và Bodhisattva sẽ ở lại Cõi Trần
để tiếp tục công việc của Đức Phật. Bà gọi thân Bồ Tát là những nguyên chất của Đức
Phật mà Đức Bồ Tát hiện nay đang dùng. Vì chúng được dùng cho Đức Di Lạc Bồ Tát
của chúng ta, nên cái mà chúng ta thấy được trong ngày lễ Wesak không phải
là chúng, vì sự xuất hiện đó là cái bóng của Đức Phật;[62] đó
chỉ là hình ảnh của Ngài phản chiếu lại cũng như Thể Vía
và Thể Trí của vị Đệ Tử[63]
phản chiếu lại thành hình linh động, nhưng Ngài hoạt động nhờ trung gian của
hình ảnh đó được, nên Ngài dùng nó.
Tôi đã giải thích trong quyển “Chơn
Sư và Thánh Đạo” rằng công nghiệp của Đức Phật chưa thành công
một cách trọn vẹn, nhưng chúng ta chưa thể hiểu được điều đó, Ngài và
Đức Di Lạc Bồ Tát của chúng ta cả hai đều tiến hoá rất xa đối với toàn thể Nhân Loại, nhưng trong
thời kỳ cần phải có một Đức Phật đầu tiên trong hàng ngũ Nhân Loại, trong hai
Ngài không vị nào hoàn toàn đủ điều kiện tiến hoá để đảm đương
chức vụ cao cả đó. Khi thời giờ đã đến, Đức Phật Thích Ca của chúng ta vì lòng từ bi
vô lượng đối với Nhân Loại đã quyết định hoạch đắc những đức tính cần
thiết với bất cứ giá nào để đảm nhiệm những chức vụ đó, và nguyện hết lòng hy
sinh, là điều kiện cần thiết để được tiến bộ nhanh chóng
nhất.[64]
Ngài đã giữ lời
hứa và toàn thể thế giới Phật Giáo đều tôn kính Ngài. Ngài sống cuộc đời của một Vị
Phật và đã hoàn thành công nghiệp của Ngài. Khi chiêm ngưỡng
đời sống đó, chúng ta thấy quả là một cuộc đời tuyệt diệu. Người ta không thể
tìm thấy
một khuyết điểm cũng như một dấu vết bất toàn nào trong đời sống, giáo lý và
công nghiệp của Ngài; tuy nhiên chúng ta được cho biết
rằng công nghiệp đó còn vài phần chưa được hoàn thành. Để bổ túc các khuyết điểm đó, Ngài
quyết định thực hiện hai việc. Trước hết chính Đức Phật của chúng ta bằng lòng mỗi năm
hiện ra một lần để ban ân huệ cho Thế Gian; do đó Ngài đã hiện ra trong
ngày lễ Wesak và ban rải Thần Lực xuống Cõi Trần giúp ích cho Nhân Loại thật nhiều.
Mặt khác một sự Hoá Thân được thực hiện sau khi Ngài tịch
diệt không bao lâu; đó là sự giáng sinh của Đức Shri Shankaracharya.
Chính nhờ quyển
“Phật Giáo Bí Truyền” của ông Sinnett mà lần đầu tiên chúng tôi biết được sự liên
quan huyền bí giữa Đức Phật của chúng ta và Đức Shri Shankaracharya. Trong cách ấy
người ta nói rằng Đức Phật tái sinh làm Đức Shri Shankaracharya, Đức Shankaracharya chỉ là Đức Thích Ca
trong một thể xác mới. Chúng tôi hiểu ngay là điều nầy không đúng bởi nhiều lý do và
đây là một trong các lý do ấy: Vì Đức Shankaracharya thuộc Cung thứ Nhứt, còn Đức Phật
của chúng ta là Chủ Tể của Cung thứ Nhì. Bà Blavatsky thuật lại nhận xét
trên của
ông Sinnett và Bà nói rằng điều ấy đúng theo một ý nghĩa huyền bí nào đó, nhưng
đã dùng những thuật ngữ sai lầm. Người ta hỏi Bà có phải Đức
Shankaracharya là Đức Phật Thích Ca dưới một xác thân mới không. Bà trả lời rằng Đức Thích Ca
bằng Thể Vía trong lớp vỏ bên ngoài của Đức Shankaracharya, mà Atma là kiểu
mẫu thiêng liêng đầu tiên, con của Ánh Sáng tuyệt diệu do Cái Trí
sinh ra.
Khi nói rằng Đức Shri
Shankaracharya là một Vị Phật mà không phải là một Hoá Thân của Đức
Phật, Bà muốn nói rằng Ngài là một Vị Độc Giác
Phật, nghĩa là một Vị Phật ở Cung thứ Nhứt. Ngài còn sống ở Bạch Ngọc Cung (Shamballa), xác
thân của
Ngài là xác thân Ngài đã mang theo từ Bầu Kim Tinh. Các Thể của các Đấng Thần Hoả Tinh Quân (the
Lords of the Flame) hoàn toàn khác biệt với các Thể của chúng ta; những bộ phận nhỏ
của chúng không thay đổi, nhưng được so sánh với những Thể bằng thuỷ tinh; chúng
giống với các Thể của chúng ta nhưng vô cùng xinh đẹp hơn; tôi nghĩ
rằng nó được tạo bằng vật chất của hệ thống tiến hoá đó, được các Ngài
mang đến y như thể từ Bầu Kim Tinh. Theo Bà Blavatsky Đức
Shankaracharya là một Đấng Hoá Thân với đầy đủ tất cả ý nghĩa của danh từ
nầy, nơi Ngài, ngọn lửa cao cả nhất của các nhân vật thiêng liêng
biểu hiện đều sáng ngời rực rỡ. Vì một Đấng Hoá Thân theo
nguyên nghĩa là một nhân vật “đến từ thế giới khác” hay
“giáng sinh” và Ngài không thuộc về Nhân Loại của chúng ta, danh từ được sử dụng ở đây thật
chính xác. Thật ra Ngài là một trong ba Vị Thần Hoả Tinh Quân
đã đến từ Bầu Kim Tinh, Ngài còn ở lại Thế Gian như các Vị phụ tá và Đệ Tử của Đức Ngọc Đế.
Chúng ta hãy trở lại vấn đề các
Đấng Nirmamakaya một cách tổng quát. Chú thích của Bà Blavatsky còn
cho chúng ta biết: “Theo Phật Giáo Công Truyền Bắc Tông người ta
tôn sùng tất cả những nhân vật vĩ đại nầy như những vị Thánh
và đọc Kinh cầu nguyện các Ngài như những người Hy Lạp và Công Giáo từng làm đối với
các vị Thánh Bổn Mạng của họ; mặt khác, Giáo Lý Bí Truyền không hề
khuyến cáo
làm
như thế.” Rồi đến người Hy Lạp, Bà muốn chỉ những
nhân viên trong Giáo Hội Hy Lạp - những người Hy
Lạp
xưa không đọc Kinh cầu nguyện, nhất là cầu nguyện các Thánh. Câu “Giáo Lý Bí Truyền không hề khuyến khích như thế” có
nghĩa là không một Sinh Viên Huyền Bí Học nào cầu xin sự
trợ giúp của một Vị Nirmanakaya, vì họ biết rằng các Đấng Cao Cả nầy không chăm sóc
riêng cho cá nhân, nhưng với tất cả quyền năng của các Ngài, để
hoàn thành công tác đặc biệt do các Ngài phụ trách, các Ngài ban phát một cách
rộng
rãi Thần Lực kỳ diệu của mình.
Tuy nhiên người ta nói rằng sự thờ
phượng các nhân vật cao cả như Chư Phật Từ Bi còn phổ thông hơn
những Đấng đã chọn các con đường khác. Bà Blavatsky cũng nói: “Vì có lòng tôn
sùng như thế trong giới bình dân, họ cũng gọi là “Chư Phật Từ Bi” những vị Bồ Tát khi
đã đắc quả La Hán (nghĩa là khi đã trải qua con đường thứ tư hay con đường thứ
bảy), từ chối bước vào trạng thái Niết Bàn hoặc “khoác bộ Pháp Phục Dharmakaya và vượt qua bờ
bên kia,” nếu không các
Ngài không thể cứu độ Nhân Loại dù Nghiệp Quả có cho phép chút ít.”
Những ý tưởng chính
ở đây hoàn toàn rõ rệt, nhưng việc sử dụng thuật ngữ có hơi phức tạp. Mỗi vị Chơn Tiên đều đã vượt qua
đến bờ bên kia; như vậy Ngài đã chấm dứt con đường mà Ngài đã bắt đầu khi
Ngài Nhập Lưu. Theo thành ngữ trong bản văn của chúng ta “con sông đã được
vượt qua” trước khi Vị Chơn Tiên chọn một trong ba bộ Pháp Phục đó, và chính Ngài chứ
không phải vị La Hán, theo ý nghĩa thông thường của danh từ nầy, đã được kêu gọi lựa
chọn. Vị mặc Pháp Phục Dharmakaya đã vượt qua đến bờ bên kia theo một ý nghĩa thật
trọn vẹn.
Bà Blavatsky nói tiếp “Bậc Sambhogakaya
cũng
giống như thế, nhưng gồm thêm ba sự hoàn thiện nữa, mà một trong ba sự hoàn thiện đó
là hoàn toàn xoá bỏ mọi sự liên hệ với Thế Gian.” Người dấn thân trong một cuộc tiến hoá thiêng
liêng và nhập Niết Bàn sau đó. Người giữ hạt nguyên tử Niết Bàn, Thể Niết Bàn, mà
theo tôi tưởng, không có hạt nguyên tử thấp thỏi nào. Ở trình độ đó, người thường
biểu lộ như Tinh Thần ba Ngôi (The Triple Spirit).
Trong hạng nầy, có lẽ gồm có những người đã trở nên hoàn toàn và đã
nhập vào Bộ Tham Mưu của Đức Thượng Đế. Các Ngài không còn liên hệ với Địa Cầu của
chúng ta, nhưng lại phụng sự Đức Thượng Đế và có thể được Ngài gởi đi
khắp nơi thuộc thành phần Thái Dương Hệ của Ngài.
Kế đó là Pháp Phục của Đấng
Dharmakaya, đó là “thân của một Vị Phật hoàn toàn, nghĩa là không phải thân
thể chi cả, mà chỉ là một luồng linh khí lý tưởng; tâm thức
chìm đắm trong tâm thức của Vũ Trụ, hay Linh Hồn thoát khỏi mọi sự ràng buộc.” Điều
nầy có nghĩa là người chọn bộ Pháp Phục Dharmakaya rút lui vào Chơn Thần. Người hoàn toàn
bỏ hết những hạt nguyên tử trường tồn của mình và chỉ làm việc trên những Cõi cao mà Cõi
thấp nhất đối với Người là Cõi Niết Bàn. Sau khi thiêu huỷ
hết những
thuyền bè của Người, Người bắt đầu sống trong Vũ Trụ, tuy nhiên, nếu người
muốn, tôi tưởng rằng người còn có thể biểu lộ như Tinh Thần Ba Ngôi, mà không
giữ lại ngay cả Hạt Nguyên Tử Niết Bàn.
Từ đầu đến cuối
cuộc tiến hoá của mình, chúng ta vẫn giữ nguyên một Nhân Thể, cho đến khi tâm thức
chúng ta có thể vươn lên đến Cõi Bồ Đề, chừng đó sự kiện duy nhất là thiết lập trung tâm
của chúng ta trong Thể Bồ Đề, để xác định sự
biến mất Nhân Thể. Tuy nhiên, vừa khi chúng ta đem tâm thức trở về
Cõi Thượng Thiên, Nhân Thể lại xuất hiện nữa; nó không còn giống y như
trước, những bộ phận nhỏ của nó bị phân tán, nhưng hình thể bên ngoài vẫn
đúng in như trước. Một tiến trình tương tợ như thế cũng xảy ra đối
với bộ Pháp Phục Dharmakaya. Người đã sa thảy
hạt nguyên tử Niết Bàn, sự biểu hiện của Người trên Cõi Niết
Bàn, nhưng tôi tin rằng nếu Người trở lại Cõi đó trong chốc lát, Người sẽ cùng một lúc, thu
hút về với mình một hạt nguyên tử hoàn toàn giống y như thế, đó là bộ Pháp Phục Niết Bàn để
cho Người biểu hiện như Tinh Thần Tam Thể.
Nếu đem so sánh
ba bộ Pháp Phục, chúng ta có
thể nói rằng Bậc Dharmakaya không giữ lại cái gì thấp hơn Chơn Thần, thật ra
chúng ta không biết được lớp áo của Chơn Thần ngay trên Cõi của nó có
thể là gì? Bậc Sambhogakaya vẫn biểu hiện như
Tinh Thần Tam Thể và tôi tưởng còn có thể đi xuống thấp nữa
và hiện ra trong lớp
áo Augoeides tạm thời. Bậc Nirmanakaya hình như vẫn giữ
bộ áo Augoeides
và tất cả những hạt nguyên tử trường tồn của mình, do đó Người có khả
năng hiện ra ở bất cứ Cõi nào. Dù sao ba bộ Pháp Phục cũng tiêu
biểu cho một sự phát triển tương đương nhau. Chỉ có một sự khác biệt duy nhất:
Đó là Vị
đã sa thảy những hạt nguyên tử trường tồn thì không thể hiện hình ra trong các
Cõi thấp, và Người cũng vứt bỏ nó luôn vì không còn cần thiết
trong công tác đặc biệt của Người nữa. Vị nào giữ chúng lại thì có thể xuống các Cõi thấp
và hoạt động tại đó, nhưng nếu chúng ta cho rằng những Vị chọn công tác
khác giữ một vai trò kém quan trọng hơn, ít được quý trọng hoặc ít vinh diệu
hơn thì không thể đúng. Chúng ta nghĩ rằng những Vị ở các Cõi cao đảm nhiệm những
công tác quan trọng và lớn lao hơn tại Thái Dương Hệ, nhưng chúng ta đã
lầm vì trọn cả Thái Dương Hệ đều là sự biểu hiện của Đức Thượng Đế.
Bà Blavatsky nói
về tất cả những Kayas đó như những Thể Bồ Đề. Bà dùng chữ Buddhic như hình dung từ
của chữ Buddha (Bồ Đề ) và chữ Bồ Đề nầy tương đương với chữ
Asekha Adept là Đấng được Điểm Đạo lần thứ Năm. Chúng ta dành
danh từ đó cho những Bậc đã được Điểm Đạo tới quả vị Phật.
Các Đức Thầy của chúng ta thấp hơn quả vị đó hai bậc, nhưng ở Tây Tạng người
ta gọi các Ngài là những Vị “Phật sống.”
Lời chú thích được kết thúc như
sau: “Trường Bí Giáo dạy rằng Đức Phật Thích Ca và các vị La Hán, Đệ Tử của Ngài là một
Vị Nirmamakaya thuộc hạng ấy, và vì sự từ bỏ lớn lao và sự hy sinh
cho Nhân Loại của Ngài, nên
trên Ngài không còn có ai được nhận biết nữa.” Chúng ta không
nên kết luận rằng Đức Phật Thích Ca và các vị La Hán, Đệ Tử của Ngài, hợp lại thành một
Đấng Nirmanakaya duy nhất, không, chỉ có Ngài là Đấng giống như thế thôi và các tín đồ của Ngài chỉ
đi theo con đường như Ngài. Kế đó, chúng ta thấy ngoài Ngài ra trong Nhân Loại không có ai
cao cả hơn Ngài nữa. Điều nầy hoàn toàn đúng, nếu chúng ta hiểu rằng trong Nhân Loại không có ai
đạt đến đỉnh cao như Đức Phật Thích Ca của chúng ta.
Ngay cả Đức Bồ Tát là Đức Di Lạc của
chúng ta, xưa kia là Bậc đồng đẳng với Ngài như tôi đã giải
thích trong quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo,” cũng chưa tiến
bước để trở thành một Vị Phật. Nói cách khác, hiện nay Ngài chưa hoàn thành
chức vụ Chưởng Giáo tối cao trên Quả Địa Cầu nầy. Các hàng Phật Tử thường
gọi Ngài là Đức Phật Di Lạc, song đó là một danh hiệu vinh dự.
Trong Quần Tiên
Hội còn một cấp bậc chót, cao hơn cấp bậc của Đức Phật, đó là cấp bậc của Đấng
Đại Đế, Đấng Duy Nhất cầm quyền Điểm Đạo, nhưng vì Ngài là
Đấng trong số các Đấng Tinh Quân từ Kim Tinh đến, nên chúng ta có thể nói quả thật
Đức Phật Thích Ca là bông hoa siêu việt nhất của Nhân Loại chúng ta.
Bây giờ con hãy
cúi đầu và nghe cho rõ, hỡi Vị Bồ Tát - Lòng Từ Bi thốt
lời và nói: “Có thể nào hưởng hạnh phúc khi chúng sanh đang chịu đau
khổ? Người
có đành tự giải thoát mà nghe cả thế giới rên siết chăng?”
Bây giờ con đã nghe biết những gì
được thốt lên:
Con sẽ thực hiện bước thứ
bảy và con sẽ vượt qua cánh cửa tri thức cuối cùng chỉ để nhận lãnh sự đau khổ
mà thôi - nếu con muốn trở thành Đấng Như Lai, thì con hãy nối
bước
các bậc tiền bối của con, giữ tấm lòng vị tha cho đến cùng.
Con đã giác ngộ - hãy chọn lấy con
đường của
con.
. .
. . . .
. .
Một lần nữa Đức
Aryasanga lại trình bày ý niệm chính trong Giáo Lý của Ngài, Ngài
khuyến
khích Đệ Tử của Ngài nên
chọn con đường Từ Bi. Ngài nói người ta không thể bỏ rơi những Huynh Đệ đau khổ của
mình. Khi đã nghiên cứu thật đầy đủ vấn đề đau khổ, chúng ta biết rằng nếu vị La Hán còn
làm việc tại Thế Gian đầy phiền não, thì trên các Cõi cao tâm thức của Ngài vẫn
biết rằng sự vinh quang ở phía sau mà thế giới nầy là tấm màn che, tâm thức ấy biết rằng
mọi người chắc chắn sẽ đạt được sự toàn phúc tối cao, do đó
Ngài không thể bị khổ luỵ như những người thường chỉ thấy rất ít
khía cạnh vinh quang của sự sống. Bậc La Hán ở đây được gọi là Bồ
Tát, rất
thích hợp với danh hiệu trong ca khúc khải hoàn của Đức Phật Thích Ca, đã được mô tả
rất đẹp trong bộ “Ánh Đạo Á Châu” như
sau:
Người không còn bị ràng buộc nữa! Tâm hồn của vạn
vật rất hiền hoà,
Tấm lòng của Đấng Cao Cả là một sự an lạc
thiêng liêng;
Ý chí mạnh hơn sự đau khổ;
cái gì đã
tốt đẹp rồi sẽ tốt đẹp thêm
Rồi sẽ trở nên tuyệt vời.
Ta, Vị Phật, đã khóc hết nước
mắt vì Nhân Loại,
Mà trái tim đã bị tan vỡ bởi nỗi khổ đau của cả
thế giới,
Bây giờ Ta hoan hỉ và sung sướng,
vì đây là Tự Do, Giải Thoát! [65]
Khi khuyên các
tín đồ của mình “nên giữ Tấm Lòng Vị Tha cho đến vô cùng tận,” Đức Aryasanga đã dùng một câu
thành ngữ hơi lạ lùng giống như thành ngữ “Thế Giới Vô Tận” mà người Công Giáo
thường mô tả và theo tiếng La Tinh “Thế Giới Vô Tận” có nghĩa là từ thời đại nầy đến thời đại khác (in the
ages of the ages). Nói một cách khác cho đến cuối cùng Dãy Địa Cầu của
chúng ta, hay có thể tận cùng Dãy Hành Tinh hiện tại của chúng ta. Tác
giả cho biết rằng chúng ta phải giữ sự liên hệ với Nhân Loại cho đến bao
giờ công nghiệp của chu kỳ Nhân Loại hiện nay được hoàn tất và Nhân Loại đạt đến mục
đích của mình.
Cách hiến dâng của chúng ta không
hoàn toàn giống như thế. Chúng ta tự đặt mình dưới quyền sử dụng của của các
Đấng Chơn Sư một cách trọn vẹn mà không cầu xin các Ngài
giao cho chúng ta công tác nầy hay công tác khác, chấp nhận tuyệt đối
quyết định của các Ngài, chúng ta có thể xin: “Hãy gởi con đi bất cứ
nơi nào.” Đức Aryasanga muốn các Đệ Tử của Ngài chọn
con đường mà chính Ngài đã chọn. Có lẽ Ngài cảm thấy trên phương diện nầy cần có nhiều
người phụng sự hơn nữa. Ngài đã lên tiếng trong một thời kỳ lịch sử
Ấn Độ dưới
triều Vua Harsha, là thời đại mà hình như Tôn Giáo bị suy tàn, con
người chỉ lo nghĩ đến những hình thức bên ngoài hơn là đời sống
chân thật và thâm sâu, thời đại mà tất cả đều chia rẽ, tất cả đều mang
tính chất giả tạo. Trong tình trạng đó, có lẽ Đức Aryasanga thấy cần phải có nhiều
Vị Huấn Sư hơn nữa để thức tỉnh sự sống Tôn Giáo và lý tưởng phụng sự.
Sau cùng, Ngài
khuyến khích các Đệ Tử của Ngài đạt đến quả vị Như Lai, theo bước Đức Phật của
chúng ta. Ngài nói rằng bây giờ họ đã giác ngộ, họ phải chọn lấy con đường của
mình. Kế
đó có những dấu chấm lơ lửng khiến chúng ta hiểu rằng độc giả phải tự
quyết định lấy.
Sau đây là phần kết luận tuyệt đẹp:
Con hãy nhìn xem
ánh từ quang đang tràn ngập Trời Đông. Để tỏ dấu ca ngợi, đất trời cùng hoà hợp
với nhau. Và bốn uy quyền hiển hiện trổi lên một ca khúc của
tình thương, lửa sáng, nước trong, đất thơm và gió mạnh.
Con hãy lắng nghe! . . . từ chốn sâu
thẳm
vô tận trong cơn lốc của ánh sáng kim quang đó là nơi mà Vị Chiến Thắng đang đắm mình,
tiếng không lời của vạn vật trổi lên trăm ngàn giọng hoan hô:
Hãy hoan hỉ hỡi người trong
Cõi Myalba. Một Vị Hành Hương đã từ Bỉ Ngạn trở về. Một Vị La Hán mới sanh.
Tôi đã ghi nhận sự vui mừng phấn khởi khắp nơi
trong Thiên Nhiên khi có một vị mới được Điểm
Đạo giáng sinh. Ở đây chúng ta được biết trong sự hoan hỉ đó, đất trời đã
hoà hợp với nhau. Thần Địa Cầu thấy một cảm thức khoan khoái gia tăng. Vị Thần đó
là một thực thể cao cả, không có liên hệ gì tới sự tiến hoá của Nhân Loại chúng ta, và
thể xác của Người là trọn cả Quả Địa Cầu của chúng ta. Rất khó quan niệm được bản chất của
một Nhân Vật như thế. Nếu chúng ta thấy Địa Cầu của chúng ta là một Bầu to lớn, quay cuồng
trong không gian, không có những cơ quan đặc biệt, thì người ta có
thể ngạc nhiên khi biết nó được dùng làm thân xác của một Nhân Vật nào đó. Nhưng nếu tất cả
sinh vật sống trên Bầu Trái Đất nầy là thành phần tâm thức của Thần Địa Cầu, thì đôi
mắt của họ cũng đủ chứng minh. Ngài sống trong đời sống của họ và
do đó, Ngài mới hoạch đắc kinh nghiệm được. Vả lại, trong lúc di chuyển, Quả Địa Cầu
là thành phần của một cuộc hợp xướng vĩ đại của nhiều Hành Tinh, mà mỗi Hành Tinh đều
phụ thêm âm điệu riêng của mình vào nhạc khúc của tất cả và đem lại cho chính nó tất
cả những gì do sự cố gắng của chúng ta quy định.
Thực thể đó sống
trong một tỷ lệ rất khác với tỷ lệ của chúng ta. Các Thể của chúng ta có
một kích thước nào đó và sống được một thời gian nhất định; đó là điều bình
thường đối với chúng ta. Nếu một sinh vật nhỏ bé và có đời sống ngắn ngủi khiến
chúng ta khinh thường, thì chúng ta lại kính nễ một sinh vật to lớn, sống lâu. Nhưng
kích thước và đời sống lâu dài không phải là tiêu chuẩn của sự phát triển hay tiến bộ. Vài
giống vật trước Thời Hồng Thuỷ to lớn hơn con
voi vô cùng nhưng lại kém thông minh hơn. Ngày nay vẫn còn
giống tê giác và giống hà mã song trí khôn của chúng kém hơn giống chó. Vậy
chúng ta không nên tưởng rằng Thần Địa Cầu có xác thân là một Bầu thế giới
mà đường kính là 12.756 cây số và một trong những kiếp sống của Ngài lâu bằng trọn một
chu kỳ của thế giới, lại thông minh hơn chúng ta. Tâm thức ở mỗi
chúng ta là một điểm. Tâm thức của Thần Địa Cầu
dường như phức tạp một cách kỳ lạ, dù sao tầm vóc vĩ đại,
song trên vài phương diện Ngài kém tiến hoá hơn nhiều vị Thiên Thần đang
chuyển động trong xác thân của Ngài.
Nếu đứng trên một ngọn đồi nhìn
khắp xứ, trong một phạm vi nào đó, chúng ta sẽ thấy thấm nhuần
sự sống, đó là sự sống của Thần Địa Cầu. Sự sống dường như
biểu
hiện nhiều thành phần có tính cách tạm thời hay thường xuyên. Một viễn tượng
tuyệt đẹp được nhiều người ngưỡng mộ, do một cá tính mơ hồ
làm cho linh động đều tuỳ thuộc Vị Thần đó. Sự thán phục do loài người hoặc do
Chư Thiên biểu lộ, dường như kích thích sự sống trong vùng đặc biệt nầy và chính
sự sống ấy đáp ứng lại tình cảm hân hoan của chúng ta. Chúng ta hãy ngắm
nhìn một phong cảnh đẹp, nó sẽ ảnh hưởng đến chúng ta, và đến lượt mình, chúng
ta cũng
tác động lại trên Cảnh ấy. Sự đáp ứng nầy sẽ gia tăng những gì mà sự sống
biểu lộ trong các loài kim thạch, thảo mộc và cầm thú.
Khi
một người được Điểm Đạo, ảnh hưởng nào thích hợp với người tại các Cõi cao đều
tràn vào khắp nơi trong bản thân người. Tác động ấy rất yếu trong chất đặc, chất lỏng
và chất khí của Cõi Trần, nhưng các Thể Phách, Thể Vía và Thể Trí đều phóng ra
ánh sáng một cách mạnh mẽ và sự phóng quang đó, như chúng ta đã
thấy, đều được các loài trong Thiên Nhiên cảm nhận và có thể đáp ứng lại.
Bốn
uy quyền được biểu hiện là uy quyền của tứ đại: Địa, Thuỷ, Hoả, Phong - tức tứ Đại Thiên Vương (The Devarajas or
Maharajas) mà tại Cõi Trần nầy đối với chúng ta là các Đấng cai quản Luật Nhân Quả,
các Đấng
phụng sự phụ thuộc của các Lipika, các Đấng Đại Chí Tôn cầm đầu Nghiệp Quả.
Dường như người Ấn Độ gọi các Ngài là Dhritarashtra, Virudhaka, Virupaksha và Vaishravana, mỗi Vị đều trông
nom một đường tiến hoá đặc biệt. Đấng Dhritarashtra chủ tể các Chư Thần
Gandharvas, Thần Không Gian, các Đại Thiên Thần được biểu lộ bằng
âm nhạc; bao giờ các Ngài cũng được chỉ định ở Phương Đông, màu tượng trưng của
các Ngài luôn luôn là màu trắng, người ta mô tả các Ngài như những chàng kỵ mã sắc phục
trắng cỡi những con bạch mã và mang khiên đầy những hạt trân
châu. Dưới Đấng Virudhaka, có các Thần Kumbhandas, Thiên Thần Miền Nam, Thần Nước
(Thuỷ Thần), vì Nam Bán Cầu có nhiều biển hơn đất liền. Các Ngài được tượng trưng
bằng màu xanh, màu của nước, các Ngài mang những khiên bằng ngọc
lam (sapphire).
Dưới Đấng Virupaksha có các Thần Nagas (Thần Rắn),
Thiên Thần Phương Tây, màu của các Ngài là màu đỏ, khiên của các Ngài bằng
san hô. Ezekiel
mô tả
các Ngài như những nhân vật bằng lửa có nhiều cánh, và cũng giống như những bánh xe
có cánh. Sau cùng là những Thần Yakshas, dưới quyền điều
khiển của Đấng Vaishravana. Các Ngài được chỉ định ở Phương Bắc; đó
là các Chư Thiên hay Chư Thần của Quả Địa Cầu chúng ta, màu
sắc của các Ngài luôn luôn là màu vàng - vàng ẩn trong đất.
Bà Blavatsky cho
rằng Myalba là “Địa Cầu của chúng ta, được gọi là một Địa Ngục rất đúng, Địa Ngục lớn nhất trong các
Địa Ngục theo Trường
Bí Giáo. Giáo Lý Bí Truyền không hề biết Địa Ngục nào khác hay
những nơi hành phạt nào khác hơn những Hành Tinh hay Địa Cầu có loài người
sống trên đó. Avichi (địa ngục) là một trạng thái chứ không phải một địa điểm
nào.”
Mặc dù sau khi chết vài người vẫn bị đau khổ trên Cõi Trung Giới, nhưng khó mà
thấy một
hình phạt nào trên đó. Sở dĩ những người ấy đau khổ vì họ đã
tưởng tượng hỗn loạn hoặc có những sự ham muốn đê hèn. Đôi
khi trên Cõi nầy có những hoàn cảnh rất buồn bực, nhưng sự
tồi tệ nhất không phải là tính cách xấu xa, đê tiện của những gì mà người ta phải chịu
dưới Cõi Trần. Những ai hoạch đắc được kinh nghiệm trên các Cõi
cao cũng đều phải đồng ý với Bà Blavatsky là ngoài đời sống dưới Thế Gian ra, người ta
không thể tìm thấy một nơi nào tồi tệ hơn nữa.
“Một
vị hành hương qua đến bờ bên kia” có nghĩa là một người đã đạt đến trình độ cao
siêu nhưng thích ở lại Cõi Trần và làm việc để phụng sự Nhân Loại. Thông thường,
đối với chúng ta, bờ bên kia chính là Cuộc Điểm Đạo lần thứ Năm, chứ
không phải thứ Tư, nhưng ở đây thành ngữ nầy có một ý nghĩa hạn định.
Đức Aryasanga chấm
dứt Giáo Lý của Ngài bằng lời
cầu nguyện:
VẠN VẬT THÁI
BÌNH
Mọi
tác phẩm Phật Giáo hay Ấn Giáo đều chấm dứt bằng lời cầu xin tương tợ như
thế. Những hàng cuối cùng trong quyển Kinh của Đức Aryasanga là một khúc ca đầy hoan hỉ. Đôi
khi Ngài có đề cập đến con đường đau khổ, nhưng khúc khải hoàn ca cuối
cùng của Ngài tràn đầy sinh khí của một sự hân hoan kỳ diệu và một sự an lạc
tuyệt vời.
H Ế T
Dịch xong ngày 4 tháng 9 năm 1979.
Quý vị trợ giúp việc ấn loát các
sách Thông Thiên Học.
– Lê Thành Lân. – Lê Văn
Hai và gia đình. – Lê Văn Thạnh và gia đình. – Lý Trọng Văn và gia đình. –
Nguyễn Thị Luận. – Lê Minh Triết + Bích. – Lê Minh Đức + Châu – Lê Minh Nguyệt
+ Anthony. – Huỳnh Hữu Đức. – Margarette Whatley. – Khuê + Hải. – Những Vị Vô
Danh. – Nguyễn Thị Dục Tú. – Một nhóm bạn anh Lân. – Nguyễn Kinh Lý. – Ngô Tố Hoa. – Lê Hồng Hạnh. – Một nhóm bạn Văn ở Hãng Sysco. – Lý Phước
Lạc và gia đình. – Đặng Văn Tiên + Huê. – Trương Lệ Chi. – Nhóm TTH ở Sydney
(Úc). – Châu Thị Hồng Yến. – Lâm Hữu Lễ. – Julia Ngô. – Nguyễn Kim Oanh. –
Nguyễn Vinh. – Một nhóm bạn Chị của Văn. – Jimmy Phan. – Phạm Xuân Dũng. –
Nguyễn Tâm. – Nguyễn Ngọc Anh. – Phạm
Thị Lựu. – Phạm Thị Ngọc Dung. – Nguyễn Thuỷ. – Thích Nữ Liễu Nhiên. – Thích
Tịnh Mãn. – T. Caroline Besancon. – Mạch Quế Lan. – Anh Ngọc Huệ. – Ất Chiêu
Nguyễn N. Anh. – Richard Hồ. – Phan Quang Trường. – Zella Balch. – Nguyễn Hạnh
Trang. – Huỳnh Mạng. – Huỳnh Tom. – Nguyễn Thị Quý. – Kimberly Shropshire. –
Chị Lâm Ngọc Anh. – Lê Thành Nhơn. – Nguyễn Thị Hà. – Chu Đôn. – Lý Thị Châu. –
Nguyễn Thị Lan. – Lâm Xuân Hương. – Nguyễn Thành Nhân. – Liêm Whatley. – Nguyễn
Thị Minh Phương. – Trần Quan. – Lê Trung. – Nguyễn Hữu Chương. – Dương Hoàng
Tuấn và gia đình. – Hồ Văn Xách và gia
đình. – Lê Thị Tiền. – Lê Minh Tâm. – Nguyễn Minh Tuấn. – Lê Minh Nhựt + Hằng + Bé
Hiếu. – Lê Minh Dũng. – Lâm Quang Khải. – Lâm Phước Đông. – Nguyễn Mộng Thu. – Ông, Bà Chung
Hữu Thế.
– Phan Mỹ Hạnh.
Mọi chi tiết xin liên lạc:
- Nguyễn Trung
Nghĩa, 58 Krotona Hill, Ojai, CA 93023.
- Điện Thoại:
(805) 640-0637. - E-mail:
nghia@thongthienhoc.org
[1] “Tiếng Nói Vô Thinh” gồm những đoạn
chọn lọc trong Kim Huấn Thư, là quyển Kinh được các Sinh Viên Phật Giáo Bí Truyền dùng
hằng ngày, do Bà Blavatsky dịch, ghi chú, và Amaravella dịch từ
Anh Văn ra Pháp Văn.
[2] Xin đọc quyển “Những tiền kiếp của Alcyone.”
[3] Prajna Paramita (Bát Nhã Ba La Mật Đa)
được
Ngài Huyền Trang dịch là Trí Huệ Đáo Bỉ Ngạn. Ngài La Thập dịch là Trí Huệ Độ đều có nghĩa
là Trí Huệ đưa sang Bến Giác. (Lời Dịch Giả).
[4] Sách đã dẫn, XVII, 5-6.
[5] Xin đọc Raja Yoga của Ernest Wood.
[6] Sách đã dẫn, XVII, 14-16.
[7] Sách đã dẫn, IV, 33.
[8] Sách đã dẫn, III, 2.
[9] Les Sonnets của Shakespeare, dịch
theo bản
Pháp Văn của Fernand Henry.
[10] I John, 4, 12.
[11] St. John, X, 30.
[12] I John, 5, 7.
[13] Lập luận nầy được khai triển trong quyển “Bảy Cung” của
Ernest Wood, Chương XXI.
[14] Xin đọc The Seven Rays, Ch. VIII.
[15] I John, 4, 12.
[16] Sách đã dẫn, quyển I, trang 624.
[17] Sách đã dẫn, quyển 1, trang 169.
[18] Sách đã dẫn, IV, 33.
[19] Bộ sách nầy đã được dịch ra Pháp Văn dưới nhan đề: “L’Occultisme
dans la nature.”
[20] St. Matthew, VI, 7.
[21] Sách đã dẫn, VI, 3.
[22] Sách đã dẫn, quyển VI.
[23] Bản dịch ra Pháp Văn: “L’Occultisme dans la
nature.”
[24] Những Kinh sách Ấn Độ có nói đến Luân Xa ở dưới cơ quan sinh
dục như một Luân Xa thứ nhì. Chúng tôi nhìn nhận có một trung tâm như
thế, nhưng chúng tôi cũng nghĩ như người Ai Cập xưa là nếu khích động Luân Xa ấy sẽ nguy hại vô
cùng.
[25] Xin đọc “Những Trung Tâm Bí Lực trong Con Người” của C.W.
Leadbeater và “Thể Phách” của A. L. Powell.
[26] Sách đã dẫn, V, 27-8.
[27] Khải Huyền 3, 15-16.
[28] Xin đọc quyển “Bảy Cung,” trang 13.
[29] S. John, 14, 6.
[30] Sách đã dẫn, IV, 36-37.
[31] Ibid., VI, 40.
[32] Sách đã dẫn, Chương IX.
[33] Sách đã dẫn, quyển III, trang
570.
[34] Ibid., trang 573.
[35] The Light of Asia, quyển VI.
[36] Sách đã dẫn, quyển III, trang 582- 4.
[37] Xin đọc “Concentration,” Chương X.
[38] Ante, trang 59.
[39] Sách đã dẫn, quyển III, trang 508.
[40] Ante, trang 40.
[41] Xem Ante, trang 72, 81.
[42] Sách đã dẫn, quyển VIII.
[43] Sách đã dẫn, IX, 29-32.
[44] Ánh Sáng Á Châu, quyển VII.
[45] Người được Điểm Đạo.
[46] “Giảng Lý Dưới Chân Thầy,” Chương IV.
[47] Sách đã dẫn trang 179.
[48] Sách đã dẫn, Chương XIV.
[49] Sách đã dẫn, trang 122.
[50] Sách đã dẫn, trang 282.
[51] Sách đã dẫn, III 20.
[52] Sách đã dẫn, chương VII.
[53] Sách đã dẫn, Chương 7.
[54] I. John, 4, 18.
[55] Sách đã dẫn, quyển II, trang 157.
[56] Pouce: Đơn vị đo bề dài của Pháp bằng 27mm,07, của Anh là 25mm,4.
[57] Sách đã dẫn, VI, 19.
[58] Sách đã dẫn, VI, 21, 22.
[59] Sách đã dẫn, quyển VIII.
[60] Sách đã dẫn, Chương XIV.
[61] “Con người, từ đâu đến, đi về đâu,” trang 13.
[62] Xin đọc quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo,” Chương XIV.
[63] Xin đọc quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo,” Chương V.
[64] Xin đọc quyển “Chơn Sư và Thánh Đạo,” Chương XIV.
[65] Sách đã dẫn, quyển VIII.