GÓC TRỜI THIÊN THU

Cho một người nằm xuống:

Bác sĩ : PHẠM ĐỨC DỤ

Mới đấy mà hai mươi sáu năm trôi qua. Hai mươi sáu năm tính từ ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm làm tiêu mốc thời gian. Hai mươi sáu năm, vào một buổi sáng ngày chủ nhật, với những tảng mây màu ch́ đậu thật thấp, tôi xuống phố, t́nh cờ gặp lại tên anh trên trang báo Người Việt. Tên anh được in bằng khổ chữ thật lớn, thật nắn nót và được đóng khung lại một cách thật trang trọng. Chính anh! Phải! Đích thật tên anh. Rơ ràng tên anh được tô đậm ở trên đấy. Tôi sợ ḿnh bị hoa mắt, hay bị lầm lẫn, hoặc đôi khi có sự trùng hợp về tên tuổi chăng! Tôi dơ tay lên dụi mắt, cố mở to rồi đọc lại thêm một lần nữa. Dưới tên anh, c̣n ghi chú rơ ràng về địa danh cùng đơn vị mà anh đă từng phục vụ trước kia. Châu Đốc. Bệnh viện quân dân y phối hợp. Tôi có nghe anh nói rất nhiều về bệnh viện này. Đấy là đơn vị cuối cùng của đời anh trong quân ngũ. Th́ ra là chính anh. Mà tại sao lại chính anh? Bao nhiêu câu hỏi lần lượt đổ về chất vấn nơi tâm tư tôi. Choáng váng, tôi ngẩn người, thừ ra nghe ḷng ḿnh tê điếng. Anh đă ra đi và thật sự ra đi khi tuổi đời vừa tṛn ở con số sáu mươi. Sáu mươi năm, anh xuôi tay giă từ tất cả. Sáu mươi năm, anh bỏ lại bao nhiêu người thân yêu cùng bạn bè thương tiếc anh. Bỏ lại cái quê hương tạm bợ, phù phiếm trần thế này, để bước sang một cuộc hành tŕnh mới. Cuộc hành tŕnh đi về với thế giới huyền ảo, xa xăm. Cái thế giới của an ḥa, của vĩnh phúc. Cái thế giới không bao giờ có ngục tù, xiềng xích. Cái thế giới chẳng bao giờ nghe tiếng đạn réo trong đêm. Cái thế giới với đầy đủ ư nghĩa thiêng liêng và nhiệm màu về hai chữ hạnh phúc, vinh hiển ở trên đấy.

Đọc tên anh trong thoáng giây quá đột ngột, quá bất ngờ, khiến cho tôi cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt. Tôi xúc động vô ngần. Tờ báo trên tay tôi tự động rơi xuống từ lúc nào mà tôi chẳng hề hay biết. Tôi sững sờ gục đầu vào tay lái, tưởng nhớ về anh, về chuỗi ngày tháng đọa đầy, khốn cùng tại xó trời dĩ văng. Cái dĩ văng tủi nhục của người lính tản hàng sau thảm họa tháng tư đen. Cái dĩ văng ấy chẳng khi nào xóa nḥa nơi tâm khảm ở nơi anh, tôi cùng mọi người khác nữa.

Th́ ra, giữa tôi cùng anh chỉ cách nhau chưa đầy gang tấc. Anh sinh sống ở quận Cam. Tôi cũng nằm trong diện tích ấy. Bao nhiêu lần xuôi ngược mà vẫn chưa có một lần gặp mặt. Phải chăng, giữa chúng ta cùng chạy trên hai đường thẳng, mà hai đường thẳng song song với nhau th́ đâu có khi nào gặp nhau trong toán học. Nhưng có một điều, là cho dù ở đâu, cho dù lúc nào, tôi cũng vẫn nhớ đến anh, đến anh Kiệt, anh Thao cùng mọi ngừoi khác nữa. Làm sao mà tôi có thể quên được chuỗi ngày thang đó! Chuỗi ngày tháng khổ sai trong khu rừng chàm U Minh tối tăm, ẩm thấp. Chuỗi ngày tháng mà chúng ḿnh phải trầm ḿnh dưới con kinh đục ngàu giống như màu nước vối, để kéo từng khối mạ về nông trường. Những buổi trưa nắng nhễ nhại, lem luốc mà chúng ḿnh phải đứng thành hàng ngang, để chuyền đất, đắp nền hoặc làm đường vân…vân... Không bao giờ tôi quên! Bao nhiêu mồ hôi nhục nhằn, cay đắng mà chúng ḿnh đă từng nhỏ xuống mảnh đất ấy. Chung quanh, mấy họng súng AK đen ng̣m đang hướng về chúng ta, kéo theo những cặp mắt nẩy lửa, căm hờn của những tên cảnh vệ c̣n non choẹt. Tự dưng, tôi liên tưởng đến các buổi trưa cay nghiệt. Các buổi trưa mà chúng ḿnh nghỉ giải lao ngoài trời trong bữa cơm tẻ nhạt, ngao ngán. Trong khi đó, những sợi mưa nghiệt ngă cứ lạnh lùng trút xuống, kéo theo những gịng nước mắt đang trào ra trong tâm tư của mỗi người chúng ta. Thoáng chợt, tôi bắt gặp cái nh́n của anh đang hướng về phía tôi. Qua cặp kính trắng dầy cộm, tôi thấy sao mà nặng trĩu, buồn vô hạn. Tôi hiểu cái nh́n ấy. Cái nh́n như biểu lộ nỗi chua chát, u uất đang tiềm ẩn thâm sâu ở tiềm thức anh.

Bao giờ th́ chúng ḿnh mới thoát khỏi cái cảnh này hở Phúc!” Anh vẫn thường hỏi tôi như vậy. Tôi nói với anh: “Có thể là năm năm. Mười năm. Hai mươi năm hoặc không chừng c̣n kéo dài suốt cả một đời người. Điều đó cũng có thể xảy ra. Điển h́nh cho ta thấy, có rất nhiều người phải giam ḿnh cả hằng mấy chuc năm trời trong các nhà tù ở Liên Xô, cũng như ở Trung Quốc.  Ngay tại Việt Nam ḿnh cũng thế.  Sau năm một ngh́n chín trăm năm mươi tư, có biết bao nhiêu người bị ngược đăi dă man rồi chết thê thảm trong các trại tù khổ sai lao động ở miền Bắc. Nhưng có một điều tôi tin chắc rằng: Thể nào rồi cũng có một ngày chúng ta ra khỏi chốn này. Sinh th́ ắt phải có tử.  Mà vào th́ tất nhiên phải có ra. Tuy nhiên một khúc quanh lịch sử đâu có thể thu hẹp trong ṿng đôi ba năm mà c̣n phải kéo dài cả hàng mấy chục năm không biết chừng!”

Anh đồng ư với tôi về điểm này. Anh gật gù:

“Phúc nói đúng! Ở đời chẳng có ǵ tồn tại, bất diệt. Tất cả đều phải nằm trong cái mẫu số chung của định luật đào thải.”

 

Tôi biết anh kể từ khi chúng tôi được tập trung về hậu cứ của trung đoàn 33 thuộc sư đoàn 21 Bộ Binh. Căn cứ này nằm sát với kho bom Trà Nóc và cách đấy vào khoảng gần hai trăm thước là trung tâm 4 hồi lực. Ở đấy được chia ra làm bốn khu. Mỗi khu được ngăn ra bởi các hàng rào kẽm gai chằng chịt, kiên cố. Mọi quan hệ, giao dịch đều bị ngăm cấm tuyệt đối và c̣n cho đó là những quan hệ bất chánh, có tác hại đến vấn đề cải tạo của người khác.

Đối với Cộng Sản th́ bất cứ chuyện ǵ cũng gọi là học tập. Tự khai lư lịch cũng là h́nh thức học tập, là sự khởi đầu, là bài học nhập môn để mở cửa đi vào giai đoạn học tập chính trị. Bài học này được diễn đi diễn lại nhiều lần. Cán bộ lúc nào cũng lải nhải những câu học thuộc ḷng: “Các anh phải nh́n nhận tội lỗi của các anh trong quá khứ. Tất cả mọi người trong các anh đều có tội với tổ quốc và nhân dân. Chính v́ thế, các anh phải soi rọi lại bản thân và phải thành thật khai báo với Cách Mạng. Phải ra sức đấu tranh tư tưởng. Đây là cuộc đấu tranh quyết liệt và gay go. Phải đả thông tư tưởng, đồng thời hăng say, tích cực trong mọi công tác lao động, ngơ hầu sửa đổi lại bản thân để trở thành người hữu dụng cho đất nươc sau này. Có như vậy, các anh mới mong sớm được trở về với cộng đồng chung của dân tộc.”

“Nói th́ nói như thế, nhưng thực tế th́ khác hẳn. Chánh sách khoan hồng của đảng và nhà nước bao giờ cũng trước sau như một. Đảng nói mười ngày lại dăn ra thành mười năm. Đảng là cái thước để đo ḷng người. Đảng bao giờ cũng giơ cao đánh khẽ. Đảng chủ trương giáo dục, uốn nắn các anh trở về với nẻo ngay của dân tộc. V́ vậy, công cuộc cải tạo không thể đơn giản một sớm một chiều mà gội rửa hết được mọi tội lỗi của các anh trong quá khứ mà c̣n phải đ̣i hỏi một thời gian dài mới mong tẩy xóa hết được mọi lỗi lầm kể trên. Các anh phải phấn đấu. Phải đấu tranh với bản thân.”  Láo! Láo khoét! Tất cả đều rập khuôn như nhau. Tên nào cũng nói giống nhau y hệt, cùng một sách vở mà đảng đă ấn hành. Ai nấy đều bắt đầu chán nản. Năm tháng trôi qua. Rồi sáu tháng cũng thế. Chuỗi ngày tháng lạnh lùng, âm thầm đi qua, cuốn theo nỗi ngậm ngùi, xót xa quyện chặt ở trong đấy. Nhiều anh tụ lại xầm x́, bàn tán:

“Sao mười ngày lại dăn ra đến sáu tháng mà vẫn chưa thấy được ngày về!”

Có tiếng khác chen vào:

“Bây giờ th́ họ lại đổi ư nói khác. Chẳng biết đâu mà tin mấy ông này.”

“Sao lại cứ tin vào cái điều đó làm ǵ!”

“Như vậy hóa ra ḿnh bị lừa à.”

“Th́ lừa chứ c̣n ǵ nữa!”

Hôm sau tất cả đều bị gọi lên làm việc. Th́ ra bị báo cáo. Tất cả đều bị cách ly, nhốt trong cũi sắt. Khẩu phần ăn bị cắt xén c̣n phần nửa. “Đấy là h́nh phạt nhẹ tay đối với các anh đó. Làm sao mà các anh có thể về sớm được. Các anh không tin tưởng vào đường lối, chánh sách của Cách Mạng. Các anh phải nỗ lực học tập.” Đế quốc Mỹ là kẻ thù xâm lược của nhân dân ta, là bài học mở màn bước vào giai đoạn học tập chính trị. Chán ngấy. Mọi người đều thầm hiểu. “Sự trở về c̣n tùy thuộc vào thái độ thành khẩn của mỗi người trong các anh.” Bây giờ th́ thấy rơ lăm rồi. Đáp số của ngày về đâu có đơn giản như mọi người từng suy nghĩ trước đây. Thất vọng. Bao nhiêu hy vọng đều tiêu tan theo mây khói. Nhiều nguồn tin bịa đặt được tung ra. Tin về lực lượng quân đội thường xuyên xuất hiện ở vùng đồi núi Thất Sơn. Tin về đơn vị nhảy dù đụng độ với bộ đội Cộng Sản tại vùng rừng già Long Khánh. Ngày nào cũng có tin. Tin chẳng biết xuất xứ từ đâu đến. Tin được rỉ tai, th́ thầm, xuất phát từ ngă tư quốc tế, bên cạnh các hố rác hôi hám cùng mấy nhà vệ sinh tập thể sơ sài, nồng nặc mùi hôi thối. Chiều nào chúng tôi cũng phải ra đấy. Ra đấy là có tin. Có lần anh nói với tôi về chuyện này. Tôi nghiêm nghị:

“Anh nên thận trọng. Nhiều khi đấy là cái bẫy của mấy ông này không biết chừng.”

Anh đăm chiêu trả lời:

“Tôi cũng nghi lắm. Làm sao mà ḿnh tin vào các nguồn tin ấy được.”

“Ấy vậy mà có nhiều người tin như tin kinh tin kính. Dù sao th́ đấy cũng là cứu cánh, là nguồn hy vọng để mà sống.”

Vào tù tôi lại đâm ra thích hát. Tôi cho đó là phương pháp tốt nhất làm giảm bớt được phần nào sự suy nghĩ giữa những căng thẳng, tù túng nơi cuộc sống. Tôi thích hát nhạc t́nh. Loại nhạc mà người Cộng Sản lên án, gọi nó là nhạc vàng, nhạc ru ngủ, và đôi khi c̣n được gán ghép cho một cái tên là nhạc phản động. Tôi hát say mê. Hát vào những buổi chiều khi mặt trời xuống thấp. Hát với các người bạn quen thuộc với tôi. Với Cang, với Phước, với Lạc, với Phong, với Thanh cùng vài người bạn khác mà cho tới giờ này tôi không c̣n nhớ rơ tên. Chúng tôi hội tụ nhau lại thành một ban nhạc để hát cho bạn bè chúng tôi nghe. Mọi nhạc cụ đều do bàn tay chúng tôi tự làm lấy. Nó được thành h́nh bằng dao, bằng cưa và được đánh bóng, chau chuốt bằng các mảnh chai, hoặc khom người mài từ ngày này sang ngày khác. Tất cả đều đầy đủ chẳng khác nào một ban nhạc sống ở ngoài đời. Từ tây ban cầm, vĩ cầm, đại hồ cầm, cho đến bộ trống, chúng tôi cũng cố gắng thực hiện cho bằng được. Tôi vẫn c̣n nhớ cái tết đầu tiên ở trong tù. Một cái tết được cô đọng nơi kư ức của mỗi người trong chúng tôi bằng nỗi nhớ nhung, đau buồn và xót xa nhất. Cái tết mà hai chữ tự do bị trói buộc, ngăn cách bởi các hàng rào nghiệt ngă, tách biệt với cuộc sống ở bên ngoài.

Tết năm ấy, chúng tôi được thong thả qua lại, thăm hỏi nhau trong ba ngày tết. Chúng tôi tổ chức múa lân cùng lưu diễn văn nghệ cho toàn bốn khu. Dẫn đầu đoàn lưu diễn là ông bầu Phước. Anh trước kia nguyên là sĩ quan tâm lư chiến của trung đoàn 16 thuộc sư đoàn 9 Bộ Binh, đồn trú ở Vĩnh Long. Anh với tôi là bạn cùng một đơn vị. Anh có nhiệm vụ điều hợp và giới thiệu chương tŕnh. Chúng tôi đi đến đâu cũng được đón tiếp niềm nở và được tán thưởng nhiệt liệt. Bạn bè ngồi kín mít chung quanh để nghe chúng tôi hát. Cho đến giờ phút này, tôi vẫn không thể nào quên được nhạc phẩm “Xuân này con không về.” Chính bản nhạc này đă gây nên một sự xúc động mạnh mẽ, khiến cho nhiều người đă phải sụt sùi, rơi lệ. Để phá tan bầu không khí nặng nề, u uất đó, chúng tôi quên bẵng đi thân phận tù đầy, dơng dạc cất lên: “Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu vừa lấy lại đêm qua bằng máu…” Mọi người đều nhịp nhàng, đồng thanh vỗ tay. Dứt bản nhạc, ai nấy mới giật ḿnh, trố mắt nh́n chúng tôi bằng thái độ sợ sệt, lo lắng. Có tiếng anh nói vọng lên như nhắc nhở:

“Hát nhạc t́nh đi.”

Tôi hướng về phía anh:

“Anh thích bản nào?”

“Em hiền như ma soeur đươc không?”

Tôi gật đầu. Tiếng nhạc đệm bắt đầu trổi lên. Tôi cất tiếng hát. Qua tiếng thơ trữ t́nh của thi sĩ Nguyễn tất Nhiên, được chau chuốt bởi kỹ thuật tài t́nh, điêu luyện của người nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy đă đưa bản nhạc đến giá trị tuyệt vời của nó. Dứt bản. Tiếng vỗ tay nổ ran. Hứng khởi, tôi hát liên tiếp. Ngh́n trùng xa cách. Nha Trang ngày về. Ru em từ động hoa vàng. Em đến thăm anh một chiều mưa. Tôi hát không mệt mỏi. Tôi hát lên bằng sự rung động ch́nh ḿnh. Hát trong buổi đầu xuân tràn đầy nắng mới. Hát trong sự tủi nhục, căm hờn. Hát cho tất cả bạn bè tôi nghe. Những người bạn tù giống tôi. Những người bạn đang ngồi đấy. Những người bạn tù héo ṃn, đương thả hồn vương vấn về khoang trời kỷ niệm xa xôi nào đó. Mọi người đều im lặng phăng phắc. Tôi cố cất cao giọng hát, rồi nhỏ dần, nhỏ dần để châm dứt bản nhạc cuối cùng. Tiếng vỗ tay lại rộn ràng vang lên. Kết thúc. Chúng tôi ngồi quây quần lại với nhau bên chiếc ca cà phê đặc quánh, cùng đống bánh mứt được gửi vào từ gia đ́nh. Anh ngồi sat bên tôi, kề tai nói nhỏ:

“Cậu nên cẩn thận. Sau tết thể nào cũng có chuyện rắc rối xảy ra.”

Tôi quay sang anh:

“Cảm ơn anh! Chuyện đó th́ đương nhiên. Tôi sẽ có cách xoay sở.”

Thật vậy. Y như lời anh nói. Vừa mới bước sang mồng bốn tết, chúng tôi lần lượt bị gọi lên làm việc. Người đầu tiên là Phước. Tiếp đến là Thanh, Phong, Lạc, Cang và đến lượt tôi là người sau chót. Vừa thấy tôi bước vào, gă cán bộ đă trợn mắt rồi tỏ vẻ giận dữ:

“Cách Mạng đă mở lượng khoan hồng cho các anh vào đây để cải tạo, rèn luyện bản thân. Nào ngờ các anh lại tỏ ra ngoan cố và đồng thời có những tư tưởng chống đối lại chánh sách của đảng và nhà nước.”

Tôi điềm đạm ngồi xuống:

“Cán bộ bảo chúng tôi chống đối. Vậy chung tôi chống đối ở chỗ nào!”

Gă cán bộ đập mạnh tay xuống mặt bàn:

“C̣n không chống đối à! Nếu không chống đối th́ tại sao các anh lại hát nhạc vàng trong ba ngày tết. C̣n cờ bay, cờ bay ǵ nữa đấy!”

Tôi nhỏ nhẹ:

“À! Th́ ra cán bộ bảo chúng tôi hát nhạc vàng. Chuyện đấy th́ có. Chúng tôi không chối căi. Chúng tôi có hát loại nhạc này. Bởi v́, điều dễ hiểu, chúng tôi lớn lên ở miền Nam nên loại nhạc này đă thấm sâu vào huyết quản của chúng tôi từ lâu lắm rồi. Ngược lại, như cán bộ sinh sông ở miền Bắc th́ cũng thế. Hơn nữa, nhac Cách Mạng lại quá mới mẻ đối với chúng tôi. Chúng tôi cần phải có thời gian để làm quen và phải có sự hướng dẫn từ phía Cách Mạng. Cả như chúng tôi th́ ai nấy cũng đều bỡ ngỡ như nhau th́ làm sao mà lột tả hết được ư nghĩa sâu xa của nó.”

Gă cán bộ khựng lại. Vài phút sau, gă mới nh́n tôi cười gằn:

“C̣n anh! Tôi nghe nói rât nhiều về anh. Người ta phản ảnh với tôi, nào là anh thường hay có tư tưởng bài xích Cách Mạng. Nào là anh chưa có thái độ tích cực trong học tập cải tạo. Ngay trong bản tự khai, anh vẫn c̣n cố t́nh dấu diếm, chưa dứt khoát và không có sự thành khẩn ở trong đó.”

Tôi hạ thấp giọng rồi chậm răi:

“Cán bộ bảo có người phản ảnh về tôi. Vậy! Cán bộ có thể cho tôi biết họ là ai được không? Họ nói như vậy là trái với sự thật. Lúc nào tôi cũng phấn đấu. Lúc nào tôi cũng thành thật. Lúc nào tôi cũng tin tưởng vô biên vào chánh sách khoan hồng của đảng và nhà nước đề ra. C̣n cán bộ bảo tôi không thành thật khai báo, th́ điều đó cán bộ nên xét lại. Cuộc đời tôi gói ghém chỉ có bằng đấy, th́ thử hỏi tôi lấy đâu ra mà khai thêm được nữa? Chính cán bộ quản giáo cũng từng nói với chúng tôi rằng: Không được thêm hoặc bớt bất cứ điều ǵ trong bản tự khai. Điều quan trọng hơn hết là phải nói lên sự thật. Tôi nghĩ rằng: Tất cả những ǵ tôi đă khai ở trong đó, đếu làm đúng theo yêu cầu mà Cách Mạng hằng mong muốn.”

Gă cán bộ ngồi lầm ĺ giây lát. Măi sau, hắn ta mới mở lời hăm dọa:

“Các anh phải ráng cải tạo cho tốt rồi sau này c̣n phải cải tạo về mặt lao động nữa. Đừng có bắt chước theo anh Trương văn Tến và anh Toản th́ chỉ có thiệt thân.”

Tôi nhỏ nhẹ, dằn từng tiếng:

“Chúng tôi lúc nào cũng ra sức học tập. Chúng tôi biết rằng đảng lúc nào cũng trước sau như một. Đảng bao giờ cũng bao dung. Đảng là cái thước để đo ḷng người. Đảng lúc nào cũng dơ cao đánh khẽ. Bao giờ đảng cũng sáng suốt. Nhờ sáng suốt nên anh Tến mới bị đưa ra ṭa án nhân dân, rồi bị kết án tử h́nh cũng chỉ v́ anh ấy dại dột trốn trại. C̣n anh Toản bị nhốt trong cũi sắt cho đến chết cũng chỉ v́ anh ấy có tư tưởng chống lại Cách Mạng. Trước hai cái chết đó, anh em chúng tôi mới sáng mắt ra, đồng thời nhận thấy rằng: Chỉ có mỗi con đường duy nhất là cải tạo th́ mới thấy rơ được ngày về.”

Gă cán bộ cau mặt, bực tức chỉ tay ra ngoài:

“Thôi! Anh về dưới láng đi. Chỉ nói vớ vẩn.”

Ngay buổi chiều hôm ấy, gặp anh, tôi liền kể cho anh nghe. Anh ra chiều lo lắng:

“Cậu trả lời khôn khéo lắm đấy. Nhưng tôi sợ bọn nó đang để ư đến cậu. Cậu nên cẩn thận th́ hay hơn.”

Tôi nói vừa đủ nghe:

“Trước sau th́ tôi cũng sẽ trốn. Dù nguy hiểm đến thế nào đi chăng nữa, tôi cũng sẽ trốn khỏi nơi này. Tôi chỉ chờ cơ hội thôi anh ạ.”

Tôi kể cho anh nghe, vào một đêm tối trời, tôi cùng hai người bạn đang chuẩn bị cắt rào để ḅ ra, th́ ngay lúc ấy toán cảnh vệ đột ngột, bất thần đi xuống, khiến cho chúng tôi đành phải hủy bỏ kế hoạch trong đêm đó.”

Anh trố mắt nh́n tôi khuyên:

“Cậu gan thật. Đừng dại dột. Không nên. Trốn ra th́ chỉ có con đường chết. Tốt hơn hết là phải nhẫn nại chờ cho đến khi ra lao động.”

Nếu tôi nhớ không lầm, th́ vào khoảng tháng bảy năm bảy mươi sáu, chúng tôi được lệnh thu xếp đồ đạc cá nhân và chuẩn bị sẵn sàng tại chỗ. Lại có tiếng bàn tán, xầm x́ nổi lên:

“Chắc lại di chuyển đi nơi khác chứ ǵ!”

“Mà di chuyển đi đâu chứ.”

“Làm sao mà biết được.”

Ai nấy đều thở dài ngao ngán. Lát sau mọi người mới chợt hiểu. Th́ ra, thanh lọc lại hàng ngũ. Thành phần nguy hiểm như ban hai, t́nh báo, an ninh quân đội, chiến tranh chính trị được tách rời ra, tập trung vào môt khu riêng biệt. Tôi đem ư nghĩ về họ. Tôi có linh cảm như họ sắp sửa bị đưa đến một nơi thật xa lắm. Tôi mường tượng ra vùng cao nguyên hẻo lánh mà tôi đă từng đồn trú trước đây. Nào ngờ, măi cho đến sau này, khi tôi ra tù, t́nh cờ gặp lại anh bạn cũ, tôi mới biết, họ bị đưa ra lao động khổ sai tận vùng Hoàng Liên Sơn ngoài miền Bắc. Hắn kể cho tôi nghe về trận mưa đá, ngay sau khi họ vừa đặt chân xuống mảnh đất thành đồng xă hội chủ nghĩa. Họ căm thù chế độ miền Nam. Miền Nam là ung nhọt, là quái thai, là tay sai của đế quốc. Miền Nam là biểu tượng của tội ác. Miền Nam đồi trụy. Miền Nam là cả sự giả tạo phồn vinh. Bao nhiêu căm phẫn đều trút xuống tấm lưng gầy của người tù từ miền Nam đưa ra. Họ bị xỉ vả, bị nhiếc mắng bằng đủ mọi thứ ngôn từ xấu xa, thô tục nhất. Họ ví người lính miền Nam là thứ hung tàn, bạo ngược. Họ không hiểu! Họ bị đầu độc, nhồi sọ từ khi c̣n ngồi ở ghế học đường. Chính sách giáo dục thâm độc của nhà nước khiến cho mọi người có cái nh́n sai lệch về lịch sử. Đảng muốn gieo vào tâm tư trẻ thơ bằng hạt giống oán hờn. Họ dạy trẻ thơ bằng đủ mọi h́nh thức. Ngay trong những bài toán đố cũng vậy. Anh bộ đội bắn được ba tên đế quốc Mỹ mỗi ngày. Hỏi, trong ṿng một tuần lễ, anh ấy bắn được bao nhiêu kẻ thù? V́ thế, họ chỉ biết có căm thù. Họ chỉ biết có đảng. Đảng là tuyệt đối. Đảng là ngọn đuốc soi sáng, dẫn lối cho họ tiến bước. Măi cho đến sau này, người miền Bắc mới hiểu được người miến Nam, mới thấy được sự chênh lệch quá xa giữa miền Nam và miền Bắc. Xă hội chủ nghĩa là cái nôi của sự nghèo đói. Ḥa b́nh có, nhưng tự do, no ấm th́ không! Xă hội càng ngày càng sa đọa, càng tối tăm đi xuống. Từ đó, họ bắt đầu thay đổi cái nh́n đối với người tù từ miền Nam đưa ra. Hắn c̣n kể cho tôi nghe, có nhiều mối t́nh nở ra ngay trên đất Bắc, giữa cô y tá trạm xá với một anh tù miền Nam nằm điều trị ở tại đấy.

Thành phần c̣n lại, chúng tôi được biến chế thành đội ngũ để chuẩn bị đi lao động. Dịp này, tôi may mắn được ở chung với anh cùng một tổ. Anh là mẫu người biểu hiện cho hai chữ tư cách. Lúc nào anh cũng tỏ ra cởi mở, vui tính, hoa nhă với tất cả mọi người ở chung quanh. Chưa khi nào anh tỏ ra khiếp nhược trước những thái độ hung hăng của mấy tên cán bộ ngổ ngáo. Với anh, lúc nào cũng nhă nhặn. Lúc nào cũng trầm tĩnh. Lúc nào cũng nụ cười điểm trên môi như để che đậy mọi suy tư thầm kín đang tiềm ẩn, tích lũy ở bên trong. Gần anh, tôi cảm thấy mến anh nhiều hơn. Ngay từ buổi đầu tiên, anh đă nói nhỏ với tôi về gă đội trưởng. Gă nguyên trước kia cùng ở chung với anh một đơn vị. Gă thuộc thành phần không tốt. Gă muốn lập công để về sớm. Gă luôn luôn ve văn, o ế cán bộ. Anh dặn tôi:

“Anh nên đề pḥng tên này. Có nó th́ đừng có hát.”

Tôi biết. Bao giờ tôi cũng cảnh giác. Tôi hát cho các anh nghe về gịng nhạc tiền chiến. Anh thích êm dịu. Thích Đoàn Chuẩn, Từ Linh. Thích Lá đổ muôn chiều. Thích Thu quyến rũ. Thích Gợi giấc mơ xưa. Chuỗi âm thanh lăng đăng, quyện xoắn vào không khí hoang lạnh của buổi hoàng hôn, bên chiếc ca cà phê c̣n nóng hổi, đắng ngắt, tự nhiên chúng tôi cảm thấy ấm lại. Anh hỏi tôi về hoàn cảnh gia đ́nh. Tôi nói với anh:

“Tôi có ba cháu. Hiện giờ nhà tôi cùng các cháu đang sinh sống ở Sài G̣n. C̣n anh?”

Anh cho tôi biết, anh vẫn c̣n nằm trong t́nh trạng độc thân. Anh c̣n bà mẹ già và bà vẫn thường lặn lội đi thăm anh. Tôi đem ư nghĩ về các bà mẹ Việt Nam. Những bà mẹ bao la như biển cả mông mênh. Những bà mẹ nuôi con bằng gịng sữa ngọt ngào của chính ḿnh. Những bà mẹ mớm cho con từng miếng cơm, chuyền cho con từng hơi ấm nồng nàn và chắt chiu, tận tụy, chăm bón cho con đến ngày khôn lớn. Công lao ấy làm sao mà có thể diễn đạt được hết thẩy mọi ư nghĩa cao quí, sâu sắc của nó. Nghĩ đến đấy, tự nhiên tôi thấy dơm dớm nước mắt.

 

Sống gần gũi với anh chỉ trong khoảng thời gian quá ngắn ngủi. Trên chuyến tàu đổ xuôi xuống vùng cực nam của đất nước. Ghé Chương Thiện, ngồi giữa nhà lồng chợ, bên ly cà phê đen đậm như chính cuộc đời của chúng tôi lúc bấy giờ. Chung quanh, hiện ra những người đàn bà tảo tần, lam lũ. Những người đàn bà trong chiếc áo nhàu nát, cũ mèm, ngả màu theo mưa nắng. Những chiếc áo phản ảnh phần nào đời sống trung thực ở bên ngoài, mà trong đó có vợ con tôi cùng người thân của anh đang bươn trải ở Sài G̣n.

Tàu cặp bến Đá Bạc. Biển động. Chúng tôi phải nghỉ lại một đêm tại một xóm chài nghèo nàn, hiu quạnh, rồi hôm sau thức dạy, lầm lũi, trực chỉ tiến thẳng vào nông trường. Nông trường chưa thành h́nh. Nông trường c̣n là vùng lau sậy bạt ngàn, kín mít. Bao nhiêu sức lực cùng mồ hôi của chúng ḿnh đổ đầy ở trên đấy. Trên từng các nền nhà. Từng con đường mà chúng ta ra sức đắp từ ngày này sang ngày khác. Từng ao cá cho đến từng ngôi nhà mà chúng ta dựng nên. Rồi nông trường thành h́nh, bắt đầu đi vào sản xuất. Anh ở lại, c̣n tôi chuẩn bị lên đường đi nơi khác. Đêm hôm ấy, tôi uống với các anh đến giọt cà phê cuối cùng. Anh đề nghị tôi hát. Tôi hát lên nho nhỏ “Các anh đi ngày ấy đă lâu rồi…” để riêng tặng các anh. Từ đó, ít khi tôi có dịp hát lại. Lâu lâu, tôi lại chợt nhớ đến anh. Đến khuôn mặt trầm tư mà tôi không thể nào quên được. Khuôn mặt ấy đă cuộn xoắn vào toa tàu kỷ niệm ở trong tôi.

Sáng hôm sau, tôi cùng bạn bè lại lên đường đi đến một phương trời khác. Rồi tôi trốn trại, t́m đường sang biên giới. Anh bạn đi theo tôi bị trúng đạn, bỏ xác nằm sơng soài ngay bên bờ của con kinh Vĩnh Tế. Từng bá súng giáng túi bụi xuống người tôi. Từng cú đá thô bạo thúc mạnh vào cạnh sườn, khiến cho tôi ngất lịm đi lúc nào không biết. Bao nhiêu trận đ̣n thê thảm, kéo dài từ tuần này sang tuần khác và cánh cửa nhà tù lại lần lượt mở ra, rồi nặng nề đóng chặt lại, chôn nhốt đời tôi ở trong đó.

Tôi viết những gịng chữ này cho anh. Những gịng chữ quá muộn màng, thô thiển. Những gịng chữ mộc mạc, chất chứa, thể hiện ở trong đấy cả một chuỗi giây t́nh cảm chân thật mà tôi hằng ấp ủ từ lâu. Đọc tin anh, tôi bồi hồi, chua xót. Tôi chẳng có th́ giờ để đến viếng xác anh! Tôi cũng chẳng có th́ giờ để tiễn đưa anh về với căn nhà mới! Căn nhà tĩnh mịch, êm đềm của một đời kế tiếp, bất tận. Đêm đêm, tôi hằng nguyện với ḷng ḿnh: Rồi sẽ có một ngày tôi sẽ ra thăm anh. Cuộc đời là biển dâu, là tro bụi, là phù du. Có phải đúng như vậy không anh!

Từ khi biết tin anh trên báo, tôi liền xin lễ cho anh và tối đến tôi thường cầu nguyện cho linh hồn anh sớm được về miền vĩnh phúc. Anh sẽ về. Tôi biết rằng anh sẽ về. Nhiều đêm tôi nằm mơ thấy anh đang lơ lửng trên các từng mây. Các từng mây bồng bềnh đưa anh về vùng trời quê hương mới. Quê hương của vĩnh cửu, của an b́nh. Quê hương với đầy đủ ư nghĩa cao cả về hai chữ hạnh phúc thiêng liêng và đích thật của nó.

Hăy ngủ yên nghe anh!

 

TRANG LUÂN