BẠCH  LIÊn

 

 

 

 

CÁCH  TU  HÀNH

ĐẠO  ĐỨC  VẤN  ĐÁP

 

 

 

Nhóm Hội Viên Thông Thiên Học Hải Ngoại                                        hiệu đính và xuất bản tại Hoa Kỳ.                                                                                

2005


HỘI  THÔNG  THIÊN  HỌC    BA  MỤC  ĐÍCH

 

1- Tạo một t́nh Huynh Đệ Đại Đồng không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, nam nữ, giai cấp hay màu da.

2- Khuyến khích việc học hỏi và đối chiếu Tôn Giáo, Triết Lư và Khoa Học.

3- Nghiên cứu những Định Luật Thiên Nhiên chưa giải thích được và những quyền năng ẩn tàng trong con người.

 

          Muốn gia nhập Hội, bạn chỉ cần thừa nhận mục đích 1 và xin liên lạc với Hội nơi Quốc Gia bạn cư ngụ; hay với một bạn Hội Viên nào bạn biết.

 

 

 

 


MỤC LỤC

 

HỘI  THÔNG  THIÊN  HỌC    BA  MỤC  ĐÍCH.. i

MỤC LỤC.. i

VÀI  LỜI  NÓI  ĐẦU.. 1

CHƯƠNG  THỨ  NHỨT.. 5

TU  RẤT  TỐT. NHƯNG  KHÔNG  TU  TH̀  SAO ?. 5

I  TU      ?. 5

II  TẠI  SAO  PHẢI  TU ?. 6

III  KHÔNG  TU  TH̀  SAO ?. 6

HAI  CON  ĐƯỜNG.. 7

TẠI  SAO  TU  HÀNH  LẠI  ĐI  MAU ?. 7

MUỐN  TU,   PHẢI  LÀM  SAO ?. 8

TẠI  SAO  PHẢI  TẬP  LUYỆN  TÁNH  T̀NH ?. 9

BƯỚC  ĐẦU  TIÊN  TRONG  SỰ  LUYỆN  TẬP  TÁNH  T̀NH   10

THẬT  SỰ  CON  NGƯỜI    AI ?. 10

TÁNH  NẾT  CON  NGƯỜI  TỪ  ĐÂU  RA?. 11

BA  THỂ : THÂN, VÍA, TRÍ  CỦA  CON  NGƯỜI 11

PHẬN  SỰ  CỦA  3  THỂ. 11

TÁNH  NẾT  CỦA  3  THỂ. 12

TÁNH  NẾT  XÁC THÂN.. 12

TÁNH  NẾT  CÁI  VÍA.. 12

TÁNH  NẾT   CÁI  TRÍ 12

TẠI  SAO  TÁNH  NẾT  CỦA  3  THỂ  LẠI  THÀNH  RA   TÁNH  NẾT  CỦA  CON  NGƯỜI ?. 12

TẠI  SAO  CÁI  TRÍ  LAU  CHAU ?. 13

TẠI  SAO  CÁI  VÍA  GIỤC  CON  NGƯỜI  LÀM  NHỮNG  CHUYỆN  SAI  QUẤY ?. 13

TẠI  SAO  CON  NGƯỜI  NGHE  THEO  CÁI  VÍA ?. 14

TAM  ĐỘC :  THAM,  SÂN,  SI    TAM  BÀNH,  LỤC  TẶC  14

LÀM  CÁCH  NÀO  SỬA  TRỊ  3  THỂ ?. 14

PHƯƠNG   PHÁP   LÀM   CHỦ   CÁI   TRÍ 14

CÔNG   VIỆC   ĐẦU   TIÊN      ĐỊNH   TRÍ 15

TẬP   LÀM   CHỦ   3   THỂ. 16

PHƯƠNG   PHÁP   THỰC   HÀNH.. 16

I XÁC   THÂN.. 16

II CÁI   VÍA.. 16

III CÁI   TRÍ 17

IV.. 17

TRƯA      CHIỀU.. 17

TỐI,   TRƯỚC   KHI   ĐI   NGỦ.. 18

PHẢI  THỰC  HÀNH  LIÊN  TỤC,  KHÔNG  NÊN  GIÁN  ĐOẠN   18

PHẢI  ĐEM  RA  THỰC  HÀNH  NHỮNG  ĐIỀU   TỐT  ĐẸP  M̀NH  ĐĂ  TƯỞNG  NGHĨ 19

HIỆU  QUẢ  CỦA  SỰ  LUYỆN  TẬP   TRONG  V̉NG  6  THÁNG   19

NHỮNG   ĐIỂM   CẦN   YẾU   NÊN   BIẾT.. 20

CHƯƠNG   THỨ   NH̀ 22

NHỮNG  ĐỨC  TÁNH  PHẢI  TẬP. 22

CÁCH   TẬP   LUYỆN.. 23

ĐỨC  TÁNH   THỨ   NHỨT : TỪ  BI,  BÁC  ÁI 23

ĐỨC  TÁNH  THỨ  NH̀ :  BỐ  THÍ 24

TÀI,   PHÁP,   LỮ,   ĐỊA.. 25

ĐỨC  TÁNH  THỨ  BA :  CHƠN  THẬT.. 26

1.- TƯ   TƯỞNG   CHƠN   CHÁNH.. 26

2.- LỜI   NÓI   CHƠN   CHÁNH.. 26

3.- VIỆC   LÀM   CHƠN   CHÁNH.. 27

ĐỨC   TÁNH   THỨ   TƯ :  KIÊN   NHẪN.. 28

ĐỨC   TÁNH   THỨ   NĂM :   KHOAN   DUNG.. 28

KHOAN   DUNG      NGOÀI   ĐỜI 28

KHOAN   DUNG   TRONG    ĐẠO   ĐỨC. 30

ĐỨC  TÁNH   THỨ   SÁU :  KHÔN   KHÉO.. 31

ĐỨC  TÁNH   THỨ   BẢY :  THĂNG   BẰNG.. 31

ĐỨC  TÁNH   THỨ   TÁM :  THANH   KHIẾT.. 32

THÂN   TRINH   KHIẾT.. 32

ÂM   DƯƠNG   TRONG   THỰC   PHẨM... 34

VỊ   KHÍ 34

6   VỊ   (ÂM) 34

5   KHÍ   (DƯƠNG) 35

DƯƠNG   TRONG   LOÀI   DƯƠNG, ÂM   TRONG   LOÀI   ÂM    35

MÀU   SẮC. 36

TRỌNG   LƯỢNG.. 36

TẠNG   PHỦ   TRONG   M̀NH   CON   NGƯỜI 37

CHÚNG   TA  NÊN  T̀M  HIỂU  XÁC  THÂN  CHÚNG   TA.. 38

TU   TR̀   PHẢI   TUYỆT   DỤC. 39

MỘT   KHÍA   CẠNH   CỦA   SỰ   GIAO   HỢP. 40

MỘT   BẰNG   CHỨNG   CỤ   THỂ   VỀ   SỰ   HỮU   ÍCH   CỦA   VIỆC   TUYỆT   DỤC. 41

NHIỆM   VỤ   CỦA   NGƯỜI   TU   TR̀ 41

MỘT  Ư  NGHĨA  NỮA  CỦA  THÂN  TINH  KHIẾT.. 42

Ư      TRÍ   TINH   KHIẾT.. 42

ĐỨC  TÁNH   THỨ   CHÍN :  TỰ   TÍN.. 43

ĐỨC  TÁNH   THỨ   MƯỜI :  CAN   ĐẢM... 44

ĐỨC  TÁNH   THỨ   MƯỜI   MỘT :  HY   SINH.. 46

SỰ   HY   SINH   TRONG   ĐƯỜNG   ĐẠO.. 47

TẠI  SAO    NGOÀI  ĐỜI  NGƯỜI  TA  CHO  RẰNG  HY  SINH    KÈM  THEO  SỰ  ĐAU  KHỔ.. 47

ĐỨC  TÁNH   THỨ   MƯỜI  HAI :  MẶC  (NÍN   THINH) 48

CHƯƠNG   THỨ   BA.. 50

THAM   THIỀN.. 50

NHỮNG   ĐIỀU   ÍCH   LỢI   VỀ   SỰ   THAM   THIỀN.. 51

MỞ   TRÍ      MỞ   TÂM... 51

VẤN   ĐỀ   THAM   THIỀN.. 51

CÂU   CHUYỆN   THỨ   NHỨT.. 52

CÂU   CHUYỆN   THỨ   NH̀ 52

CÁCH   NGỒI   THIỀN.. 53

PHẢI   NGỒI   THONG   THẢ.. 53

GIỜ   THAM   THIỀN.. 54

THAM   THIỀN   BAO   LÂU ?. 54

KIỂU  MẪU BÀI  “CẦU  NGUYỆN  THƯỢNG  ĐẾ”. 55

PHẢI   THAM   THIỀN   LIÊN   TỤC. 56

THAM   THIỀN      VẤN   ĐỀ   RIÊNG   CỦA   MỖI   NGƯỜI 57

PH̉NG   RIÊNG   ĐỂ   THAM   THIỀN.. 58

HUỜN   .. 58

BA   GƯƠNG   MẪU   ĐẠI   ĐỊNH.. 59

CHƯƠNG   THỨ   .. 61

SỰ  TIẾN  HOÁ  CỦA  NHÂN  LOẠI  NHẮM  VÀO  MỤC  ĐÍCH  NÀO ?  61

MỤC  ĐÍCH  ĐỊNH  SẴN  CHO  CON  NGƯỜI  TRONG    TRỤ  NẦY   62

HỌC   GIÁN   TIẾP      HỌC   TRỰC   TIẾP. 64

CHUYỆN   THỨ   NHỨT.. 67

HỒN  MA    KATIE  KING  VỚI  NHÀ  BÁC  HỌC  WILLIAM  CROOKES  67

CHUYỆN   THỨ   NH̀ 67

TÂN   GIA   BA (AFP) :  HỒN   MA   30   THUỶ   THỦ   NHẬT   THƯỜNG   HIỆN   VỀ   GÂY   RẮC   RỐI   LUÔN.. 67

CHUYỆN   THỨ   BA.. 68

MA  HIỆN    TRƯỜNG  QUỐC  HỌC  HUẾ,  ĐỐT  MÙNG  MỀN  CỦA  ÔNG  TỔNG GIÁM  THỊ  NGÀY   21-12-1958. 68

(Báo Tin Mới 26-01-1959) 68

PHƯƠNG  PHÁP  NGĂN  NGỪA  TÁNH  NÓNG  NẢY    DỤC  T̀NH   69

PHƯƠNG  PHÁP  NGĂN  NGỪA  TÁNH  NÓNG  GIẬN.. 69

DẰN  TÁNH  NÓNG  GIẬN  CÁCH  NÀO ?. 71

CHUYỆN  ÍT  XÍT  RA  NHIỀU.. 71

PHƯƠNG  PHÁP  NGĂN  NGỪA  T̀NH  DỤC. 72

PHƯƠNG  PHÁP  THỨ  NHỨT.. 73

PHƯƠNG  PHÁP  THỨ  NH̀ 73

NHỮNG  ĐIỀU  HỮU  ÍCH  CỦA  SỰ  LUYỆN  TẬP  TÁNH  T̀NH   73

CHUYỆN  ẤN  TỐNG  KINH.. 75

ÔNG  HERMANN  HESSE  TÁC  GIẢ  QUYỂN  “CÂU CHUYỆN  CỦA  D̉NG  SÔNG” CHỈ  TRÍCH  PHẬT  GIÁO  MỘT  CÁCH  KÍN  ĐÁO.. 76

TẠI  SAO  THUYẾT  CỨU  ĐỘ  CỦA  PHẬT    MỘT  KHE  HỞ ?  77

LÀM  LÀNH    KHÔNG  BỊ  MẮC  VÀO  V̉NG  LUÂN  HỒI 77

TẠI  SAO  QUẢ  TỐT  LẠI  NHẬP  VÀO  KHO  CHỨA  THẦN  LỰC  ĐƯỢC ?  78

VÀI  LỜI  CẢM  NGHĨ  VỀ  HUYNH  TẤT  ĐẠT.. 78

PHẢI  BIẾT  TỊNH    ĐỘNG  ĐÚNG  LÚC    ĐÚNG  PHÉP  80

TAM  ĐỘC :  THAM,  SÂN,  SI 81

PHƯƠNG  PHÁP  TRỪ  TAM  ĐỘC. 82

XIN  NHẮC  LẠI  MỘT  LẦN  NỮA,  TẠI  SAO  PHẢI  TU ?. 83

CHÂN  THÀNH  TRI  ÂN.. 85

 


 

ĐẠO  HỌC  TÙNG  THƠ

 

 

 

BẠCH  LIÊN

 

 

 

 

 

ĐẠO  ĐỨC  VẤN  ĐÁP

 

 

 

 

 

CÁCH   TU   HÀNH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NĂM   1974


 

 

Nhân sanh ra Quả, Gieo Nhân gặt Quả.

Thế nên người Hành Đạo sợ Nhân.

C̣n người không biết Đạo sợ Quả.

 

 

 

 

          Những sự lầm lạc, những sự mê tín, dị đoan sanh ra những tật xấu, đi theo con đường dốc xuống nên truyền nhiễm mau lẹ.

          Trái lại, t́m Chơn Lư không khác nào việc muốn trèo lên chót  núi cao. Phải Tự  Chủ, phải chịu muôn ngàn khổ cực mới đạt được mục đích đă nhắm.

 

 

 

 

TỰ  DO    TƯỞNG

TỰ  DO  TÍN  NGƯỠNG

 


VÀI  LỜI  NÓI  ĐẦU

 

 

          Tu Hành rất tốt, v́ Tu Hành là tuân theo Thiên Ư, lo lánh dữ, làm lành và rửa ḷng trong sạch, đúng như lời Chư Phật đă dạy. (Xin xem Chú Thích ở phía sau).

          Có Tu Hành người ta mới tập diệt trừ tánh ích kỷ, chia rẽ, tánh nầy là cội rễ của những đau khổ thống thiết trên Thế Gian.

          Tuy nhiên ở đời, bất cứ việc nào cũng phải t́m phương pháp hay nhất để thực hành, mới mau thành công và tránh từ thất bại nầy đến thất bại khác.

          Việc Tu Hành cũng vậy:  Bước đầu tiên là quan trọng hơn hết. Nếu đi đúng đường lối của Tiên Thánh chỉ bảo, ta sẽ mau đạt được mục đích đă nhắm và không trở nên mê tín dị đoan hoặc lạc qua nẻo Bàng Môn Tả Đạo.

          Nhưng thế nào là đi đúng đường lối của Tiên Thánh chỉ bảo?

          Ấy là: Trước nhất lo Trau Giồi Hạnh Kiểm cho thật tốt. Đó là điều tối quan trọng v́ tuân theo qui luật của Thiên Đ́nh.

          Về việc lập hạnh tu thân, ta hăy nh́n vào sự thật để thấy.

          Con Người có thể thành một viên Tướng oai hùng, đánh tan muôn vạn hùng binh, Bách Chiến, Bách Thắng, không khác nào cho tay vào túi lấy đồ vật. Nhưng khi Ướm Thử “Tự chiến đấu với ḿnh, muốn tự thắng ḿnh” lại gặp nhiều nỗi khó khăn không vượt qua được. Vừa xuất trận giao chinh lần đầu, đă buông khí giới đành chịu là kẻ chiến bại.

          Trong 20 trận sau liên tiếp, cũng không thắng được trận nào cả. Có thể cầm cự trong giây lát rồi cũng rút lui. Đành buồn ḷng, thất vọng, xếp giáp qui hàng, mặc cho ngày tháng trôi qua, tới đâu hay đó.

          Lư do tại sao ta thất bại?

          Nguyên nhân do không T́m Được Một Phương Pháp Khắc Kỷ đúng phép. Thật vậy, nếu không biết cách Luyện Tánh chắc chắn trọn đời người ta chưa trừ được một Tật Xấu và từ lúc trẻ đến tuổi già ta cũng không tập được một Tánh Tốt nào cả. Thiệt là: Giang San Dễ Đổi, Tánh Nết Khó Thay.

          Vậy ta phải theo Phương Pháp nào?

          Chỉ có một phương pháp duy nhất, từ ngàn xưa các vị Đắc Đạo đă áp dụng, và đem truyền dạy lại cho các Môn Đồ. Ấy là: Sinh viên phải học rành rẽ Luật Nhân Quả, Luân Hồi [1] đồng thời lo Tinh Luyện Ba Thể: Thân, Vía, Trí. Cần làm chủ và sai khiến chúng nó trước, sau đó mới trừ được Tam Độc: Tham, Sân, Si và việc phụng sự nhân loại mới có hiệu quả tốt đẹp. Phải cố gắng, phải bền chí, từ  kiếp nầy qua kiếp kia. Phải áp dụng Luật Phát Triển Tâm Thức một cách nhanh chóng vào trường hợp riêng biệt của ḿnh. Ngày nào ta thành công th́ Cửa Đạo sẽ mở rộng rước ta vào.

          Không phương pháp nào hay hơn nữa, bởi v́ phương pháp nầy chỉ đem lại lợi ích cho kẻ chí nguyện, và không gây ra tai hại nào cả.

          V́ mấy lẽ trên đây mà trên ngưỡng cửa của Thánh Điện Delphes có khắc câu châm ngôn: “Ngươi hăy biết ngươi, rồi ngươi sẽ biết Vũ Trụ và Các Vị Thượng Đế.”

          Nếu ta mến Đạo v́ say mê những Phép Thần Thông, sai Thần khiến Quỷ, hoặc ta mong có Thần Nhăn, Thần Nhĩ hay Xuất Vía, Xuất Hồn, do sự luyện tập sái cách ta sẽ phải mang tai hoạ vào thân, trở nên điên khùng, không phương cứu chữa. [2]

          Vậy xin các bạn Hành Hương khá thận trọng trong việc Tầm Sư Học Đạo, nhất là ngay buổi đầu.

 

                                                                   BẠCH  LIÊN


CHÚ  THÍCH:

          Đức Thích Ca tóm tắt Giáo Lư của Chư Phật trong 4 câu sau đây:

 

THEO  NAM  PHẠN

 

Sabba – pâpassa akaranan

Kousalassa Oupasampadâ

Satchitta - pariyodapanan

Etan Bouddhana Sâsanam.

 

DỊCH  RA  PHÁP  VĂN

 

Ne pas faire le mal.

Développer le bien.

Purifier les pensées.

Tel est l’enseignement des Bouddhas.

 

  DỊCH  RA  HÁN  VĂN

 

Chư ác mạc tác.

Chúng thiện phụng hành.

Tự tịnh kỳ ư.

Thị chư Phật giáo.

 

XIN  DỊCH

 

Chừa các điều hung ác.

Làm những việc hiền lành.

Ǵn giữ ḷng thanh tịnh.

Chư Phật dạy rành rành.

 

 

 

 

 

 

 

          Tôi không biết Thiên Hạ coi tôi như thế nào? Riêng tôi, tôi thấy tôi chỉ là một đứa con nít đương chơi đùa trên một băi cát ngoài biển. Tôi vui thích mỗi khi gặp được ở chỗ nầy một viên đá sỏi láng bóng hơn, ở chỗ kia một cái vỏ ṣ ngộ nghĩnh hơn, trong khi ấy trước mặt tôi là Đại Hải Chơn Lư mênh mông, bao la, bát ngát, chưa có một ai thám hiểm cả.

                                                                   (Lời của  Newton)


CHƯƠNG  THỨ  NHỨT

TU  RẤT  TỐT.
NHƯNG  KHÔNG  TU  TH̀  SAO ?

 

 

          V.- Tôi đă nghe Huynh giảng về “Tại sao ta phải Tu?” [3] Tuy nhiên, tôi chưa rơ lắm. Xin Huynh giảng lại một lần nữa.

          Đ.- Vâng. Tôi luôn luôn sẵn ḷng. Dầu ở trong Đường Đạo hay ở ngoài Đời, Hạnh Kiểm là điều rất quan trọng. Nói về việc xử thế th́ nó đứng vào hàng đầu.

          Hữu tài vô hạnh th́ gây ra tai hại chẳng nhỏ cho đời và cho ḿnh, bởi v́ Luật Báo Ứng Tuần Hoàn không hề dung tha cho những kẻ ích kỷ hại nhân. Không kiếp nầy th́ kiếp sau ta cũng phải trả quả, nặng hay nhẹ tuỳ theo việc làm ác nhiều hay ít. Nhân nào Quả nấy.

          Đừng nói rằng: Chậu úp khôn soi. Không ai lấy vải thưa che được mắt Thánh, Lưới Trời tuy thưa mà không có chi lọt khỏi.

          Từ ngàn xưa, các vị Thánh Nhơn Hiền Triết đều khuyên con người tu đức, trau hạnh. Đă trên 2.500 năm nay Tứ Diệu Đế và Đạo Bát Chánh của Đức Phật và Tam Cang Ngũ Thường của Đức Khổng Tử có được bao nhiêu người tuân theo triệt để và cần lặp đi lặp lại măi từ thế hệ nầy  qua thế hệ kia không ngớt.

          Vậy, việc nhấn mạnh về sự tu tâm luyện tánh không phải là việc vô ích, nói một cách khác là thêm một vài đoạn cần thiết để làm sáng tỏ vấn đề. Có như thế dễ nhớ và dễ thực hành.

 

I

TU      ?

 

          Theo nghĩa chánh: Tu là sửa. Tu đây là sửa đổi cách ăn, thói ở, tức là tánh t́nh cho đúng với Cơ Tiến Hoá, người ta gọi là Tuân theo Luật Trời.

          Tu rất tốt, tuy nhiên, phải biết cách Tu, phải đi cho đúng đường lối, nếu không th́ sẽ thành ra Mê Tín và Tin Dị Đoan. Một khi đă in trí việc nào đó, th́ ta sẽ tạo những thành kiến; ngày sau gặp những đoạn kinh sách giải đúng với Chơn Lư ta cũng không nghe theo, v́ điều đó khác với sự hiểu biết và sự tin tưởng của ḿnh bấy lâu nay. Cũng nên biết rằng khi mà Cái Trí vạch ra một đường lối suy nghĩ nào rồi, th́ nó cứ đi theo đường lối đó măi, ít khi ra công xem xét đường lối mới, v́ điều nầy rất mệt nhọc và khó khăn.

          Khi xưa Đức Phật chỉ Thuyết Pháp. Ngài dạy toàn là Chơn Lư. Lối 20 năm sau, khi Ngài bỏ xác phàm, đă có 18 Phái khác nhau nổi lên tranh luận. Phái nào cũng nói ḿnh đă đạt được Chơn Lư của Phật dạy. Hầu hết những kinh sách của họ viết ra chứa đầy những Chuyện Dị Đoan, Phi Lư, những Tà Thuyết, cứ tiếp tục truyền tụng cho tới đời nay.

          Nếu không có diễm phúc học đặng Chơn Truyền th́ không dễ ǵ phân biệt được điều nào là Chơn Lư, điều nào là Dị Đoan.

          Thế nên người Học Đạo luôn luôn thận trọng khi bàn về những vấn đề Đạo Đức. Chúng ta nên nhớ rằng ḿnh lầm th́ một ḿnh ḿnh chịu, chớ nên làm kẻ khác lầm theo ḿnh th́ phải mang Nghiệp Quả xấu.

          Một quyển sách nói chuyện Dị Đoan xuất bản sẽ gây ra tai  hại cho nhiều người. Người nầy đọc, tới người kia, cả muôn người như vậy, từ đời nầy qua đời nọ, cứ gieo rắc những tư tưởng lầm lạc trong đầu óc của những bạn mến Đạo nhưng chưa biết phân biện. Cho tới đời nay, cả ngàn năm đă trải qua, không thể nào chặt đứt hết gốc rễ của những điều mê tín và dị đoan nầy trong ṿng vài chục năm.

          Tác giả mấy quyển đó và tác giả những quyển Dâm Thư sẽ trả Nghiệp Quả xấu rất nặng nề về những tội lỗi của họ đă gây ra, trong nhiều kiếp Luân Hồi. [4]

          V́ mấy lẽ trên đây người Học Đạo rất nhiều nhưng người Đắc Đạo rất ít và Bước Đầu Tiên trong sự  Học Đạo là quan trọng hơn hết.

 

 

II

TẠI  SAO  PHẢI  TU ?

 

          Phải Tu mới đi mau tới mục đích của Trời đă định sẵn cho Con Người trong Thái Dương Hệ nầy, là trở nên trọn sáng, trọn lành, làm một vị Siêu Phàm, gọi là Chơn Tiên.

 

III

KHÔNG  TU  TH̀  SAO ?

 

          Con người không Tu cũng vẫn tiến, bởi v́  Luật Tiến Hoá cứ thúc đẩy con người đi tới măi, nhưng một cách hết sức chậm chạp. Cuối cùng, con người cũng đạt được mục đích, nhưng phải trải qua mấy muôn kiếp Luân Hồi, kéo dài không biết bao nhiêu triệu năm và những sự vui vẻ, buồn rầu, sung sướng, khổ cực lẫn lộn với nhau từ kiếp nầy qua kiếp kia.

 

HAI  CON  ĐƯỜNG

 

          Thế nên có hai con đường: Con Đường Đời và Con Đường Đạo. Con Đường Đời là con đường tiến hoá b́nh thường. Hầu hết nhân loại đều đi trên con đường nầy, v́ nó rất b́nh thản, mát mẻ và êm đềm, không đ̣i hỏi nhiều cố gắng. Nhưng nó rất dài,  dường như chạy đến tận chân Trời. Con người đi vài chục bước rồi nghỉ một thời gian, rồi tiếp tục đi nữa. Vừa đi vừa chơi, ít ai chịu ra sức học hỏi và kinh nghiệm, v́ thế mà họ đi rất chậm. Phải mất một thời gian mấy trăm triệu năm mới đi hết con đường.

          Trái lại Con Đường Đạo là con đường của những người Tu Hành. Nó dốc đứng và vô cùng hiểm trở, đầy những đá sỏi bén như dao cạo. Không biết giữ vững thăng bằng, đề khí khinh thân sẽ bị đứt chân chảy máu. Muốn đi theo con đường nầy cần phải tŕ trai, giữ giới, chịu gian lao, khổ cực, nhẫn nại, bền chí từ kiếp nầy qua kiếp kia. Trong vài chục kiếp Tu Luyện con người có thể thành Chánh Quả làm một vị Siêu Phàm.       

 

TẠI  SAO  TU  HÀNH  LẠI  ĐI  MAU ?

 

          V.- Xin Huynh giảng giải tại làm sao Tu Hành lại đi mau?

          Đ.- Tu Hành là học hỏi Cơ Tiến Hoá và đem Luật Trời áp dụng vào đời sống hằng ngày, nhờ vậy tiến mau. [5]

          Tôi xin nhắc lại thí dụ “Nước bốc thành hơi” tôi đă viết trong quyển “Sự sanh hoá các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu.”   

          Quí bạn để một chén nước đầy ngoài Trời; nắng và gió sẽ biến đổi nước bốc thành hơi và bay đi, nhưng phải mất một thời gian; một tuần hay mười ngày hoặc lâu hơn nữa.

          Nếu quí bạn đổ chén nước ấy vào ấm, đem đun sôi, trong 20 phút, ấm sẽ cạn v́ nước đă bốc thành hơi hết.

          Xin nói rằng: Nước tượng trưng Con Người. Hơi nước tượng trưng Tiên Thánh. Sức nóng mặt trời tượng trưng Luật Tiến Hoá Thiên Nhiên.

          Sức nóng Mặt Trời làm cho nước bốc thành hơi, tượng trưng Luật Thiên Nhiên biến đổi Con Người thành Tiên Thánh.

          Đun nước là áp dụng Luật Tiến Hoá vào đời sống hằng ngày của Con Người tức là Tu Hành, đúng với câu: “Biết th́ làm được.”

 

MUỐN  TU,   PHẢI  LÀM  SAO ?

 

          V.- Muốn Tu ta phải làm sao? Phải qui y, thọ phái, ăn chay, niệm  Phật, tụng kinh, gơ mơ chăng?

          Đ.- Muốn Tu nên ăn chay, niệm Phật. C̣n việc qui y thế độ là điều phụ thuộc, không cần thiết, mặc dầu nó có sự ích lợi riêng của nó.

          Điều quan trọng hơn hết là sửa tâm tánh cho thật tốt.

          V.- Tại sao người Tu tụng kinh, gơ mơ, đánh chuông?

          Đ.- Tụng kinh là tập định trí. Tụng kinh giúp chú ư vào câu kinh không cho Cái Trí xao lăng.

          Gơ mơ, đánh chuông là một cách chuyển di tư tưởng. Tiếng chuông mơ truyền đi xa, giục người ta khi nghe tiếng chuông mơ mến việc tu hành.

          Chớ không phải tụng kinh, gơ mơ để thành Phật.

          V.- Tụng kinh, gơ mơ có phải làm chuyện Tà Đạo không?

          Đ.- Không. Riêng tôi, tôi không quan niệm như thế. Kẻ làm chuyện Tà Đạo là dùng quyền năng làm việc ích kỷ, hại người, không sợ Luật Luân Hồi, Quả Báo.

          Tụng kinh, gơ mơ, đánh chuông có hại ai đâu mà gọi là Tà Đạo.

          Chỉ nên nói một điều: Nếu tưởng tụng kinh, gơ mơ để thành Phật, ấy là tin dị đoan.

          V.- Dạ thưa ḿnh Thắp nhang để làm ǵ?

          Đ.- Nên dùng nhang trầm tốt hơn, v́ mùi thơm của nó khử trược mà c̣n ảnh hưởng tốt cho xác thân và Cái Vía.

          V.- Vậy c̣n đốt đèn?

          Đ.- Đèn cháy là tượng trưng ánh sáng. Ánh sáng là Chơn Lư phá tan sự vô minh, sự tối tăm dốt nát.

          V.- Dạ thưa danh từ Nam Mô nghĩa là ǵ?

          Đ.- Nam Mô là tiếng Phạn, nó có nghĩa là tôn kính hay ca tụng.

          Như câu: Om Namo Narayana.

          Narayana là Đức Thượng Đế Vishnou: Ngôi thứ Nh́.

          Trong kinh Phật Nam Tông có câu nầy:

          Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammâsambouddha.

          Xin tạm dịch  là:

          Tôn kính Đức Như Lai Thánh Thiện, Đấng Cao Cả, Toàn Tri, Toàn Giác.

          Ba chữ: Namo, Nama, Naman vẫn đồng nghĩa.

          V.- Dạ đôi khi người ta c̣n dùng chữ Nam Vô?

          Phật ở trong tâm ta. Phật ở khắp mọi nơi. Không biết câu trên có đúng không?

          Đ.- Không rơ v́ lư do nào. Đă có người nói: Nam Vô Phật, là nước Nam không có Phật. Thật sự là khắp hoàn cầu không nước nào có Phật cả, chớ không phải riêng ǵ nước Nam, trừ nước Ấn Độ.

 

TẠI  SAO  PHẢI  TẬP  LUYỆN  TÁNH  T̀NH ?

 

          V.- Tại sao ta phải tập luyện tánh t́nh?

          Đ.- Ḿnh phải tập luyện tánh t́nh, bởi v́ tánh xấu gây ra muôn vàn tội  lỗi, c̣n tánh tốt tạo ra công đức vô lượng.

          Trong quyển “Tại sao ta phải Tu?” tôi có nói Tu Hành là chuẩn bị bước vào Cửa Đạo. Không có Hạnh Kiểm Tốt th́ sinh viên không hề được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử để dạy dỗ. Không hội đủ những điều kiện cần thiết th́ làm sao được Điểm Đạo lần thứ Nhứt để trở thành một vị Tu Đà Huờn.

          Một lẽ khác ở ngoài đời.

          Ta thấy trước mắt ai cũng muốn tránh những người tánh t́nh xấu xa, ích kỷ, v́ họ khuấy rối người khác, họ chỉ lo làm lợi cho họ, ít khi đoái hoài tới những người đang cần sự giúp đỡ.

          Trái lại ai ai cũng mến những người hiền lương, đạo đức, giàu ḷng từ bi, bác ái và muốn gần gũi để nghe những lời khuyên răn, dạy dỗ.

          Bấy nhiêu cũng thấy tánh t́nh quan trọng là dường nào trong việc xử thế; nhất là khi gặp những tai nạn lớn lao người ta thấy chỉ có Phước Đức mới cứu nổi Con Người, chớ không phải Tiền Của hay là Tài Trí mua mạng sống được, bởi v́: “Đức Năng thắng số.”

 

BƯỚC  ĐẦU  TIÊN  TRONG  SỰ  LUYỆN  TẬP  TÁNH  T̀NH

 

          V.- Dạ thưa bước đầu tiên, ta phải làm thế nào?

          Đ.- Trước nhất, Con Người nên biết Ḿnh khác với tánh t́nh. Tánh t́nh chỉ là những khí cụ để ta dùng.

          Vậy: Tánh t́nh ở đâu mà ra?

          Nói tóm lại ḿnh tự biết ḿnh là điều kiện tối cần cho sự thành công ở ngoài đời cũng như trong Đường Đạo.

          Trên ngưỡng cửa của Thánh Điện Delphes có khắc câu châm ngôn: “Ngươi hăy biết Ngươi, rồi Ngươi sẽ biết Vũ Trụ và các vị Thượng Đế.” Đó là Chơn Lư ngàn đời; những sinh viên Huyền Bí Học muốn thành công phải tuân theo triệt để.

 

THẬT  SỰ  CON  NGƯỜI    AI ?

 

          V.- Dạ thưa Con Người thật sự là ai?

          Đ.- Thật Con Người là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế. Chơn Thần ở tại Cơi Đại Niết Bàn. Chơn Thần cần học hỏi và kinh nghiệm ở các Cơi dưới để ngày sau sẽ sanh hoá ở một Thái Dương Hệ khác giống như Thái Dương Hệ nầy vậy.

          Nhưng càng xuống thấp th́ các khí càng trược, Chơn Thần không hoạt động được dễ dàng.

          V́ vậy Chơn Thần sanh ra Chơn Nhơn thế cho ḿnh. Nhưng Chơn Nhơn chỉ học hỏi từ Cơi Niết Bàn xuống tới Cơi Thượng Thiên, tức là 3 Cảnh cao [6]  của Cơi Thượng Giới hay là Cơi Trí Tuệ mà thôi.

          Chơn Nhơn lại sanh ra Phàm Nhơn để học hỏi và kinh nghiệm từ Cơi Hạ Thiên gồm 4 cảnh thấp của Cơi Thượng Giới cho tới Cơi Hạ Giới hay là Hồng Trần xuyên qua Cơi Trung Giới (Cơi Dục Giới).

          Nói tóm lại, Chơn Nhơn là một phân thân của Chơn Thần, c̣n Phàm Nhơn là một phân thân của Chơn Nhơn. Tuy là 3 ngôi nhưng như một.[7]

          V.- Dạ thưa, vậy Tôi là ai?

          Đ.- Huynh là Phàm Nhơn, mà tôi và tất cả những người đang sanh sống trên Địa Cầu đều là Phàm Nhơn cả.

 

TÁNH  NẾT  CON  NGƯỜI  TỪ  ĐÂU  RA?

 

          Tánh t́nh mỗi người đều mỗi khác. Tại sao thế ? Ấy tại sự tiến hoá của nhân loại không đồng bực với nhau. Người ta thường nói: “Tại tánh tôi như vậy,” nói như thế tức là ḿnh chiều theo tánh t́nh ḿnh. Tánh ḿnh ưa cái ǵ th́ ḿnh làm cái ấy. Nói như vậy Tánh T́nh ḿnh là chủ của ḿnh. Nó sai khiến ḿnh, ḿnh phải vâng lời nó. Có người nhận biết: Tánh t́nh ḿnh hay khiến ḿnh làm quấy, ḿnh biết nhưng không thể cản lại được nên nói: “Nó mạnh hơn tôi.” Vậy nó là ai?

          Ta tự t́m hiểu Tánh T́nh do đâu mà có?

          Tánh T́nh của Con Người vốn là tánh nết 3 thể của Con Người gọi là Thân, Vía, Trí biểu hiện ra tuỳ theo trường hợp.

 

BA  THỂ : THÂN, VÍA, TRÍ  CỦA  CON  NGƯỜI [8]

 

          Trời cho Con Người 7 Thể để sử dụng từ Cơi Trần đến Cơi Niết Bàn.

          Trong 7 Thể nầy có 3 Thể thường dùng mỗi ngày là: Thân, Vía, Trí.

 

PHẬN  SỰ  CỦA  3  THỂ

 

1.- Xác Thân để hành động.

          2.- Cái Phách dùng rút sinh lực vào ḿnh để nuôi các tế bào và kết hợp chúng nó làm ra một cơ quan biết cảm động. Nhưng Cái  Phách là phần tinh vi của Xác Thân nên hai thể như một.

3.- Cái Vía để biểu hiện ư muốn và t́nh cảm.

4.- Cái Trí để tư tưởng, xét đoán, phân biện, tưởng tượng, ghi nhớ.

          Một ngày kia khi Con Người bỏ xác phàm, Vía và Trí sẽ thành hai Thể độc lập cho Con Người dùng khi lên Cơi Trung Giới và Thượng Giới (Hạ Thiên).

 

TÁNH  NẾT  CỦA  3  THỂ

 

          Ba Thể nầy đều có tánh nết khác nhau.

 

TÁNH  NẾT  XÁC THÂN

 

          Xác Thân có tánh ưa lánh nặng, t́m nhẹ, biếng nhác, ham món ngon vật lạ, không chịu ra công khó nhọc để giúp đỡ tha nhân mà lại thích chơi đùa, ngủ nghê.

 

TÁNH  NẾT  CÁI  VÍA

 

          Cái Vía xúi giục con người ghen ghét, ganh tị, tham lam, ham mê vật dục, nói năng thô lỗ, mắng  nhiếc, nguyền rủa, hung dữ, cộc cằn, nói tóm lại gồm tất cả các tật xấu.

 

TÁNH  NẾT   CÁI  TRÍ

 

          Cái Trí th́ lau chau, buông cái nầy bắt cái kia, hoạt động, chẳng chịu định vào một chỗ cho lâu, không khác nào con khỉ nhảy nhót trên nhành.

          Nhưng tai hại lớn nhất là nó vẫn luôn kiêu căng tự phụ, hay chê bai kẻ khác và nhất là chia rẽ: “Anh là Anh,” c̣n “Tôi là Tôi.”

 

TẠI  SAO  TÁNH  NẾT  CỦA  3  THỂ  LẠI  THÀNH  RA   TÁNH  NẾT  CỦA  CON  NGƯỜI ?

 

          V.- Tại sao Tánh Nết của 3 Thể lại thành ra Tánh Nết của Con Người?

          Đ.- V́ Con Người đồng hoá ḿnh với 3 Thể.

          Con Người tưởng lầm Xác Thân chính thật là Ḿnh.

          Trong khi đó Cái Vía muốn, Con Người cứ tưởng là Ḿnh muốn.

          Khi Cái Trí tưởng, Con Người tưởng là Ḿnh tưởng.

          Hầu hết nhân loại hiện nay chưa phân biệt được:

          a)- Điều nào thật là do Ḿnh tưởng, điều nào do Cái Trí tưởng.

          b)- Điều nào thật do Ḿnh muốn, điều nào vốn do Cái Vía muốn.

          c)- Thí dụ:  Xác Thân ta muốn ăn uống, ta là Linh Hồn, vậy Linh Hồn đâu cần ăn uống.

 

TẠI  SAO  CÁI  TRÍ  LAU  CHAU ?

 

          Ta cũng nên hiểu: Tại sao Cái Trí lau chau?

          V́ Cái Trí làm bằng 4 Chất Thượng Thanh Khí thấp: Chất thứ tư, Chất thứ  năm, Chất thứ sáu và Chất thứ bảy của Cơi Thượng Giới cũng gọi là Chất Trí Tuệ và pha rất nhiều Tinh Chất thứ nh́ (2è Essence élémentale).

          Chất làm ra Trí Tuệ rung động mau lẹ, nó hoạt động liền liền, v́ vậy Cái Trí không định vào một chỗ nào lâu được.

          Khi Cái Trí mở mang và thấy người nào khác kém thua hơn nó, chậm hiểu, hay tối dạ, tánh kiêu căng, khoe ḿnh là hay là giỏi liền bộc lộ.

 

TẠI  SAO  CÁI  VÍA  GIỤC  CON  NGƯỜI  LÀM  NHỮNG  CHUYỆN  SAI  QUẤY ?

 

          Có phải nó muốn làm hại con người không? Thưa không. Nó làm bằng Chất Thanh Khí của Cơi Trung Giới, cũng gọi là Cơi Dục Giới, pha rất nhiều Tinh Chất thứ ba (3è Essence élémentale). Tinh Chất nầy về sau đầu thai làm sắt đá, nên nó ưa những sự rung động dữ dội để về sau thân ḿnh nó mau cứng rắn.

          Người mở được Thần Nhăn nh́n Cái Vía khi thấy con người nóng giận, ham mê vật dục, biết được sự thật là thế nào, th́ mau lo trau giồi tâm tánh.

 

 

TẠI  SAO  CON  NGƯỜI  NGHE  THEO  CÁI  VÍA ?

 

          Cái Vía rất khôn ngoan, quỉ quyệt, nó dụ dỗ Cái Trí hợp tác với nó, và thuyết phục con người nghe theo nó, tŕnh bày điều nó muốn dưới khía cạnh hết sức đẹp đẽ, làm cho con người say mê để đem ra thực hành liền.

 

TAM  ĐỘC :  THAM,  SÂN,  SI    TAM  BÀNH,  LỤC  TẶC

 

          Hiểu được tánh nết của các Thể liền biết Tam Độc: Tham, Sân, Si và Tam Bành, Lục Tặc, là tánh nết xấu xa của các Thể: Thân, Vía, Trí. [9]

          Chúng nó ở trong ḿnh con người, chớ nào phải là kẻ xa lạ ở bên ngoài.

 

  LÀM  CÁCH  NÀO  SỬA  TRỊ  3  THỂ ?

 

          V.- Làm cách nào sửa trị 3 Thể?

          Đ.- Trước hết phải biết: Thể trên chế ngự Thể dưới. Cái Trí điều khiển Cái Vía, c̣n Cái Vía sai bảo Xác Thân.

          Thế nên làm chủ Cái Trí rồi sẽ sửa trị Cái Vía và Xác Thân rất dễ dàng.

 

PHƯƠNG   PHÁP   LÀM   CHỦ   CÁI   TRÍ

 

          V.- Cái Trí hoạt động không ngừng, làm thế nào để sai khiến nó?

          Đ.- Làm chủ Cái Trí là chuyện rất khó. Nếu không biết phương  pháp và không bền chí sẽ thất bại. Cái Trí rất ương ngạnh. Cả trăm, cả ngàn kiếp rồi con người bị nó sai khiến; nó làm chủ, con người làm tớ, thay bực đổi ngôi. Ngày nay nó rất cứng đầu, v́ đă quen thói cũ.

          Phương pháp hay hơn hết là đối đăi với nó như một đứa trẻ, lúc đầu bắt  buộc nó phải nghe theo lời ḿnh, sau đó tập cho nó có thói quen tuân theo chiều hướng của ḿnh đă định.

 

CÔNG   VIỆC   ĐẦU   TIÊN      ĐỊNH   TRÍ

 

          Công việc đầu tiên là bắt buộc Cái Trí định vào một chỗ nào tuỳ theo ư ḿnh muốn trong một thời gian. Mỗi lần nó rời khỏi mục tiêu, ḿnh kéo nó lại liền, đừng để cho nó tự do hành động.

          Thí dụ ta quét nhà. Ta cứ chú ư vào việc quét nhà, không nhớ hay nghĩ việc nào khác ngoài việc quét nhà. Lo moi hết rác trong những hốc kẹt rồi gom lại đổ.

          Trong lúc làm việc đừng nói chuyện với ai cả.

          Mỗi lần làm một việc thôi. Xong việc nầy rồi sẽ bắt qua việc kia, đừng làm hai việc một lượt, nếu không chẳng có cái nào hoàn tất cả.

          Lúc ban đầu thường thất bại, nghĩa là trong lúc làm ta thường nhớ tới cái nầy, cái kia, chừng giựt ḿnh mới biết ḿnh đă bị Cái Trí lôi cuốn rời bỏ mục tiêu trong giây lát. Bây giờ phải chú ư lại. Nếu cần, cả chục lần như vậy, cũng nên. Miễn là ta biết rằng: Ta không phải là Cái Trí, mà ta phải làm chủ nó; nhớ măi như vậy là thành công. Thành công là vấn đề thời gian.

          Chúng ta có một phương pháp để tập luyện Cái Trí là làm những công việc bổn phận hằng ngày. Đó là nền tảng của sự định trí. Trong quyển “Dưới Chân Thầy” có hai câu dạy cần tập trung tư tưởng trong việc làm như sau đây:

          1)- “Phải hết sức chăm chú vào mỗi phần việc của con làm, để làm cho khéo léo.”

          2)- “Dầu tay con làm việc ǵ cũng vậy, con phải hết sức chú ư vào đó.”

          Phải quan niệm rằng: Phần việc nào cũng thiêng liêng cả, không có việc nào gọi là nhỏ mọn, không xứng đáng cho ḿnh làm.

          Nếu cần, ta cũng phải đánh nón, đánh giầy, rửa chén, giặt đồ vậy. Ở mỗi việc làm ta đều tập trung tư tưởng vào đó. Lâu ngày Cái Trí sẽ lần lần vâng lịnh ta sai khiến, ít ương ngạnh như trước nữa.

 

TẬP   LÀM   CHỦ   3   THỂ

 

          Công việc tập trung tư tưởng là công việc thường xuyên trong ngày, từng giờ, từng phút, ta đều có cơ hội để thực hành.

          Giờ đây mỗi ngày nên tập lần cách làm chủ 3 Thể.

 

PHƯƠNG   PHÁP   THỰC   HÀNH

 

          Sáng sớm, sau khi thức dậy, rửa mặt xong, đừng ăn chi hết, ngồi trên ghế, trên ván, sàn nhà, xếp bằng, bán dà, kiết dà đều được, tuỳ tiện, điều cần thiết là thẳng lưng, rồi nói trong tâm hay là nói nho nhỏ cũng được.

 

I
XÁC   THÂN

 

          Xác Thân không phải thật là tôi, nó là một lớp áo của tôi mặc lúc c̣n ở Cơi Trần; nó cũng không khác nào một con ngựa của tôi cỡi để qua một khoảng đường đời. Nó luôn luôn khỏe mạnh, siêng năng, tinh tấn, tinh khiết, có tiết độ, và hết sức sạch sẽ.

 

II
CÁI   VÍA

 

          Xem xét Xác Thân rồi, để nó bên cạnh, tưởng tới Cái Vía.

          Cái Vía cũng không phải là tôi.

          Nó là một thể như Xác Thân. Nó giúp tôi biểu lộ những t́nh cảm và ư muốn cao thượng, từ bi. Nó rất mảnh mai, màu sắc tốt tươi, và luôn luôn vâng lời tôi sai khiến.

 

III
CÁI   TRÍ

 

          Thể thứ ba là Cái Trí cũng vậy. Nó là một khí cụ tôi dùng để học hỏi, phân biện, xét đoán, tưởng tượng, ghi nhớ. Nó chăm chú từ chút vào  công việc của tôi làm, nó suy nghĩ chín chắn. Nó ngoan ngoăn nghe  theo lời tôi dặn ḍ, chỉ bảo. Nhờ kinh nghiệm, càng ngày nó càng mở mang, sáng suốt; ấy là một đứa tớ rất trung thành. Tôi nuôi nó với những tư tưởng thanh cao, bác ái, vị tha, hào hiệp, khiêm tốn, khoan dung, ôn hoà, từ thiện.

 

IV

 

          Ba Thể Thân, Vía, Trí chỉ để cho tôi sử dụng trong một thời gian tại Cơi Trần nầy.

          C̣n tôi, “tôi là Ắt- Măn (Atman) Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác, vô sở bất tại. [10]

          Ḷng từ bi, bác ái của tôi bao la, bát ngát, vô tận, vô biên. Tôi là một với vạn vật, tôi yêu thương tất cả.

          Tư tưởng của tôi  trong sạch. Lời nói của tôi trong sạch. Việc làm của tôi trong sạch.

          Tôi nhẫn nại. Tôi khoan dung. Tôi điềm tĩnh. Tôi tinh tấn. Tôi tinh khiết. Tôi can đảm. Tôi hy sinh. Tôi lo phụng sự mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.”

          Ban đầu bao nhiêu đây đă đủ rồi.

          Nên học thuộc ḷng. Khi viết ra th́ nhiều, nhưng khi đọc trong trí 5 phút là xong.

 

TRƯA      CHIỀU

 

          Trưa 12 giờ rưỡi, chiều 6 giờ rưỡi, trước khi dùng bữa, nên tập như buổi sớm mai.

          Những công chức, tư chức ra sở mệt nhọc cần đọc đoạn IV thôi.

          “Ba Thể Thân, Vía, Trí chỉ để  cho tôi sử dụng trong một thời gian tại cơi Trần nầy.

          Tôi là Atman . . .

          Tôi lo phụng sự mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.”

          Những điều nên biết:

          Có đường thông thương giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn gọi là Antakarana. Nhưng ít ai biết, trọn đời và có lẽ nhiều kiếp như vậy Con Người không tưởng tới Chơn Nhơn của ḿnh lần nào cả. Hơn nữa những tư tưởng và tánh t́nh không tốt đẹp của Con Người ngăn bít lối thông thương nầy.

          Bây giờ niệm câu ấy thường ngày sẽ mở lại đường thông thương giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn, làm cho nó càng ngày càng thêm rộng lớn. Chơn Nhơn sẽ ảnh hưởng tới Phàm Nhơn dễ dàng và săn sóc Phàm Nhơn. Nhờ như thế Phàm Nhơn sẽ tiến mau.

          Niệm câu nầy cũng là áp dụng định luật “Con người tưởng nghĩ cái chi, ta sẽ thành cái đó.” Nếu mỗi ngày ta cứ suy nghĩ đến đức tánh nào đó, từ tháng nầy đến năm khác đức tánh ấy sẽ biểu lộ ra, v́ nó đă thành một thành phần tánh nết chúng ta. Xin xem đoạn “Những Điều Cần Yếu Nên Biết.”

 

TỐI,   TRƯỚC   KHI   ĐI   NGỦ

 

          Tối, trong khoảng 7 giờ tới 10 giờ, xem xét 3 Thể như lúc mới thức dậy.

          Nếu có phương tiện, mỗi giờ đọc trong ḷng 2, 3 lần câu:

          “Tôi là Atman, Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác, vô sở bất tại. [11]

          Ḷng từ bi, bác ái của tôi bao la, bát ngát, vô tận, vô biên. Tôi là một với vạn vật. Tôi yêu thương tất cả.”

          Đọc được 4, 5 lần càng tốt, nhiều chừng nào tốt chừng nấy.

 

PHẢI  THỰC  HÀNH  LIÊN  TỤC,  KHÔNG  NÊN  GIÁN  ĐOẠN

 

          Phải thực hành liên tục, từ  ngày nầy qua ngày kia, từ năm nầy qua năm nọ;  nhiều năm như vậy mới thấy hiệu quả tốt đẹp.

          Ta không nên gián đoạn, nếu ta tập một tuần, kế nghỉ nửa tháng, 20 ngày mới tập lại, sẽ không có hiệu quả chắc chắn. Tại sao thế ? V́ tư tưởng, ư muốn, lời nói và việc làm đều có h́nh dạng, mắt phàm ta không thấy được chúng.

          Khi ta tập làm chủ 3 Thể, sự suy nghĩ của ta tạo ra một h́nh tư tưởng. Nếu mỗi ngày ta đều suy nghĩ như vậy, ta thêm đồ ăn cho h́nh tư tưởng nầy, nó sẽ sống lâu và sẽ giúp ích cho ta bằng cách tạo ra những đức tánh như: Từ bi, bác ái, nhẫn nại, khoan dung, v.v…

          Trái lại, nếu ta suy nghĩ một tuần rồi không suy nghĩ nữa, h́nh tư tưởng nầy không có đồ ăn; nó sẽ yếu lần, tới một ngày kia, nó sẽ chết. Chết đây nghĩa là nó ră ra Chất Thượng Thanh Khí như cũ. Bởi v́ khi ta tưởng đến một chuyện ǵ, tư tưởng của ta rút Chất Thượng Thanh Khí làm ra một h́nh tư tưởng về chuyện đó. Nếu mỗi ngày ta mỗi tưởng tới chuyện ấy măi, sức mạnh tư tưởng của ta là đồ ăn nuôi h́nh tư tưởng đó, nó sẽ sống lâu. Những tư tưởng mông lung, mơ màng sẽ mau tan ră, v́ người ta tưởng tới chúng nó có một, hai lần rồi thôi, không nhớ tới nữa.

 

PHẢI  ĐEM  RA  THỰC  HÀNH  NHỮNG  ĐIỀU 
TỐT  ĐẸP  M̀NH  ĐĂ  TƯỞNG  NGHĨ

 

          Chỉ suy nghĩ suông, chưa đủ, phải đem ra thực hành những điều tốt đẹp ḿnh đă suy nghĩ.

          Chúng ta thường nói ḷng Từ Bi, Bác Ái của tôi vô tận, vô biên. Thật ra Chơn Thần ḷng Từ Bi, Bác Ái bao la bát ngát như thế. Bây giờ ta là một Phân Thân của Chơn Thần, ta phải tập mở ḷng Từ Bi, Bác Ái trong mọi việc, ban đầu ít, sau lần lần thêm nhiều, từ kiếp nầy qua kiếp kia, chớ không phải nội trong kiếp nầy là đủ. Mấy đức tánh khác như: Nhẫn nại, khoan dung, v.v… cũng vậy. Trong những công việc hằng ngày không thiếu chi những cơ hội để tỏ ḷng đạo đức của ḿnh.

          Thí dụ: Người kia đương đói nếu ta không tiền th́ ta có thể cho y một bữa ăn. Anh nọ thất nghiệp, ta có thể giúp lời cho anh có việc làm để nuôi gia đ́nh, hăy thực hành liền, đừng đợi người ta cầu khẩn ḿnh. Ta hăy dạy dỗ những kẻ c̣n dốt nát, ngu muội nhưng đừng kể công hay lấy tiền, v.v… Bất cứ việc nào ta làm được th́ ta đừng từ nan; cứ tuỳ phương tiện, chớ viện lẽ: “Tôi mệt nhọc quá, ai đó làm thế cho tôi.” Đừng bỏ qua những cơ hội tốt đưa đến, chúng ít khi gặp hai lần trong một đời người. Nếu may mắn gặp được nên nhận lấy ngay, kẻo ngày sau sẽ hối hận khi hiểu được bổn phận của người học Đạo.

 

HIỆU  QUẢ  CỦA  SỰ  LUYỆN  TẬP 
TRONG  V̉NG  6  THÁNG

 

          Nếu cố gắng luyện tập đúng như lời dặn trong 6 tháng không gián đoạn, ta bắt đầu sẽ thấy được hiệu quả.

          Tôi xin nhấn mạnh về chỗ bắt đầu. Hành giả thấy Cái Trí bớt lau chau, khởi sự biết được điều phải, điều quấy, mặc dầu chưa phải là toàn vẹn; thương người và vật nhiều hơn trước và trí hoá cũng mở mang thêm nữa. Nếu thực hành từ 7 năm sắp lên sẽ thấy ḿnh Tự Chủ dễ dàng.

          V.- Có người nói: “Bảy năm sắp lên, một thời gian khá dài?”

          Đ.- Thật vậy. Mới nghe qua thấy lâu, nhưng ngày, giờ qua như thoi đưa, thấm thoát 15, 20 năm đă trôi qua như chớp, tuổi già theo một bên.

          Huynh hăy suy nghĩ điều nầy, nếu ta không biết phương pháp th́ trọn một đời chưa bỏ được một tật xấu và cũng không tập được một tánh tốt nào.

          Sự tập luyện tánh t́nh đ̣i hỏi một thời gian khá lâu, từ 30, 40 năm, kéo dài từ kiếp nầy qua kiếp khác, chớ không phải chỉ có 5, 7 năm là đủ.

          Sinh viên không nên ngă ḷng. Phải bền chí, phải cố gắng mới thành công.

          Đừng đợi tới lúc nằm trên giường bịnh, da mồi, tóc bạc, hồi tưởng lại những điều phải làm, lúc ḿnh làm được mà không làm sẽ hối hận tới bực nào. Đă già mà c̣n đau yếu  làm sao  thực hành được những điều lành, điều phải như hồi c̣n trẻ. Những ǵ ta ước ao đạt được, khi ở trong tay rồi, chúng giống như mây, khói, bay đi mất. Tất cả toàn là ảo ảnh, nhưng phải đánh đúng giá trị của nó và biết lợi dụng thời cơ để tiến lên.

          V.- Phải tập những đức tánh nào?

          Đ.- Trước khi tập luyện, hành giả phải biết những điểm cần yếu sau đây, vài điểm cũng có thể gọi là những nguyên tắc.

 

NHỮNG   ĐIỂM   CẦN   YẾU   NÊN   BIẾT

         

          Những điểm đó là:

          1.- Người ta tưởng nghĩ cái chi, sẽ thành ra cái ấy.

          2.- Mỗi ngày tập trung tư tưởng vào một đức tánh nào, từ tháng nầy đến năm nọ, đức tánh đó sẽ trở thành một thành phần tánh nết của ḿnh, về sau, nó tự biểu  lộ ra một cách dễ dàng.

          3.- Ba yếu tố của sự lập hạnh là: Tư  tưởng chơn chánh, lời nói chơn chánh và việc làm chơn chánh.

          4.- Một thứ tư tưởng lặp đi, lặp lại măi sẽ biến thành hành động khi có dịp đưa tới.

          5.- Người ta tưởng trước rồi sẽ thực hành sau. Nếu gặp một việc mà thực hành liền không  kịp suy nghĩ là v́ tại ta đă tưởng tới việc đó mấy tháng trước, mấy năm trước hoặc cả kiếp trước rồi.

          6.- V́ vậy khi một tư tưởng xấu sanh ra trong trí ta, ta phải diệt nó liền bằng cách tạo ra một tư tưởng tốt đối lập với nó.

          Thí dụ như trong Trí ta vừa nghĩ tới sự giả dối, lập tức ngay khi đó liên tưởng liền đến tánh chơn chánh, ngay thật, công b́nh. Tư tưởng chơn chánh, ngay thật sẽ đuổi liền tư tưởng giả dối ra khỏi cái Trí. Tâm ta trở lại yên tịnh như trước mà ta không nhọc sức chút nào. V́ mấy lẽ trên đây, chúng ta phải tập những tánh tốt để trừ khử những tánh xấu khác c̣n tiềm tàng trong ḷng. Và cũng phải luôn luôn đề pḥng những tư tưởng xấu ở ngoài vô Trí ta, th́nh ĺnh xúi giục ta làm quấy mà ta không kịp trở tay. Chúng ta hăy c̣n nhiều vô minh.


 

CHƯƠNG   THỨ   NH̀


NHỮNG  ĐỨC  TÁNH  PHẢI  TẬP

 

          Những đức tánh phải tập là: [12]

1.-

Từ bi, bác ái.

                  

2.-

Bố thí.

3.-

Chơn chánh.

 

4.-

Kiên nhẫn.

5.-

Khoan dung.

 

6.-

Khôn khéo.

7.-

Thăng bằng.

 

8.-

Thanh khiết.

9.-

Tự tín.

 

10.-

Can đảm.

11.-

Hy sinh.

 

12.-

Mặc (nín thinh).

 

          Mỗi tháng ta tập một đức tánh, 12 tháng tập 12 đức tánh. Năm sau ta tập lại đức tánh thứ nhứt. Khởi sự lúc nào cũng được, không phải chờ tới tháng giêng mới tập đức tánh thứ nhứt. Phải tập từ 7 năm sắp lên, những đức tánh  nầy mới có thể thành những thành phần tánh t́nh của ḿnh.

 


 

CÁCH   TẬP   LUYỆN

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   NHỨT : TỪ  BI,  BÁC  ÁI

 

          Khi mới vào đường tu ta nên tập mở ḷng yêu thương người và vật trước.

          Một vị Chơn Sư nói: “Nếu không có t́nh thương, các tánh tốt khác giống như nước đổ xuống cát, bị rút hết.” T́nh thương lúc đầu ít, sau nhiều, nó khởi đầu trong gia đ́nh, rồi lan dần ra hàng xóm, sau sẽ rộng đến xă hội, nhơn quần.

          Trước ta thương yêu ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em, thân thích, sau ta sẽ lo giúp đỡ những người lân cận.

          V.- Nếu ta chỉ thương yêu ông bà, cha mẹ, vợ con có phải do tánh ích kỷ không?

          Đ.- Đó là bổn phận làm con cháu.

          Nói đúng hơn, chúng ta phần lớn đều ích kỷ. Lo săn sóc xác thân, tịnh dưỡng tinh thần, học hỏi rộng sâu để tiến hoá chính chúng ta tức là ích kỷ. Nhưng ta dùng tánh ích kỷ nầy, làm phương tiện thu thập những điều cần thiết giúp đỡ kẻ khác, không phải ta chỉ lo cho một ḿnh ta được  khôn ngoan, sáng suốt, không đoái hoài ǵ tới ai, hay là chỉ biết có gia đ́nh ḿnh chớ không biết tới gia đ́nh khác. Lúc ban đầu tánh ích kỷ rất tốt, nó giống  như một giàn tṛ dựng lên để cất một cái nhà. Khi nhà hoàn thành, ta phải phá giàn tṛ đó đi cho đẹp mắt.

          Phải tập mở ḷng nhân trong những việc hằng ngày mà người thường cho là nhỏ mọn, không đáng kể. Thí dụ:

          Gặp một con thú, như: Chó, mèo hay gà vịt, chẳng hạn đương đói; ta hăy kiếm thức ăn cho nó ăn, nó khát, hăy lấy nước để trong bát cho nó uống. Một cành cây ngă xuống, ta hăy kiếm thế chơi nó lên, một con kiến té xuống nước, hăy vớt nó. Một đứa nhỏ chạy vấp té, ta hăy chạy lại đỡ nó. Nếu trầy da chút đỉnh cần rửa sạch, thoa thuốc sát trùng, chảy máu nhiều, chở nó đi nhà thương lập tức, chớ nên tŕ huỡn.

          Một người kia đau, không ai săn sóc, ta có th́ giờ nên tới an ủi y, mua thuốc men giùm, đừng nệ công.

          Nói tóm lại, việc nào làm được vừa sức ḿnh, hăy ra tay làm liền, nhưng đừng trông mong người ta biết ơn hay là được ban thưởng, hoặc kiếp sau hưởng phước. Làm như vậy tức là một cuộc đổi chác, bán buôn, có khác nào đưa món đồ ra tay mặt, tay trái thâu tiền vô, tục gọi là: Tiền trao, cháo múc.

          Không nên chê các việc ấy nhỏ nhặt không đáng làm, nhiều việc lành nhỏ gom lại thành một việc lành lớn. Phải có thói quen làm việc lành nhỏ, khi gặp việc lành lớn sẽ không do dự và cố gắng thực hành, được bao nhiêu, hay bấy nhiêu. Nếu không có thói quen làm việc lành khi gặp một việc lành đáng làm sẽ bỡ ngỡ, v́ thấy nó quá sức ḿnh, sau đó làm ngơ luôn.

          Xin nhấn mạnh rằng: Thói quen làm việc lành là điều cần thiết. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Thói quen là bản tánh thứ nh́.” Đúng vậy. Phải tập cho được thói quen tốt đẹp nầy.

          Phải Tu Hành nhiều kiếp; khi ta được vào hàng Tứ Thánh rồi mới nói được: Mở ḷng Từ Bi, Bác Ái, chớ bây giờ nói rằng ḿnh có ḷng Từ Bi th́ thật c̣n quá sớm.

          Xin nhắc lại rằng: Phải bền chí, nhẫn nại, v́ trên đường học tập ta thường gặp những sự thử thách đưa tới. Phải thắng chúng nó, phải dẹp tan những chướng ngại, nếu muốn tiến mau hơn những bạn đồng hành. Luôn luôn trong những bước đầu ta thường thất bại. Đừng nản chí. Một đứa bé trước khi đi vững phải té nhiều lần.

          Trên Đường Nhập Môn, chúng ta là những đứa bé mới tập đi. Thế nên, chớ ngại chi cả.

 

ĐỨC  TÁNH  THỨ  NH̀ :  BỐ  THÍ

 

          V.- Bố Thí, phải thế nào?

          Đ.- Bố Thí là tỏ ḷng  nhân. Ḷng nhân và Bố Thí đi đôi với nhau. Có Bố Thí mới trừ được ḷng tham.

          Có hai cách Bố Thí:

          1.- Bố Thí v́ ḷng thương người mà không mong hưởng Quả lành và cũng không cho ai biết.

          2.- Bố Thí v́ muốn kiếp sau được nhiều hạnh phúc, sang giàu, vinh hiển và muốn cho thiên hạ biết ḿnh là nhà từ thiện.

          Quả tốt của hai cách Bố Thí nầy khác nhau.

          Trọn ngày, chúng ta đều có dịp Bố Thí: Bố Thí bằng Tư Tưởng và Đạo  Pháp trước nhứt, kế đó Bố Thí bằng tiền bạc, thuốc men, lời lành, việc phải, v.v… tuỳ theo phương tiện. Chớ nên câu nệ về h́nh thức, và có một điều nên nhớ: Khi muốn bước mau vào Cửa Đạo chớ nên v́ Hư Danh mà Bố Thí.

          V.- Dạ thưa có người nói: Phật dạy: Muốn tu phải Bố Thí hết tài sản. Huynh nghĩ thế nào về điều nầy?

          Đ.- Kinh sách Phật nói đúng với lư tưởng, bởi v́ một khi xuất gia không nên c̣n tham luyến Hồng Trần nữa. Tuy nhiên không thể áp dụng cho mọi người được, phải tuỳ trường hợp và thời đại.

          Thuở xưa bên Ấn Độ, có  phong tục kính trọng các vị Tu Sĩ; Dô Ghi (Yogui), Tăng Lữ tới đâu cũng được người ta cúng dường.

          Nếu nói về một người độc thân, họ xả thân cầu Đạo, việc Bố Thí rất dễ dàng.

          Nếu ta làm chủ một gia đ́nh lại đem hết của cải phân phát cho người, tôi nghĩ rằng gặp hai điều bất lợi:

          Một là: Tiền của có thể giúp cho mỗi người đủ ăn hai ngày, qua ngày thứ ba họ lại đói như trước.

          Hai là: Trong nhà không tiền, vợ con sẽ đói rách, phải ra thân làm việc vất vả, ta chưa biết có đủ tiền xây dùng không?

          Như vậy ông đó làm tội cho gia đ́nh v́ tánh ích kỷ, chỉ muốn ḿnh được thành Chánh Quả mà thôi.

          Đến khi thiếu hụt, muốn mua một món đồ, ta phải ngửa tay xin người ta Bố Thí chăng? Mới đây ḿnh đă Bố Thí cho người, bây giờ ḿnh xin người Bố Thí lại. Thật là không đúng!

          Tôi sợ một thời gian sau, y không thấy hiệu quả, tức là không thành Phật mà cũng không thành Tiên, y sẽ ngă ḷng và hối tiếc những việc đă làm. Nhưng đă muộn rồi, không c̣n đủ thời giờ để cứu văn t́nh thế. Sự nghiệp không phải dựng lên một ngày, một bữa mà xong, cũng không phải tu một vài năm mà Đắc Đạo thành Chánh Quả.

          Đó là ảo mộng. Chúng ta phải nh́n vào thực tế và suy nghĩ thật kỹ mới khỏi mắc các hoạ mê tín và tin dị đoan.

 

TÀI,   PHÁP,   LỮ,   ĐỊA

 

          Tôi xin nói 4 điều kiện giúp các bạn Đạo dễ tu hành là: Tài, Pháp, Lữ, Địa.

          1.- Tài là tiền bạc, của cải để sanh sống và mua sắm những đồ vật cần thiết, y phục, kinh sách, thuốc men, v.v…

          2.- Pháp là Phép Tu Hành; Đạo Pháp phải đúng với Chơn Lư tức là đúng với Luật Trời.

          3.- Lữ là anh em bạn Đạo.

          4.- Địa là chỗ cất Am hay Tịnh Xá che chở khỏi bị mưa, nắng, gió, sương. Từ xưa đến nay và luôn đến mai sau, 4 điều kiện nầy vẫn c̣n giá trị.

          Những vị Đệ Tử của Phật thuở xưa, điều kiện thứ nhứt là Tài và thứ tư là Địa, nhờ có người cúng dường: Thực phẩm, y phục, Tịnh Xá khỏi lo thiếu thốn.

          Bao nhiêu đây, Huynh suy nghĩ sẽ rơ.

 

ĐỨC  TÁNH  THỨ  BA :  CHƠN  THẬT

 

          Chơn Thật đây là Chơn Thật từ trong Tư Tưởng, Ư Muốn, Lời Nói và Việc Làm. Như tôi đă nói lúc đầu: Con người tưởng nghĩ trước rồi hành động sau.

          Nếu Tư Tưởng Chơn Chánh th́ Lời Nói và Việc Làm sẽ Chơn Chánh, không sao khác được. V́ thế trong Đạo Bát Chánh Phật sấp hạng:

          Chánh Tư Duy: Tư Tưởng Chơn Chánh, trước.

          Chánh Ngữ: Lời  Nói Chơn Chánh, và

          Chánh Nghiệp: Việc Làm Chơn Chánh, ở sau.

 

1.- TƯ   TƯỞNG   CHƠN   CHÁNH

 

          Tư Tưởng Chơn Chánh là Tư Tưởng Từ Bi, Bác Ái, Khoan Dung, Đại Độ, Ngay Thẳng, Trung Trực, không bao giờ tính toán gạt gẫm ai, hăm hại ai, dầu cho được lợi bao nhiêu cũng mặc, tức là vô tư lợi. Nói tóm lại là những tư tưởng cao thượng, tốt đẹp, chỉ lo Phục Hưng Tinh Thần nhơn loại, mưu cầu hạnh phúc cho chúng sanh mà thôi; không hề nuôi một tư tưởng xấu trong Trí. Luôn luôn kiểm soát tư tưởng; nếu có một tư tưởng nào không tốt th́nh ĺnh vô Trí liền đuổi nó ra, không cho nó ở lại khuấy rối ḿnh.

 

2.- LỜI   NÓI   CHƠN   CHÁNH

 

          Lời Nói Chơn Chánh phải có đủ 3 yếu tố nầy:

          Một là: Cần thiết không?

          Hai là: Đúng với sự thật không?

          Ba là: Từ thiện không?

          Lời Nói Chơn Chánh là lời nói dễ thương, có tánh cách giúp đỡ, phá tan những sự đau khổ, giải quyết những sự khó khăn, đem hạnh phúc cho mọi người và không bao giờ gây đau đớn cho ai cả. Chớ nên khai những tật xấu của kẻ khác hay là sỉ nhục người ta, rồi viện lẽ rằng: “Ḿnh nói thật.”

          Đừng quên rằng :

          Một lời  nói có thể gầy dựng giang sơn.

          Một lời  nói có thể làm tan tành sự nghiệp và gây thù kết oán chưa biết tới chừng nào mới dứt.

          Và một lời nói cũng có thể làm mất đức b́nh sanh.

          Vậy, phải khá thận trọng trong khi nói.

 

3.- VIỆC   LÀM   CHƠN   CHÁNH

 

          Việc Làm Chơn Chánh là kết quả của Tư Tưởng Chơn Chánh. Luôn luôn nó có tánh cách Từ Thiện, Cao Thượng; mục đích của nó là giúp đỡ và đem lợi lộc, hạnh phúc cho mọi người chớ không làm cho ai phải chịu đau đớn, khổ sở.

          Sự chơn thật c̣n nhiều lợi ích khác nữa. Tâm, Trí chúng ta không khác nào một tấm kiếng; nếu nó trắng và trong trẻo, không chút bợn nhơ, ánh sáng Chơn Lư giọi qua thông suốt, những h́nh ảnh hiện ra rơ ràng.

          Trái lại, nếu nó đầy bụi đất, ánh sáng Chơn Lư và h́nh ảnh giọi qua sẽ trở nên lờ mờ; chúng ta không sao nhận định được đúng với sự thật.

          Một nguy hiểm khác nữa là mấy anh Bàng Môn ở trong bóng tối thường dùng ảo tưởng gạt gẫm những người Tu Hành, mến Đạo sẽ sa vào hầm hố.

          Nếu ḷng ta luôn luôn Chơn Chánh, Ngay Thật, những ảo tưởng không làm ǵ được, bởi v́ hai thứ rung động khác nhau, chống đối với nhau và dang ra xa.

          Ngược lại nếu ta quen thói giả dối, hai thứ rung động hạp với  nhau sẽ rút lại với  nhau. Ta sẽ sa vào  cạm bẫy của họ giăng, bởi v́ ta nếm mật dính trên con dao bén. Ta bị đứt lưỡi mà không ngờ. Đợi khi chảy máu, đau đớn quá ta mới giựt ḿnh, nhưng đă muộn. Đó là một bài học rất đau thương. Nhứt là khi qua Cơi Trung Giới, Cơi đầy những ảo tưởng, Ḷng Chơn Thật là cái áo giáp của chúng ta mang, nó che chở chúng ta tránh những sự cám dỗ gạt gẫm.

          Và xin nhớ măi trong ḷng: Một sinh viên c̣n kiêu căng, tự phụ, không cố gắng Sống Chơn Thật, không bao giờ được thâu  nhận làm Đệ Tử. Không ai dạy Huyền Bí Học cho những người như thế; họ sẽ gây ra những tai hại lớn lao cho đời, không thể nào lường trước được.

          V́ thế ta phải tự nghiêm khắc với ḿnh, đừng tự tha thứ một lỗi nhỏ của ḿnh đă phạm và tập cho được tánh Chơn Thật, được vậy bước đường tiến hoá sẽ dễ dàng, mặc dầu ta c̣n ở trong ṿng tương đối.

 

ĐỨC   TÁNH   THỨ   TƯ :  KIÊN   NHẪN

 

          Trong mọi việc, không kiên  nhẫn, không bền chí, khó thành công. Tánh kiên nhẫn bao hàm nhiều tánh tốt khác như: Can đảm, an phận, tự tín, hy sinh. Một khi đă biết chí hướng của ḿnh là chánh đáng và tự lượng sức ḿnh, hăy cương quyết đi tới. Phải t́m phương thế vượt qua những chướng ngại thường gặp ở dọc đường, một thời gian sau ta sẽ đạt được mục đích, chẳng sai. Lúc ban sơ phải thất bại nhiều lần; đừng ngă ḷng; hăy lấy sự thất bại làm  những bài học hay, và nương theo đó sửa đổi phương cách, sau sẽ thành công.

          Bánh xe Tiến Hoá cứ lăn tới măi, đều đều, không mau, không chậm.

          Hăy xem: Phải mất bao nhiêu năm, hột gieo xuống đất, mọc lên cây và trổ bông, sanh trái. Tạo Vật hành động một cách kiên nhẫn; không bao giờ bay, không bao giờ chạy. Cả thảy đều tuân theo Luật Pháp.

          Muốn có thân h́nh  của các loài vật sống trên mặt Địa Cầu như ngày nay, các Thiên Thần phải làm việc trong một thời gian từ cả trăm triệu năm cho tới cả ngàn triệu năm liên tiếp, không phải một ngày, một bữa là xong.

          Câu: “Chí công mài sắt chầy ngày nên kim” rất đúng. Tất cả chúng ta đều có ít nhiều kinh nghiệm về tánh kiên nhẫn, bền chí; thiết tưởng nói bao nhiêu cũng đủ.

 

ĐỨC   TÁNH   THỨ   NĂM :   KHOAN   DUNG

 

KHOAN   DUNG      NGOÀI   ĐỜI

 

          Khoan Dung là đức tánh cao quí và rất hiếm có mà người học Đạo phải tập cho kỳ được.

          Muốn Khoan Dung ta nên biết rằng: Các Linh Hồn tiến hoá không đồng hạng với nhau, bởi v́ có người xuống Cơi Trần trước, có người xuống Cơi Trần sau. Những người đi đầu thai trước chúng bạn cả muôn, cả triệu năm, tự nhiên có kinh nghiệm nhiều, thông minh và sáng suốt hơn những Linh Hồn nhập Thế sau ḿnh. Chuyện nầy rất dễ hiểu; cũng như một đứa bé 7 tuổi làm sao khôn khéo và giỏi giắn hơn người đă 30 tuổi.

          Chớ nên lấy ḿnh làm khuôn vàng, thước ngọc để đo kẻ khác.

          Nếu người khác không làm được như ḿnh th́ ta nên tự nghĩ rằng: “Tại anh ấy chưa học hỏi và kinh nghiệm điều đó, nếu anh bằng ḷng ḿnh sẽ giúp anh,” chớ nên cười nhạo, chê bai và đừng quên điều nầy:

          “Người giỏi hăy c̣n tay giỏi nữa,

          Tướng tài vẫn có kẻ tài hơn.”

          Ta hơn người về phương diện nầy và thua người về phương diện khác. Ai ai cũng có chỗ hay riêng cả. Nếu người giúp việc ta cố gắng làm một chuyện mà ta không vừa ḷng cái kết quả, ta chớ nên rầy rà hay phiền hà y. Ta hăy nhớ: V́ tŕnh độ tiến hoá của y tới mức đó nên y mới làm như vậy, chớ y không làm khác hơn được. Y đáng trách cứ khi nào việc làm vừa sức y mà y biếng nhác, bê trễ không lo tṛn phận sự.

          Nói cho đúng, dầu sao y cũng đáng thương hơn là đáng trách, bởi v́ nếu y không rán sức sửa đổi tánh t́nh, kiếp sau y cũng không tiến được bao nhiêu.

          V.- Sự khoan dung có nên đi tới chỗ tuyệt đối không?

          Đ.- Trừ ra Tiên, Phật mới khoan dung tuyệt đối, hăy để cho Nhân Quả định đoạt.

          Chúng ta c̣n đứng trong ṿng Trần Tục, mọi việc đều tương đối. Ta khoan dung đến mức độ nào đó thôi. Có nhiều trường hợp chúng ta phải tự vệ; phải chống cự để bảo hộ gia đ́nh, không để cho những kẻ cướp bóc, hung dữ tới chiếm đoạt tài sản, sát hại vợ con, đồng bào, chà đạp quê hương, tổ quốc ta.

          Ta  phải t́m cách ǵn giữ thân ḿnh không cho kẻ khác hăm hại, nhưng ta không thù hận họ; ta không trả oán, nếu có dịp ta sẽ giúp đỡ trong lúc họ lâm vào cảnh khó khăn. Bởi v́:

          Lấy Ân đáp Oán, Oán hận mới tiêu,

          Lấy Oán đáp Oán, Oán hận không dứt.

          Đây là một sự khoan dung cao thượng, thực hành được mới học Đạo được. Ở hoàn cảnh nào ta cũng giữ đúng mức trung dung chắc chắn mọi việc đều sẽ được giải quyết êm đẹp.

 

KHOAN   DUNG   TRONG    ĐẠO   ĐỨC

 

          Tŕnh độ tiến hoá của mỗi Giống Dân Tộc trên Địa Cầu đều khác. Thế nên ngôn ngữ, tánh t́nh, phong tục, tập quán và tín ngưỡng của Giống da đen, da vàng, da đỏ, da trắng, đều không giống nhau. Luôn luôn ta phải kính trọng mấy điều nầy, v́ họ cũng như chúng ta đều là con của Đức Thượng Đế.

          Trong Đạo Đức dạy: Bởi v́ thiếu ḷng khoan dung nên người ta gây ra những chiến tranh Tôn Giáo khiến cho máu chảy thành sông, thây nằm chật đất. Tới nay hiểm hoạ của ḷng không khoan dung vẫn c̣n đe doạ nhơn loại như: Sự tranh chấp Ấn-Hồi, Do Thái và Á Rập, Tin Lành và Công Giáo tại Ái Nhĩ Lan, v.v…

          Thật có ḷng khoan dung ta sẽ không câu nệ làm việc chung với những người mà v́ một lẽ nào đó ḿnh không có cảm t́nh hay là không thích ư. Ḿnh cứ lo làm bổn phận ḿnh mà thôi, Ta sống Hoà mà không Đồng.

          Phải để công việc giúp đời trên t́nh cảm, không nên gom hết các việc để một ḿnh ḿnh làm; khi kết cuộc không có việc nào hoàn thành cả. Việc nào cũng nửa chừng rồi bỏ dở.

          Trong việc Đạo Đức, dầu cho ḿnh làm hay là người khác làm, được thành công th́ ta vui mừng, v́ nhân loại nhờ đó mà tiến thêm một bước nữa.

          Không nên tỏ dấu buồn bực, khi người khác chớ không phải là ḿnh đă làm được một việc lớn lao, hữu ích. Như thế là ta chưa diệt được tánh ích kỷ, ganh hiền, ghét bỏ, nó làm ḿnh đau khổ vô lối và ngăn cản ḿnh không tiến bước tới cửa Đạo.

          Ḿnh hăy tự xét đoán ḿnh trước, đừng xét đoán ai cả, bởi v́ thật ra ḿnh không biết được nguyên nhân những sự hành động của kẻ khác. Thường thường ta chỉ đoán chừng mà thôi.

          Theo Luật Nhân Quả: Ḿnh xét đoán người ta, kẻ khác sẽ xét đoán ḿnh.

          Xin hiểu câu: “Mắt trả mắt, răng trả răng” nói về Luật Nhân Quả; gieo giống chi gặt giống nấy, chớ không phải dạy ta phải trả thù. Nhưng đừng quên câu tục ngữ: “Người ta thấy cọng rơm trong con mắt của kẻ khác mà không thấy cây đ̣n tay trong con mắt ḿnh.”

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   SÁU :  KHÔN   KHÉO

 

          Phải thấy xa hiểu rộng, nhiều kinh nghiệm, luôn luôn cẩn thận và điều cần thiết trước nhứt là hành động đúng theo Luật Trời. Người ta có thể rất khôn khéo đối với đời mà rất vụng về với lẽ Đạo. Nếu gặp nghịch cảnh, người xử sự khôn khéo thay đổi chiều hướng nên thành công, như ghe gặp gió ngược mà giương buồm tiến tới được, tục gọi là: “Ghe bầu chạy cấn.”

          Người khôn khéo tránh làm cho kẻ khác buồn bực hay đau khổ do lời nói, cử chỉ hay sự hành động của ḿnh, v́ biết rằng: Mỗi sự hành động đều kèm theo sự phản động. Hành động mạnh, phản động mạnh; hành động nhẹ, phản động nhẹ. Điều nầy không bao giờ sai lầm. Phản động và Hành động luôn luôn cân phân với nhau.

          Thâu phục nhân tâm bằng ḷng nhân đức có ảnh hưởng dài lâu hơn là uy quyền.

          Người khôn khéo tuỳ theo mức tiến hoá cao thấp của mỗi người mà giúp đỡ; không bao giờ v́ tư lợi, chỉ v́ nghĩa và v́ bổn phận mà thôi.

          Nói tóm lại là tuỳ cảnh, tuỳ thời; tấn, thối, đúng phép. Không chậm trễ, cũng không nên hấp tấp.

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   BẢY :  THĂNG   BẰNG

 

          Trong Trời Đất mọi việc đều thăng bằng và điều hoà. Âm hoà Dương, Dương hoà Âm. Nếu Âm lấn Dương, hay Dương lấn Âm sẽ có những xáo trộn xảy ra.

          Bốn mùa, tám tiết vần xoay; xuân ấm áp, hè nóng nực, thu mát mẻ, đông lạnh lẻo. Thời tiết sai một chút khiến thảo mộc hư hao, con người bịnh hoạn.

          Trước mắt ta, đất mất thăng bằng, đất sụp; nhà mất thăng bằng, nhà nghiêng; nước mất thăng bằng, nước đổ; thân mất thăng bằng, thân bịnh; tâm mất thăng bằng, tâm xao xuyến.

          Một tánh tốt thực hành quá mức trung b́nh trở thành tánh xấu. Quá yêu thương thành ra yếu đuối, dại khờ.

          Quá gan dạ thành ra liều lĩnh.

          Quá ngay thật thành ra không kín miệng.

          Đức Phật dạy Con Đường Trung Đạo là Đạo Bát Chánh ở giữa thói xa hoa phóng túng và cách luyện tập hành hạ xác thân của các vị Đạo sĩ gọi là Pha-Kia (Fakir).

          V́ thế ta chớ nên thái quá mà cũng đừng bất cập và nhất là phải tập phản ứng lẹ làng và đúng mức.

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   TÁM :  THANH   KHIẾT

 

          Muốn được hoàn toàn Thanh Khiết:

          Thân phải Tinh Khiết, Vía tức là t́nh cảm phải Tinh Khiết, Trí phải Tinh Khiết.

 

THÂN   TRINH   KHIẾT

 

          Người Xuất Gia phải Trường Trai, Tuyệt Dục.

          C̣n Cư Sĩ phải Trường Trai và có điều độ.

          V.- Tại sao ḿnh phải Trường Trai?

          Đ.- Đồ ăn làm ra máu huyết, xương thịt. Con thú nào cũng có từ điển và tánh t́nh riêng của nó. Thịt của nó vô ḿnh ta biến thành máu huyết và xương thịt ta. Từ điển và tánh t́nh của  nó pha lẫn với từ điển và tánh t́nh của ta.

          Thịt sanh ra Dục T́nh, nó c̣n chứa nhiều Chất Độc gây ra nhiều chứng bịnh hiểm nghèo nữa.

          Ăn thịt nhiều quá, thân ḿnh của ta hoá ra trọng trược, nặng nề; những làn sóng rung động ở mấy Cơi cao và những tư tưởng tốt đẹp không vô ḿnh ta được, v́ hai thứ không hạp với nhau, không hoà với nhau.

          V.- Thưa ăn ngọ tốt không?

          Đ.- Ăn ngọ rất tốt đối với những người Tu Tŕ sống một đời sống Tinh Thần, ngày đêm lo Tham Thiền Nhập Định t́m những phương pháp giúp đời.

          Thần Lực đều gom lên trí óc rất nhiều, phần dưới c̣n rất ít, nó không đủ sức tiêu hoá đồ ăn, nếu ăn nhiều quá.

          Ở ngoài đời ăn ngọ chỉ hạp với những người lớn tuổi làm việc Tinh Thần; c̣n trẻ tuổi ăn mỗi ngày 3 bữa là vừa, giữ đúng phép vệ sinh, đói mới ăn, khát mới uống; ngoài 3 bữa chánh, không ăn chi cả và phải ăn gạo lứt, muối đen, đường mỡ gà (bỏ đường trắng), mật (nếu trong ḿnh không có phong).

          V.- Thưa đang ăn mặn, bỏ ăn chay liền được không?

          Đ.- Trừ ra trường hợp của những người có căn lành kiếp trước và kiếp nầy phát tâm Tu Hành và cương quyết, đang ăn mặn bỏ, chuyển qua ăn chay liền được.

          C̣n những người khác, đang ăn mặn, qua ăn chay liền, cơ thể không quen, phát đau rồi phải bỏ ăn chay, ăn mặn lại như cũ.

          Phải tập như cách tôi chỉ trong quyển “Tại Sao Ta Phải Tu” hoặc theo cách sau nầy cũng được.

          Năm thứ nhứt:

          5 tháng đầu: Sớm mai ăn mặn, chiều ăn chay.

          7 tháng sau: 10 ngày sáng ăn chay, chiều ăn mặn.

          Năm thứ nh́:

          5 tháng đầu: 25 ngày sáng ăn chay, chiều ăn mặn.

          7 tháng sau: 30 ngày sáng ăn chay, chiều ăn mặn.

          Tới năm thứ ba trường chay được.

          V.- Thưa gạo lứt rất cứng, làm sao nấu cho mềm?

          Đ.- Nếu giă được vài chục chày, gạo nấu rất ngon. C̣n gạo lứt xầy, [13] th́ nên nấu cách nầy.

          Lường gạo đủ ăn một ngày, đổ vô một cái tiềm lớn. Đổ nước vô bằng 4 lần gạo, đậy nắp tiềm, đem chưng cách thuỷ. Trong 2 giờ gạo chín mềm, dễ ăn hơn nấu thường. Nếu không tiện hăy ngâm gạo  một đêm, sáng đem nấu như thường, cơm cũng mềm vậy, nhưng khi cơm sôi phải lấy đũa bếp quậy cho thường nhiều lần. [14]

          V.- Thưa ăn trứng, bơ,  phó mát được không?

          Đ.- Ăn được, vô hại, nhưng ăn trứng nhiều có thể đau gan.

          Nếu giữ đúng phép nên bỏ cả trứng, sữa, bơ, phó mát. Tuỳ theo cơ thể, mỗi người mỗi khác; nếu ta ăn mấy món đó được, cứ ăn.        

          V.- C̣n gạo lứt muối mè?

          Đ.- Rất tốt, nhưng đừng quên rằng: Cũng có người hạp và người không hạp, v́ các cơ thể không giống nhau. Có người đau bao tử, ăn gạo lứt muối mè, bớt đau lần lần. Khi mạnh rồi, tôi tưởng cũng phải thêm những món khác hạp với xác thân. Trường hợp ăn hoàn toàn gạo lứt muối mè măi măi vẫn hiếm có, tuỳ người.

          Dầu sao tôi vẫn thấy: Mặc dầu nuôi dưỡng xác thân khoẻ mạnh là điều rất tốt, nhưng đừng quên: Chúng ta cũng cần phải tinh luyện Tánh T́nh và Tư Tưởng nữa. Ba việc phải đi chung với nhau và cùng thực hành một lượt.

          Ăn gạo lứt, muối mè mà không Tiết Dục có thể bị chế sớm, nếu không th́ cũng bạc nhược.

          Dầu có thuốc hay mà vô độ cũng không thể trường thọ, nói chi là thực phẩm thường ngày.

 

ÂM   DƯƠNG   TRONG   THỰC   PHẨM

 

          V.- Thưa có phải thực phẩm chia ra làm hai loại: Âm và Dương không?

          Đ.- Đúng vậy. Tất cả mọi vật trong Trời Đất đều chia ra làm hai loại: Âm và Dương, không phải riêng ǵ thực phẩm mà thôi.

          Thực phẩm phần lớn thuộc về thảo mộc.

          Thảo mộc chia ra hai loại: Âm và Dương, tánh chất khác nhau.

          Thuở xưa, các vị Tổ Sư có Thần Nhăn nh́n các loài cây cỏ, biết thứ nào thuộc về Dương, thứ  nào thuộc về Âm và cây nầy trị được bịnh nầy, cây kia trị được bịnh kia. Các Ngài thí nghiệm xong bắt đầu làm ra Bản Thảo chỉ rơ Tánh Dược.

 

VỊ   KHÍ

 

          Thực phẩm, loại rau trái, cũng  như những cây thuốc có 6 Vị và 5 Khí.

          Vị là Âm. Khí là Dương.

 

6   VỊ   (ÂM)

 

          6 Vị là: Toan, Khổ, Cam, Tân, Hàm, Đạm.

          1.- Toan là Chua như: Chanh, me, cà gió (cà tô mách), dâu tây, khế, rau chua, v.v...

          2.- Khổ là Đắng như: Khổ qua, xà lách xoong (cresson), rau đắng, mướp đắng, v.v…

          3.- Cam là Ngọt như: Khoai lang, bí rợ, củ cải đỏ, củ cải trắng, lúa, bắp, chuối, thơm, mật, v.v…

          4.- Tân là Cay như: Ớt, tiêu, tỏi, gừng, rau húng cây, rau má, hành tây.

          5.- Hàm là Mặn như: Muối.

          6.- Đạm là Lạt như: Rau dền, đậu hột, xà lách (salade), giá, bí đao, dưa chuột.

 

          5   KHÍ   (DƯƠNG)

 

          5 Khí là: Hàn, Nhiệt, Ôn, Lương, B́nh.

          1.- Những món ăn vị Khổ (đắng) và Hàm (mặn) phần nhiều là Khí Hàn (lạnh).

          2.- Những món ăn vị Tân (cay) phần nhiều là Khí Nhiệt (nóng).

          3.- Những món ăn vị Cam (ngọt) phần nhiều là Khí  Ôn (ấm).

          4.- Những món ăn vị Toan (chua) phần nhiều là Khí Lương (mát).

          5.- Những món ăn vị Đạm (lạt) phần nhiều là Khí B́nh (không nóng, không lạnh).

          Xin lưu ư, đây là nói về đại khái mà thôi.

          Có:

          a.- Nhiều món ăn Vị Khổ mà Khí Nhiệt.

          b.- Nhiều món ăn Vị Tân mà Khí  Ôn.

          c.- Nhiều món ăn Vị Cam mà Khí Hàn, v.v…

 

DƯƠNG   TRONG   LOÀI   DƯƠNG,
ÂM   TRONG   LOÀI   ÂM

 

          1.- Món ăn nào Khí Nhiều là món ăn Dương trong loài Dương.

          2.- Món ăn nào Khí Ít là món ăn Âm trong loài Dương.

          3.- Món ăn nào Vị Nhiều là món ăn Âm trong loài Âm.

          4.- Món ăn nào Vị Ít là món ăn Dương trong loài Âm.

          Đối với chúng ta, sự phân biệt nầy cực kỳ khó khăn, v́ chúng ta chưa có Thần Nhăn, không thể biết được một cách đích xác Vị, Khí của mỗi món ăn và số lượng là bao  nhiêu.

          Chúng ta chỉ biết: Không bao giờ có Thuần Dương hay là Thuần Âm tại Cơi Trần, mà luôn luôn trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Các nhà Đạo Học đều thông hiểu lẽ nầy.

 

MÀU   SẮC

 

          Màu sắc hết sức rực rỡ, tươi sáng thuộc về Dương. Màu sắc hết sức ảm đạm thuộc về Âm.

          Thí dụ như trong 7 màu của Quang Phổ.

          Màu đỏ là Dương.

          Màu tím là Âm.

          Chính giữa hai cực đoan, Dương và Âm th́ có 5 màu khác từ Dương qua Âm là:

          Màu Vỏ Cam: Dương.

          Màu Vàng: Dương.

          Màu Lục: Âm.

          Màu Xanh: Âm.

          Màu Chàm: Âm.

          Tuy nhiên, màu sắc c̣n có những ư nghĩa cao siêu khác và có những sự ích lợi hay nguy hại riêng của chúng nó, có dịp tôi sẽ bàn tới.

 

TRỌNG   LƯỢNG

 

          Hai vật đồng Thể Tích, vật nào nặng hơn là nhiều Dương hơn; vật nào nhẹ hơn th́ nhiều Âm hơn.

          Trong vật nặng, Lực Hướng Tâm vượt trên hết, c̣n trong vật nhẹ Lực Ly Tâm ngự trị.

 

TẠNG   PHỦ   TRONG   M̀NH   CON   NGƯỜI

 

          Tạng phủ trong ḿnh con người cũng chia ra Âm Dương.

          Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận thuộc về Lư, tức là thuộc Âm.

          Lục Phủ: Đởm, Vị, Đại Trường, Tiểu Trường, Bàng Quang, Tam Tiêu (Thượng Tiêu, Trung Tiêu, Hạ Tiêu) thuộc về Biểu, tức là thuộc về Dương.

          Nhưng làm cách nào mà biết được thân ḿnh của người  nầy thuộc về Tánh Dương trong loài Dương, c̣n thân ḿnh của người kia thuộc về Tánh Âm trong loài Âm để chọn lựa thức ăn?

          Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng: Chúng ta chưa có Mắt Thánh nên chưa thấy được những điều vô h́nh, không thể nói cho đúng số lượng Âm hay Dương cần dùng trong  mỗi món ăn cho xác thân.

          Chính là chúng ta đây, chúng ta cũng chưa biết chắc thân ḿnh chúng ta Dương  nhiều hay Âm nhiều nữa.

          V.- Tại sao khó chọn lựa thức ăn?

          Đ.- Bởi v́, nếu trong ḿnh Tạng Dương mà dùng toàn là thực phẩm Dương th́ nhiệt lực trong ḿnh làm cho con người trở nên nóng nảy, quạu quọ, hung hăng, tàn bạo, có khi thân ḿnh chịu không nổi, phải đau. Phải dùng thức ăn Âm nhiều hơn thức ăn Dương một chút.

          C̣n người trong ḿnh Tánh Âm mà dùng nhiều đồ ăn Âm sẽ yếu đuối, thường no hơi. Phải dùng thức ăn Dương nhiều hơn thức ăn Âm một chút.

          Trong ḿnh con người Âm Dương điều ḥa th́ vô bịnh. Âm lấn Dương quá hay Dương lấn Âm quá, mất sự thăng bằng, sẽ đau ốm.

          Trong Trời Đất chỗ nào không c̣n sự quân b́nh, chỗ đó thời tiết trái mùa và sanh ra những sự rối loạn. Ảnh hưởng không tốt nhiễm từ loài người, cho tới loài cầm thú, thảo mộc và đất đai nữa. Nhiều chứng bịnh mới lạ rất hiểm nghèo sanh ra, mùa màng thất bác, người và vật chết chóc rất thảm thương. Trong những năm gần đây, chắc chắn ai nấy cũng đều thấy mấy chuyện nầy.

          V.- Thưa nguyên do ở đâu mà ra?

          Đ.- Nguyên do vốn ở trong tư tưởng ác độc và xấu xa của con người mà ra.

          V.- Vậy bây giờ về thực phẩm phải làm sao?

          Đ.- Tôi tưởng mỗi bữa ăn, phải có đủ hai thứ đồ ăn: Âm và Dương, nhưng Dương ba phần, Âm một phần thôi, mới có sự điều hoà.

          V.- Tại sao nên dùng phần Dương nhiều?

          Đ.- Ấy tại con người mất nhiều sanh lực trong:

          a.- Việc vợ chồng để sanh con cái.

          b.- Lo nuôi dưỡng chúng nó.

          c.- Làm công việc sanh sống hằng ngày cực nhọc, buồn bực, lo âu, giận hờn, ham muốn quấy quá, mà có thể c̣n bị giam hăm vào bốn vách tứ đổ tường là khác nữa, v.v… Con người phí sức nhiều lắm và vô lối, v́ không có tiết độ.

          Như thế mất Phần Dương rất nhiều.

          V́ mấy lẽ trên đây: Đồ ăn Dương luôn luôn hạp với tất cả mọi người, nhưng đừng quá lạm dụng.

          Tôi xin đưa ra một bằng chứng cụ thể cho Huynh xem:

          Những vị Tu Tŕ chân chánh, trường trai, tuyệt dục không cần dùng những đồ ăn Dương nhiều như chúng ta, bởi v́ các Ngài đă không tiêu hao sức lực như người đời, lại c̣n giữ ǵn Tâm Trí Thanh Tịnh và biết cách đem sanh lực vô ḿnh nữa. [15]

          Thế nên, sức khoẻ của những Vị ấy rất dồi dào.

          Đă mấy chục năm rồi, tôi thường khuyên các bạn tu hành nên dùng gạo lứt, muối đen, và trong quyển “Xác Thân” xuất bản từ năm 1949, tôi cũng khuyến khích việc dùng gạo lứt và rau trái.

 

CHÚNG   TA  NÊN  T̀M  HIỂU  XÁC  THÂN  CHÚNG   TA

 

          Dầu sao, điều hay hơn hết là phải để ra một thời gian t́m hiểu xác thân ḿnh coi chỗ yếu của nó ở đâu để bồi bổ, hoặc bằng thuốc men hoặc bằng thể dục cho đúng phép vệ sinh.

          Dùng rau trái luôn luôn rất tốt, nhưng cũng phải biết chọn lựa thứ nào hạp với ḿnh và loại ra thứ nào không hạp. Dầu chưa được trường trai cũng không nên ăn thịt thường và nhiều, v́ thịt làm cho con người trở nên nóng nảy, hung bạo. Nó c̣n sanh ra Dục T́nh, ghẻ chốc và nhiều chứng bịnh khó trị.

          Không nên hút thuốc, uống rượu, bất cứ dưới h́nh thức nào, nếu muốn sau nầy khỏi mắc những chứng bịnh hiểm nghèo như ung thư, đau dạ dày và gan, ruột, thận.

          Trời không sanh ta ra hút thuốc và uống rượu; v́ ta bắt chước chúng bạn, một khi có thói quen, cứ chiều theo nó măi; nghĩa là ta sanh ra thói quen rồi trở lại làm tôi tớ cho nó, không thể bỏ nó, không thể nghịch lại nó. Nếu không cải thiện ngay bây giờ, để lâu chừng nào, càng hại cho ta chừng nấy.

          Vậy ư chí phải cứng cỏi, phải cương quyết sẽ lần lần sửa đổi cái dở ra cái hay được. Tôi  nói lần lần, bởi v́ hành động mạnh, cái phản động cũng mạnh và cân phân với hành động. Đừng vội quá ắt sẽ ngă và trở lại trạng thái cũ.

          Thiết tưởng cũng nên nhớ rằng không phải những thức ăn, thức uống ngon miệng đều toàn là bổ dưỡng. Trái lại có những thứ ngấm ngầm hại cơ thể mà con người không hay, không biết, tới một thời kỳ nào đó chúng mới bộc lộ.

          Vậy chúng ta hăy khá thận trọng trong những việc có liên quan đến sức khoẻ và sinh mạng chúng ta.

 

TU   TR̀   PHẢI   TUYỆT   DỤC

 

          V.- Tại sao Tu Tŕ phải Tuyệt Dục?

          Đ.- Có nhiều lư do Huyền Bí. Tôi xin kể vài sự hữu ích có thể nghiệm xét mà thôi.

          Tinh khí chứa một thứ lực sanh hoá, có quyền năng phi thường. Người đă được Điểm Đạo và luyện Đạo mới biết, điều nầy không bao giờ tiết lộ ra.

          Không dùng vào sự giao hợp, nó biến thành một thứ lực gọi là Ojas bao phủ xác thân; nó giúp cho con người trở nên tráng kiện và sanh ra một thứ từ điển thuộc về loại Dương rất mạnh mẽ và thu hút từ điển Âm dễ dàng.

          Người tu hành tới một ngày kia phải mở Luồng Hoả Hầu Kundalini. Trước khi luyện phải Tuyệt Dục, bởi v́ Luồng Hoả nầy rất nguy hiểm. C̣n giao hợp, c̣n mơ tưởng nguyệt hoa, nó sẽ đốt cháy nhiều chỗ trong ḿnh, lở lói măi rồi chết, không phương nào cứu chữa mà c̣n hư hại tới Cái Vía và Cái Trí kiếp sau nữa.

          V.- Tại sao phải mở Luồng Hoả Hầu?

          Đ.- Phải mở Luồng Hoả Hầu để luyện Thần Nhăn, Thần Nhĩ, xuất Vía trước nhất, sau mở Thiên Nhăn, Huệ Nhăn, v.v…

          V.- Nói vậy, những người mở Thần Nhăn đều đă mở được Luồng Hoả Hầu rồi phải chăng?

          Đ.- Không. Phải là Cao Đồ của Chơn Sư mới biết cách mở trọn Luồng Hoả Hầu, v́ nó có 7 lớp.

          Vẫn có phương pháp khác mở Thần Nhăn và xuất Vía, khỏi mở Luồng Hoả Hầu; nhưng Thần Nhăn nầy không thấy tới những Cảnh cao của Cơi Trung Giới.

 

MỘT   KHÍA   CẠNH   CỦA   SỰ   GIAO   HỢP

 

          Tưởng cũng nên nói trắng ra, mỗi lần giao hợp th́ mất:

          1.- Một mớ tinh khí.

          2.- Một mớ sanh lực.

          3.- Một mớ thần lực trong đó có từ điện.

          4.- Các cơ thể trong ḿnh, nhứt là bộ óc và những dây thần kinh mỏi mệt và yếu sức.

          5.- Cái Phách mất một phần sức lực.

          6.- Cái Vía và Cái Trí xao động dữ dội và rút vào ḿnh những chất khí xấu xa, nặng nề làm cho màu sắc chúng nó hoá ra đen tối.

          Về xác thân, nếu đắm mê sắc dục sẽ già trước tuổi, tóc mau bạc, mắt mau lờ, tai mau điếc, đau thắc ngang lưng, tay chân run rẩy. Thường ốm yếu bịnh hoạn, v́ không chịu nổi với mưa nắng, gió sương. Đây là chưa nói tới những chứng bịnh hoa liểu cực kỳ nguy hại cho giống ṇi.

          Thế nên Tiết Dục là điều hay hơn hết.

          Nói cho đúng lư, sự giao hợp chỉ có một mục đích mà thôi; là tạo ra một h́nh hài để cho Linh Hồn nhập vô dùng nó để tiếp tục sự tiến hoá đă ngưng lại khi bỏ xác kiếp trước; chớ không phải v́ sự vui sướng của xác thịt. Tại người ta lấy phương tiện làm mục đích, cho nên gây ra muôn vàn tội lỗi. Tới một ngày kia, nhân loại tiến hoá cao về đường Tinh Thần sẽ có thể kềm chế được những dục vọng.

          Hiện giờ th́ chúng ta phải tập luyện cho đến khi thắng được chúng nó; cố gắng măi sẽ thành công.

         

MỘT   BẰNG   CHỨNG   CỤ   THỂ   VỀ   SỰ   HỮU   ÍCH   CỦA   VIỆC   TUYỆT   DỤC

 

          Tôi xin nói một gương sau đây:

          Tại xóm tôi, hiện giờ có một anh đă 76 tuổi, rất khoẻ mạnh. Từ nhỏ đến lớn anh không vợ con và không hề gần phái nữ. Đă có nhiều người đàn bà muốn phá anh ta, lại gần anh ta th́ anh chạy trốn. Anh thường ghé nhà tôi,  nói chuyện với tôi. Tôi không thấy có dấu hiệu ǵ tỏ ra anh biết Đạo. Đă mấy chục năm rồi, không thấy anh đau ốm chi cả. Tới mùa đông, gió bấc thổi, có  người phải bận tới hai, ba lớp áo ấm c̣n run, mà anh chỉ mặc có một cái áo lá đi chơi ngoài đường, không thấy có vẻ lạnh lẽo chi cả.

          Kiếp trước anh có Tu không? Không biết; mà kiếp nầy anh ở độc thân rất dễ dàng mà không phạm giới, và v́ lẽ đặc biệt nầy, tôi mới nói tới anh. Về phương diện tuyệt dục, chúng ta tự xét ḿnh, thấy c̣n thua anh xa lắm.

 

NHIỆM   VỤ   CỦA   NGƯỜI   TU   TR̀

 

          V.- Người ta nói những người Xuất Gia Tu Tŕ là ích kỷ, không lo cho xă hội nhơn quần; Huynh nghĩ sao?

          Đ.- Ích kỷ cũng có, mà không ích kỷ cũng có. Ích kỷ là những vị mong mỏi thành Tiên, thành Phật sẽ về Tây Phương Cực Lạc hay là sớm chơi Bắc Hải tối về Nam Sơn, trọn đời thong thả, thanh nhàn.

          C̣n không ích kỷ là những vị Chơn Tu, chỉ có một mục đích duy nhất lo Phục Hưng Tinh Thần nhân loại và làm cho Tinh Thần nầy càng ngày càng mở mang nhiều hơn trước.

          Những vị ấy dùng trước nhất là Tư Tưởng, kế đó là Ngôn Ngữ trong những bài diễn văn, thuyết pháp, trong những cuộc đàm thoại Đạo Đức hay cầu nguyện.

          Các Ngài cần ở độc thân mới có đủ th́ giờ thực hiện hoàn toàn công việc lớn lao nầy.

          Nếu có gia đ́nh, phải lo cho tṛn bổn phận làm chồng, làm cha, phải lo làm ăn, lập nghiệp, cuộc sanh sống dễ dàng. Tâm trí để lo việc đời c̣n bao nhiêu th́ giờ để lo cho Đạo Đức.

          Những người Tu Tŕ Chơn Chánh đă có căn lành nhiều kiếp trước.

          C̣n hạng Cư Sĩ như chúng ta th́ nửa Đời, nửa Đạo, cần phải cố gắng măi; tiến tới được bước nào hay bước nấy, được bao  nhiêu hay bấy nhiêu.

 

MỘT  Ư  NGHĨA  NỮA  CỦA  THÂN  TINH  KHIẾT

 

          Thân tinh khiết c̣n có ư nghĩa khác nữa là không để những việc làm, những hành động sai quấy nào trái với Luân Thường Đạo Lư làm nhơ bợn xác thân. Chúng ta phải suy nghĩ kỹ lưỡng và chín chắn trước khi bắt tay vào việc. Phải tập rèn, phải học hỏi và kinh nghiệm lần lần sẽ trở nên sáng suốt.

          Xin tóm tắt:

          Phải tận tâm cùng chức nghiệp; phải làm sao cho tṛn bổn phận hằng ngày, cố gắng giữ cho được bốn chữ: Thanh, Cần, Liêm, Chánh.

          Về cách đối xử với thiên hạ, trong mọi việc phải lưu chút nhân t́nh, đừng quá gắt gao; phải nhớ: Khi người, khi ta, không ai được Ba Vuông, Bảy Tṛn.

          Đừng để bị sắc đẹp, tiền tài lôi cuốn vào những việc làm bất nghĩa, bất chánh, không kíp th́ chầy cũng  phải mang tai hoạ vào thân, v́ Luật Nhân Quả Báo Ứng.

          Nếu một người kia làm nhiều việc ác đức mà y vẫn giàu sang, vinh hiển hăy khoan nói Trời Bất Công. Ấy tại y hưởng chưa hết Phước của y đă tạo ra kiếp trước. Ngày nào Phước hết rồi, cũng như vốn liếng đă hết sẽ mắc nợ lại. Những sự khó khăn rắc rối sẽ dồn dập tới cho y.

          Lời xưa đă dạy:

          Hữu thế bất khả ỷ tận.

          Hữu phước bất khả hưởng tận.

          Không bao giờ sai. Chỉ v́ người đời có thói quen muốn thí nghiệm lại những điều mà từ ngàn xưa người ta đă kinh nghiệm và đă dạy lại để răn đời: Cũng như trường hợp của anh Tất Đạt trong quyển “Câu Chuyện Của Ḍng Sông” (Xin xem đoạn chót quyển nầy).

 

Ư      TRÍ   TINH   KHIẾT

 

          Phải giữ ḷng thanh tịnh và trong sạch, không hề sanh ra một tư tưởng hay một ư muốn thấp hèn. Nếu không chăm lo để nó nảy sanh, phải mau nghĩ tới một tư tưởng tốt đối lập để xua đuổi nó ra khỏi Trí.

          Muốn thực hiện được việc kiểm soát tư tưởng trước nhất ta phải biết ta muốn cái chi, tưởng cái chi, mới loại ra được khỏi Tâm Trí ta phần ô trược, đê tiện, chỉ giữ lại cái chi cao thượng, thanh bai mà thôi.

          Đây là tập Tánh Phân Biện, Tánh thứ nhứt mà kẻ chí nguyện làm Đệ Tử phải thực hiện cho được mới vững bước đi xa.

          Con người phạm lỗi v́ không đem vào tai những lời của các vị Thánh Nhơn, Hiền Triết đă dặn ḍ và luôn luôn lặp đi, lặp lại từ đời nầy qua đời kia. V́ thế mà phải Luân Hồi măi để học cho thuộc những bài cần  phải học; đáng lẽ phải thuộc trong vài kiếp lại để tới ba, bốn chục kiếp mới học xong một bài. V́ vậy sự tiến hoá bị chậm trễ.

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   CHÍN :  TỰ   TÍN

 

          Con người phải tự tin nơi ḿnh, tin vào tài đức ḿnh, sức lực ḿnh, mới mong thành công trong việc làm. Tin như thế rất tốt. Nhưng c̣n một phương diện khác nữa, con người phải tự tin ḿnh là Thượng Đế, pháp lực vô biên. Ḿnh cần phải làm thế nào đặng biểu lộ lần lần những quyền năng đó càng ngày càng thêm.

          Những khí cụ cần thiết để con người dùng để biểu lộ những quyền năng đó tại Cơi Trần là 3 Thể: Thân, Vía, Trí. Thế nên ta phải tinh luyện chúng nó mới học hỏi rộng sâu Cơ Tạo Hoá và hành động đúng với Luật Trời.

          Ḿnh hăy tự tin rằng: Chỉ tự ḿnh giải thoát cho ḿnh được mà thôi, không ai có quyền năng nào ở ngoài vào làm việc đó được.

          V.- Tại sao có người bảo: Cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật măi tới khi lâm chung Phật rước về Tây Phương Cực Lạc, ngồi trên toà sen, tức là thành Phật. Huynh nghĩ sao?

          Đ.- Ai tin được điều đó th́ tin. Đó là quyền tự do của mỗi người. Riêng tôi, tôi không tin điều đó đúng với Chơn Lư.

          Mỗi người trong chúng ta đă đầu thai cả ngàn kiếp rồi, mỗi kiếp đều gây ra nhiều tội lỗi. Quả đó chồng chất không biết là bao nhiêu; có điều chắc chắn là dữ nhiều, lành ít, v́ chúng ta vẫn c̣n vô minh.

          Mỗi kiếp ta chỉ trả một số ít Quả; nếu cho ta trả nhiều th́ xác thân nầy chịu không nổi, sẽ chết sớm.

          Do đó, luôn luôn có những Quả c̣n dư lại, bởi v́ mỗi kiếp ta trả Quả cũ mà c̣n gây thêm Quả mới khác nữa. Nếu chỉ niệm Phật mà được về Tây Phương Cực Lạc, ngồi trên toà sen, thoát đoạ Luân Hồi vậy số Quả c̣n dư lại đó phải làm sao? Ai ra tay xoá bỏ những Quả đó; như thế đâu c̣n sự Công B́nh của Trời Đất nữa?

          6 chữ “Lục Tự Di Đà” có quyền năng ǵ mà giải thoát cho con người được? Một người ban ngày làm những chuyện hung ác, ban đêm niệm Lục Tự Di Đà, chết rồi được về Tây Phương là một chuyện Đại Bất Công. Nếu quả thật như thế, Tây Phương Cực Lạc chứa đầy những người hạnh kiểm xấu xa, hết sức ích kỷ, không xứng đáng ngồi trên toà sen chút nào. Phật đă dạy: Phải chặt đứt 10 dây chướng ngại gọi là Samyojana mới được làm một vị Siêu Phàm, tôi có giải trong quyển nhỏ “Chơn Sư và Đệ Tử” của tôi nên không lặp lại ở đây.

          Tôi xin đưa ra một bằng chứng cụ thể cho Huynh xem.

          Trước khi thành Phật phải ở ngôi vị Bồ Tát. Sau khi thành Phật, Đấng Chí Tôn mà ḿnh gọi là Đức Thích Ca giao ngôi vị Bồ Tát lại cho Đức Di Lạc. Tới nay đă trên 2500 năm mà Đức Di Lạc vẫn c̣n ở ngôi Bồ Tát, chưa thành Phật. Như vậy cũng đă thấy từ ngôi vị Bồ Tát lên ngôi vị Phật cũng là một điều khó khăn. Có đâu một người phàm, ḷng c̣n tràn trề dục vọng, mỗi ngày c̣n gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, chưa tu hành để vào hàng Đệ Tử gọi là Tứ Thánh, mà chỉ có niệm A Di Đà Phật, thác rồi lại được về Tây Phương ngồi trên toà sen là một điều cực kỳ phi lư. Thành Phật như thế ngôi vị Phật đó không có cao quí chút nào!

          Khi Niệm Phật phải ăn ở như lời Phật giảng dạy, miệng niệm Phật mà ḷng không nhân đức, không bằng những người không biết gơ mơ, tụng kinh mà vẫn lo làm những việc từ thiện v́ thương đời.

          Hăy tin chắc rằng chính là chúng ta cầm số mạng chúng ta trong tay. Chúng ta hăy tự giúp ḿnh trước, Trời sẽ giúp chúng ta sau. Phải có tự lực, tha lực mới đến được. Chung quanh chúng ta có không biết bao nhiêu những lực vô h́nh, biết sử dụng chúng, chúng sẽ giúp ích cho chúng ta thật nhiều.

          Nếu ỷ ḿnh quá th́ sẽ thất bại chẳng sai.

          Tự Tín là một việc, kiêu căng tự phụ lại là một việc khác nữa. Đừng đi quá mức trung b́nh là điều hay hơn hết, và đừng quên rằng: Cầu ở ḿnh và tin cậy nơi ḿnh hay hơn là cầu ở người và tin cậy ở người; cậy ở người không chắc bằng cậy ở ḿnh.

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   MƯỜI :  CAN   ĐẢM

 

          Tất cả chúng ta đều nhút nhát, không về phương diện nầy cũng về phương diện khác. Nói như thế không phải  là không dạn dĩ, nhưng tuỳ trường hợp. Thử hỏi trong chúng ta ai lại không rùn ḿnh khi bước vào một căn pḥng tối tăm, giữa đêm khuya thanh vắng, tư bề lặng lẽ. Muốn trở nên dạn dĩ phải tập luyện như tập thể thao.

          Ta phải tự hỏi: Tại sao ta lại sợ? Lư do đầu tiên là ta sợ Ma. Mà Ma là ǵ? Ấy là Hồn người chết; ḿnh sợ họ nhát ḿnh? Họ  nhát ḿnh làm ǵ? Nếu họ hiện h́nh ra th́ có một duyên cớ nào đó: Hoặc tỏ ra cho ḿnh biết họ cũng sống như ḿnh, họ chỉ mất xác thân mà thôi; hoặc có một chuyện giải quyết chưa được mong nhờ ḿnh, hoặc có những lư do nào khác nữa. Ḿnh cứ b́nh tĩnh hỏi họ coi họ trả lời làm sao? Nếu có thể giúp họ hăy cho họ biết.

          Có chi mà phải sợ, v́ Ta là Chơn Thần trường sanh bất tử. Tới một ngày kia đúng ngày giờ, ta sẽ bỏ xác, ta cũng vẫn sống như họ bây giờ vậy. Suy nghĩ như vậy th́ lần lần ta sẽ hoá ra dạn dĩ. Dạn dĩ về phương diện nầy rồi th́ sẽ tập dễ dàng về phương diện khác.

          Trong thời đại nguyên tử, các nước đua  nhau sản xuất những vơ khí cực kỳ nguy hiểm; chiến tranh  lạnh đă xảy ra nhiều nơi; người ta sống trong cảnh hồi hộp. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng:

          Cái chi thuận với Trời sẽ c̣n, nghịch với Trời ắt mất. Cái hung ác, dầu có thắng được đi nữa, cũng là tạm thời, không thể nào bền bỉ. Vậy cứ vững ḷng chịu đựng một cách gan dạ những sự khó khăn trong một thời gian, cuối cùng chúng cũng tiêu mất. Chánh nghĩa sẽ thắng.

          Người nhát sợ không làm được việc ǵ lớn lao. Trong đời luôn luôn xảy ra những sự đau ốm, bịnh hoạn, nghèo khó, buồn bực, trái nghịch, khổ năo, v.v… Phải có gan dạ đương đầu với mấy điều đó. Phải coi chúng như không có chi trọng hệ, những điều đó do những sự lỗi lầm của ta kiếp trước hay là kiếp nầy tạo nên. Chúng tới, ta lo giải quyết, đừng than van, rên siết, đừng để cho chúng làm rối trí, đă vô ích lại c̣n gây ra Quả xấu khác nữa, v́ tư tưởng của ḿnh làm cho nhiều người khác ngă ḷng, rủn chí.

          Người chiến sĩ xông pha nơi trận mạc bảo vệ ṇi giống và quê hương. Phải coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Hăy nhớ rằng: Hễ nước mất th́ nhà tan; ḿnh và cháu con phải làm tôi mọi cho kẻ thắng trận từ đời  nầy qua đời kia. Không phải mỗi người lính ra trận đều chết hết; nếu vậy, hai bên không c̣n binh lính ǵ nữa. Ai ai cũng có số mạng; tới số chết trốn trong lu cũng chết; c̣n chưa tới số chết dầu ra giữa trận, đạn bay như mưa cũng không trúng ḿnh, bởi v́ đạn tránh người, chớ người không tránh đạn được.

          V.- Người ta nói những người lính ra trận chưa tới số đều có Thần Hộ Mạng che chở, có phải như vậy hay không?

          Đ.- Tôi tin điều nầy có thật. Ai không tin th́ mặc t́nh. Theo tôi th́ không có chi may, không có chi rủi, mà chỉ có số mạng mà thôi.

          Nếu binh lính ra trận chết hết th́ c̣n ai đâu trở về, và chiến tranh cũng đă chấm dứt. Không ai cắt nghĩa nổi tại sao một trái lựu đạn nổ khít hai người đứng gần nhau mà một người bị thương, c̣n người kia không hề chi cả. Nói theo Khoa Học th́ trong ṿng 30 thước, lựu đạn có sức tàn phá ghê gớm, giết người dễ như trở bàn tay. Tại sao trong trường hợp nầy, một anh bị thương nhưng không chết, c̣n một anh chỉ sợ hết hồn thôi. Lấy sự may rủi mà nói th́ không Khoa Học chút  nào cả. Việc nầy đă xảy ra nhiều lần, chớ không phải trường hợp hiếm có, nhất là trong thời buổi nầy. Trên đây ta chỉ nói về đường đời, c̣n trong đường Đạo sự gan dạ rất cần thiết.

          Sinh viên Huyền Bí Học một ngày kia sẽ biết xuất Vía lên Cơi Trung Giới và tỉnh táo như lúc thức. Lúc ta vừa lên Cơi nầy, những vị Ngũ Hành hoá h́nh dữ tới nhát, mấy anh trong bóng tối cũng không để ta yên. Ta phải có gan dạ đương đầu với những sự thử thách như thế. C̣n bao nhiêu điều khác nguy hiểm hơn, chớ không phải chỉ có việc Ma Quỉ nhát mà thôi. Ta phải thật can đảm và biết cách giữ ḿnh mới làm việc trên Cơi Trung Giới được.

 

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   MƯỜI   MỘT :  HY   SINH

 

          Mọi người đều hy sinh không nhiều th́ ít, trước nhất cho gia đ́nh, kế đó là xă hội, cuối cùng, tức là tới một ngày kia, là nhân quần.

          Ta lo lắng cho gia đ́nh được ấm no, con cái nên danh phận, có nghề nghiệp sanh sống mà không quản nhọc nhằn, tức là hy sinh, mặc dầu c̣n trong ṿng chật hẹp.

          Lúc con cái đau ốm, bịnh hoạn, người ta mới thấy sự hy sinh của người mẹ nhiều hơn người cha. Chẳng những con người mà loài thú vật nào cũng hy sinh cho con cái của nó cả, luôn luôn những giống thú cái tận tuỵ và quên ḿnh hơn những giống thú đực.

          C̣n ngoài xă hội, chúng ta đều hy sinh cho nhau, tuỳ công việc, tuỳ tài đức.

          Nhưng nói cho đúng sự hy sinh vốn ở trong mục đích việc làm chớ không phải ở trong kết quả. Những sự hy sinh  nào mà không mưu cầu hạnh phúc hay là lợi lộc cho ḿnh mới là cao thượng. Thí dụ như những gương sau đây:

          a.- Người chiến sĩ cầm khí giới ra trận, chiến đấu dũng mănh không để cho quê hương, tổ quốc bị chà đạp dưới gót giày của những kẻ xâm lăng, bạo ngược, hung tàn.

          b.- Những nhà từ thiện, những tu sĩ, trọn đời săn sóc những người mắc các chứng bịnh nan y như: Phong đơn, bại xụi, điên khùng. . . .

          c.- Những người hy sinh một cách âm thầm lặng lẽ cho Nghệ Thuật, cho Khoa Học, và những sự  phát minh hữu ích cho nhân loại, v.v…, mà chúng ta không biết và cũng không thấy.

          Nói tóm lại, đất cát hy sinh cho cây cỏ, cây cỏ hy sinh cho cầm thú, cầm thú hy sinh cho con người trong những công việc thường ngày, (chớ không phải để cho chúng ta ăn thịt), c̣n con người th́ hy sinh cho nhau.

 

SỰ   HY   SINH   TRONG   ĐƯỜNG   ĐẠO

         

          Trên đây nói về sự hy sinh trong Đường Đời.

          Trong Đường Đạo, người thứ nhứt của nhân loại Hy Sinh triệt để, tới ngày nay chưa ai sánh kịp là Đấng Chí Tôn mà người ta gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Gautama), hay là Đức Phật Thích Ca.

          Không phải v́ trong kiếp nầy, Đức Thái Tử Sĩ Đạt Ta ĺa bỏ cung vàng, điện ngọc, cung phi, mỹ nữ vào rừng sâu tu luyện để thành Chánh Quả mà ta gọi là Ngài hy sinh triệt để.

          Nhưng bởi v́ mấy trăm kiếp trước, mỗi kiếp Đấng Chí Tôn cố gắng luyện tập hoạch đắc một Đức Tánh Cao Cả cần thiết cho Quả vị sau nầy. Một khi bỏ xác, Ngài từ khước sự hưởng hạnh phúc trên Thiên Đàng, trở xuống đầu thai liền; từ kiếp nầy qua kiếp kia. Đây mới là một sự Hy Sinh Cao Thượng.

          Ngài đắc quả Bồ Tát, sau nữa lên địa vị Phật Đà. Ngài là Người Thứ Nhứt của nhơn loại được Thành  Phật; c̣n những vị Phật trước vốn ở Bầu Kim Tinh qua giúp đỡ nhân loại trong thời kỳ c̣n ấu trĩ.

          Các vị Tiên Thánh không nhập vào Niết Bàn, ở lại Trần Thế giữ xác phàm để giúp đỡ nhân loại, tức là Hy Sinh Trọn Vẹn.

          Các vị Đệ Tử hồi hướng công đức ḿnh cho Sư Phụ, không hưởng quả tốt ở Thiên Đàng hay kiếp sau, là Hy Sinh trong phạm vi nhỏ bé của ḿnh.

 

TẠI  SAO    NGOÀI  ĐỜI  NGƯỜI  TA  CHO  RẰNG  HY  SINH    KÈM  THEO  SỰ  ĐAU  KHỔ

 

          Hy Sinh có nghĩa là ta ban rải t́nh thương ra khắp mọi nơi và cho mọi người mà ta vẫn vui ḷng chịu thiệt tḥi, nếu sự thiệt tḥi quả có thật đi nữa.

          Bởi v́ Bản ngă thấp hèn luôn luôn tham lam, nó muốn thu thập, gom góp cho một ḿnh  nó; nó không rộng răi, thế nên theo quan niệm của Bản ngă thấp hèn th́ sự Hy Sinh là sự đau khổ, bởi v́ phải mất đi phần nào của cái ǵ ḿnh đă ǵn giữ bấy lâu.

          Người ta học rành Luật Nhân Quả biết rằng: Cho ra không mất, bởi lẽ khi v́ t́nh thương ta cho ra bao nhiêu, mà không v́ tư lợi, th́ Trời sẽ cho ta lại bấy nhiêu, có khi c̣n  nhiều hơn những ǵ mà ta đă cho  nữa.

          Những ai đă kinh nghiệm nghĩa là đă thực hành điều nầy rồi, đều biết chắc chắn lời nói trên đây luôn  luôn đúng với sự thật.

          Sự hy sinh có khi thể hiện th́nh ĺnh không ai biết trước được trong những biến cố lớn lao như:

          Trong lúc hỗn chiến đạn bay như mưa, đột nhiên ta thấy một người kia dám xông pha vào ṿng lửa đỏ để d́u dắt một người đàn bà và một đứa bé bị kẹt vào giữa, ngày thường ḿnh không thấy anh tỏ ra gan dạ hay cứu khổn, pḥ nguy. Thế nên khá thận trọng trong khi ta chỉ xem bề ngoài để xét đoán.

 

 

ĐỨC  TÁNH   THỨ   MƯỜI  HAI :  MẶC  (NÍN   THINH)

 

 

          Trong các đức tánh, tánh Mặc (Nín Thinh) là khó tập nhất.

          Nín Thinh không phải làm thinh măi mà có nghĩa là: Nói đúng lúc, phải lúc. Lời nói phải dịu dàng, chơn chánh và hữu ích. Nếu không có đủ ba điều kiện nầy, Nín Thinh là tốt hơn hết, v́ khỏi gây Quả xấu cho ḿnh.

          Thuở xưa tại Crotone (Đạo Viện Krotona), qui luật của Trường Pythagore (Pythagoras) bắt buộc sinh viên phải Nín Thinh thường là trong hai năm, có khi kéo dài năm năm. Sinh viên chỉ được phép nghe Thầy giảng dạy mà không được phép hỏi han chi cả. Đây là cốt ư để tập cho sinh viên có tánh kín đáo và phải suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi mở lời.

          Lời xưa đă nói:

          “Hoạ tuỳ khẩu xuất,

           Bịnh tuỳ khẩu nhập.”

          Thật đúng vậy:

          “Hoạ theo lỗ miệng mà ra,

           Bịnh theo lỗ miệng mà vào.”

          Không kín đáo, không cẩn thận trong lời nói ta thường gây ra những sự bất b́nh, những thù oán và có khi phải mang tai hoạ vào thân.

          Phải tập quen tánh “Nghe” hơn là “Nói.” Những sự bí mật trong Đường Đạo, như cách luyện tập để mở mang những quyền năng cao siêu không nên tiết lộ ra. Những người không đủ tư cách dù nghe ta nói, đem ra thực hành, cũng không thu thập được kết quả nào cả. Họ sẽ trở lại oán giận ḿnh sao không thật t́nh với họ, thêm sợ họ bị điên khùng là khác nữa.

          Thí dụ: Nếu thành công họ sẽ hại đời chẳng nhỏ, v́ tánh t́nh c̣n xấu xa, chưa kềm chế được những dục vọng thấp hèn. Nguy cơ lớn lao nhất là những tai hại nầy vẫn vô h́nh, giác quan không kiểm soát được.

          Lấy việc trước mắt mà nói: Như sự bí mật về cách chế tạo bom nguyên tử, bom khinh khí, những hoả tiển liên lục địa, việc sử dụng tia sáng Laser, v.v…, phải hết sức giấu kín. Phải kín miệng, dầu có ai hỏi cũng phải làm thinh.

          Xin nhắc lại:

          Khi xưa Đức Khổng Tử viếng một toà Cổ Miếu thấy h́nh một người bịt miệng bằng Ba lớp khăn. Ngài bèn xoay lại dặn các Môn Đệ phải thận trọng cẩn ngôn.

          Trong thời kỳ loạn lạc có khi chẳng phải bịt miệng mà ta c̣n phải bịt mắt và bịt tai nữa mới mong sống được an toàn.

          Trong quyển nầy tôi chỉ giải sơ lược về 12 Đức Tánh cần thiết cho những ai muốn bước vào Đường Đạo, tức là chí nguyện làm Đệ Tử, hoặc làm một vị Thiện  Nhân. C̣n nhiều điểm khác nữa quí Huynh suy ra sẽ thấy, nhất là sau khi kinh nghiệm. Dầu sao những đức tánh nầy cũng giúp quí Huynh trong cuộc sống hằng ngày đến một mức độ nào đó, nhất là về sự mở mang Tâm và Trí. Thực hành trong một thời gian sẽ thấy ḿnh sáng suốt hơn trước trong sự học hỏi, cũng như trong hành động. Dầu chưa được trọn sáng, trọn lành chớ cũng đă thấy sự tiến bộ đôi chút, bởi v́ có thực hành mới kinh nghiệm, có kinh nghiệm mới khôn ngoan.

          Nên cố gắng đi tới.


CHƯƠNG   THỨ   BA


THAM   THIỀN

 

          V.- Tham Thiền là ǵ?

          Đ.- Không phải dễ mà định nghĩa hai chữ Tham Thiền.

          Tôi xin nói một cách dễ hiểu Tham Thiền là suy nghĩ một vấn đề nào đó để thật hiểu nó và t́m cách giải quyết nếu cần.

          V.- Nếu vậy ai ai cũng biết Tham Thiền cả?

          Đ.- Đúng vậy, song chỉ có cao, thấp khác nhau mà thôi.

          Thí dụ như: Học sinh, sinh viên Tham Thiền nhưng không biết trong khi suy nghĩ để làm những bài luận, những phương tŕnh của các môn: Toán Học, H́nh Học, Lư Hoá, v.v…

          Các vị thương gia, kỹ nghệ gia, lo t́m kiếm những phương pháp để mở mang xí nghiệp đều có Tham Thiền.

          Các nhà Bác Học, các nhà Khoa Học Tham Thiền ngày, đêm từ năm  nầy qua năm nọ t́m phát minh được món thuốc mới, những máy móc mới, v.v…; nhưng tiếc thay họ chế tạo những việc giúp đời, làm lợi cho đời th́ ít, c̣n những việc hại đời, tàn phá đời th́ nhiều; chỉ tại v́ con người thích việc tàn sát hơn là tham sống. V́ thế những việc tranh chấp đă xảy ra khắp nơi khiến cho sinh linh đồ thán. Nếu con người không mở rộng ḷng nhân, diệt tánh ích kỷ, chia rẽ, không ai biết tới ngày nào những sự đau khổ khó khăn chấm dứt và nhân loại được an hưởng thái b́nh.

          V.- Thưa tôi có một người bà con mới bắt đầu Tu mà ngồi Thiền liền. Điều đó có nên chăng?

          Đ.- Tôi tưởng không nên đi mau quá vậy.

          Trước khi Tham Thiền có hiệu quả phải tập Định Trí. Làm chủ Cái Trí được rồi sẽ ngồi Thiền.

          Đă nhiều kiếp qua, chúng ta để Cái Trí sai  khiến chúng ta; bây giờ đây ta phải luyện tập nó, bắt buộc nó phải vâng lời chúng ta. Việc nầy đ̣i hỏi một thời gian khá lâu. Chưa biết Tập Trung tư tưởng mà ngồi Thiền liền th́ Cái Trí bắt ta nhớ những chuyện Đông, Tây, Nam, Bắc, quá khứ, vị lai, không liên qua chi với vấn đề ta đương lo nghĩ: Ta sẽ thất bại.

          Ngồi Thiền như thế, đừng nói ba năm, dầu ba chục năm đi nữa cũng không tiến bộ chút nào cả.

          Tu hành cũng như các công việc ngoài đời, phải biết phương pháp mới mau thành công. Chung quanh ta là những Luật Trời, ngày đêm hành động và không ngớt Báo Ứng do tư tưởng, lời  nói và việc làm của chúng ta, dù chúng ta không thấy chúng nó ra sao cả. Đừng ỷ lại sẽ mang tai hoạ. Phải học cho rành Luật Trời rồi nương theo đó tiến tới.

 

NHỮNG   ĐIỀU   ÍCH   LỢI   VỀ   SỰ   THAM   THIỀN


MỞ   TRÍ      MỞ   TÂM

 

          V.- Tham Thiền có ích lợi ǵ?

          Đ.- Tham Thiền có nhiều điều ích lợi, trước nhất là nó mở Trí và mở Tâm mau lẹ hơn sự tiến hoá b́nh thường, không khác nào người biết vơ nghệ, hay tập thể thao thân h́nh sẽ tráng kiện hơn người không làm chi hết.

          V.- Sao là mở Trí? Sao là mở Tâm?

          Đ.- Học hỏi, suy nghĩ như các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên, các  nhà Bác Học, các nhà Khoa Học, các nhà doanh nghiệp, nói tóm lại, c̣n lo lắng những việc Trần Tục là Tham Thiền mở Trí.

          Tập rèn các tánh nết và Tham Thiền về vấn đề đạo đức là mở Tâm. Các nhà Đạo Đức Tham Thiền để mở Trí và mở Tâm một lượt.

 

VẤN   ĐỀ   THAM   THIỀN

 

          V.- Thưa c̣n đề mục Tham Thiền? Phải lựa chọn cái chi?

          Đ.- Đầu đề Tham Thiền th́ nhiều. Thí dụ như:

          1.- Một câu kinh.

          2.- Một đoạn kệ.

          3.- Một câu Thần chú, Chơn ngôn.

          4.- Một đức tánh.

          5.- Một đoạn văn trong quyển sách Thánh.

          6.- H́nh các Đức Giáo Chủ  như: Đức Phật, Đấng Christ, v.v…

          7.- H́nh Chơn Sư, v.v…

          Tuỳ ư ḿnh chọn lựa.

          Hai câu chuyện điển h́nh về sự Tham Thiền.

          Nếu tôi nhớ không lầm th́ có hai câu chuyện sau đây có thể làm điển  h́nh cho sự Tham Thiền.

 

CÂU   CHUYỆN   THỨ   NHỨT

 

          Một hôm Đức Bà Annie Besant tập trung tư tưởng cho đến đỗi Bà nhăn cặp chân mày lại. Đức Bà Blavatsky nói: “Nầy em! Người ta không phải Tham Thiền bằng cặp chân mày đâu.”

          Ư Bà muốn  nói rằng: Tham Thiền thuộc về phần của Cái Trí chớ không phải thuộc về xác thân nầy.

 

CÂU   CHUYỆN   THỨ   NH̀

 

         

          Bữa nọ, một nữ Đệ Tử của Bà Blavatsky hỏi Bà phải tập trung tư tưởng vào cái chi. Cô nghĩ rằng: Bà sẽ bảo cô tập trung tư tưởng về Đức Thượng Đế hay là Chơn Thần; nhưng Bà Blavatsky lấy cái hộp quẹt ở trên bàn đưa cho cô và bảo: “Em hăy Tham Thiền về cái nầy.” Cô lẳng lặng chờ sự giải thích. Bà mới nói: “Em hăy tập trung tư tưởng vào cái hộp quẹt nầy cho tới khi nào em không biết cái chi trong Vũ Trụ, ngoài cái hộp quẹt và xác thân em, không có cái chi lay chuyển được điều nầy. Rồi tới chừng đó em Tham Thiền về Chơn Thần mới có hiệu quả.”

          Bài nầy có ư nghĩa là Cách Tham Thiền quan trọng hơn vấn đề Tham Thiền.

 

CÁCH   NGỒI   THIỀN

 

 

          V.- Phải ngồi Thiền cách nào?

          Đ.- Ngồi trên ván, sàn nhà, trên ghế đều được, nhưng phải dựa được lưng vào vách th́ tốt; xếp bằng, hay tḥng chân cũng được. Điều cần thiết là ngồi thẳng lưng.

          V.- Tại sao người ta bảo ngồi kiết dà hay bán dà?

          Đ.- Người Ấn có phong tục ngồi kiết dà đă quen, người ḿnh ngồi không quen rất đau chân. Xin nhắc lại: Tham Thiền không phải là luyện xác thân mà là luyện Cái Trí.

 

PHẢI   NGỒI   THONG   THẢ

 

          V.- Tại sao phải ngồi thẳng lưng?

          Đ.- Bởi v́ trong xương sống có Ba đường vận hà, xin gọi là Ba đường gân cho dễ hiểu. Một đường ở bên trái gọi là Y Đa (Ida), một đường ở bên mặt gọi là Banh Ga La (Pingala), một đường ở chính giữa gọi là Sút Hum Na (Sushumna) giống như số 8 viết nằm. Trong lúc tham thiền Luồng Hoả Hầu Kundalini ở lớp vỏ phía ngoài là lớp thứ bảy đi lên trên óc. Chính là nó kết hợp với Khí Nguyên Dương (Force primaire) làm ra từ điện con người. Khí Nguyên Dương là lực sanh tồn do Ngôi Thứ Nh́ của Đức Thái Dương Thượng Đế ban xuống cho các loài. Nhờ lực nầy các loài có sự sống. Nó thuộc về Dương, c̣n Luồng Hoả Hầu thuộc về Âm. Luồng Hoả mà thuộc về Âm là điều chúng ta không hiểu nổi lư do. Nếu ngồi c̣m lưng, Ba đường gân nầy bị trẹo, Luồng Hoả Hầu đi lên khó khăn.

          V́ lẽ nầy nên ngồi thẳng lưng.

          Nhưng cũng có thể nằm trên ghế xích đu, chớ không phải trên ghế dài, mà suy nghĩ.

          V.- Có người bảo: Nằm dài cũng Tham Thiền được, có phải như vậy không?

          Đ.- Tôi e rằng nằm dài mà Tham Thiền, vài phút sau sẽ ngủ thẳng giấc.

 

GIỜ   THAM   THIỀN

 

          V.- Nên Tham Thiền lúc nào?

          Đ.- Trọn ngày có những giờ mà từ điển trên không trung rất tốt là:

          1.- Sớm mai, nửa giờ trước khi mặt trời mọc.

          2.- Đúng ngọ.

          3.- Chiều, nửa giờ sau khi mặt trời lặn.

          Tôi tưởng người Tu Tŕ giữ đúng ba giờ nầy được, c̣n những Cư Sĩ v́ việc sanh sống khó mà thực hành y như vậy.

          Tuy nhiên nên Tham Thiền ba buổi:

          Sớm mai, khi mới thức dậy.

          Trưa, lối 12 giờ 30 sau khi ra sở và về tới nhà.

          Chiều, lối 6 giờ 30.

          Xin nhớ phải Tham Thiền trước khi dùng bữa. Sau khi ăn no chớ nên Tham Thiền mà phải no hơi, v́ thần lực gom lên óc trong lúc Tham Thiền, không c̣n đủ để tiêu hoá đồ ăn.

          Tối, 9 giờ 30 hay là trễ lắm 10 giờ, cũng nên Tham Thiền một lần nữa.

          Nếu trưa không Tham Thiền được th́ nên đọc vài lần câu:

          “Tôi là Atman, Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác, vô sở bất tại. Ḷng từ bi, bác ái của tôi bao la, bát ngát, vô tận, vô biên. Tôi là một với vạn vật. Tôi thương yêu tất cả.”

 

THAM   THIỀN   BAO   LÂU ?

 

          V.- Phải Tham Thiền bao nhiêu phút?

          Đ.- Không nhất định được, đó là tuỳ theo sức khoẻ của mỗi người. Ban sơ, khi mới tập, 5, 6 phút th́ vừa, sau lần lần lên 10 phút, 15 phút, … 30 phút, …

          Nhưng đừng Định Trí cho tới lúc choáng váng mặt mày. Phải ngưng lại liền. Nếu Tham Thiền mà cảm thấy nhức đầu th́ đừng Tham Thiền nữa. Phải nghỉ trong một thời gian, lo uống thuốc dưỡng bộ óc và thần kinh, rồi Tham Thiền lại. Kỳ sau nếu c̣n nhức đầu th́ đừng Tham Thiền nữa, nhưng không phải là bỏ Đạo, không Tu Hành được nữa.

          Hành giả phải bước qua Con Đường Hành Động, gọi là Karma Yoga và Lo Trau Giồi Tâm Tánh.

          Trước hết, bạn phải đọc quyển “Ba Con Đường” (Les 3 Sentiers) của Đức Bà A. Besant luận giải về:

          Con Đường Hành Động.

          Con Đường Trí Huệ, và

          Con Đường Sùng Tín.

          Đă có dịch và đăng trong Ánh Đạo số: 14, 16 và 17. Kế đó, bạn nên xem quyển “Người Phụng Sự” tác giả là Ch. Lazenby, kế đó tuỳ khả năng và phương tiện mà bạn làm những việc Phước Thiện giúp đời với tấm ḷng vị tha, không hề mong mỏi được lợi lộc cho ḿnh, hoặc được ban thưởng kiếp sau.

          Mỗi ngày bạn phải mỗi cầu nguyện cho nhân loại, không phân biệt sắc da, ṇi giống, đảng phái, giai cấp. Bạn phải cầu xin Bốn Biển Thái B́nh, nhà nhà no ấm, dân chúng an cư lạc nghiệp, mưu cầu hạnh phúc cho tất cả, và càng ngày càng tiến hoá cho đến khi được trọn sáng, trọn lành.

          Bạn cũng phải cầu nguyện cho những Linh Hồn đă bỏ xác phàm hiện đang ở Cơi Trung Giới, hoặc Thượng Giới, chưa đi đầu thai. Bạn phải tự ḿnh suy nghĩ rồi đặt ra những câu cầu nguyện và cung hiến, khi lănh hội được ư nghĩa 22 Qui Luật của quyển “Người Phụng Sự.”

          Bạn phải thực hành như thế trong ṿng 2, 30 năm th́ Tâm sẽ trở nên sáng suốt và bạn sẽ lần lần bước tới cửa Đạo.

          Sau đây là Bài Mẫu “Cầu Nguyện Thượng Đế.”

 

KIỂU  MẪU BÀI  “CẦU  NGUYỆN  THƯỢNG  ĐẾ”

         

          Đức Thượng Đế kính mến, con bước vào ṿng hào quang sáng chói của Ngài, con đến quỳ dưới chân Ngài, mang theo công quả hiến dâng nhơn danh Ngài và cho Ngài.

          Con cố gắng trở thành một kẻ phụng sự hữu hiệu, con mở Tâm, mở Trí  con trong quyền lực thương yêu của Ngài; trong quyền lực hân hoan và an lạc của Ngài.

          Dưới chân Ngài, ḷng từ bi của Ngài tràn ngập trọn vẹn thân thể con, ḷng từ bi của Ngài là sự dịu dàng, sự phúc hậu và sự cứu trợ. Vậy con phải dễ thương, hiền đức và sẵn sàng giúp đỡ tất cả mọi người.

          Dưới chân Ngài, sự hân hoan của Ngài thấm  nhuần trọn vẹn thần trí con, sự hân hoan của Ngài là ánh sáng, là hào quang rạng chói, là tuổi thanh xuân bất diệt. Vậy con phải mang sự hân hoan của Ngài đến cho những kẻ đang buồn rầu, thất vọng.

          Dưới chân Ngài, nguồn an lạc của Ngài bao trùm trọn vẹn thân thể con, và làm cho con tràn đầy sự b́nh an, sự vững ḷng, sự nghỉ ngơi thanh tịnh; nguồn an lạc của Ngài vượt cao hơn tất cả mọi sự vui vẻ. Vậy con phải là một trung tâm của t́nh thương, của hân hoan và của an lạc ở dưới thế gian nầy.

          Con đặt bàn tay con trong bàn tay Ngài, với một t́nh thương trọn vẹn, một niềm tin tưởng và một sự tin cậy hoàn toàn, bởi v́ Ngài là Chúa Tể thật sự của con.

          Xin Ngài dắt con từ cơi giả đến cơi chơn, từ chỗ tối tăm đến nơi sáng suốt, từ cơi tử đến cơi Trường Sanh Bất Tử.

          Dưới chân Ngài, và dưới ánh sáng của sự hiện diện thánh thiện nầy, con cố gắng trở về với bản thể chơn thật của con; con không phải là xác thân thuộc về cơi ảo mộng của Thế Gian; con không phải là sự ham muốn đeo đuổi xác thân con, đó chỉ là Cái Vía của con; con không phải là những tư tưởng chứa đầy trí năo con. Con không phải là Cái Trí của con, mà vốn là ánh sáng thiêng liêng ở trong tim con trường tồn bất diệt.

          Ánh Sáng Thiêng Liêng chói sáng rực rỡ như Mặt Trời đúng ngọ, nó tinh khiết như băng tuyết, nó nguyên vẹn không hề nhơ bợn v́ một mảy vật chất nào, nó nhẹ nhàng hơn dĩ thái. Đó là Cái Ngă Chơn Thật của con, Chơn Thần hằng ngự trị trong tim con và con là Chơn Thần đó.

          Thượng Đế và con là một, con thờ phượng Ngài, con tôn kính Ngài; v́ Ngài là đời sống của con, là hơi thở của con, là cái toàn thể, là tất cả.

          Con ở trong Ngài và Ngài ngự trong con. Đức Thượng Đế kính mến, xin dùng t́nh thương vô biên của Ngài đưa con đến sự hợp nhất với Ngài và đến Trung Tâm của t́nh thương bất diệt; trong t́nh thương của Ngài, con an tịnh và nghỉ ngơi măi măi.

          Cầu xin con được như ư nguyện. [16]

Aum Tat Sat !  [17]

 

PHẢI   THAM   THIỀN   LIÊN   TỤC

 

          V.- Tham Thiền bao nhiêu năm có hiệu quả?

          Đ.- Kết quả tới mau hay chậm tuỳ theo công phu kiếp  trước và sự cố gắng kiếp nầy. Dầu sao ta cũng phải nhẫn nại và bền chí. Ta phải Tham Thiền từ ngày  nầy qua ngày kia không gián đoạn. Trong lúc đau ốm không Tham Thiền được bạn nên niệm câu: “Tôi là Atman  . . . . . . . . Tôi thương yêu tất cả.”

          V.- Tại sao phải Tham Thiền liên tục?

          Đ.- Tôi đă giải ở đoạn trước, phải thực hành liên tục, không nên gián đoạn!

          Xin nhắc lại vài lời.

          Mỗi lần ta Tham Thiền một vấn đề nào, ta tạo ra một h́nh tư tưởng về vấn đề đó. Nhưng nên nhớ rằng khi đă có sẵn một h́nh tư tưởng về vấn đề đó rồi mà ta Tham Thiền về vấn đề đó nữa, ta không sanh ra một h́nh tư tưởng mới, mà ta thêm sức mạnh cho h́nh tư tưởng cũ. Nếu mỗi ngày mỗi thực hành như thế th́ h́nh tư tưởng nầy sẽ sống lâu. Nếu ta không tưởng tới vấn đề nầy trong một thời gian, h́nh tư tưởng của nó không có đồ ăn, h́nh tư tưởng sẽ đói, nó sẽ yếu rồi lần lần chết ṃn, không c̣n giúp ích được cho chúng ta nữa.

          V́ lẽ đó mà ta phải Tham Thiền liên tục. Tham Thiền luôn luôn những tánh tốt giúp sanh ra những h́nh tư tưởng mạnh mẽ để che chở ta, bảo hộ ta khỏi bị những tư tưởng xấu tới khuấy rối và xúi giục ta làm quấy. Ta đă không mất tiền mua mà lại c̣n được nhiều lợi ích khác nữa. Có thể gọi những h́nh tư tưởng nầy là những vị Phúc Thần hay là Thần Hộ Mạng.

 

THAM   THIỀN      VẤN   ĐỀ   RIÊNG 
CỦA   MỖI   NGƯỜI

 

          Tham Thiền là vấn đề riêng của mỗi người, những lời trên đây là những gợi ư, chúng nó không khác nào tấm bảng chỉ đường có những đại cương mà không có những chi tiết. Khách lữ hành phải tự ḿnh đi, mới tới nơi, tới chốn, và có những kinh nghiệm đặng bổ túc những chỗ thiếu sót.

          Khi nào ta được làm Đệ Tử Chơn Sư, ngày đó bạn sẽ có cách Tham Thiền riêng: Việc nầy “Khẩu Khẩu Tương Truyền” không nên viết ra trong sách.

          Cũng xin nhắc lại rằng: Xưa nay các vấn đề Đạo Đức đều giải bày một cách tổng quát, có khi cũng dùng những danh từ tượng trưng, nói bóng dáng.

          Phải có “Bí Quyết” mới hiểu được các kinh sách Thánh, cũng như có ch́a khoá mới mở cửa được vậy.

          Thật sự chúng ta mới bắt đầu học Tham Thiền, ngày sau khi bước vào cửa Đạo rồi, kiếp sống của chúng ta là một chuỗi ngày Tham Thiền.

 

PH̉NG   RIÊNG   ĐỂ   THAM   THIỀN

 

          V.- Nên có pḥng riêng để Tham Thiền hay không?

          Đ.- Nên lắm, nếu được một pḥng riêng th́ rất tốt. 

          V.- Phải chưng dọn cách nào?

          Đ.- Nên để một b́nh bông trên bàn, mỗi ngày mỗi thay bông. Thắp nhang trầm, thờ H́nh một Đấng Cao Cả mà ḿnh có chí nguyện làm Đệ Tử, hoặc Đức Phật, Đấng Christ, v.v…

          Nếu muốn treo những bức tranh th́ lựa những bức tranh tuyệt đẹp có tánh cách đạo đức.

          V.- Có  nên cho người ngoài vô pḥng  nầy chăng?

          Đ.- Không nên. Được vô pḥng nầy chỉ là những bạn đồng Đạo biết Tham Thiền như ḿnh.

          V.- Tại sao không cho người ngoài vô?

          Đ.- V́ e những người không biết Đạo họ gieo những tư tưởng không tốt, làm ô uế chỗ trang nghiêm, chớ không phải ḿnh có tánh ích kỷ.

          V.- C̣n như không có pḥng riêng?

          Đ.- Không hại chi cả. Ngồi chỗ nào Tham Thiền cũng được. Những người ở trong rừng núi họ ra gốc cây ngồi Tham Thiền.

 

HUỜN  

 

          Sau khi Tham Thiền, hoặc làm việc mệt mỏi, hay là thức đêm nuôi dưỡng bịnh nhân, v.v… , ta nên để Cái Trí trống không vài phút, đừng tưởng nhớ chi cả, để cho cái óc có dịp nghỉ ngơi và bồi bổ sức lực đă mất.

          Trong Đạo Đức gọi là Huờn Hư. Nhưng Huờn Hư không phải là việc dễ làm. Phải tập lần lần, ban đầu 3, 4 giây; sau 5, 6 giây rồi lần lên 1, 2 phút; 4, 5 phút, v.v…

          Có một phương pháp rất dễ: Đang làm việc, bạn cứ ngưng ngang, đừng suy nghĩ chi cả vài ba giây. Mỗi ngày bạn tập vài lần như vậy cho có thói quen, ngày sau bạn sẽ huờn hư dễ dàng. Huờn hư c̣n nhiều ích lợi khác nữa. Tập được rồi sẽ biết.

          Nên nhớ kỹ: Trong lúc huờn hư mà bạn cảm thấy bị rùn ḿnh như có một Hồn Ma nào muốn nhập vô th́ ngưng liền, bạn đừng tập nữa và nói: “Tôi là Chơn Thần, không ai được nhập vô ḿnh Tôi cả.”

 

BA   GƯƠNG   MẪU   ĐẠI   ĐỊNH

 

          Đức Bà Blavatsky có thuật hai chuyện sau đây:

          1.- Trên một cù lao trong địa phận Calcutta có một Vị Dô Ghi (Yogui) đă ngồi Tham Thiền Nhập Định không biết đă bao nhiêu năm rồi, cho đến đỗi rễ cây quấn chặt tay chân Ông. Người ta liền đem Ông ra ngoài rồi kiếm thế thức tỉnh Ông. Nhưng không biết họ đă hành hạ Ông cách nào mà Ông chết luôn; thật là tội nghiệp!

          2.- Một Vị khác ở gần Allahabad, v́ những lư lẽ riêng biệt, Ông đă ngồi Tham Thiền Nhập Định trên một phiến đá; Ông đă sống như thế trong 53 năm. Mỗi buổi chiều  nào, đệ tử Ông cũng khiêng Ông đi xuống sông, tắm rửa sạch sẽ, rồi họ đem để Ông ngồi trên phiến đá như cũ. Trong lúc ban ngày có khi tỉnh lại Ông nói chuyện và dạy dỗ.

          3.- Tôi c̣n nhớ một câu chuyện nữa rất đỗi thương tâm là một Vị Tu Sĩ đă ngồi Tham Thiền Nhập Định trong rừng. Một tên lính Anh đă bắt gặp và hỏi Ông, thấy Ông trơ trơ không nói chi hết, có lẽ y lầm tưởng Ông khinh khi y, y liền giết Ông. Chuyện nầy giống hệt như trường hợp của Ông Archimède đă bị một tên lính La Mă đâm chết khi thành Syracuse thất thủ. Bởi v́ tên lính nầy thấy Ông không đáp lại câu hỏi của y. Trong lúc đó Ông Archimède đang suy nghĩ sâu xa về một vấn đề, Ông nào có nghe chi đâu mà trả lời.

          Tôi tưởng cũng phải nói thêm rằng: Sau khi Đại Định trong một thời gian 4, 5 ngày rồi Hồn trở về nhập xác tỉnh lại, hành giả không biết thèm ăn như người thường đă nhịn đói một vài hôm. Đây là một điều không phải dễ mà cắt nghĩa được lư do. Tại sao trong lúc Đại Định 4, 5 ngày không ăn chi hết mà lại không đói, không khát, rồi chừng tỉnh lại cũng không thèm ăn. Hành giả vẫn khoẻ mạnh, chớ không phải là người đau yếu, liệt nhược.

          Tại sao ngồi Tham Thiền ngoài Trời chịu nắng mưa, sương gió mà vẫn trơ trơ, không đau ốm, bịnh hoạn chi cả; nhất là ở bên Ấn Độ Trời nóng bức, nhiệt độ lên rất cao, không như xứ ḿnh vậy.

          Người thường ngồi như hai Vị Dô Ghi trên đây trong ṿng một tuần lễ đă chết mất, v́ bị cảm nắng, cảm lạnh, và đói khát. Thây họ đă tan ră, làm sao giữ được cho tới lúc rễ cây quấn cùng ḿnh hay là tới 53 năm sau, mà cũng mạnh khoẻ.

          Vẫn c̣n hoàn toàn bí mật. Không biết sao mà luận giải cho đúng với sự thật.

         


CHƯƠNG   THỨ  


SỰ  TIẾN  HOÁ  CỦA  NHÂN  LOẠI
  NHẮM  VÀO  MỤC  ĐÍCH  NÀO ?

 

          V.- Sự tiến hoá của nhân loại nhắm vào mục đích nào?

          Đ.- Sự tiến hoá của nhân loại nhắm vào sự phát triển Tâm Linh, sự mở mang Tâm Tánh.

          V.- C̣n việc mở mang Trí Hoá?

          Đ.- Mở mang Trí Hoá và Trau Giồi Tâm Tánh cho thật tốt phải đi đôi với nhau; Tâm Trí điều hoà mới tiến mau.

          Nếu chỉ lo mở Trí thông minh mà không cần tới Tánh T́nh, e cho một khi thành tài, sẽ gây ra cho đời nhiều tai hại, và v́ đó sẽ tạo nên Nghiệp Chướng buộc trói ḿnh vào bánh xe Luân Hồi; kiếp sau phải đầu thai lại chịu nhiều đau khổ để đền tội, nhất là không c̣n được thông minh như kiếp trước nữa.

          Trái lại, nếu chỉ có ḷng mộ Đạo mà trí hoá chưa mở mang, chưa phân biện được cái  nào tà, cái nào chánh, cái nào phải, cái nào quấy, cái nào thanh cao, cái nào thấp hèn, ai nói ǵ, tin nấy th́ sẽ thành ra mê tín, dị đoan. Có khi đi tới chỗ cuồng tín lại càng hết sức nguy hiểm hơn nữa.

          Về hai phương diện, Tài và Đức, Tâm và Trí nầy, thiếu một không được, v́ mất thăng bằng.

          Tuy nhiên, quí bạn cần nên biết rằng: Trên Thiên Đ́nh, xưa nay, vẫn trọng Đức Hạnh hơn Tài Trí.

          Luôn luôn người có đức hạnh có thể học hỏi mau thông, trở nên sáng suốt và tuân theo Thiên Mạng.

          Trái lại, người tài cao, học rộng mà say mê vật chất, khó sửa đổi tâm tánh thành ra tốt đẹp, v́ y không sợ Trời Đất, Thánh Thần chi cả.

          Bạn học hỏi trong ṿng 16 năm, bạn có thể lấy được bằng Cử Nhơn, mà cũng trong thời gian 16 năm nầy, bạn rất khó mà đào luyện tánh t́nh tốt đẹp để trở thành một Vị Thiện Nhân.

          Ngày nay, có những biến cố lớn lao, người ta càng thấy rơ ràng Đức Hạnh đáng quí trọng hơn hết.

          Nhân đây, tôi xin nhắc lại những điều tôi đă giải thích trong mấy quyển trước của tôi đă viết ra cho bạn nghe về:

 

MỤC  ĐÍCH  ĐỊNH  SẴN  CHO  CON  NGƯỜI  TRONG    TRỤ  NẦY

 

          Mục Đích định sẵn cho con người trong Vũ Trụ nầy là: Trở nên trọn sáng, trọn lành; nghĩa là tới một ngày kia Con Người sẽ thành một Vị Siêu Phàm, không c̣n cái chi học hỏi trong Vũ Trụ nầy nữa.

          Con Người phải trải qua không biết mấy muôn kiếp Luân Hồi, và y phải đầu thai nhiều lần mới mong đạt được Mục Đích ấy. Đó là đường Tiến Hoá b́nh thường.

          C̣n một đường vắn tắt hơn nhiều, ấy là Con Đường Đạo. Khi bước vào Cửa Đạo và được 5 lần Điểm Đạo sẽ thành một Vị Siêu Phàm.

          Muốn bước vào Cửa Đạo bạn cần phải có đủ những đức tánh đă kể ra trong mấy quyển:

          1.- Dưới Chân Thầy.

          2.- Ánh Sáng trên Đường Đạo.

          3.- Con Đường của người Đệ Tử.

          Mỗi đức tánh ít ra cũng phải đạt mức trung b́nh mới được Điểm Đạo lần thứ Nhứt và bước vào Cửa Đạo.

          Vị được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, Phật Giáo gọi là Sôtapanna hoặc Shrotapatti, Tu Đà Huờn. Ấn Giáo gọi là Parivrajaka, nghĩa là Người Đi Ta Bà, Vô Trú.

          Vị Tu Đà Huờn c̣n phải chặt đứt 10 Chướng Ngại (Samyojana) sau nầy mới được giải thoát.

          Theo quyển “Con Đường của Người Đệ Tử” như vầy:

          1- Ảo tưởng về Bản Ngă.

          2- Hoài nghi hay mơ hồ.

          3- Tin dị đoan.

          4- Dục vọng Hồng Trần.

          5- Oán ghét.

          6- Ư muốn có một đời sống sắc tướng.

          7- Ư muốn có một đời sống vô sắc tướng.

          8- Kiêu hănh.

          9- C̣n có thể bị một việc làm cho chinh ḷng.

         10- Vô minh.

          (Có chỗ dịch khác hơn nhưng cũng một nghĩa.)

          Vị Tu Đà Huờn phải chặt đứt 3 chướng ngại đầu tiên mới được hai lần Điểm Đạo làm Vị Tư Đà Hàm (Sakridagamin) theo Phật Giáo, hay là Koutichaka (Người đă dựng lên một túp lều) theo Ấn Giáo.

          Trong kiếp ở quả vị Tư Đà Hàm th́ Vị Tư Đà Hàm không có chướng ngại nào cần phải chặt đứt; song Y phải mở vài năng khiếu Thần Thông.

          Khi được 3 lần Điểm Đạo trở thành một vị A Na Hàm (Anagamin) theo Phật Giáo, hay là Con Hạc (Hamsa) theo Ấn Giáo.

          Vị A Na Hàm chặt được hai chướng ngại thứ tư và thứ năm rồi trở thành một vị La Hán (Arhat) được 4 lần Điểm Đạo theo Phật Giáo, hay là Đại Thiên Hạc (Parahamsa) theo Ấn Giáo.

          Vị La Hán phải chặt đứt 5 chướng ngại chót mới được làm một vị Siêu Phàm được 5 lần Điểm Đạo, theo Phật Giáo là A Sơ Ca (Aseka), nghĩa là không c̣n làm Đệ Tử nữa, theo Ấn Giáo là Jivanmoukta, hoặc Atila.

          V.- Phải tu bao lâu mới được làm một vị Siêu Phàm?

          Đ.- Khi được Điểm Đạo lần thứ nhứt, vị Tu Đà Huờn thường thường phải tu hành trong 7 kiếp mới lên tới địa vị La Hán.

          Vị La Hán phải tu trong 7 kiếp nữa mới được làm một vị Siêu Phàm (A Sơ Ca).

          Đây là nói bực trung, cũng có thể thâu ngắn thời gian đó lại. Vị Tu Đà Huờn tu trong 7, 8 kiếp hoặc 9, 10 kiếp được làm một vị Siêu Phàm.

          Và xin nhớ rằng: Khi mới bắt đầu tu th́ ít nữa là 7, 8 hay 9,10 kiếp mới được làm Đệ Tử Chơn Sư và được Điểm Đạo lần thứ Nhứt.

          Nói tóm lại, từ khi mới bắt đầu học Đạo cho tới khi được Đắc Đạo thành Chánh Quả, bạn phải trải qua từ 21 tới 25, 30 kiếp Luân Hồi, nếu bạn cố gắng tu hành và đi trúng đường. C̣n như bạn không đi trúng đường th́ không định được là bao lâu.

 

HỌC   GIÁN   TIẾP      HỌC   TRỰC   TIẾP

 

          V.- Thưa tại sao bước vào Cửa Đạo ta lại được tiến hoá mau?

          Đ.- Là nhờ những vị ấy học Trực Tiếp, chớ không phải học Gián Tiếp như chúng ta hiện giờ.

          Chúng ta học từ những h́nh thể nầy tới những h́nh thể kia. Nhưng chúng ta chỉ xem xét bên ngoài của H́nh Thể và c̣n thiếu sót rất nhiều.

          C̣n các vị ấy học Sự Sống ở trong các H́nh Thể. Chính là Sự Sống tạo ra những cơ quan của h́nh thể.

          Các Ngài tuỳ theo cấp bực, dùng những quan năng gọi là Thần Nhăn, Thiên Nhăn và Huệ Nhăn học sự sanh hoá những nguyên tử, kết hợp những nguyên tử để làm một cơ quan.

          Các Ngài làm một cái hột, gieo xuống đất, mọc lên cây rồi trổ bông, sanh trái hay là làm ra một cái trứng gà, đem ấp sẽ nở ra gà con.

          Thế nên, sau khi được 5 lần Điểm Đạo sẽ được quyền dự phần vào việc Sanh Hoá một Dăy Hành Tinh.

          Nếu ai chịu suy nghĩ sẽ thấy sự cấu tạo thân thể con người là một bộ máy vô cùng kỳ diệu, chỉ có Thợ Trời mới làm được mà thôi.

          Xin đặt ra đây câu hỏi: Tại sao một Tinh Trùng và một Noản Châu (Cái Trứng) hợp nhau lại, mà thành ra một người có đủ mặt mũi, tay chân, tóc tai, xương thịt, tim phổi, ruột gan, nam hay nữ, xấu xa hay đẹp đẽ, khôn ngoan hay đần độn, yếu đuối hay khoẻ mạnh.

          Tại sao đúng ngày giờ bào thai lại lọt ra khỏi ḷng mẹ, không ở trong bụng nữa? Tại sao lại có người bị tật nguyền từ trong bào thai, trong khi cha mẹ không bị tật nguyền? Tại sao lại có da đen, da đỏ, da vàng, da trắng?

          Vấn đề nầy thuộc về Vật Chất và Tinh Thần một lượt.

          Nếu dựa theo hoàn toàn Vật Chất mà giải thích, tôi nghĩ rằng đúng chưa được phân nửa. Chúng ta quan sát và học hỏi những hiện tượng, c̣n những nguyên nhân sanh ra những hiện tượng, chúng ta không thấy và cũng không hiểu, v́ chúng nó không thuộc về Cơi Trần nầy.

          Chúng ta bây giờ t́m học những ǵ mà Hoá Công đă tạo ra sẵn, không biết đúng là bao nhiêu tỷ năm trước rồi.

          Vậy chúng ta nên khiêm tốn một chút. Chúng ta phải tuân theo Luật Trời, chớ Luật Trời không tự sửa đổi tuỳ theo ư muốn của chúng ta. Chúng ta học hỏi Luật Trời từ thế hệ nầy qua thế hệ kia, sẽ khám phá được vài sự bí mật của Tạo Công, nhưng cũng chưa chắc là hoàn toàn thật đúng.

          V.- Thần Nhăn là ǵ? C̣n Thiên Nhăn, Huệ Nhăn?

          Đ.- Theo nghĩa đen: Thần Nhăn là con mắt Thần, nó soi thấu ḷng dạ của Con Người.

          Thần Nhăn mà tôi nói đây là sự thấy Cơi Trung Giới.

          Trong Cái Vía có một Luân Xa ở chính giữa hai lông mày. Khi Luân Xa nầy hoạt động th́ con người thấy được Cơi Trung Giới, t́nh cảm và ư muốn của con người. Nhờ Thần Nhăn con người mới học hỏi dễ dàng ở Cơi Trung Giới.

          V.- Thần Nhăn có phải là con mắt của Cái Vía không?

          Đ.- Thật sự Thần Nhăn không phải là con mắt của Cái Vía, bởi v́ Cái Vía không có con mắt. Mở Thần Nhăn rồi, không phải chỉ thấy những vật ở trước mặt như con mắt của xác thân mà thôi; mà ta c̣n thấy được những vật ở trên đầu, ở dưới chân, ở bên hông, ở sau lưng; bởi v́ chất khí làm Cái Vía chạy từ đầu xuống chân rồi từ chân chạy trở lên đầu, liền liền không ngớt. Bởi vậy trong Cái Vía chỗ nào cũng thấy được và chỗ nào cũng nghe được cả.

          Thiên Nhăn là sự thấy Cơi Thượng Giới. Có Thiên Nhăn bạn sẽ học hỏi Cơi Thượng Giới mới dễ dàng.

          Huệ Nhăn, Phật Nhăn xin nói chung là sự thấy từ Cơi Bồ Đề cho tới Cơi Niết Bàn, Đại Niết Bàn và Tối Đại Niết Bàn.

          Mở được Huệ Nhăn và Phật Nhăn bạn có thể học hỏi bốn Cơi nầy được.

          Đây là học hỏi Trực Tiếp, thấy được cách Hành Động của Luật Trời và sự làm việc của các Thiên Thần trong khi tạo ra những H́nh Thể.

          Chúng ta c̣n tai phàm, mắt thịt chưa dùng được những quan năng cao siêu nầy, cho nên sự học hỏi c̣n Gián Tiếp và một cách bất toàn.

          Nói tóm lại, chỉ trong Cửa Đạo mới có Khoa Bí Truyền dạy rành rẽ lư do sanh hoá Thái Dương Hệ nầy và cách sanh hoá muôn loài vạn vật mà thôi.

          V.- Tại sao biết được hai điều đó?

          Đ.- Bởi v́ những Vị đă dự vào sự sanh hoá Thái Dương Hệ nầy đem Khoa Bí Truyền dạy lại các Đệ Tử. Những Vị nầy sau Đắc Đạo và thành những Vị Phụ Tá Thiên Cơ. Các Ngài đào tạo lại các Đệ Tử từ thế hệ nầy qua thế hệ khác không bao giờ dứt. Ngày sau dầu Dăy Hành Tinh nầy tan ră, Khoa Bí Truyền cũng vẫn c̣n.

          V.- Tại sao không đem Khoa Bí Truyền dạy công khai?

          Đ.- V́ hai lư do chánh:

          1.- Phần lớn nhơn loại chưa đủ sức học Khoa nầy, như những bài của Đại Học không thể đem giảng cho những học sinh Lớp Nhứt, Lớp Nh́, hầu hết không hiểu ǵ hết.

          2.- Trong Đường Đạo có cách luyện tập mở những quyền năng siêu việt. Nếu hạnh kiểm không tốt mà sử dụng được những quyền năng nầy ắt sẽ hại đời chẳng nhỏ. V́ thế Tiên, Thánh rất gắt gao trong sự chọn lựa các Đệ Tử. Không đủ điều kiện của Luật Trời qui định th́ không thể được thâu nhận, dầu đi đến đỉnh Hy Mă Lạp Sơn hay là các Vùng Cao Nguyên Tây Tạng cũng hoài công, vô ích. Không bao giờ gặp được Chơn Sư khi tấm ḷng ḿnh chưa được trong sạch.

          Xin nhắc lại, những biến cố mới xảy ra chứng minh câu:

          Đức thắng tài vi Quân Tử,

          Tài thắng đức vi Tiểu Nhơn.

          Ở thời đại nào cũng vẫn đúng.

          Nguy hiểm đáng sợ là những quyền năng nầy vô h́nh, không ai thấy, không ai kiểm soát được, chúng hại người mà không ai bắt tội được kẻ phạm pháp v́ không có bằng chứng cụ thể. Mấy anh Bàng Môn Tả Đạo chỉ dùng được có một phần nhỏ của quyền năng nầy mà giết người dễ như đập một con muỗi.

          V.- Khoa Học đời nay không biết những lực nầy sao?

          Đ.- Khoa Học ngày nay c̣n trẻ trung, mới có phát triển lối 200 năm nay và c̣n đang t́m kiếm trong ṿng Vật Chất. Các nhà Bác Học chưa tin có những Đấng Thiêng Liêng như Trời, Phật, Thánh, Thần hay là Luật Luân Hồi, Nhân Quả. Họ cứ đinh ninh rằng Xác Thân nầy là Con Người, thác rồi th́ sẽ tan ra tro bụi, không c̣n chi hết.

          Nhưng thật sự chung quanh ta c̣n những Cơi Trời khác hơn Cơi Trần. Mỗi Cơi đều có những Luật riêng chi phối. Cơi nào Luật nấy. Những hiện tượng ở Cơi khác hiện ra ở Cơi Trần không thế nào lấy Luật Vật Lư ở  Cơi Trần giải thích cho đúng với sự thật.

          Thí dụ như: Ma hiện h́nh là chuyện có thật một trăm phần trăm, tôi xin thuật ba chuyện Ma hiện ra sau đây:

 

CHUYỆN   THỨ   NHỨT


HỒN  MA    KATIE  KING  VỚI  NHÀ  BÁC  HỌC  WILLIAM  CROOKES

 

          Hồn Ma cô Katie King hiện ra tại Anh Quốc ngày 22-4-1872. Cốt Đồng là cô Florence Cook. Nhà Bác Học Anh là ông William Crookes dùng nhiều cách thí nghiệm cô Katie King coi cô có phải thật là Hồn Ma hay là cô đồng Cook giả mạo. Ông cặp tay cô Katie King, bắt mạch cô, chụp h́nh cô, và xin cô nhúng 10 đầu ngón tay vào chất Anilline, v.v… Dự vào cuộc Chiêu Hồn và thí nghiệm có nhiều nhà Bác Học và Khoa Học trứ danh như quí ông: Warley, Aksakop, Sayn Vittgenstein, Gully, Sexton, Tapp, Harrisson, Henri Dunphy, Luxmoore.

          Cả thảy đều công nhận cô Katie King quả thật là Hồn Ma hiện ra.

 

CHUYỆN   THỨ   NH̀


TÂN   GIA   BA (AFP) :  HỒN   MA   30   THUỶ   THỦ   NHẬT   THƯỜNG   HIỆN   VỀ   GÂY   RẮC   RỐI   LUÔN

 

          Ông Lee Ah Yong, nhà thầu lấy sắt vụn tàu ch́m tuyên bố rằng những công việc của hăng thầu ông bị chậm trễ, và ông phải tổn thất 200.000 Mỹ Kim, v́ Hồn Ma của 30 thuỷ thủ thuộc chiếc tàu ông đương tháo gỡ thường hiện về ám ảnh và gây rắc rối. Chiếc tàu đó là Tuần Dương Hạm Nhật “Shrotoka Maru” bị Mỹ đánh ch́m trong eo biển Johore năm 1945.

          (Báo Dân Nguyện 06-12-1958).

 

CHUYỆN   THỨ   BA

MA  HIỆN    TRƯỜNG  QUỐC  HỌC  HUẾ,  ĐỐT  MÙNG  MỀN  CỦA  ÔNG  TỔNG GIÁM  THỊ  NGÀY   21-12-1958

(Báo Tin Mới 26-01-1959)

 

 

          Không ai dám nói rằng Ông William Crookes tin dị đoan hay là ông bị ảo tưởng ám ảnh; c̣n hai chuyện kế đó là của người ta bịa đặt.

          C̣n rất nhiều việc xảy ra mà Khoa Học cắt nghĩa không được như: Những vị Thần Đồng xưa và nay, và những người nhớ chuyện kiếp trước, chuyện tấm dầu sôi, đi hoả than, cho phép người ta chôn sống ḿnh vài tháng trong ḥm, sau khi mở ḥm ra vẫn sống, v.v…

          Tôi xin kể chuyện một vị Thần Đồng đời nay là cậu bé Kim Ung Young sanh tại Hán Thành ngày 7-3-1963, có thuật trong Thế Giới Tự Do số 10, Tập XV:

          “Mới có 3 tuổi mà cậu nói rành Anh Ngữ, Đức Ngữ cũng như tiếng Triều Tiên là tiếng mẹ đẻ; cậu biết làm thi, biết vẽ, biết làm những bài Vi Phân Toán và Tích Phân Toán một cách dễ dàng.”

          Nếu ta nói: “Phải học mới giỏi” th́ xin hỏi: Cậu học với ai? Cậu học hồi ở trong bụng mẹ phải chăng? Không tin có Luật Luân Hồi Nhân Quả làm sao cắt nghĩa được trường hợp nầy?

          Nhưng có một điều lạ lùng không biết làm sao giải thích được là:

          Những vị Thần Đồng chỉ nhớ lại học thức của ḿnh mà thôi, nhưng lại quên hẳn kiếp trước ḿnh là đàn ông hay đàn bà, sanh trưởng tại đâu, tên chi và gia thất thế nào?

          V́ lư do nào? Không ai hiểu.

          Tại sao chỉ nhớ có một phương diện mà thôi?

          Ấy là một góc màn vô minh mới vén lên để cho Con Người thấy, rồi ta suy nghĩ về sự tiến hoá của Nhân Loại.

          C̣n hằng hà sa số những sự bí mật khác của Tạo Công mà Thiên Đ́nh sẽ lần lượt cho tiết lộ khi ngày, giờ đến với chúng ta.

          Ngay bây giờ, muốn hiểu được một ít về Cơ Trời ta cần phải lo rửa ḷng phàm cho thật sạch.

          Tuy nhiên nên nhớ rằng: Tŕ Giới vẫn là thụ động, mặc dầu Tŕ Giới rất tốt và rất cần thiết.

          Nếu chỉ lo cho ḿnh được trong sạch mà ta không chú ư đến những người chân c̣n mang nặng bùn dơ, và ta xa lánh họ th́ ta c̣n tánh ích kỷ, chia rẽ; sẽ sanh ra thói kiêu hănh rồi ta sẽ bị vấp ngă.

          Hăy xem gương những biển giá trên Hi Mă Lạp Sơn, Mặt Trời chiếu vào hiện ra một bức tranh tuyệt đẹp, phô bày diễm sắc, ai ai xem thấy cũng muốn nh́n và trầm trồ khen ngợi. Nhưng ít có người dám lại gần, v́ chúng rất lạnh lẽo, không sưởi ấm được ḷng người đau khổ, thất vọng.

          Thế nên, Hành Giả phải thụ động và hoạt động một lượt. Phải thương yêu, phải cứu giúp, phải tương trợ, phải bố thí, phải hy sinh, phải vui vẻ, phải sốt sắng; hành động tuỳ phương tiện, tuỳ khả năng, hầu nâng đỡ đôi chút Nghiệp Quả nặng nề của Trần Gian.

          Được như thế, trong một thời gian sau, Tâm Trí sẽ lần lần trở nên sáng suốt hơn trước và sẽ có những Bậc Cao Minh chỉ dạy thêm. Đây là do Luật Nhân Quả chớ Thiên Đ́nh không hề tư vị một ai.

 

PHƯƠNG  PHÁP  NGĂN  NGỪA  TÁNH  NÓNG  NẢY    DỤC  T̀NH

 

          V.- Có hai tánh đáng sợ nhất, v́ chúng nó nhiễm nhơn loại từ xưa đến nay, ấy là: Tánh nóng giận và dục t́nh. Có phương pháp nào ngăn ngừa chúng nó hay không?

          Đ.- Có, nhưng phương pháp nào cũng vậy. Phải dày công luyện tập cho đúng mức mới có hiệu quả tốt. Nếu không tiếp tục th́ sẽ không thấy kết quả.

 

PHƯƠNG  PHÁP  NGĂN  NGỪA  TÁNH  NÓNG  GIẬN

 

          Tất cả chúng ta đều nóng nảy, không nhiều, th́ ít. Khi biết Đạo rồi tập tánh Từ Bi, Kiên Nhẫn và Khoan Dung, tánh nóng giận càng ngày càng bị tiêu diệt lần lần.

          Những người chưa luyện tập được, nên thực hành phương pháp sau:

          Sớm mai, sau khi thức dậy, rửa mặt xong rồi, đọc thầm 3 lần câu:

          “Tôi là Atman, Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác, vô sở bất tại. Ḷng từ bi, bác ái của tôi bao la, bát ngát, vô tận, vô biên. Tôi là một với vạn vật. Tôi thương yêu tất cả.”

          Rồi tưởng tượng như vầy:

          Một người kia tới  nói với ḿnh một cách hết sức nặng nề, dùng toàn lời thô lỗ, cộc cằn.

          Ḿnh cứ làm thinh, để cho anh nói. Ḿnh tự nghĩ: Luôn luôn tôi vẫn từ bi, kiên nhẫn và khoan dung. Tôi không làm mích ḷng anh; có lẽ anh bị một chuyện chi bực ḿnh, hoặc một người nào đó chọc tức anh, anh buồn bực; bây giờ anh gặp ḿnh, anh trút đổ sự phiền hà lên vai ḿnh. Tội nghiệp cho anh, anh mất b́nh tĩnh, anh không c̣n tự chủ nữa, anh gây ra những Quả không lành tới một ngày kia anh phải trả. Vậy ḿnh phải giúp anh: Ḿnh trả lời với anh một cách vui vẻ, ngọt ngào anh sẽ bớt giận, dịu giọng lại. Rồi ḿnh mời anh ngồi xuống chuyện tṛ với ḿnh. Ḿnh chúc phước lành cho anh, tự nhiên anh hối tiếc thái độ của anh khi năy.

          Bao nhiêu đây cũng đủ.

          V.- Thường thường phản ứng đầu tiên của chúng ta là nổi nóng.

          Đ.- Đúng vậy, nhưng xin bạn nhớ rằng: Sự nóng giận là sự điên cuồng. Người nóng giận là người điên, việc ǵ cũng dám làm, miễn sao đă cơn giận thôi. Chừng nguôi ngoai xong mới lo gỡ rối. Có khi phải hối hận trọn đời.

          Ḿnh đă biết người nóng giận là người điên cuồng mà ḿnh c̣n nóng giận th́ ḿnh cũng điên cuồng như họ vậy. Người nóng giận giống như một ngọn lửa nhỏ phát cháy. Hai người nóng giận đến gần nhau lại thành ra một ngọn lửa to, có thể gây ra một trận hoả hoạn, ḿnh phải lập tức dập tắt lửa.

          Muốn tắt lửa, ta phải dùng nước. Trong Đạo Đức dạy rằng: Sự nóng giận và sự thù hận gây ra những rung động mạnh bạo làm xáo trộn Cái Vía một cách dữ dội. Chúng lại truyền nhiễm. Khi chúng gặp Cái Vía nào ở gần một bên, chúng kích thích Cái Vía đó, làm cho Cái Vía nầy rung động như nó vậy.

          Thế nên:

          Sự nóng giận khêu gợi sự nóng giận,

          Ḷng thù hận làm nảy sanh ḷng thù hận.

          V́ mấy lẽ trên đây khi ta gặp người nóng giận hay hung dữ ta liền phải nói trong ḷng: “Tôi từ bi, tôi kiên nhẫn, tôi khoan dung,” những rung động của sự nóng nảy, hung dữ vừa tới ta sẽ bị những sự rung động của ba tánh tốt trên đây đánh bật ra ngoài. Chúng không cảm nhiễm ta được, bởi v́, những tánh tốt tuỳ theo thứ, sanh ra những hiệu quả mạnh hơn cả trăm hay cả ngàn lần hiệu quả những tánh xấu, bất cứ ở tŕnh độ nào.

          Biết được lư do nầy mới hiểu những lời  của Đức Phật và các Đức Giáo Chủ đă dạy: “Lấy Ân đáp Oán, cái Oán mới tiêu. Lấy Oán đáp Oán, cái Oán không dứt.”

          Xin Huynh nhớ hai câu nầy:

          “Tánh dữ không dằn sao khỏi hoạ,

          Nội trong giây phút mất Thiên Đường.”

 

DẰN  TÁNH  NÓNG  GIẬN  CÁCH  NÀO ?

 

          Trong lúc ta nóng giận th́ dằn xuống hay là nói: “Tôi không nóng giận. Tôi không nóng giận.” Trong 5 phút như vậy ta đă không hết nóng giận mà lại c̣n thấy mỏi mệt nữa. Tại sao vậy? Bởi v́ hai chữ nóng giận c̣n đó, th́ tư tưởng nóng giận c̣n bám chặt vào Trí ta. Trái lại, nếu ta nói: “ Tôi vui vẻ, ôn hoà” vài lần như vậy ta sẽ thấy cơn nóng giận hạ xuống và lần lần ta sẽ thấy trong ḷng b́nh yên như trước.

          Tư tưởng nóng giận bị tư tưởng vui vẻ và ôn hoà thay thế vào Trí ta.

          Đừng quên rằng: Những tư tưởng xấu nào cũng bị những tư tưởng tốt đối lập đuổi ra khỏi Cái Trí rất mau lẹ, nếu ta cương quyết chú ư vào tư tưởng tốt đó măi.

          Có người bảo, lúc nóng giận đi uống nước hay là kiếm việc làm th́ hết nóng giận. Đúng vậy, bởi v́ làm  như thế là xoay ư nghĩ về hướng khác, nhưng đây chỉ là phương pháp tạm thời, trị cái ngọn chớ không trị được gốc rễ của sự nóng giận.

          Một lần khác, con người cũng nổi nóng như thường và dầu cho đi uống nước 100 lần đi nữa cũng không trừ tuyệt được tánh nóng giận.

 

CHUYỆN  ÍT  XÍT  RA  NHIỀU

 

          Tôi đă thấy rất nhiều chuyện trẻ con gây lộn với nhau. Cha mẹ hai bên nên la át chúng nó, v́ con nít thường hay nghịch ngợm và giành giựt đồ chơi với nhau. Thay v́ kéo con về, cha mẹ hai bên binh con lời qua, tiếng lại, có khi đi đến đánh lộn và thậm chí đâm chém nhau nữa.

          Rốt cuộc hai bên phải đến C̣ Bót, Toà Án. Đă tốn hao tiền bạc, mất ngày, giờ mà c̣n có thể sanh ra chuyện thù oán không biết chừng nào mới chấm dứt, v́ nó có thể kéo dài tới kiếp sau, từ đời nầy qua đời khác.

          Chuyện nhỏ như mũi kim, ta giải quyết dễ trong nháy mắt, mà ta lại làm ra to như trái núi. V́ không có ḷng dung thứ, không thường niệm chữ nhẫn; cho nên trong một phút nóng nảy không dằn được mà con người gây ra những điều mà khi b́nh tĩnh, nguôi ngoai rồi, sẽ vô cùng hối tiếc; nhưng chuyện cũng đă  rồi.

          Sách xưa có câu:

          Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ, oan gia tùng thử tận,

          Nhiêu, nhiêu, nhiêu,[18] thiên tai, vạn hoạ, nhất thời tiêu.

          Trong cuốn Quan Âm Thị Kính có câu:

“Chữ rằng: Nhẫn nhục niệm hoà,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chơn tu.”

Tục rằng:  

“Một câu nhịn, chín câu lành,

Huống chi trăm nhịn, thái b́nh biết bao.”

          Đúng vậy. Trên cơi đời nầy, nếu mỗi người đă cố gắng giữ 5 thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, mỗi đức tánh 4, 5 phần 10 thôi, không trông mong tới 7, 8 phần 10, những sự đau khổ của nhân loại chắc chắn sẽ giảm bớt tới 7, 80  phần 100.

          Chỉ v́ ḷng tham quá lớn mà con người gây ra những việc long Trời, lở đất, tang tóc, đau thương. Nếu kéo dài như thế măi từ thế hệ nầy qua thế hệ kia, không biết tới chừng nào ta thấy được cảnh Thiên Đàng tại Thế, mà Cơi Trần đă biến thành Địa Ngục.

          Nên, hư cũng chỉ tại ḷng người.

 

PHƯƠNG  PHÁP  NGĂN  NGỪA  T̀NH  DỤC

 

          Ngũ quan: Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, tay đụng chạm, miệng thốt ra lời và trí tưởng tượng đều sanh ra Dục T́nh.

          Phải chận đứng chúng nó, trước khi nó hoạt động mới có hiệu quả tốt. Đừng quên rằng: Một khi Dục T́nh sôi nổi, con người khó cưỡng lại được. Lúc đó không khác nào đứng trước miệng cọp hay miệng cá mập khó bề thoát khỏi.

          Phải giữ ǵn và thận trọng từng chút. Đừng cười người sa ngă, v́ một thời gian sau ḿnh sẽ té nặng hơn người ḿnh cười, đúng với câu:

          “Cười người chớ khá cười lâu,

          Cười người tháng trước, tháng sau người cười.”

          Phải thực hành hai phương pháp sau đây:

 

PHƯƠNG  PHÁP  THỨ  NHỨT

 

          Mỗi ngày: Sáng sớm khi mới thức dậy, trưa trước khi dùng bữa, tối trước khi ngủ, nói trong ḷng:

          “Tôi là Chơn Thần Ắt Măn (Atman) hoàn toàn tinh tấn và tinh khiết.

          Đầu óc tôi tinh khiết. Mắt tôi tinh khiết. Mũi tôi tinh khiết. Tai tôi tinh khiết. Miệng tôi tinh khiết. Thân ḿnh tôi tinh khiết.”

          Khi nói câu: “Đầu óc tôi tinh khiết” th́ tưởng ngay đầu óc ḿnh, khi nói: “Mắt tôi tinh khiết” th́ tưởng ngay con mắt ḿnh, v.v…

          Đọc 7 lần câu nầy; ngoài ra mỗi giờ đọc câu nầy 1, 2 lần. Ban đầu th́ có khi quên, sau có thói quen th́ nhớ măi.

 

PHƯƠNG  PHÁP  THỨ  NH̀

 

          Bất luận khi gặp ai, lớn, nhỏ, nam hay nữ, hăy nói trong ḷng:

          “Ông, hoặc Bà, hoặc Anh, hoặc Chị, hay Em là: Ắt Măn (Atman), Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác.

          Cầu xin ân lành của Sư Phụ và Đức Mẹ ban xuống cho Ông, hoặc Bà, hoặc Anh, hoặc Chị, hay Em, luôn luôn sáng suốt và tinh tấn để phụng sự.”

          Hai phương pháp nầy đi đôi với nhau. Chúng nó rất hiệu nghiệm, ngăn ngừa được sự Nóng  Nảy và Dục T́nh. Từ xưa đến nay đă giúp được nhiều người thoát khỏi lưới của Dục T́nh và luôn luôn vui vẻ, ôn hoà.

 

NHỮNG  ĐIỀU  HỮU  ÍCH  CỦA  SỰ  LUYỆN  TẬP  TÁNH  T̀NH

 

          Tôi  xin giải nghĩa một lần nữa những điều hữu ích của sự luyện tập tánh t́nh.

          Chúng ta biết rằng: 4 Thể: Thân, Phách, Vía, Trí của con người đều do những nguyên tử cấu thành.

          Xác Thân và Cái Phách làm bằng những nguyên tử Hồng Trần.

          Cái Vía làm bằng những nguyên tử của chất Thanh Khí làm ra Cơi Trung Giới, hay là Cơi Dục Giới.

          Cái Trí (Hạ Trí) làm bằng chất Thượng Thanh Khí, tức là chất Trí Tuệ làm ra Cơi Thượng Giới, hay là Cơi Trí Tuệ.

          Nguyên tử làm ra Cái Phách do đồ ăn và khí Trời mà thay đổi mỗi ngày. Nguyên tử làm ra Xác Thân thay đổi lần lần, trong 7  năm mới trọn vẹn.

          Nguyên tử làm ra Cái Vía và Cái Trí thay đổi liền liền tuỳ theo t́nh cảm, ư muốn và tư tưởng của chúng ta từng giờ, từng phút.

          Nếu chúng ta sanh ra những tư tưởng và ư muốn thanh cao, tốt đẹp, từ bi, bác ái th́ Cái Trí và Cái Vía của chúng ta thu hút vào ḿnh chúng nó những chất khí tốt ở ngoài đồng bản tánh với chúng nó; cũng trong lúc đó một phần chất khí xấu ở trong Trí và trong Vía của chúng ta bay ra ngoài. Trái lại, nếu chúng ta sanh ra những tư tưởng và ư muốn thấp hèn, đắm mê vật dục th́ một phần chất khí tốt trong Trí và trong Vía của chúng ta bay ra ngoài; một phần chất khí xấu đồng một loại với tư tưởng và ư muốn xấu đó bay vô choán chỗ của chất khí tốt.

          Mỗi lúc đều có những sự thay đổi như thế luôn luôn.

          Nói tóm lại: Những tư tưởng và ư muốn thanh cao hay thấp hèn đều rút vô Trí và Vía những chất khí đồng một loại với chúng nó.

          Thế nên nếu chúng ta cứ suy nghĩ tới những điều bất chánh, Cái Trí và Cái Vía của chúng ta chứa đầy những chất khí xấu xa, nặng nề; màu sắc của chúng nó sẽ hoá ra đen tối. Như thế làm sao chúng ta thu nhận được những tư tưởng cao thượng, những tư tưởng xứng đáng với “Thật là Con Người, tức là Chơn Nhơn.”

          V́ các lư do trên mà các Vị có Huệ Nhăn nh́n vào Cái Trí và Cái Vía của chúng ta liền biết tŕnh độ tiến hoá của chúng ta tới bậc nào. Và cũng v́ những lư do nầy mà các Vị Thánh Nhơn, Hiền Triết đều khuyên chúng ta nên ăn ở cho có nhân từ đức hạnh, lo giúp ích đồng loại, không bao giờ làm cho họ đau khổ, mới Tiến Mau và không gây ra những Quả Ác mà kiếp sau phải thanh toán. Dầu cho ta cố tránh cũng không lọt ra khỏi Lưới Trời, và chúng ta vẫn chưa thoát khỏi Ṿng lẩn quẩn: Sanh, Lăo, Bịnh, Tử. Và cũng đừng quên rằng: Luật Tiến Hoá cứ thúc đẩy con người đi tới măi, từ chỗ tối tăm, dốt nát đến chỗ trọn sáng, trọn lành.

          Bánh xe Tiến Hoá cứ lăn tới măi, con người theo sau bánh xe, dầu cho cố gắng làm theo ư muốn của chúng ta, nghĩa là đi ngược lại Ḍng Tiến Hoá th́ chỉ mang tai hoạ vào thân. Không ai căi lại Luật Trời được.

 

  CHUYỆN  ẤN  TỐNG  KINH

 

          V.- Người ta nói: “Ấn Tống Kinh có phước rất lớn” có phải như vậy hay không?

          Đ.- Ấn Tống Kinh là một cách thí Pháp cũng như Diễn Thuyết và nói chuyện Đạo Đức vậy. Nói rằng Ấn Tống Kinh có phước lớn, đó là quyền tự do tư tưởng. Nhưng Kinh có hai thứ: Một thứ dạy đúng Chơn Lư, c̣n một thứ nói  những chuyện dị đoan, phi lư làm cho người ta mê tín, rồi có những thành kiến.

          Tuy nhiên, không phải dễ mà phân biệt thứ nầy với thứ kia, nếu không thọ lănh được Chơn Truyền, như tôi đă nói.

          Nếu Ấn Tống lầm Những Thứ Kinh Sách làm cho độc giả tin nhảm, tâm trí trở nên tối tăm, thay v́ sáng suốt, lầm đường lạc nẻo, từ thế hệ nầy sang thế hệ kia, th́ là mắc tội lớn, chớ không phải có phước lớn.

          Tôi xin kể một chuyện sau đây:

          Cách đây mấy năm, một Bà đem đến cho tôi một cuốn Kinh có đoạn nói: “Đức Phật đă lạy đống xương khô.”

          Tôi nói: “Thưa Bà, Đức Phật là Đấng Chí Tôn thấy được những việc quá khứ vị lai, cả trăm triệu năm trước và cả trăm triệu năm sau. Ngài nh́n vô một đống xương khô liền biết được nó thuộc về hạng người nào.”

          Thật ra xương cốt của những Vị Thánh Nhơn mới quí, bởi v́ nó toả ra một thứ từ điện tốt đẹp có ảnh hưởng lành đối với những người ở chung quanh. Người ta gọi nó là Xá Lợi. C̣n xương cốt của những người thường, ḷng c̣n tràn trề dục vọng, ta nên thiêu ra tro bụi, và đem đổ ngoài biển, bởi v́ nó trược lắm. Tại sao mà lạy nó?

          Riêng tôi, tôi không bao giờ tin Phật đă lạy đống xương khô, và cho rằng đó là chuyện dị đoan, rất phi lư.

          Bây giờ trở lại câu chuyện: “Ấn Tống Kinh cầu phước.”

          Theo Luật Nhân Quả, Luân Hồi, làm lành kiếp nầy th́ kiếp sau đầu thai lại được hưởng phước; c̣n làm dữ, kiếp sau đầu thai lại sẽ mắc hoạ.

          Như thế có nghĩa là: Quả lành hay Quả ác đều buộc trói con người vào Bánh Xe Luân Hồi vô tận, từ kiếp nầy qua kiếp kia, không bao giờ thoát khỏi được.

 

ÔNG  HERMANN  HESSE  TÁC  GIẢ  QUYỂN  “CÂU CHUYỆN  CỦA  D̉NG  SÔNG” CHỈ  TRÍCH  PHẬT  GIÁO  MỘT  CÁCH  KÍN  ĐÁO

 

          Bởi v́ Khoa Công Truyền đă dạy như vậy, cho nên trong quyển “Câu Chuyện Của Ḍng Sông” Tác Giả là Ông Hermann Hesse mới  chỉ trích Phật Giáo một cách kín đáo. Theo thâm ư Ông th́ Phật Giáo không giải thoát cho ai được cả, bởi v́: “Nếu Nhân nầy sanh ra Quả kia, rồi Quả kia lại sanh ra Nhân nọ” th́ làm sao con người thoát ra khỏi ṿng Nghiệp Chướng để Đắc Đạo thành Chánh Quả, làm Tiên, làm Phật.

          Tôi xin chép đoạn đó ra đây cho quí Huynh xem:

          Tất Đạt nói: “Hỡi Đấng Giác Ngộ, trước hết tôi rất thán phục những điều Ngài dạy bảo. Mọi sự, đều được chứng minh đầy đủ rơ ràng. Ngài tŕnh bày thế giới như một sợi dây xích liên tục không đứt đoạn, một sợi dây bất tuyệt nối liền với nhau bởi Nhân và Quả. Chưa bao giờ Vũ Trụ được tŕnh bày rơ ràng như thế, và được chứng minh một cách khúc chiết như thế. Chắc hẳn mọi người Bà La Môn phải giật ḿnh kinh hăi, khi nghe qua những lời dạy của Ngài, họ nh́n thấy Vũ Trụ hoàn toàn mật thiết với nhau đến nỗi không có một lỗ hổng, trong suốt  như pha lê, không phụ thuộc may rủi, không phụ thuộc Thần Linh. Thế giới tốt hay xấu, sự sống tự nó là đau khổ hay khoái lạc, sự sống bất trắc hay không, điều nầy không quan trọng, nhưng sự nhất thể của thế giới, lẽ tương quan, tương liên của mọi sự vật, lớn, nhỏ bao gồm nhau, sinh thành bao gồm trong huỷ diệt; những điều Ngài dạy thật sáng rạng phân minh. Nhưng theo những lời dạy ấy, sự  nhất tính và liên tục hợp lư của mọi sự có một chỗ hở, qua khe hở nhỏ ấy, một cái ǵ lạ lùng bỗng tuôn tràn vào trong thế giới nhất thể này, một cái ǵ mới mẻ, một cái ǵ không có ở đấy trước kia và không thể chứng minh hay chứng nghiệm được: Ấy là thuyết của Ngài về sự vươn lên trên thế giới, thuyết cứu độ, với khe nhỏ này, chỗ gián đoạn bé bỏng ấy, dù sao, Luật Vũ Trụ duy nhất không tiền khoáng hậu lại bị sụp đổ, xin Ngài tha thứ, nếu tôi đưa ra sự đối chất này.

          Đức Cồ Đàm đă lắng nghe, lặng lẽ bất động. Và Ngài cất một giọng nhă nhặn trong sáng:

          - Người đă khá nghe những lời giảng dạy, hỡi người thanh niên Bà La Môn, và thật quư hoá người đă nghĩ sâu xa về những lời ấy. Người đă t́m thấy một khuyết điểm, hăy nghĩ kỹ lại về điều đó. Ta chỉ khuyên người, một người khao khát  hiểu biết, hăy tránh xa rừng quan niệm và sự xung đột giữa các danh từ. Quan niệm không có nghĩa ǵ, chúng có thể đẹp hay xấu, khôn hay dại và bất cứ ai cũng có thể chấp nhận hay bác bỏ. Giáo Lư mà người đă nghe, tuy vậy không phải là quan niệm của ta, và mục đích của  nó không phải là để giải thích Vũ Trụ cho những người khát khao hiểu biết. Mục đích của nó hoàn toàn khác biệt. Mục đích ấy là giải thoát khỏi khổ đau. Đấy là những ǵ Cù Đàm dạy, không ǵ khác hơn.”

          Tác Giả cho Phật trả lời như thế có nghĩa là Giáo Lư của Ngài chỉ nhắm vào mục đích diệt các sự đau khổ mà thôi, chớ không phải giải thoát con người khỏi đoạ Luân Hồi.

          Câu nầy không làm thoả măn ḷng khát khao t́m Chơn Lư của Tất Đạt, nên Anh đă từ giă Phật ra đi.

 

TẠI  SAO  THUYẾT  CỨU  ĐỘ  CỦA  PHẬT    MỘT  KHE  HỞ ?

 

          Tại sao Tất Đạt lại cho Thuyết Cứu Độ của Phật có một khe hở nhỏ bé, bị chỗ gián đoạn bé bỏng ấy, dù sao, Luật Vũ Trụ duy nhất không tiền khoáng hậu lại bị sụp đổ?

          Tất Đạt có lư không? Có lư lắm, và Tất Đạt nói rất đúng. Tại sao vậy?

          Bởi v́ theo Thuyết Nhân Quả th́: Nhân nầy sanh ra Quả kia, rồi Quả kia lại sanh ra Nhân nọ, cứ tiếp tục như thế, đời đời, kiếp kiếp, không bao giờ dứt.

          Thí dụ kiếp nầy là kiếp thứ nhứt ta làm lành th́ kiếp sau, kiếp thứ  nh́ ta phải đầu thai lại đặng hưởng phước. Rồi kiếp thứ nh́ ta cũng làm những việc phước thiện th́ qua kiếp thứ ba, ta cũng phải đầu thai lại để hưởng cái Quả của Nhân lành mà ta đă gieo.

          Bởi v́ kiếp nầy là kết quả kiếp trước, c̣n kiếp sau là kết quả kiếp nầy, th́ dầu cho làm lành hay làm ác, con người cũng phải bị mắc vào bánh xe Sanh Tử, Luân Hồi, từ đời nầy qua đời kia măi măi. Như thế làm sao con người được giải thoát? Đức Phật cũng không cứu rỗi ai được.

          Ông Hermann Hesse đă mượn Tất Đạt thay lời Ông để chỉ trích Phật Giáo, Ông đă cố ư nói rằng: Thuyết Cứu Rỗi của Ngài bị hoàn toàn sụp đổ, v́ có chỗ hở đó.   

 

LÀM  LÀNH    KHÔNG  BỊ  MẮC  VÀO  V̉NG  LUÂN  HỒI

 

          Nhưng tôi tin chắc rằng Đức Phật có dạy Phương Pháp Làm Lành mà không bị mắc vào ṿng Luân Hồi. Có lẽ v́ hai nguyên nhân nầy:

          Một là: Đức Phật chỉ dạy riêng cho các Đệ Tử mà thôi.

          Hai là: Đức Phật đă có nói nhưng tại người ta không để ư tới nên không biết.

          Phương Pháp đó là: Làm Lành v́ ḷng thương đời, v́ muốn làm bổn phận, không mong hưởng phước đức. Như vậy phải Nhân Danh, hoặc Đức Thượng Đế, hoặc Đức Phật, hoặc Đức Bồ Tát, hoặc một Vị Chơn Sư mà làm những việc lành, tức là Hồi Hướng Công Đức cho Các Đấng Cao Cả. Cái Quả của những việc lành ḿnh làm sẽ nhập vô kho chứa Thần Lực của Thiên Đ́nh. Tiên Thánh dùng Thần Lực của Kho nầy để ban rải cho nhân loại.

          Con người gieo Nhân mà không mong gặt Quả th́ không c̣n bị buộc trói vào bánh xe Luân Hồi nữa.

          Tuy nhiên, con người chưa thật sự thoát đoạ Luân Hồi đâu. Con người không gây ra những Quả xấu mới, việc ấy đă đành, nhưng con người phải thanh toán những món nợ cũ c̣n lại đă mang, tức là những Quả xấu đă gây ra từ nhiều kiếp trước mà chưa trả sạch.

          Khi xưa, chúng ta dùng tự do ư chí gây ra tội lỗi, bây giờ đây chúng ta phải dùng tự do ư chí, từ trong tư tưởng, lời nói và việc làm, gây ra những Quả tốt để đền bù lỗi xưa. Chỉ có phương pháp nầy, chớ không c̣n cách nào nữa.

          Dù sao con người cũng phải lo tu hành trong ṿng 25, 30 kiếp mới chặt được 10 chướng ngại để làm một Vị Siêu Phàm gọi là Tiên Trưởng.

 

TẠI  SAO  QUẢ  TỐT  LẠI  NHẬP  VÀO  KHO  CHỨA  THẦN  LỰC  ĐƯỢC ?

 

          Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: Tại sao Quả tốt lại nhập vào Kho chứa Thần Lực được?

          Tôi xin giải:

          Tư tưởng là một thứ lực.

          Ư muốn là một thứ lực.

          Việc làm là một thứ lực.

          Ba thứ lực nầy đều không giống nhau và hành động ở ba Cơi khác nhau: Cơi Trần, Cơi Trung Giới và Cơi Thượng Giới; cái Quả vẫn là một thứ lực, cho nên mới nhập vô Kho Thần Lực của Thiên Đ́nh được.

          Nếu Phật Giáo đă có chỉ phương pháp nầy th́ chắc chắn Ông Hermann Hesse không để cho Tất Đạt nói câu đó.

 

VÀI  LỜI  CẢM  NGHĨ  VỀ  HUYNH  TẤT  ĐẠT

 

          Giờ đây tôi xin nói vài lời về Anh Tất Đạt. Anh là Ḍng Bà La Môn, từ nhỏ đến lớn trường trai và chắc chắn Anh đă nghe giảng giải nhiều về những Giới Cấm và nhất là về cơi đời vô thường nầy.

          Nếu Anh khát khao t́m Chơn Lư; muốn tự giác Anh phải tham thiền cho đúng phép, thực hành những điều cao thượng, thanh bai, loại bỏ những việc thấp hèn, sai quấy. Anh cần chi phải thí nghiệm lại những điều thô tục, tầm thường mà từ ngàn xưa thiên hạ đă kinh nghiệm và đă chán chê, nhờm gớm. Anh đă biết lửa đốt cháy mà anh c̣n đút tay vô lửa thử lại để chắc ư lửa thật là nóng. Anh mất ngày, giờ làm chuyện điên rồ của kẻ khờ dại. Ngót 20 năm, Anh đă b́nh bồng, lặn hụp giữa biển Trần Ai dẫy đầy sóng gió và bùn dơ, thử hỏi: Anh học hỏi được những ǵ hay hơn những điều Anh đă nghe, lúc Anh c̣n là một người Bà La Môn?

          Anh đă kinh nghiệm được những ǵ? Ngoài những tấn tuồng đời được diễn đi, diễn lại, từ kiếp nầy qua kiếp kia: Cũng quyền thế, tiền tài, vinh hoa, phú quí, t́nh ái, hoan lạc, đắm đuối, say mê, chớ không phải là con đường thoát tục.

          Giờ đây, Anh có sáng suốt hơn trước không? Hay tấm ḷng Anh ngày nay đă khô héo, chứa đầy những vết thương chưa lành hẳn, nó không c̣n trong trắng, ngây thơ như lúc Anh chưa ĺa khỏi gia đ́nh.

          Anh không khác nào một người đánh xe thấy tấm bảng dựng bên đường có mấy hàng chữ: “Hỡi khách lữ hành! Phía trước có những vực sâu, hố thẳm rất nguy hiểm. Hăy tách qua nẻo khác.” Nhưng Anh muốn thử coi những lời đó có đúng hay không? Không sợ, Anh cứ cho xe đi tới, như thế làm sao Anh khỏi bị sụp hầm?

          Anh bị sa xuống śnh lầy, chịu nhơ bẩn một thời gian rồi Anh lên bờ, tắm gội lại cho sạch sẽ. Chung cuộc thật là vô ích, chớ không tiến tới chút nào về Con Đường Thánh Thiện.

          Xét về phương diện hạnh kiểm và tu hành, Anh c̣n thua xa Anh Thiện Hữu. Dầu cho Tác Giả khéo diễn tả cách nào cũng không sửa đổi, hay che giấu được sự thật.

          Trong đoạn chót, những bóng mà Thiện Hữu thấy hiện ra trên nét  mặt của Tất Đạt tượng trưng sự thay h́nh đổi dạng của Nhứt Thể, của Đại Ngă phân hoá ra khi nhập Thế; ban sơ phải trải qua thiên h́nh vạn trạng, từ phương diện xấu xa, tồi tệ, bất ổn, rồi cuối cùng mỗi đơn vị đều đi tới trạng thái Toàn Năng, Toàn Thiện, Toàn Giác.

          Không có chi là mới mẻ, không có chi là lạ lùng. Từ xưa đến nay, các Nhà Huyền Bí Học, các Thầy Bà La Môn đều có dạy các tín đồ lẽ nầy. Tại sao Thiện Hữu lại vô cùng ngạc nhiên và cho đó là mũi tên Thần Diệu thức tỉnh Anh. V́ lư do nào mà Anh không biết, Anh cũng là người Bà La Môn như Tất Đạt?

          Nói cho đúng, nụ cười của Như Lai đượm nhuần Đức Từ Bi, Bác Ái, vô tận, vô biên, đâu phải nụ cười đầy vẻ châm biếm, chế giễu của kẻ c̣n là phàm phu tục tử. (Xin xem trang 234 và 235 quyển “Câu Chuyện Của Ḍng Sông”.)

          Trên thực tế, Đấng Toàn Giác luôn luôn là Đấng Toàn Giác, c̣n Tất Đạt vẫn là Tất Đạt, không hơn, không kém. Anh là con người bị kẹt trong ṿng lẩn quẩn, mới chỉ được giải thoát và trở nên Thánh Thiện trong trí tưởng tượng mà thôi.

          Sự thật bao giờ cũng vẫn là sự thật.

 

PHẢI  BIẾT  TỊNH    ĐỘNG  ĐÚNG  LÚC    ĐÚNG  PHÉP

 

          Người tu hành phải biết Động và Tịnh đúng lúc và đúng phép.  Lúc  nào Tịnh th́ Tịnh, lúc nào Động th́ Động. Phải hiểu: Trong Động có Tịnh, trong Tịnh có Động, trong hữu vi có vô vi, trong vô vi có hữu vi.

          Đức Phật đă dạy:

          Lánh dữ.

          Làm Lành.

          Rửa ḷng trong sạch.

          Tc là phải Động và Tịnh.

          Lánh dữ và Rửa ḷng trong sạch thuộc về Thụ Động (Tịnh), c̣n:

          Làm lành mới là Hoạt Động (Động).

          Người chưa học Đạo luôn luôn Động; chỉ Tịnh trong lúc ngủ mà thôi. Thế nên y bị mất thăng bằng rất nhiều. Nhưng mà giữ vững thăng bằng không phải là một chuyện dễ làm.

          Cũng  như muốn biết ḿnh đă tưởng cái chi và tư tưởng đó thuộc về loại nào th́ tâm thức phải mở rộng hơn người bực trung. Thật khó vô cùng, nhưng không phải là không làm được, nếu sinh viên tuân theo phương pháp đă chỉ bảo và bền chí tập luyện nhiều năm.

           Xin nhắc lại: Muốn Tu Hành và bước mau, phải trau giồi hạnh kiểm cho thật tốt; tức là đắp nền Đạo cho vững chắc, bởi v́ nếu ta ham mê những phép tắc nhỏ mọn, không trường trai, giữ giới th́ chẳng bao lâu ta không thể tiến xa được; phải dừng bước lại, v́ ta bị vấp ngă trước những sự thử thách đưa tới, mà sinh viên nào cũng phải gặp ở mỗi chặng đường.

          Đừng ham muốn có Thần Nhăn. Nếu không có một vị Đạo Sư hay là một Nhà Huyền Bí Học lăo luyện chỉ bảo, th́ làm sao ta phân biện được một h́nh tư tưởng với một người thiệt, một người c̣n sống với một người đă chết, khi cả hai đều ở tại Cơi Trung Giới; làm sao biết tên nhân vật ở Cơi nầy, làm sao biết được vị nầy là Tiên Trưởng, c̣n vị kia là một anh Bàng Môn Tả Đạo hoá h́nh để gạt gẫm. C̣n nhiều điều khác nữa. . .

          Huyền Bí Học rất nguy hiểm, nguy hiểm hơn điện cả ngàn triệu Volts, v́ hậu quả tai hại của nó c̣n kéo dài tới nhiều kiếp, chớ không phải chỉ có một kiếp nầy mà thôi.

          Nếu tôi nhớ không lầm th́ lần đầu tiên, Đức Mohamet xuất Hồn lên Thiên Đường gặp những Vị Đại Thiên Thần mà Ông không biết tên Vị nào cả, mà cũng không phân biệt được Ngôi Thứ Các Ngài.

          Thử hỏi chúng ta bằng Đức Mohamet chưa?

          Chúng ta chưa hiểu nổi vài hàng đầu của Khoa Huyền Bí Học thật sự, và nếu chân c̣n mang nặng bùn dơ, ḷng c̣n tràn trề dục vọng th́ có thể chưa gần gũi được những vị Cao Đồ của Chơn Sư, c̣n nói ǵ tới việc thấy những Đấng Thiêng Liêng cao cả như: Đức Ngọc Đế, Đức Phật, Đức Bồ Tát, Đức Mẹ Thế Giới, v.v… Hoàn toàn là ảo mộng.

          Có một điều mà các bạn Đạo ít để ư tới là mấy anh Bàng Môn Tả Đạo ở trong bóng tối thấy chúng ta, họ biết rơ chúng ta, mà chúng ta không thấy họ, mà cũng không biết họ ra sao? Ở đâu? Họ biết chỗ yếu của chúng ta, rồi dắt chúng ta sa vào cạm bẫy của họ.

          Do đó chúng ta phải thật thận trọng và xin quí bạn đọc lại quyển “Tiếng Nói Vô Thinh,” nó sẽ giúp ích cho quí bạn rất nhiều trong sự biết được sao là Chơn? Sao là Giả?

          Cũng đừng quên rằng cái ǵ ảnh hưởng đến Xác Thịt th́ ảnh hưởng tới Cái Vía và Cái Trí. Cái ǵ ảnh hưởng đến Cái Vía và Cái Trí th́ ảnh hưởng tới Xác Thịt.

          Tinh Thần và Vật Chất luôn luôn liên quan mật thiết với nhau.

          Muốn tiến mau, mỗi ngày chúng ta phải cố gắng làm một việc lành, bất cứ về phương diện nào và nghĩ tới vài điều lành, khi có dịp chúng ta sẽ đem thực hành ngay.

          Hăy thương xót những kẻ lỗi lầm và t́m phương cách giúp đỡ họ. Nếu ngày nay ta không phạm tội như họ, là nhờ trước kia ta đă bị vấp ngă, ta bị đau quá rồi, cho nên bây giờ ta mới cẩn thận từ chút; mà bạn cũng đừng khoe rằng: Ḿnh sẽ không vấp ngă một lần nữa. Ta chưa trọn lành đâu! C̣n biết bao nhiêu điều ta cần phải học hỏi và kinh nghiệm trên đường đời mà ta sẽ trải qua.

          Mỗi giờ, mỗi phút ta vẫn lo gội rửa ḷng phàm, nhưng chưa biết tới bao giờ nó trở lại trong trắng, ngây thơ như lúc c̣n ấu thơ. Vậy hăy tự nghiêm khắc với ḿnh và hăy khoan dung cho người; đừng cười chê ai mà chẳng bao lâu sẽ bị người cười chê lại. Đó là Luật Nhân Quả không bao giờ sai.  Không nên khinh thường sẽ mắc vào ṿng Nghiệp Chướng.

 

TAM  ĐỘC :  THAM,  SÂN,  SI

 

          V.- Phật Giáo gọi Tham, Sân, Si là Tam Độc. Gốc Tam Độc ở đâu?

          Đ.- Tham, Sân, Si vốn của người Trung Hoa dịch ba chữ Phạn: Raga, Dosa, Moha.

          Raga: Người Pháp dịch là: Désir: Sự ham muốn.

                   Người Trung Hoa dịch là: Tham.

          Dosa:          Người Pháp dịch là: Colère, haine: Giận hờn, Oán ghét.

                   Người Trung Hoa dịch là: Sân, có thể thêm chữ hận nữa là: Sân hận.

          Moha: Người Pháp dịch là Erreur, Illusion: Sự lầm lạc, ảo tưởng, huyễn tưởng.

                      Người Trung Hoa dịch là: Si, tức là Ngu si, Mê muội, không thấy lẽ chánh, theo đường sa ngă, bỏ nẻo Chân. Nó là Tà Kiến, khác với Chánh Kiến.

          Mà Tham, Sân, Si ở đâu mà ra?

          Tham, Sân, Si là những tánh xấu của ba thể: Thân, Vía, Trí. Người ta cũng gọi những tánh xấu nầy là Tam Bành, Lục Tặc. Ta thấy rơ ràng:

          Xác thân ham ăn, ham uống, ham ngủ nghê, ưa chơi đùa, tức là Tham.

          Cái Vía tham sắc, tham tài, ưa nóng nảy, giận hờn, tức là Tham và Sân một lượt.

          Cái Trí c̣n kiêu căng, phách lối, chia rẽ. Nó không biết phục thiện, bày mưu kế ác độc, được lợi cho ḿnh mà hại cho người, gây ra những Quả xấu, kiếp sau phải trả, tức là không sáng suốt, c̣n Si, c̣n Mê.

 

PHƯƠNG  PHÁP  TRỪ  TAM  ĐỘC

 

          V.- Muốn trừ Tam Độc th́ phải làm thế nào?

          Đ.- Muốn trừ Tam Độc ta phải tập làm chủ ba Thể: Thân, Vía, Trí.

          V.- Thưa tại sao?

          Đ.- Bởi v́ khi chưa trở nên tinh khiết th́ ba Thể nầy xúi ta gây nên muôn vàn tội lỗi. Nhưng một khi ta tinh luyện chúng nó rồi th́ chúng nó trở lại giúp ta tạo ra công đức vô lượng. Giờ đây, chúng nó là chiếc Bè Từ đưa ta qua Bờ Giác.

          Cả muôn, cả ngàn kiếptrước, chúng nó làm chủ ta, sai khiến ta, ta nghe theo chúng nó, mà ta không ngờ. Bây giờ ta phải tập làm chủ lại chúng nó, điều khiển chúng nó quay về đường Chơn Chánh, Từ Bi Bác Ái.

          V.- Tại sao phải tập?

          Đ.- Tại v́ cả chục triệu năm rồi, ta để cho chúng nó buông lung, muốn làm chi th́ làm, bây giờ đây chúng nó trở nên cứng đầu, cứng cổ, không  phải dễ mà trị chúng nó đâu. Chắc chắn Huynh đă nghe câu nầy:

          “Thật là nó mạnh hơn tôi.” Nó là ai? Mà mạnh hơn ḿnh. Ḿnh biết là quấy mà cưỡng lại không được, phải làm, nhưng làm rồi th́ ăn năn, hối hận. Không phải một lần mà cả trăm, cả ngàn lần, từ kiếp nầy qua kiếp kia, cứ lặp đi, lặp lại măi; chớ không phải chỉ có một ngày, một bữa rồi thôi. Cho tới chừng nào bị đau khổ ê chề rồi, ta mới chịu t́m phương giải thoát.

 

XIN  NHẮC  LẠI  MỘT  LẦN  NỮA,  TẠI  SAO  PHẢI  TU ?

 

          Kiếp nầy là kết quả kiếp trước, kiếp sau là kết quả kiếp nầy, bởi v́ Gieo Giống chi gặt Giống nấy. Trồng Dưa được Dưa, trồng Đậu hái Đậu. Có vay th́ phải có trả. Luật Trời rất công b́nh, không chạy trốn đường nào cho khỏi Sự Báo Ứng tuần huờn.

          Có những thứ Quả phải trả liền, trong vài giờ, vài ngày hay vài tháng gọi là Quả Báo Nhăn Tiền, chớ không chờ đến kiếp sau.

          Phật đă dạy: Một Ông Vua giàu có bốn bể. Kiếp sau có thể đầu thai làm một tên ăn mày, xin ăn ở đầu đường, góc chợ, v́ những tội ác dẫy đầy đă gây nên.

          Trái lại một người kiếp nầy nghèo khổ, kiếp sau có thể hưởng vinh hoa phú quí, v́ những việc lành đă làm. Đây là Luật Nhân Quả và chính là tự ḿnh làm cho ḿnh được hưởng hạnh phúc hay là mang tai hoạ, chớ chẳng phải tại Ư Trời muốn. Chớ nên khinh thường. Nếu con người chịu khó quan sát cuộc đời sẽ thấy tất cả những việc đă xảy ra trong mọi lănh vực đều có Luật Nhân Quả hành động, không nhiều th́ ít, tuỳ thứ, âm thầm, lặng lẽ.

          Nếu ta muốn kiếp sau của ta trở nên tốt đẹp, cần phải tạo ra nó ngay bây giờ, tức là phải Tu Hành.

          Tu Hành đây là Tu Nhân, Tích Đức, Trau Giồi Tâm Tánh cho thật tốt và Giúp Đỡ mọi người Tuỳ Phương Tiện, Tuỳ Tài Đức, chớ nào phải đợi tới Vô Chùa, thí phát, mặc áo dà, ăn chay, niệm Phật mới gọi rằng Tu. Luôn luôn chay ḷng tốt hơn chay miệng.

          Phải Tu mới mau thoát khỏi ṿng Luân Hồi Nghiệp Chướng, mới khỏi trở lại Cơi Trần mang cái xác phàm nặng nề nầy và chịu muôn ngàn khổ năo, từ kiếp nầy qua kiếp kia.

          Hăy nhớ rằng: Con người phải tự cứu lấy ḿnh, chớ không có Vị Tiên, Phật nào cứu rỗi ḿnh được. Chơn Sư chỉ đường lối cho ḿnh đi, ḿnh phải đi mới tới Cửa Đạo. Ai tin rằng cứ niệm Lục Tự Di Đà, tới ngày lâm chung được Phật rước về Tây Phương ngồi trên toà sen th́ cứ tin. Tôi chỉ nói rằng: Sự tin tưởng không sửa đổi Luật Trời được như ư ḿnh muốn.

          Luật Tiến Hoá cứ thúc đẩy con người đi tới măi, ta không thể lùi lại được.

Lành thay!  Lành thay!            

BẠCH  LIÊN


CHÂN  THÀNH  TRI  ÂN

 

          Quư vị trợ giúp việc ấn loát các sách Thông Thiên Học.

            Lê Thành Lân. – Lê Văn Hai và gia đ́nh. – Lê Văn Thạnh và gia đ́nh. – Lư Trọng Văn và gia đ́nh. – Nguyễn Thị Luận. – Lê Minh Triết + Bích. – Lê Minh Đức + Châu – Lê Minh Nguyệt. – Huỳnh Hữu Đức. – Margarette Whatley. – Khuê + Hải. – Những Vị Vô Danh. – Nguyễn Thị Dục Tú. – Một nhóm bạn anh Lân.  – Nguyễn Kinh Lư. – Ngô Tố Hoa. – Lê Hồng Hạnh.  – Một nhóm bạn Văn ở Hăng Sysco. – Lư Phước Lạc và gia đ́nh. – Đặng Văn Tiên + Huê. – Trương Lệ Chi. – Nhóm TTH ở Sydney (Úc). – Châu Thị Hồng Yến. – Lâm Hữu Lễ. – Julia Ngô. – Nguyễn Kim Oanh. – Nguyễn Vinh. – Một nhóm bạn Chị của Văn. – Jimmy Phan. – Phạm Xuân Dũng. – Nguyễn Tâm. – Nguyễn Ngọc Anh. –  Phạm Thị Lựu. – Phạm Thị Ngọc Dung. – Nguyễn Thuỷ. – Thích Nữ Liễu Nhiên. – Thích Tịnh Măn. – T. Caroline Besancon. – Mạch Quế Lan. – Anh Ngọc Huệ. – Ất Chiêu Nguyễn N. Anh. – Richard Hồ. – Phan Quang Trường. – Zella Balch. – Nguyễn Hạnh Trang. – Huỳnh Mạng. – Huỳnh Tom. – Nguyễn Thị Quư. – Kimberly Shropshire. – Chị Lâm Ngọc Anh. – Lê Thành Nhơn. – Nguyễn Thị Hà. – Chu Đôn. – Lư Thị Châu. – Nguyễn Thị Lan. – Lâm Xuân Hương. – Nguyễn Thành Nhân. – Liêm Whatley. – Nguyễn Thị Minh Phương. – Trần Quan. – Lê Trung. – Nguyễn Hữu Chương. – Dương Hoàng Tuấn và gia đ́nh. – Hồ  Văn Xách và gia đ́nh. – Lê Thị Tiền. – Lê Minh Tâm. – Nguyễn Minh Tuấn. – Lê Minh Nhựt + Hằng + Bé Hiếu. – Lê Minh Dũng. – Lâm Quang Khải. – Lâm Phước Đông. –  Nguyễn Mộng Thu. – Ông, Bà Chung Hữu Thế. – Phan Mỹ Hạnh. – Ông, Bà Lê Văn Kim. – Tô Văn Hiệp. – Ngô Văn Thuấn. – Trần Trọng Khải. – Trần Đắc Mộng Hoa. – Nguyễn Ngọc Hà. – Nguyễn Thị Hạnh.

          Mọi chi tiết xin liên lạc:

- Nguyễn Trung Nghĩa,   58 Krotona Hill,  Ojai, CA 93023.

- Điện Thoại: (805) 640-0637.    - E-mail: nghia@thongthienhoc.org



[1] Xin xem quyển Nhân Quả của tôi, và 5 quyển sau nầy của bạn Nguyễn Hữu Kiệt: 1- Nhân Quả và Đời Người. 2- Những Bí Ẩn của Cuộc Đời. 3- Đông Phương Huyền Bí. 4- Ai Cập Huyền Bí. 5- Xứ Phật Huyền Bí.

[2] Tôi có giải trong quyển “Nói chuyện Yoga và Tinh Hoa Phật Giáo.”

[3] Xin xem quyển “Tại sao ta phải Tu.”

[4] Nên đốt những quyển “Dâm Thư” đầu độc những bạn thanh niên nam, nữ.

[5] Xin đọc quyển ba “Nói chuyện Yoga và Tinh Hoa Phật Giáo” của tôi

[6] Phật Giáo gọi là: Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng thiên, hoặc Phi tưởng, phi phi tưởng xứ, hoặc Phi tưởng thiên.

[7] Xin đọc quyển “Minh Triết Thiêng Liêng I” và bộ “Học Cơ Tiến Hoá” của tôi.

[8] Xin đọc quyển “Minh Triết Thiêng Liêng” và bộ “Học Cơ Tiến Hoá” của tôi.

[9] Xin xem quyển “Tại sao ta phải Tu?”

[10]        Xin đọc quyển nhỏ “Chơn Nhơn và Phàm Nhơn” nhất là từ trang 8 sắp sau, mới biết giá trị câu: “Tôi là Atman . . .”

          Khi nói: “Ḷng từ bi, bác ái của tôi bao la, bát ngát vô tận, vô biên” hăy tưởng tượng thấy hào quang của ḿnh bao trùm quả Địa Cầu nầy, nên có bản đồ quả Địa Cầu trước mặt.

          Các bạn trẻ học sinh, nam, nữ mỗi ngày nên đọc đoạn IV vài lần, nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Trong vài năm sẽ thấy trí hoá mở mang, học hỏi mau thông. Có kinh nghiệm rồi sẽ biết sự hiệu nghiệm của nó.

[11] Trong những sách Đạo Đức và Yoga có nhiều đoạn cần phải lặp đi, lặp lại giúp cho độc giả dễ nhớ, mấy đoạn đó liên quan với mấy đoạn kế tiếp, không phải là vô ích. Xin quí bạn lượng thứ khi gặp mấy đoạn đó.

[12] Trong quyển đầu “Tại sao Ta phải Tu ?” tôi có giải nhiều về 12 đức tánh nầy. Ở đây tôi chỉ lặp lại chúng  nó một cách vắn tắt mà thôi cho quí bạn dễ nhớ.

[13] Xầy: Vừa tróc vỏ, chưa sạch cám.

[14] Hiện giờ ở tại Mỹ có bán Nồi Cao Áp gọi là “Programmable Pressure Cooker” chỉ nấu có 50 phút th́ chín mềm rất ngon, không cần phải ngâm gạo một đêm nữa.

[15] Có những vị Đạo Sư ở Tây Tạng cả năm ăn có một hột lúa ḿ để tượng trưng mà thôi. Các Ngài biết cách đem sanh lực Prana vô nuôi Cái Phách nên không dùng đồ ăn như ḿnh. Các Ngài không bài tiết như chúng ta.

          Ở Ấn Độ, Tây Tạng, Ba Tư, Ai Cập có những Vị sống cả ngàn năm mà vẫn trẻ trung, không phải như chúng ta mới 50, 60 tuổi mà đă răng long, tóc bạc.

[16] Nếu không có th́ giờ, bạn học thuộc ḷng 3 đoạn chót cũng đủ: Từ Ánh Sáng Thiêng Liêng sắp sau.

[17] Aum hay là Om là Tiếng Thiêng Liêng nhiệm mầu, nó ám chỉ Đức Thượng Đế.

          Tat: Theo Ai Cập Giáo là Đức Thượng Đế của sự Hiểu Biết và sự Điểm Đạo.

          Sat: Trạng Thái Trí Tuệ sanh hoá của Ngôi Thứ Ba của Thượng Đế.

          Sat, Chit, Ananda là 3 Trạng Thái của 3 Ngôi của Thượng Đế.

          Sat: Trạng Thái Trí Tuệ sanh hoá của Ngôi Thứ Ba của Thượng Đế, tức là Brahma.

          Chit: Trạng Thái Minh Triết của Ngôi Thứ Nh́ của Thượng Đế, tức là Vishnou.

          Ananda (Chí Phúc): Trạng Thái Ư Chí của Ngôi Thứ Nhứt  của Thượng Đế, tức là Shiva.

[18] Nhiêu: Khoan dung.