Nguyễn Hộ

    Nhân Vật Đối Lập Công Khai Tại Việt Nam

 

Tác Phẩm :

- Quan Điểm và Cuộc Sống (20/05/1993)
- Chỉ Có Con Đường Duy Nhất : "Lột Xác"(17/02/1995)

Ngày 20 tháng 3 năm 1994, một bản tin của Pháp tấn xă đánh đi từ Hồng Kông tiết lộ rằng, ông Nguyễn Hộ, 77 tuổi đời và 54 tuổi Đảng, đă bị bắt lần thứ hai trong thời gian 4 năm, v́ đă phổ biến một tài liệu mang tựa đề "Quan Điểm và Cuộc Sống", kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam hăy từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê Nin và thẳng thắn chấp nhận con đường tư bản chủ nghĩa, bởi v́ theo tác giả, con đường đó đă và đang được áp dụng ở Việt Nam rồi.

Vậy ông Nguyễn Hộ là ai và tại sao tài liệu của ông lại bị đảng đánh giá là vô cùng nguy hiểm?

Theo lời nói đầu của tập tài liệu, ông Nguyễn Hộ cho biết, ông sinh ngày 1 tháng 5 năm 1916 tại G̣ Vấp, Sài G̣n. Gia đ́nh rất nghèo, chỉ đủ tiền nuôi ông ăn học vài năm và sau đó, ông trở thành thợ máy của xưởng đóng tàu Ba Son năm 19 tuổi. Ông vào Đảng Cộng Sản năm 1937, bị tù và bị đày ra Côn Đảo (1940-45). Ông được giải thoát khỏi Côn Đảo năm 1945, sau đó được thăng chức rất nhanh trong hàng ngũ cán bộ Cộng Sản. Ông đảm trách chức vụ Ủy viên Thường Trực của Ban Thường Vụ Ủy Ban Kháng Chiến Sài G̣n - Chợ Lớn (1950-52).
Sau khi đất nước Việt Nam bị phân chia vào năm 1954, ông tập kết ra Bắc và tham gia các hoạt động công đoàn công nhân. Từ Bắc trở về miền Nam năm 1964, ông phụ trách công tác tôn giáo vận, khu vực Sài G̣n - Gia Định. Sau khi Cộng Sản chiến thắng năm 1975, ông trở thành một trong những nhân vật lănh đạo quyền lực nhất trong hàng ngũ cán bộ Cộng Sản ở miền Nam.

Nghỉ hưu từ năm 1987 (ở tuổi 71), ông có nhiều thời gian sống gần gũi nhân dân, nhận thức được sự khốn khổ của dân chúng dưới chế độ Cộng sản.

Sự va chạm đầu tiên của ông với luật pháp xảy ra vào năm 1990, sau khi ông cùng với một vài lănh tụ nổi danh của miền Nam thành lập Câu Lạc Bộ Cựu Kháng Chiến, rồi xuất bản tờ báo mang tên Truyền Thống Kháng Chiến. Câu Lạc Bộ nầy đă thu hút hội viên trên toàn quốc. Chẳng bao lâu sau, nó trở thành là nơi xuất phát những lời phê phán các chính sách của nhà cầm quyền, nhất là lề lối đối xử tồi tệ đối với cựu chiến binh và trí thức. Báo chỉ xuất bản được hai số (vào cuối năm 1989) và hai số báo đó đă khiến cho chính phủ ra lệnh tịch thu báo số 3 và đóng cửa Câu Lạc Bộ.

Không chịu đựng được áp lực của nhà cầm quyền, ông Nguyễn Hộ đă rời khỏi Sài G̣n ngày 21 tháng 3 năm 1990 và trở thành nhân vật công khai đối lập. Một tháng sau, vài cộng sự viên của Câu Lạc Bộ Cựu Kháng Chiến bị bắt. Đó là các ông Tạ Bá Ṭng, Hồ Văn Hiếu, Đỗ Trung Hiếu và Lê Đ́nh Mạnh. Hậu quả của phong trào nầy là từ tháng 12 năm 1990 đến tháng 5 năm 1991 có 35.000 người bị bắt, theo sự tiết lộ của báo Quân Đội Nhân Dân hồi tháng 5 năm 1991.

Vào tháng 8 năm 1990, Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đến thăm ông Nguyễn Hộ và cố gắng thuyết phục ông từ bỏ con đường đối lập. Nhưng việc thuyết phục nầy đă thất bại, do đó ông Nguyễn Hộ bị bắt ngày 7 tháng 9 năm 1990. Ông Hộ bị bắt giam hoặc bị quản thúc tại gia suốt 3 năm sau và cho đến ngày 20 tháng 5 năm 1993 vẫn chưa được thả ra. Ông can tội ǵ? Phải chăng chỉ v́ ông đă tuyên bố: "Hơn 60 năm đi theo con đường cách mạng Cộng Sản, nhân dân Việt Nam đă chịu đựng vô vàn hy sinh và rồi cuối cùng chẳng được ǵ cả. Đất nước vẫn c̣n nghèo nàn, lạc hậu như thuở xưa, nhân dân không được no ấm và hạnh phúc, không được tự do và dân chủ. Đó là một sĩ nhục".

Vài tuần sau khi bị bắt lần thứ hai, ông Nguyễn Hộ bị đau nặng cần phải được điều trị. Ông tranh đấu để được về nhà, và có tin cho biết là ông đang bị quản thúc tại gia.



 

 

Quan Điểm và Cuộc Sống
Của Nguyễn Hộ

Mấy lời của tác giả :

Tôi tên Nguyễn Hộ, sanh ngày 01 tháng 5 năm 1916 (77 tuổi), tại xă Hạnh Thông (tức phường 10), quận G̣ Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Lúc c̣n nhỏ, tôi chỉ học hết cấp 2 (sơ học yếu lược) thời Pháp thuộc năm 1933. V́ gia đ́nh nghèo, tôi không thể tiếp tục đến trường mà phải đi học nghề, làm thợ tại xưởng đóng tàu Ba Son (1935) vào lúc 19 tuổi. Tại đây từ năm 1936 (20 tuổi), tôi bắt đầu tham gia cách mạng, tham gia phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ và được kết nạp vào đảng cộng sản Đông Dương (tức đảng cộng sản Việt Nam sau nầy) năm 1937 (tức 21 tuổi). Sau 5 năm hoạt động, tôi bị bắt vào tháng 4 năm 1940 trên đường đi vào nhà máy và bị tù 5 năm ở Côn Đảo. Đến cuối năm 1945, tôi được cách mạng tháng 8 giải phóng về và tiếp tục hoạt động đến sau nầy. Suốt quá tŕnh cách mạng ấy tôi đă kinh qua các trách nhiệm như sau:

a/ Thời kỳ đấu tranh dân sinh dân chủ (1936-1940).

b/ Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

c/ Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (lúc đất nước chia cắt hai miền Nam Bắc).

d/ Về miền Nam công tác (1964-1975)

e/ Thời kỳ sau 30/04/75 trở đi (1975-1987)

Liền sau đó Câu lạc bộ kháng chiến thành phố ra đời. Tôi tham gia hoạt động với tư cách Chủ nhiệm câu lạc bộ. Kể ra, ngay từ đầu, anh em kháng chiến thiết tha xin lập hội những người kháng chiến th́ bị thành ủy và UBND thành phố từ chối và chỉ cho phép thành lập Câu lạc bộ những người kháng chiến mà thôi, mặc dù điều 67 của hiến pháp c̣n ghi rành rành các quyền tự do của công dân: tự do hội họp, tự do lập hội....Tất nhiên, tổ chức hội và tổ chức Câu lạc bộ có thực sự khác nhau về nội dung, quyền hạn và phạm vi hoạt động. Tuy vậy, dựa vào nội dung quyết định của ủy ban nhân dân thành phố về nhiệm vụ, quyền hạn của Câu lạc bộ kháng chiến:

Những người tham gia câu lạc bộ kháng chiến đă tiến hành hoạt động bằng các h́nh thức: hội thảo, mít tinh, kiến nghị, viết báo, ra báo nhằm các mục tiêu cụ thể chống tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, ức hiếp trù dập quần chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn nhau v́ đặc quyền, đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ đảng và nhà nước, ngoài ra xây dựng tổ chức, phát triển hội viên, thực hiện đoàn kết tương trợ, thăm hỏi chăm sóc gia đ́nh kháng chiến, thương binh liệt sĩ.

Với tinh thần đấu tranh chống tŕ trệ, tiêu cực nói trên, câu lạc bộ kháng chiến thành phố đă kiến nghị:

Thế nhưng đối với lănh đạo (đảng và nhà nước) các cuộc đấu tranh bằng h́nh thức nói trên của câu lạc bộ kháng chiến thành phố là một sự đe dọa. Do đó, lănh đạo đă t́m mọi cách hạn chế, ngăn chặn các hoạt động của câu lạc bộ như: không cho hội thảo, mít tinh hoặc có hội thảo, mít tinh nhưng số người dự ít thôi; tịch thu ấn bản để câu lạc bộ không ra báo được. Trước khó khăn đó, với tinh thần bám chặt các quyền tự do dân chủ của công dân đă ghi rơ trong hiến pháp như: tự do ngôn luận, tự do báo chí... anh em câu lạc bộ phải cấp tốc đem bài vở chạy xuống Mỹ Tho - Tiền Giang để nhờ giúp đở. Tại đây, anh em địa phương rất nhiệt t́nh, h́ hục suốt ngày đêm làm xong ấn bản lần thứ hai th́ lại được lệnh của ban tuyên huấn tỉnh uỷ là không được in báo cho câu lạc bộ kháng chiến thành phố. Thế là anh em câu lạc bộ phải chạy xuống Cần Thơ - Hậu Giang cầu cứu với ấn bản có sẳn. Nhờ sự thông cảm và tận t́nh của anh em địa phương, chỉ trong vài ngày, 20 ngàn tờ báo 'truyền thống kháng chiến' đă được in ra. Sở văn hóa thông tin ra lệnh tịch thu tờ báo số 03 nầy đang được phát hành và sau cùng cơ quan chính quyền đóng của vĩnh viễn báo 'truyền thống kháng chiến'. Tờ báo được nhiều cảm t́nh của đông đảo bạn đọc luôn luôn chờ đón.

Ngay lúc ấy, trung ương đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và bí thư thành uỷ Vơ Trần Chí cùng nhiều cán bộ khác kể cả Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng đă họp bàn kế hoạch tỉ mỉ nhằm đàn áp câu lạc bộ kháng chiến thành phố và nhiều nơi khác. Ư kiến phát biểu, lên án, buộc tội câu lạc bộ kháng chiến thành phố của Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng trong cuộc họp nói trên được in ra và phát hành khắp cả nước. Thế là, liền sau đó CLBKC/TP bị cấm hoạt động. Một câu lạc bộ kháng chiến mới với ban chủ nhiệm mới - như một thứ 'kiểng' trang trí, h́nh thành nhằm vô hiệu hóa, tê liệt hóa phong trào đấu tranh chống tiêu cực, suy thóai trong hàng ngũ đảng và nhà nước vừa mới dâng lên và cũng nhằm củng cố chế độ độc tài, phản dân chủ.

Trước không khí ngột ngạt ấy, tôi đă quyết định rời bỏ thành phố về sống ở nông thôn để tiếp tục cuộc đấu tranh v́ dân chủ tự do, v́ ấm no hạnh phúc của nhân dân đến hơi thở cuối cùng. Ngày 21/03/1990, tôi rời khỏi Sài G̣n cũng là ngày tôi ly khai đảng cộng sản Việt Nam. Đảng mà sau 54 năm đeo đuổi cách mạng (với tư cách đảng viên) của tôi, nay đă trở thành vô nghĩa. Sau cái ngày đáng ghi nhớ ấy khoảng hơn một tháng, một số anh em CLBKC/TP gồm: Tạ Bá Ṭng (Tám Cần), Hồ Văn Hiếu (Hồ Hiếu), Đổ Trung Hiếu (Mười Anh) bị bắt, cả Lê Đ́nh Mạnh - người ủng hộ tích cực CLBKCTP cũng bị bắt sau đó.

Vào cuối tháng 08/90, Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng Vơ Văn Kiệt đi gặp tôi ở vùng Phú Giáo - miền Đông Nam Bộ, cách Sài G̣n khoảng 60 cây số, tại cái cḥi sản suất của nông dân. Ông Kiệt hỏi tôi: "Thế nầy là sao? ". Tôi trả lời: "Thành phố ngột ngạt quá, tôi về nông thôn ở cho khỏe". Ông Kiệt nói: "Anh cứ về thành phố ai làm ǵ anh". Tôi đáp: "Rất tiếc, phải chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng th́ tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. C̣n bây giờ th́ đă muộn rồi, bởi v́ dưới sự lănh đạo của trung ương ĐCSVN lúc bấy giờ đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cùng các ông: Mai Chí Thọ, Vơ Trần Chí, Trần Trọng Tân, Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng... cả nước được chỉ đạo, phổ biến rằng tôi (Nguyễn Hộ) là tên phản động, gián điệp, móc nối với CIA, nối giáo cho giặc, tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền chống đảng, chống nhà nước. Lập tổ chức quần chúng (CLBKCTP) chống đảng, lật đổ chính quyền, ăn tiền của Mỹ, chủ trương đa nguyên, đa đảng nhằm lật đổ đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng đảng cộng sản Việt Nam đă đạp tôi xuống tận bùn đen, chôn vùi cả cuộc đời cách mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy được. T́nh h́nh như vậy tôi trở về thành phố làm ǵ trừ khi đất nước Việt Nam có dân chủ tự do thật sự. Do đó tôi quyết sống ở thôn quê cho đến ngày cuối cùng của đời tôi."

Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiệt diễn ra từ 7 giờ 30 phút sáng đến 11 giờ trưa th́ kết thúc và chia tay. Được biết là từ sau lần gặp gỡ đó, ông Kiệt tỏ ra phấn khởi và nhắn muốn gặp tôi lần thứ hai ở một địa điễm nào đó gần Sài G̣n để tiện việc đi lại. Khi được tin nầy, tôi có viết thư trả lời cho ông Kiệt rằng cuộc gặp gở lần thứ hai không cần thiết.

Sau đó, khoảng nửa tháng th́ tôi bị bắt (07/09/90) trên sông Sài G̣n vào lúc 7 giờ sáng khi tôi bơi xuồng vừa cặp vào bờ, định bước lên vào đám ruộng cạnh đó để hái rau má, rau đắng về ăn. Đúng vào thời điểm ấy, một chiếc ghe lớn đang chạy trên sông lại cặp sát xuồng tôi, trong đó có 6-7 thanh niên khỏe mạnh. Bỗng có tiếng hỏi to:"Bác ơi! bác có thấy một chiếc ghe nhỏ chạy ngang qua đây không?" "Không!" tôi trả lời. Liền đó có tiếng hét to: "Đúng nó rồi!".

Lúc bấy giờ, tôi mới biết là ghe của công an và nghe tiếng súng lên c̣ rốp rốp. Tức thời có hai công an cường tráng, tay cầm súng đă nạp đạn nhảy xuống mũi xuồng nơi tôi đang đứng. Tôi b́nh tĩnh hỏi:"Mấy chú muốn ǵ?". "Muốn ǵ về sở th́ biết" tiếng trả lời xấc xược của một công an. Hai công an đồng loạt nắm tay tôi, kéo mạnh ra phía sau rồi c̣ng ngay. Họ điều động tôi sát chiếc ghe lớn có tấm ván dài bắt từ mũi ghe xuống đáy. Họ xô mạnh tôi chúi mũi và tuột xuống đáy ghe. Ghe nổ máy chạy dọc con sông lên hướng Tây Bắc độ 15 phút th́ rẽ vào rạch nhỏ đi sâu đến bến. Tại đây có chiếc xe hơi nhỏ đậu sẳn. Tôi được điều lên xe và đổi c̣ng từ phía sau ra phía trước, với bộ y phục: quần xà lỏn đen và cái áo đen ngắn tay đă xuống màu, hai bên có hai công an ngồi sát và một công an khác ngồi phía trước. Sau nửa giờ xe chạy th́ đến nơi. Người ta đưa tôi vào một nhà lá trống trăi, không có cửa. Tôi được ngồi nghỉ trên cái gường gỗ nhỏ có trải chiếc chiếu cũ. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng chính lực lượng công an huyện Củ Chi đă săn bắt tôi (tất nhiên theo lệnh của sở công an thành phố và Bộ nội vụ).

Củ Chi tôi rất quen thuộc và thân thiết - đă gợi lên trong đầu óc tôi biết bao cảm nghĩ: Củ Chi địa đạo, bom đ́a, pháo bầy, Củ Chi tan nát, anh dũng, chịu đựng, gian khổ, hy sinh, nước mắt đau thương xen lẫn với nụ cười chiến thắng mà bản thân tôi trong một số năm chia xẻ đắng cay, ngọt bùi cùng đồng bào Củ Chi trong cuộc chiến tranh không cân xứng, vô cùng ác liệt giữa Mỹ và Việt Nam; hoặc nó gợi nhớ cho tôi bao nhiêu những kỷ niệm tốt đẹp trong hoà b́nh (1975-1989): đi thăm và uỷ lạo anh em thanh niên xung phong đang lao động xây dựng công tŕnh thuỷ lợi Kênh Đông Củ Chi để đưa nước từ hồ Dầu Tiếng về tưới cho hàng ngàn héc ta ruộng lâu nay thiếu nước của huyện; đi thăm và uỷ lạo các gia đ́nh có công với cách mạng, gia đ́nh thương binh liệt sĩ trong những ngày kỷ niệm lịch sử; hoặc đi thăm và tặng quà cho các thiếu nhi, học sinh nghèo của huyện; đi dự lễ trao tặng nhà t́nh nghĩa của ban, ngành, đoàn thể, cơ sở kinh doanh, sản suất cho gia đ́nh đối tượng chính sách trong huyện. Ôi! Ư nghĩ sao mà miên man.

Đúng 4 giờ rưỡi chiều hôm đó, tôi được đưa lên ô tô để về Sài G̣n. Trước và sau xe tôi c̣n có mấy xe khác đầy nhân viên công an. Khi đèn đường thành phố rực sáng th́ xe tôi đến cơ quan Bộ nội vụ (tức Tổng Nha Cảnh Sát cũ trước đây). Tôi ngồi ở cơ quan nội vụ hơn 1 giờ th́ được đưa thẳng lên Xuân Lộc (Đồng Nai), có nhiều xe công an hộ tống. Hơn 10 giờ đêm th́ tới Xuân Lộc, tôi được đưa đến một nhà trống (nhà tṛn) của k4 với một bán đội công an vơ trang đầy đủ. Được một tuần, người ta đưa tôi trở về thành phố quản thúc tại B́nh Triệu, ở một địa điểm đối diện với cư xá Thanh Đa. Sau hơn bốn tháng sống biệt lập luôn luôn có một tiểu đội công an canh giữ, tôi được đưa về quản thúc tại gia vào đúng ngày 30 tết nguyên đán (đần năm 1991) từ đó về sau nầy. Khi gặp tôi tại 3 địa điểm nói trên, các ông: Vơ Văn Kiệt (Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng), Mai Chí Thọ (Bộ trưởng bộ nội vụ), Vơ Trần Chí (Bí thư thanh uỷ), Vơ Viết Thanh (Thứ trưởng bộ nội vụ), Nguyễn Vơ Danh (Phó bí thư thành uỷ), Trần Văn Thanh (Thành uỷ viên) ... đều bảo tôi phải làm kiểm điểm (để qua đó lănh đạo sẽ xem xét và giải quyết vấn đề của tôi theo cách giải quyết nội bộ). Nhưng tôi nghĩ: tôi không có tội lỗi ǵ trong hành động của ḿnh - hoạt động câu lạc bộ kháng chiến, không lẽ đấu tranh chống tiêu cực (theo chủ trương, nghị quyết của ĐCSVN): chống tham nhũng, chống quan liêu cửa quyền, ức hiếp, trù dập, hăm hại quần chúng; chống tư tưởng bè phái, bao che cho nhau, những người đă gây biết bao tác hại cho nhân dân, đất nước, không đức, không tài mà cứ ngồi ĺ ở cương vị lănh đạo; đấu tranh chống tiêu cực, suy thoái như vậy là hành động phản cách mạng, phản động, nối giáo cho giặc sao? Do đó, tôi không làm kiểm điểm mà chỉ phát biểu quan điểm của ḿnh về t́nh h́nh chung trong nước và sự lănh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. (trên 20 trang)

Kiểm điểm là mang tính chất nội bộ. C̣n đây là việc hoàn toàn khác hẳn: người ta chỉa súng vào tôi, bắt c̣ng tôi, đem giam và quản thúc. Như vậy, vấn đề đă đi quá xa, c̣n đâu là nội bộ nữa, v́ tôi bị coi là kẻ thù của ĐCSVN rồi kia mà. Cho nên điều chủ yếu của tôi là chờ được đưa ra ṭa xét xử, xem tôi đă phạm tội ǵ, nặng cỡ nào với những chứng cớ chính xác của nó. Khi tôi bị bắt không hề có lệnh của ṭa án hay Viện kiểm sát. Hơn nữa, đă trên 2 năm bị quản thúc, vấn đề của tôi chưa được phơi bày trước ánh sáng công lư. Điều đó cho thấy ở Việt Nam hiến pháp, luật pháp bị chà đạp cở nào.

Câu lạc bộ kháng chiến thành phố bị đàn áp, tôi bị bắt cũng như một số anh em khác trước đó. Chúng tôi được nếm mùi c̣ng sắt của ĐCSVN - cũng giống như c̣ng sắt của đế quốc ngày xưa - rồi bị giam, bị quản thúc, trở thành người hoàn toàn mất tự do, cách ly với thế giới bên ngoài. Đó là điều bất hạnh.

Tuy nhiên, v́ tôi đă ly khai ĐCSVN lúc tôi rời thành phố về sống ở nông thôn (21/03/90), nên hơn lúc nào hết, về tinh thần và tư tưởng, tôi thấy ḿnh hoàn toàn tự do, hoàn toàn được giải phóng. Bây giờ, trên đầu tôi không c̣n bị kẹp chặc bởi cái "kềm sắt" của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, của đảng cộng sản nữa. Do đó, nó cho phép tôi dám nh́n thẳng vào sự thật và dám chỉ ra sự thật, đặc biệt trong t́nh h́nh sụp đổ của Đông Ấu và sự tan ră của Liên Xô. Khác với trước đây, khi c̣n là đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam - một thứ tù binh của đảng - tôi chỉ biết nói và suy nghĩ theo những ǵ mà cấp trên nói và suy nghĩ. C̣n hiện nay, tôi suy nghĩ rất thoải mái, không bị một sự hạn chế nào khi tư tưởng của tôi đă thực sự được giải phóng - tư tưởng đă bay bỗng. Bởi vậy, tôi tự phát hiện cho ḿnh nhiều điều lư thú mà bạn đọc sẽ có dịp t́m thấy trong bài viết nầy của tôi.

Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đ́nh tôi có 2 liệt sĩ: Nguyễn Văn Đảo (anh ruột) - Đại tá quân đội nhân dân Việt Nam - hy sinh ngày 09/01/66 trong trận ném bom tấn công đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Cũ Chi); Trần Thị Thiệt (vợ tôi) - cán bộ phụ nữ Sài G̣n - bị bắt và bị đánh chết tại Tổng Nha Cảnh Sát hồi tết Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận rằng, chúng tôi đă chọn sai lư tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi v́ suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đă chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được ǵ, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục.

Giữa tôi và bài viết của tôi là một thể thống nhất dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng "lột xác" đă diễn ra trong đầu óc tôi. Vậy xin mời bạn hăy đọc tiếp. Cám ơn.

Nguyễn Hộ

 


 

Quan Điểm và Cuộc Sống
Của Nguyễn Hộ

Phần 1 :

A. Trái Đất Đảo Lộn.

Chịu sự tác động của công cuộc cải tổ toàn diện đất nước Xô Viết vĩ đại bắt đầu từ tháng 04 năm 1985, thế giới đă bước vào một thời kỳ chuyển động khác thường, có thể nói là "chóng mặt" và vô cùng phức tạp.

Phải thừa nhận rằng trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô (cũ), dân chủ - công khai là động lực mang tính chất áp đảo đă tạo ra những chuyển biến có tầm vóc quốc tế đáng kinh ngạc. Những hiện tượng nổi bật của nó là :

- Cuộc đấu tranh đồng loạt cho dân chủ - tự do, chống chuyên chế độc tài, chống tham nhũng, đ̣i thành lập một nhà nước pháp quyền của hàng triệu sinh viên, học sinh, trí thức và các tầng lớp nhân dân thủ đô Bắc Kinh cùng với các thành phố khác của Trung Quốc hồi tháng 05 đă bị tàn sát đẩm máu tại Thiên An Môn và bị dập tắt ngay sáng ngày 04 tháng 06 năm 1989.

- Trận cuồng phong dân chủ - công khai ở Liên Xô (cũ) tràn vào Đông Ấu đă xoáy mạnh và làm tan ră các nước xă hội chủ nghĩa ở khu vực này kể từ tháng 10 năm 1989. Các đảng Mác-Xít cầm quyền bị sụp đổ, các lănh tụ bị bắt, đưa ra ṭa xét xử hoặc bị giết: Honecker (Cộng Ḥa Dân Chủ Đức), Tô-to-gíp-cốp (Bungari), Ceaucescou (Rumani), bức tường Bá Linh cắt đôi nước Đức suốt mấy mươi năm đă bị đạp bằng, Đông Đức sát nhập vào Tây Đức thành nước Đức thống nhất.

- Khối Vác-sa-va (Khối quân sự các nước xă hội chủ nghĩa Đông Ấu kể cả Liên Xô cũ) và hội đồng tương trợ kinh tế Châu Ấu (tổ chức kinh tế của các nước xă hội chủ nghĩa) đều giải thể (1990-1991).

- Theo sự cam kết của chính phủ Liên Xô (cải tổ) là không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hồng quân Liên Xô lần lược rút khỏi các nước Đông Ấu (từ năm 1990 trở đi) sau 45 năm chiếm đóng các nước này.

- Do sức ép mạnh mẽ của phong trào dân chủ, đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô (1990) đă thông qua quyết định hủy bỏ điều 6 của hiến pháp Liên Xô (cũ) về vai tṛ độc quyền lănh đạo của đảng cộng sản Liên Xô đối với đất nước Xô Viết hơn 70 năm trước đó.

- Cuộc đảo chánh nhằm lật đổ Tổng Thống Liên Xô M.Gorbachov của lực lượng bảo thủ chống cải tổ trong đảng cộng sản và nhà nước Liên Xô (cũ) nổ ra ngày 19/08/1991, song nó đă thất bại ngay sau đó (21/08/1991) bởi chiến thắng ngoan cường của của lực lượng dân chủ Mockba và Lê-nin-grát.

- Đảo chánh bị thất bại, M.Gorbachov trở lại vị trí Tổng Thống của ḿnh (21/08/1991), sau đó tuyên bố từ chức Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô và yêu cầu Uỷ ban trung ương đảng nên tự giải thể, đồng thời Tổng Thống Liên Xô đă kư sắc lệnh buộc đảng cộng sản Liên Xô ngưng hoạt động. Ở một số nước Cộng Ḥa, đảng cộng sản bị cấm hoạt động (Cộng Ḥa Liên Bang Nga), có nơi đảng cộng sản đă giải thể hoặc đổi tên khác để tiếp tục hoạt động.

- Chủ nghĩa dân tộc cực đoan bộc phát dữ dội, chưa từng thấy ở các nước Cộng Ḥa thuộc Liên Xô (cũ): tuyên bố độc lập và ly khai với Mockba (Liên Bang Xô Viết) đă làm rung chuyển đến cội rễ bộ máy nhà nước Liên Xô, cắt xén và làm suy yếu nó một cách nghiêm trọng đến độ nó chỉ c̣n là một Liên Bang lỏng lẻo, tự do và rất yếu đuối.

Tuy nhiên sự kiện làm chấn động dư luận thế giới là "cộng đồng các quốc gia độc lập" gồm 3 nước : CHLB Nga, U-cơ-ren-na Bê-la-rút ra đời (08/12/1991) đă thu hút hầu hết các nước Cộng Ḥa thuộc Liên Xô (cũ) c̣n lại than gia vào cộng đồng nói trên.

Mặc dù, M.Gorbachov thấy rơ trách nhiệm nặng nề của ḿnh là phải đưa đất nước Liên Xô vượt qua thảm họa của cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện về chính trị, kinh tế, xă hội, an ninh, quốc pḥng, sắc tộc, thậm chí đang có nguy cơ đảo chánh, nội chiến với quyết tâm kiên tŕ chủ trương kư kết hiệp ước Liên Bang mới (Liên Bang lỏng lẻo, tự do), nhưng tất cả t́nh h́nh diễn biến dồn dập, đột ngột, nhanh chóng kể trên đă tạo nên sức ép nặng nề đến độ buộc M.Gorbachov phải tuyên bố từ chức Tổng Thống Liên Xô đêm 25/12/1991 khi ông phát biểu ư kiến với nhân dân Liên Xô trên đài truyền h́nh Mockba về tổ chức "cộng đồng các quốc gia độc lập".

Thế là Liên Bang Xô Viết chấm dứt tồn tại và Tổng Thống Liên Xô M.Gorbachov cũng không c̣n, đi liền với sự ra đời của 15 nước Cộng Ḥa độc lập, tự do trên mănh đất Xô Viết cũ- 15 thành viên của Liên Hiệp Quốc.

V́ vậy nhiều câu hỏi đă được đặt ra: "thế giới sẽ đi về đâu? Chuyển động theo xu thế nào? Trước đây hùng mạnh như Phát Xít Hitler mà không làm ǵ nổi Liên Xô, c̣n ngày nay tại Liên Bang Xô Viết và đảng cộng sản Liên Xô lại dễ dàng tan ră như vậy ?".

Đúng! Chỉ trong mấy năm gần đây (1989-1991), thế giới biến đổi kỳ lạ và chưa từng có trong lịch sử. Sau năm 1945, cuộc chiến tranh lạnh với trên 40 năm tồn tại đă không ngừng thúc đẩy nhịp độ căng thẳng trên thế giới giữa Đông (xă hội chủ nghĩa) và Tây (TBCN) đến bờ vực thẳm của cuộc chiến tranh nóng thật sự, với qui mô toàn cầu đă vĩnh viễn chấm dứt (1990-1991), mở ra một kỷ nguyên mới trong xă hội loài người- chuyển đối đầu sang đối thoại, hợp tác, ḥa b́nh, dân chủ và phát triển.

Loài người đă thở phào nhẹ nhơm v́ đă vượt qua được cơn ác mộng triền miên nguy cơ chiến tranh thế giới thứ 3, chiến tranh hạt nhân hủy diệt, chiến tranh không có kẻ thắng người bại khi nó kết thúc chỉ có loài người (người nghèo khổ, vua chúa, quan lại, triệu phú, tỉ phú, quân đội, tướng lĩnh, công nhân, tư sản, người có đạo hay không có đạo...) sẽ bị tiêu diệt sạch sành sanh trên trái đất.

Hăy nghe Tướng Colin Powell - Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ- khi đến thăm Liên Xô (cũ) hồi tháng 7 năm 1991 đă tuyên bố tại Mockba rằng: "Trong điều kiện có hiệp ước Start- kư kết giữa Liên Xô và Mỹ trước đó: hai bên cam kết cắt giảm 30% vũ khí hạt nhân chiến lược- Liên Xô vẫn có khả năng tiêu diệt nước Mỹ chúng tôi trong ṿng 30 phút" (Liên Xô cũ có tất cả 11.000 vũ khí hạt nhân chiến lược được bố trí ở mọi hướng, nhắm thẳng vào mọi kẻ thù của ḿnh và trong tư thế sẵn sàng tiêu diệt chúng) và ngược lại, với sự cân bằng chiến lược cân bằng lực lượng quân sự giữa đôi bên (Liên Xô - Mỹ), Mỹ cũng có đủ khả năng tiêu diệt Liên Xô và đồng minh của Liên Xô (các nước xă hội chủ nghĩa) trong ṿng 30 phút. Cho nên mọi chiến tranh thế giới 3- chiến tranh hạt nhân huỷ diệt- nổ ra và kết thúc sẽ không có kẻ thắng người bại như mọi cuộc chiến tranh thông thường khác là trong ư nghĩa khủng khiếp đó.

Mặc dù thế giới vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp sau khi Liên Xô (cũ) tan ră: xung đột vơ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, phe phái đối nghịch nhau giành quyền lănh đạo (ở Nam Tư cũ, giữa A-déc-bai-gian và Ác-mê-ni, ở Gờ-ruđi-a, ở Ác-ga-ni-xtan, Ắ-gô-la, Xô-ma-li...v...v..), cả sự nổi dậy của bọn tân phát xít ở Đức, Ư, Tây Ban Nha... vẫn không thể làm đảo ngược được xu thế lớn, ḍng chảy của thời đại: đối thoại hợp tác, ḥa b́nh, dân chủ và phát triển. Cụ thể là trong thời gian xảy ra những cuộc xung đột kéo dài nói trên, Trung Quốc với dân số 1 tỷ người, từng giành thắng lợi lớn trong 14 năm cải cách kinh tế và mở cửa, đă tích cực đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm tạo ra một môi trường thế giới thuận lợi cho yêu cầu phát triển toàn diện đất nước Trung Hoa- đất nước có vị trí, vai tṛ to lớn góp phần ổn định ḥa b́nh ở Châu Á và thế giới. Do đó, từng những năm 1990 đến 1992, các đoàn đại biểu cao cấp của Trung Quốc đă có nhiều cuộc đi thăm hữu nghị các nước Đông Nam Á (Asean), Đông Ấu cũ, Châu Phi, Tây Ấu, Châu Mỹ la tinh, thăm Cộng Ḥa Liên Bang Nga và một số nước thuộc Cộng Ḥa Liên Xô cũ, thăm Ần Độ, Nhật Bản, mời vua Nhật sang thăm hữu nghị Trung Quốc (cuối năm 1992) đặc biệt đă thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng Ḥa Triều Tiên (Nam Triều Tiên) hồi tháng 08/1992 điều tối kỵ đối với nước Trung Quốc xă hội chủ nghĩa đă từng hy sinh hàng triệu người trong cuộc chiến tranh kháng Mỹ viện Triều năm 1951, và hiện nay đă và đang phát triển quan hệ buôn bán với Nam Triều Tiên gấp bội so với Bắc Triều Tiên xă hội chủ nghĩa : ngoài ra, Trung Quốc cũng đă thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng Ḥa I-xra-en từ lâu được coi là "kẻ thù không đội trời chung".

Theo xu thế đó, Trung Quốc cũng đă khôi phục lại quan hệ với nước cộng ḥa xă hội chủ nghĩa VN đă từng là kẻ thù của chính họ, vào cuối năm 1991.

Ngoài ra những cuộc xung đột vơ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, phe phái thù địch giành quyền lănh đạo diễn ra nơi này, nơi khác trên thế giới cũng không thể ngăn cản được nước cộng ḥa xă hội chủ nghĩa VN ḥa nhập vào cộng đồng các nước trên thế giới nói chung và khu vực Châu Á Thái B́nh Dương nói riêng. Nhiều đoàn đại biểu cấp cao của VN đă đi thăm hữu nghị các nước Asean- vùng cấm kỵ lâu nay đối với VN, và theo yêu cầu của ḿnh, VN đă được tham gia hiệp ước Ba-li, trở thành thành viên (dự bị- quan sát viên) của hiệp hội các nước Asean (Đông Nam Á), đi thăm Ần Độ, Cộng Ḥa Liên Bang Nga và một số nước Cộng Ḥa thuộc Liên Xô cũ, thăm một số nước Tây Ấu, Bắc Ấu, cải thiện quan hệ với Nhật, thiết lập quan hệ ngoại giao với Nam Triều Tiên (12/1992), đặc biệt đă cố gắng quên đi dĩ văng không mấy tốt đẹp, khôi phục lại quan hệ láng giềng thân thiện với nước Cộng Ḥa nhân dân Trung Hoa thông qua chuyến đi thăm hữu nghị nước này của đoàn đại biểu cấp cao của đảng và chính phủ VN do các ông Đỗ Mười và ông Vơ Văn Kiệt hồi đầu cuối năm 1991. Quan hệ b́nh thường giữa Trung Quốc và VN được khôi phục lại đă góp phần quan trọng vào việc ổn định t́nh h́nh khu vực Châu Á Thái B́nh Dương và thế giới. Qua các chuyến thăm hữu nghị các nước nói trên của VN, các hiệp định tay đôi về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật đă được kư kết; đó là những điều kiện tối cần thiết cho sự phát triển toàn diện của đất nước VN.

Hơn một năm qua, hội nghị ḥa b́nh Trung Đông đă gặp nhiều khó khăn, tiến triển rất chậm nhưng phải thừa nhận rằng nó có những tiến bộ nhất định kinh qua 8 ṿng đàm phán (thảo luận về khu vực tự trị của người dân Palestine ở vùng bị chiếm đóng).

Công cuộc thương lượng ḥa b́nh giữa Nam và Bắc Triều Tiên tuy có nhiều trở ngại, khó khăn lớn thậm chí có lúc bế tắc nhưng nó cũng đă đạt được những kết quả quan trọng: 2 miền Nam, Bắc triều Tiên cùng một lúc đă là thành viên của Liên Hiệp Quốc, hai bên đă kư kết hiệp ước bất tương xâm lược và thống nhất chủ trương phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên. Công cuộc thanh sát cơ sở hạt nhân giữa hai miền đă và đang trở ngại lớn của tiến tŕnh ḥa đàm và thống nhất đất nước Triều Tiên. Song sự nghiệp ḥa b́nh thống nhất Triều Tiên và nguyện vọng sâu xa và là mục tiêu cấp bách không thể đảo ngược được của nhân dân ở hai miền Nam Bắc.

Mặc dù Khơ-me-đỏ ra sức phá hoại hiệp định ḥa b́nh Pari về Cam-pu-chia, trắng trợn thách thức với Liên Hiệp Quốc và dư luận thế giới, nhưng bọn chúng nhất định sẽ thất bại, không thể đảo ngược được xu thế đi lên của đất nước Cam-pu-chia: chấm dứt chiến tranh, ḥa b́nh, ḥa hợp dân tộc, kiến thiết đất nước, thực hiện kinh tế thị trường và dân chủ đa nguyên.

Công cuộc giải trừ quân bị nói chung và giải trừ vũ khí hạt nhân chiến lược nói riêng vẫn được tiếp tục thương lượng để thi hành giữa Nga và Mỹ (đầu năm 1993) và cả thế giới đă nhất trí thủ tiêu vũ khí hóa học (12/1992) mặc dù đang có t́nh h́nh chuyển động mới về mua bán vũ khí các loại kể cả chất Pluto-nium trên thế giới gần đây v́ lợi ích củng cố quốc pḥng, phát triển kinh tế của mỗi nước.

Mỹ bắt đầu đóng cửa nhiều căn cứ quân sự ở Châu Ấu, rút hết quân khỏi căn cứ hải quân Subic lớn nhất ở Châu Á Thái B́nh Dương (12/1992) sau khi bỏ căn cứ không quân Clark khổng lồ ở Pli-líp-pin (do tác động của núi lửa Pinatubo).

Tất cả t́nh h́nh diễn biến phức tạp trên vẫn là nổi bật lên xu thế của thời đại, ḍng thác chính của thế giới ngày nay sau khi chiến tranh lạnh đă chấm dứt: đối thoại, hợp tác, ḥa b́nh, dân chủ và phát triển.

B. Con Người Của Lịch Sử.

Có được một bước ngoặc lịch sử vĩ đại của thế giới như vậy, đối với những người có hiểu biết, phải công tâm mà nói: đó là cống hiến lớn lao của cựu Tổng thống Liên Xô (cũ) M.Gorbachov người đă dám vượt lên bức trường thành của ư thức hệ cộng sản, làm cho toàn thế giới ḥa nhập vào nhau để tiến lên, chứ không phải bám chặt quan điểm và hành động đối đầu nhau, thậm chí sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau bằng chiến tranh hạt nhân hủy diệt.

Cho nên khi sang thăm nước Mỹ vào đầu năm 1992 sau lúc từ chức Tổng Thống Liên Xô rồi M.Gorbachov đă nói ở Chicago rằng: " Tôi đi đến đâu người ta cũng hỏi kỷ nguyên Gorbachov đă chấm dứt chưa ? - và tôi trả lời: kỷ nguyên Gorbachov mới bắt đầu."

Đúng vậy, sự diễn biến của thế giới sau khi Liên Xô tan ră như kể trên đă khẳng định câu trả lời của M.Gorbachov là rất chính xác, v́ kỷ nguyên Gorbachov: ḥa b́nh, đối thoại, ḥa giải, hợp tác, dân chủ và phát triển đă và đang không ngừng tiến triển rất khả quan. Do đó, người ta không thể cường điệu (thổi phồng) các cuộc xung đột vơ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, phe phái thù địch trong một nước hoặc giữa hai nước láng giềng nào đó trên thế giới giống như cuộc xung đột vơ trang hoặc chiến tranh về ư thức hệ với qui mô toàn thế giới giữa Đông và Tây (giữa xă hội chủ nghĩa), giữa Liên Xô (cũ) và Mỹ, giữa phe đế quốc chủ nghĩa và phe xă hội chủ nghĩa như trước đây, đặc biệt trong điều kiện Liên Hiệp Quốc ngày nay lại có ư thức và tiềm lực cho phép có thể dập tắt các cuộc xung đột cục bộ, địa phương nói trên.

Từ ư nghĩa đó, chúng ta cần chú ư đến sự đánh giá của dư luận thế giới đối với M.Gorbachov:

- Cựu bộ trưởng ngoại giao Liên Xô (cũ) E. Shevardnaze nói: "M.Gorbachov đă làm một số việc đi vào lịch sử như là một sự nghiệp vĩ đại, là một người đổi mới và một nhà cách mạng".

- Báo Express News (18/12/1991) viết: " Nếu Abraham Lincoln được nhớ ơn bởi việc giải phóng nô lệ th́ M. Gorbachov cần được ghi công bởi người dân Liên Xô và Đông Ấu bị xiềng xích. Cả hai nhân vật này đều đă làm thay đổi số phận hàng triệu người. Cả hai đều phải được công nhận là những nhà giải phóng vĩ đại."

- Trong thông điệp Giáng Sinh (24/12/1991), Tổng thống Mỹ G.Bush tuyên bố: "Nhân danh quốc dân Mỹ, tôi xin tỏ ḷng tri ân của tôi tới Tổng thống Gorbachov v́ trong bao nhiêu năm qua ông đă kiên quyết bảo vệ ḥa b́nh thế giới, và ông là bậc thức giả rất dũng cảm và nh́n xa trông rộng. Các chánh sách của ông đă cho phép nhân dân Nga và các nước Cộng Ḥa khác xóa bỏ hàng thập kỷ bị đàn áp và thiết lập nền tảng tự do. Di sản của ông đảm bảo cho ông một chỗ đứng danh dự trong lịch sử và tạo nền tảng chắc chắn cho Mỹ cộng tác một cách xây dựng với những người thừa kế ông."

- Ngoại trưởng Đài Loan F. Chien nói: "Những nổ lực của M. Gorbachov nhằm thúc đẩy Đông Ấu và Liên Xô tiến tới sự nghiệp giải phóng đă mang lại cho ông một chỗ đứng thích hợp trong lịch sử."

- Paul Keating - Thủ tướng Úc- đă nhận xét : "Vai tṛ của Gorbachov trong những năm cuối thế kỷ 20 là có tính chất quyết định và không nghi ngờ ǵ nữa ông sẽ được là một trong những nhân vật vĩ đại của thời hiện đại."

- Charles Fiterman - đứng đầu phái cải tổ trong đảng cộng sản Pháp - đă ca ngợi sự sáng suốt và dũng cảm của Gorbachov và nhận xét rằng: "ông (Gorbachov) sẽ được lưu danh trong lịch sử thời đại chúng ta một thời gian dài."

- Tổng thống Pháp- F.Mitteranđ đă dành những lời ca ngợi nồng nhiệt nhất cho M.Gorbachov và đánh giá Gorbachov là một trong những nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ này".

- Thủ tướng Anh J.Major nói với các phóng viên rằng: "Có rất ít người có thể thay đổi được xu thế lịch sử. Nhưng Gorbachov làm được , cho dù điều ǵ đang xảy ra hiện nay, nhưng vị trí của ông trong lịch sử đă được khẳng định".

- Bà Thatcher- cựu thủ tướng Anh- đă khẳng định: "Gorbachov là một vĩ nhân".

- Một nhà nghiên cứu về Liên Xô (cũ) tại Sơ-un (thủ đô Nam Triều Tiên) nói rằng: "Gorbachov có thể đi vào lịch sử như một con người vĩ đại, người đă chuyển sự đối đầu thế giới thành ḥa giải."

- Ông Đớp-Đắc-Chaim- chuyên viên của quỹ "di sản" (Mỹ) đă nhận xét : "Gorbachov không thất bại mà là bị nhận ch́m trong thành công của chính ḿnh... về 7 năm cầm quyền của ông, người ta sẽ viết và phân tích suốt nhiều thế kỷ."

Trong lịch sử đối với các bậc vĩ nhân, không chỉ có sùng bái, ca ngợi một chiều mà có cả phản bác, phản đối, lên án, thậm chí đ̣i đưa ra xử tội. Có bậc vĩ nhân được phụng thờ trong nhiều thập kỷ nhưng càng về sau càng bị quần chúng nhân dân phải đối mạnh mẽ dẫn đến hành động đập phá tượng đài, lăng tẩm, di chuyển hài cốt vĩ nhân, đóng cửa thư viện, nhà bảo tàng... v́ các học thuyết, quan điểm, giáo huấn của vĩ nhân trong thực tiễn đă gieo rắc biết bao nhiêu thảm họa cho nhân dân.

Độ dài và chiều sâu của sự tôn sùng của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các bậc vĩ nhân hoàn toàn lệ thuộc vào sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử. Vả lại, sự kiểm nghiệm ấy có khi phải kéo dài 50-70 năm th́ mới khẳng định được đúng, sai. V́ vậy khi chưa thông qua quá tŕnh kiểm nghiệm cần thiết, nghiêm túc nói trên, nếu có ư kiến tán thành hoặc phản đối đối với các vĩ nhân th́ vẫn chưa có cơ sở để coi đó là những ư kiến chính xác, có giá trị được.

Giải đáp cho câu hỏi thứ nhất có thể tạm ngưng ở đây. Bây giờ chúng ta hăy chuyển sang thảo luận, trao đổi với nhau về câu hỏi thứ hai đă nêu trên.

C. Ḷng Dân Quyết Định Tất Cả.

Rất đúng, trước đây Hitler đă từng tung ra trên 200 sư đoàn quân tinh nhuệ của chủ nghĩa phát xít Đức bất ngờ tấn công đất nước Xô Viết vĩ đại nhằm tiêu diệt Liên Xô (cũ)- thành tŕ của chủ nghĩa cộng sản thế giới- trong một thời gian chớp nhoáng; nhưng nó đă thất bại hoàn toàn v́ những người cộng sản và nhân dân Xô Viết anh hùng bao gồm các dân tộc trong Liên Bang đă đứng lên bảo vệ nó với bất cứ giá nào (đă phải hy sinh trên 27 triệu người); c̣n ngày nay, chính những người cộng sản từ Tổng bí thư, các uỷ viên trung ương, uỷ viên bộ chính trị đến các uỷ viên tỉnh uỷ, thành uỷ về những đảng viên cộng sản trung thực khác cùng với nhân dân Xô Viết, các dân tộc trong Liên Bang đă đứng lên thực hiện sự phủ định đối với đảng cộng sản và Liên Bang Xô Viết th́ không có sức mạnh nào có thể ngăn cản nổi. Ḍng thác cách mạng dữ dội ấy của quần chúng nhân dân mạnh gấp trăm, ngàn lần so với sức mạnh quân sự của Hitler trước đây.

Liên Xô (cũ)- trung tâm của phong trào cộng sản thế giới- bị sụp đổ không phải do sức tấn công từ bên ngoài mà chính là do sức mạnh nổi dậy từ trung tâm ấy sản sinh ra.

Cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Liên Xô M.Gorbachov (đồng thời l2 tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô) nổ ra ngày 19/08/1991 là sự phản ứng tột đỉnh của bọn bảo thủ, ngoan cố, phiêu lưu trong đảng cộng sản và nhà nước Liên Xô, muốn chấm dứt công cuộc cải tổ, trào lưu dân chủ - công khai, sự chuyển hướng theo kinh tế thị trường, sự ḥa hoăn giữa Đông và Tây (giữa xă hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) nhằm kéo Liên Xô trở về con đường cũ Xtalin; nhưng đảo chánh thất bại đă đưa đến hậu quả tất nhiên: hồi chuông kết thúc vai tṛ lănh đạo của đảng cộng sản và sự tồn tại của Liên Bang Xô Viết - Liêng Bang áp bức đối với các dân tộc Xô Viết hơn 70 năm qua và các dân tộc khác ở Đông Ấu.

Thật ra đă hiểu khi nói rằng cái ǵ không hợp với ḷng dân, với trào lưu lịch sử th́ cái đó không thể tồn tại được dù đó là đảng cộng sản Liên Xô, là Liên Bang Xô Viết đă từng giữ vai tṛ lớn lao trong lịch sử đất nước Xô Viết và thế giới, đă từng lănh đạo nhân dân quần chúng các dân tộc Liên Xô làm cách mạng, đánh bại phát xít Hitler, giải phóng đất nước Xô Viết và nhiều dân tộc khác trên thế giới: nhưng ngày nay lại trở thành đối tượng cách mạng mà quần chúng nhân dân phải vùng lên lật đổ.

Điều này càng cắt nghĩa rơ bài học ở Đông Ấu vừa qua: không phải quân đội Mỹ kéo vào để lật đổ các nước xă hội chủ nghĩa và các nước đảng cộng sản tại đây mà chính là nhân dân - những người đă từng chịu sự lănh đạo của các đảng cộng sản suốt 45 nằm dài đă qua, trong tay không có một thứ vũ khí nào, đă đứng lên thực hiện sự lật đổ ấy, do ḷng căm phẩn cao độ của họ đối với chế độ và sự lănh đạo của các đảng cộng sản đă trở nên lỗi thời, không c̣n phù hợp nữa.

Nguyên nhân cơ bản của t́nh h́nh trên là v́ các đảng cộng sản, sau khi giành được chính quyền rồi th́ ngày càng quan liêu, xa rời quần chúng, độc đoán chuyên quyền, độc tài tàn bạo, coi thường tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của quần chúng, thậm chí chà đạp lợi ích của họ, đă phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, liên tục, kéo dài, rất bảo thủ, ngoan cố nên không thể không bị quần chúng lật đổ.

Rơ ràng, các đảng cộng sản tuy có vai tṛ lănh đạo, nhưng lại không tiến kịp với đà phát triển của lịch sử và nghiễm nhiên trở thành chướng ngại đối với sự tiến hóa của xă hội. Do đó, đến lượt các đảng cộng sản không thể tránh khỏi qui luật đào thải - bị quần chúng gạt ra bên lề lịch sử. Bài học đắt giá của các đảng cộng sản Đông Ấu, Liên Xô là như thế đó.

D. Bám Chặt Cái Đă Lỗi Thời : Chủ Nghĩa Xă Hội Đói Nghèo, Lạc Hậu Và Đẫm Máu.

Nó hoàn toàn đúng khi có người nói: " Sau hơn 70 năm thể nghiệm ở Liên Xô (cũ), chủ nghĩa cộng sản đă hoàn toàn thất bại" "chủ nghĩa cộng sản là một lư tưởng cao đẹp nhưng khi thực hành th́ đầy thảm họa".

Chủ nghĩa xă hội ở Đông Ấu, Liên Xô sụp đổ (1990-1991) sau hơn 70 năm thực nghiệm cho phép người ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lenin, chủ nghĩa cộng sản đă lỗi thời, phá sản, không c̣n là niềm tin, hy vọng đông đảo của quần chúng nhân dân nữa.

Chủ nghĩa xă hội trong thực tiễn của nhiều thập kỷ đă phơi bày đầy đủ bản chất của nó : độc tài về kinh tế và độc tài về chính trị - bằng độc quyền lănh đạo của đảng cộng sản, tước đoạt tất cả sở hữu về tư liệu sản xuất của cá thể, tư nhân. tư bản chủ nghĩa và tước đoạt mọi quyền dân chủ tự do của nhân dân như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu t́nh, đ́nh công. Từ đó, chế độ xă hội chủ nghĩa tồn tại chủ yếu dựa trên cơ sở bạo lực (công an, quân đội và công cụ của đảng cộng sản, chứ không phải là công cụ của nhân dân), để đàn áp, bắt bớ giam cầm những ai không "ăn cánh" với đảng, thậm chí bắn giết tàn bạo, diệt chủng dă man (ở Liên Xô cũ trước đây, trong những thập kỷ 30-40-50, Xtalin đă từng giết hại, tra tấn tù đầy hàng triệu người dân Xô Viết và cán bộ đảng viên vô tội; ở Trung Quốc trong những năm 50-60, khi tiến hành công cuộc cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, thành lập xă hội nhân dân ( đại nhảy vọt), cách mạng văn hóa vô sản. Mao Trạch Đông - Giang Thanh và lũ tay sai khát máu đă giết hại, tra tấn, tù đày hàng chục triệu người dân Trung Quốc lương thiện và cán bộ đảng viên vô tội. Đặc biệt càng kinh ngạc là nhiều nhà lănh đạo kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc, cùng hoạt động cách mạng một thời với Mao Trạch Đông như : Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, La Thụy Khanh, Hạ Long... cũng bị hành h́nh, giết hại một cách thê thảm, và càng kinh khủng hơn nữa là cuộc tàn sát đẫm máu đối với cuộc biểu t́nh đ̣i dân chủ, chống tham nhũng của hàng ngàn, hàng vạn sinh viên, trí thức và các tầng lớp nhân dân Trung Quốc ngày 04/06/1989 tại Thiên An Môn (Bắc Kinh);đó là điển h́nh của một chế độ Phát-xít tàn bạo. Cũng như ở Campuchia trong những năm 70, Pôn-Pốt, Iêng-Sarry nhân danh những người lănh đạo đảng cộng và nhà nước Campuchia đă bắt bớ, giam cầm, tra tấn, giết hại bằng nhiều cách rất dă man hàng triệu người dân Campuchia và cán bộ đảng viên vô tội.

Rơ ràng, chính bản chất độc tài cả về kinh tế và chính trị, đi ngược qui luật khách quan mà chế độ xă hội chủ nghĩa tự bản thân nó tất nhiên đă giam hăm đất nước, nhân dân trong cảnh đói nghèo, lạc hậu triền miên, do đó không tạo ra được một năng xuất lao động cao, một sự phồn vinh sống động và ấm no hạnh phúc cho nhân dân (thu nhập b́nh quân đầu người rất thấp :Việt Nam 200 đôla, Trung Quốc 360 đôla... trong khi ở các nước tư bản chủ nghĩa :Nam Triều Tiên 5.500 đôla, Đài Loan trên 10.000 đôla, Singapo 12.000 đôla, Nhật Bản 23.000 đôla, Thủy Sĩ 27.000 đôla...)

Do đó, người ta không thể kinh ngạc khi nghe nói rằng phương thức sản xuất xă hội chủ nghĩa "ưu việt"- thực tế th́ yếu kém, tŕ trệ - lại sẽ "thay thế" phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa rất hoàn thiện, có đầy đủ sức mạnh áp đảo cả về kinh tế và chính trị hiện nay trên thế giới.

Sở dĩ có chuyện ngược đời như vậy là v́ trong chủ nghĩa xă hội, lợi nhuận được hiểu một cách lệch lạc, trở thành đối tượng bị lên án và tiêu diệt; trong khi đó lịch sử thực tiễn đă cho thấy rằng lợi nhuận chính là động lực vô cùng quan trọng, nó thúc đẩy sản xuất, kinh tế phát triển phi mă, xă hội không ngừng phát triển toàn diện và thực tế chính lợi nhuận đă đưa đến xă hội loài người đạt đến tŕnh độ văn minh ở đỉnh cao ngày nay.

Khác với thuyết "thặng dư giá trị" và " đấu tranh giai cấp", lợi nhuận đă tạo dựng nên sự nghiệp lớn lao, chói lọi cho loài người ngày nay. Điều đó có nghĩa là không có nó sẽ không có tất cả.

Tóm lại chủ nghĩa xă hội trên hai mặt có tính chất quyết định - kinh tế và chính trị - là một chế độ xă hội không hợp ḷng dân và trào lưu tiến hóa của lịch sử, nên nó đă bị bác bỏ ở khắp mọi nơi.

Tuy nhiên, hiện đang có nhiều ư kiến khẳng định rằng "chủ nghĩa Mác Lenin - chủ nghĩa cộng sản - không thể phá sản, lỗi thời mà nó đang phát triển mạnh ở Trung Quốc và VN. Sự sụp đổ ở Đông Ấu và Liên Xô chẳng qua là những hiện tượng khó khăn tạm thời trong quá tŕnh phát triển của xă hội loài người. Trong tương lai xă hội chủ nghĩa sẽ được khôi phục ở các nước nói trên v́ chủ nghĩa xă hội là nguyện vọng thiết tha của quần chúng nhân dân các dân tộc".

Do đó, đối với những ư kiến quan điểm nêu trên không thể khác được là cần phải trao đổi, thảo luận, phân tích một cách nghiêm túc: "Chủ nghĩa xă hội đang được xây dựng, phát triển ở Trung Quốc và Việt Nam ra sao ?

E. Chủ Nghĩa Xă Hội Hay Là Chủ Nghĩa Tư Bản ? Khôn Ngoan Và Trung Thực.

Trung Quốc và VN - hai nước xă hội chủ nghĩa ở Châu Á- đă có nhận thức sớm là phải cải cách, đổi mới kinh tế, v́ nếu cứ làm ăn theo lối cũ măi th́ sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xă hội - một xă hội phồn vinh, giầu có, ấm no hạnh phúc.

Cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở VN nói chung có nhiều điểm giống nhau: phục hồi kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân (tư bản trong nước) thậm chí mở cửa cho phép các nhà tư bản nước ngoài đầu tư, khai thác, kinh doanh tại nước ḿnh tuy vẫn duy tŕ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (sơ hữu toàn dân, tập thể- xí nghiệp quốc doanh, nông trang tập thể); thực hiện một nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, có lợi nhuận, có cạnh tranh.

Điều có ư nghĩa quan trọng là kinh tế cá thể, tư nhân (tư bản trong nước) được phục hồi cùng với những hoạt động, kinh doanh của các công ty tư bản nước ngoài th́ nền kinh tế ở mỗi nước (Trung Quốc, Việt Nam) trở nên sôi động với nhịp độ phát triển nhanh và cao, có một bộ mặt mới hẳn về kinh tế và đời sống, được dư luận rộng răi trên thế giới hoan nghinh- điều mà trước đây chưa hề xảy ra.

Từ thực tiễn đó đă bắt đầu có ư kiến trong cơ quan lănh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc rằng: "có thể sử dụng những yết tố, h́nh thức, khía cạnh của chủ nghĩa tư bản để phục vụ cho chủ nghĩa xă hội" và đến năm 1992 nhà lănh đạo kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh lại nhấn mạnh: "Trung Quốc cần học tập chủ nghĩa tư bản,làm theo mô h́nh tư bản chủ nghĩa", "không nên câu nệ mèo đen hay mèo trắng miễn là nó bắt được chuột".

Tuyên bố này được phổ biến rộng răi khi Tổng bí thư Giang Trạch Dân phát biểu ư kiến với sinh viên Bắc Kinh giữa năm 1992. Lời tuyên bố ấy của ông Đặng Tiểu B́nh có ư nghĩa rất quan trọng ở chỗ là từ trước tới nay, trong phong trào cộng sản quốc tế chưa hề có những ư kiến phát biểu như vậy, v́ nó trái hẳn với chủ nghĩa Mác Lenin và tất nhiên nó sẽ được coi là "hành vi phản bội" chủ nghĩa Mác Lenin. Bởi lẽ, theo tư tưởng Mác Xít, Lê-Nin-Nit, chủ nghĩa xă hội có thể tồn tại trên cơ sở phải tiêu diệt chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu cá thể, tư nhân) - môi trường sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, ra giai cấp người bóc lột người, để thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, tập thể)- "nền tảng vững chắc của chủ nghĩa xă hội". Cho nên sự tồn tại và phát triển của kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản chủ nghĩa với lợi nhuận, cạnh tranh và giai cấp người bóc lột người - đối kháng của chủ nghĩa xă hội th́ không thể gọi là chủ nghĩa xă hội được.

Sở dĩ Trung Quốc đạt được thành quả lớn lao về kinh tế như ngày nay sau 14 năm cải cách và mở cửa là nhờ có trên 80 tỉ đôla đồng vốn của tư bản nước ngoài đổ vào Trung Quốc và hàng năm (1991-1992) Trung Quốc có được số vốn nước ngoài 10 tỉ đôla - điều mà trước đây đảng cộng sản Trung Quốc nằm mơ cũng không hề có.

Thị trường chứng khoán cổ máy cái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa - được mở ra và phát triển mạnh mẽ ở Thẩm Quyến rồi lần lượt ở nhiều nơi khác của Trung Quốc; những đặc khu kinh tế được xây dựng ở Quảng Đông, các vùng ven biển càng làm cho nền kinh tế Trung Quốc mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản.

"Chủ nghĩa xă hội mang màu sắc Trung Quốc" là "chủ nghĩa xă hội" không theo tư tưởng Mác Lenin, đảo ngược hoàn toàn chủ nghĩa Mác Lenin. "Chủ nghĩa xă hội mang màu sắc Trung Quốc" là chủ nghĩa tư bản đích thực ở Trung Quốc. Như vậy chủ nghĩa tư bản được xây dựng ở Trung Quốc chính là thông qua sự lănh đạo ṿng vèo đầy mưu lược của đảng cộng sản Trung Quốc - đảng của chủ nghĩa Mác Lenin(?). Phải chăng đây là nghịch lư, ngược đời?

Tuyên bố:

"Học tập chủ nghĩa tư bản Làm theo mô h́nh tư bản chủ nghĩa"

là lời tuyên bố dũng cảm, đầy tinh thần cách mạng sáng tạo cầu thị của nhà lănh đạo cao niên (88 tuổi) Đặng Tiểu B́nh. Lời tuyên bố ấy bao hàm ư thức thừa nhận rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức sản xuất hoàn thiện nhất của xă hội loài người ngày nay; nó có sức thu hút, quyết rũ lạ thường và đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của nhân dân, của xă hội.

Cho nên nói chung phương thức sản xuất xă hội chủ nghĩa "ưu việt"(?) "sẽ thay thế" phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa " đă lỗi thời"(?) là điều rất ảo tưởng. Nó "ưu việt" nhưng đă tan ră đồng loạt kể cả Trung Quốc và VN th́ lấy ǵ để thay thế cái "đă lỗi thời" đang rất hùng mạnh kia ?

Đại hội lần thứ 14 của đảng cộng sản Trung Quốc (12-18/10/1992) vừa qua đă mở ra chân trời sáng lạn cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa của Trung Quốc mà không sợ bị cản ngăn, làm đảo ngược bởi lực lượng bảo thủ, v́ nó được nhân dân Trung Quốc trên 1 tỉ người ủng hộ, bảo vệ. Trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ trở thành một trong những nước tư bản chủ nghĩa hùng mạnh nhất ở Châu Á Thái B́nh Dương.

C̣n đối với Việt Nam th́ sao ? quyết tâm vẫn là "con đường xă hội chủ nghĩa". Vậy nội dung, thực chất của định hướng xă hội chủ nghĩa ở VN cụ thể là như thế nào?

Từ phương thức sản xuất chủ nghĩa xă hội giáo điều: tập trung, quan liêu, bao cấp dẫn đến hậu quả đói nghèo, lạc hậu triền miên, VN buộc phải đổi mới : xây dựng một nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần khác nhau trong đó điều quan trọng là khôi phục kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân (tư bản trong nước) và mở cửa cho tư bản nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh, khai thác.

Đối với kinh tế tập thể, quốc doanh, cái nào làm ăn thừa lỗ (phần nhiều thừa lỗ), khó tồn tại được th́ cho phá sản, giải thể. Cạnh tranh là thách thức lớn đối với hai loại h́nh kinh tế này.

Trong mấy năm gần đây (90-91-92), hàng năm có trên 3.000 đoàn nước ngoài (năm sau cao hơn năm trước) mà đại bộ phận là các nhà kinh doanh tư sản vào thăm VN.

Ngược lại, với hoạt động ngoại giao nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước, các đoàn đại biểu chính thức của nhà nước VN đă đi thăm chủ yếu các nước tư bản ở Châu Á, Châu Ấu, Châu Úc, Châu Mỹ cụ thể các nước như : Thái Lan, Ma-lai-si-a, Xin-ga-po, Phi-lip-pin. Indonesia, Bơ-ru-nây, Ần Độ,... Pháp, Đức, Thụy Điển, Hà Lan,... Mỹ, Úc...

Trong 5 năm từ khi có luật đầu tư của người nước ngoài tại VN (1988-1992), nhà nước đă cấp 555 giấy phép cho các công ty với tổng số vốn đầu tư đăng kư là 4 tỷ 527 triệu USD gồm :

- 500 xí nghiệp liên doanh.

- 66 xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.

- 59 hợp đồng hợp tác kinh doanh.

- 23 dự án dầu khí theo h́nh thức phân chia sản phẩm.

Các tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp từ 40 nước đă tham gia đầu tư tại VN vào các ngành như :công nghiệp dầu khí, nông lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện, khách sạn, du lịch, dịch vụ, tài chánh, ngân hàng,... Có trên 15 công ty nước ngoài đang thăm ḍ, khai thác dầu mỏ ở thềm lục địa Việt Nam.

Công cuộc xây dựng đất nước VN ngày nay, qua đổi mới, chủ yếu dựa vào các yếu tố như sau:

- Đồng vốn của tư bản nước ngoài (gần 5 tỷ đôla Mỹ)

- Công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại của các nước tư bản tiên tiến.

- Kinh nghiệm quản lư kinh tế tiên tiến của các nước tư bản.

- Công tác đào tạo cán bộ toàn diện rất hoàn thiện của các nước tư bản tiên tiến.

Tất cả t́nh h́nh nói trên cho thấy định hướng chiến lược của VN không phải là định hướng xă hội chủ nghĩa mà thực chất là định hướng tư bản chủ nghĩa :không phải là cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản mà là sự thỏa hiệp, đề huề, hợp tác giai cấp thậm chí liên minh giai cấp được thể hiện khi VN xin tham gia hiệp ước Ba-li và hiệp hội Asean - một tổ chức trước kia được coi là "công cụ xâm lược của Mỹ" ở Đông Nam Á Châu- và được Asean chấp thuận với tư cách quan sát viên. Sở dĩ có được kết quả tốt đẹp như vậy không phải chỉ do sự khéo léo trong hoạt động ngoại giao của phía VN mà điều quan trọng có tính quyết định là Asean nhận thấy sự diễn biến ở VN, đặc biệt là về kinh tế trong vài ba năm gần đây (90-91-92) đi ngoài dự đoán của họ, nghĩa là về tính chất, nó có cái ǵ đó giống nền kinh tế của họ, nếu chưa phải 100%, th́ cũng đă đạt tới 85-90% rồi, và nó sẽ không thể nào đảo ngược được mặc dù VN vẫn tuyên bố ḿnh là "nước xă hội chủ nghĩa". Chớ có lẽ Asean lại kết nạp một nước kẻ thù đích thực muốn tiêu diệt họ như trước đây vào tổ chức hiệp hội Đông Nam Á của họ sao?

Rơ ràng thuyết đấu tranh giai cấp và ư thức hệ Mác Xít trong điều kiện kể trên của ngày nay từ đó đă lỗi thời và phá sản.

Hiện nay đang diễn ra hiện tượng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới tức giữa nền kinh tế các nước có sự tác động xen kẻ lẫn nhau: nền kinh tế của một nước chịu sự tác động của nhiều nước ngược lại, một nước có thể tác động vào nền kinh tế của nhiều nước (nước Mỹ, nước Nhật tác động vào nền kinh tế của nhiều nước, ngược lại, nhiều nước khác lại tác động vào nền kinh tế của nước Mỹ, nước Nhật.)

Hiện tượng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ấy xuất hiện từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1946) và phát triển chủ yếu trong phạn vi từng khối riêng biệt :tư bản chủ nghĩa, xă hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt (1990-1991) hiện tượng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới mang tính chất tư bản hóa, thực dân hóa càng có điều kiện phát triển rộng khắp và mạnh mẽ hơn, v́ vậy, cải cách và mở cửa một nước xă hội chủ nghĩa nào đó là điều kiện tất yếu dẫn đến quốc tế hóa tức tư bản hóa, thực dân hóa nền kinh tế của nước đó.

Nếu trước đây VN đă từng đấu tranh chống thực dân cũ và thực dân mới bằng vơ trang suốt mấy mươi năm để bảo vệ độc lập, tự do và chủ quyền toàn vẹn của đất nước ḿnh th́ ngày nay, VN với chính sách đổi mới và mở cửa lại sẵn sàng đón nhận hàng chục (hiện đă có 40 quốc gia) thậm chí hàng trăm nước tư bản, thực dân (sau khi Mỹ bỏ cấm vận) vào nước ḿnh để khai thác, kinh doanh kiếm lời. Vả lại, khi nền kinh tế của VN được quốc tế hóa tức tư bản hóa, thực dân hóa th́ hai chữ độc lập của VN cũng cần được hiểu khác đi, linh hoạt hơn so với trước đây (ngay với nền độc lập của nước Mỹ cũng phải hiểu như vậy).

Tất nhiên, "định hướng xă hội chủ nghĩa " của VN lúc bấy giờ được ví như cái mũ mà người ta đội lên đầu đất nước ḿnh; c̣n thực tế toàn bộ sự vận hành của nền kinh tế thị trường VN vẫn phát triển theo qui luật của nó theo con đường tư bản chủ nghĩa hay c̣n được gọi là mô h́nh tư bản chủ nghĩa - dẫn đến phồn vinh, giàu có, ấm no, hạnh phúc, dân chủ tự do, văn minh hiện đại.

Điều mà ai nấy cũng có thể thấy rơ là sau khi Mỹ hủy bỏ cấm vận đối với VN th́ sẽ có hàng trăm, hàng ngàn công ty nước ngoài kéo vào làm ăn với VN. Các đặc khu kinh tế tự do, các thị trường chứng khoán, các chi nhánh ngân hàng các nước, các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, các xí nghiệp liên doanh trên các lĩnh vực : công nghiệp, nông lâm nghiệp, thủy sản, giao thông, vận tải và bưu điện..v..v.. sẽ được mở ra hoạt động kinh doanh xây dựng và phát triển mạnh mẽ. Hoạt động của các công ty xí nghiệp nói trên sẽ góp phần quan trọng làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế và đời sống VN, đưa VN mau lẹ thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu kéo dài, đạt đến phồn vinh, giàu có, thậm chí có thể trở thành một trong những con rồng thần kỳ của Châu Á: nhưng những kết quả hoạt động ấy tất nhiên không phải là để củng cố phát triển chủ nghĩa xă hội mà chính là để củng cố phát triển chủ nghĩa tư bản ở VN.

Chớ không lẽ, bằng chính sách đổi mới và mở cửa, đảng cộng sản VN lại có thể lănh đạo cả thế giới tư bản (gồm hàng trăm nước) như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ư, Nhật, Canada (G7- giàu nhất), Nam Triều Tiên, Đài Loan, Malaisia, Xingapo, Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan, Úc, Hà Lan, Thụy Điện, Ần Độ, Mehico,... đến VN xây dựng chủ nghĩa xă hội cho ḿnh sao ? Như vậy có ngược đời không ?

Phải chăng đảng cộng sản VN lại có ư định cho các nước tư bản vào làm ăn một thời gian có tính chất "vỗ béo" để rồi sau đó, với chiến lược "xă hội chủ nghĩa"- đấu tranh giai cấp quyết liệt ai thắng ai giữa hai con đường :tư bản chủ nghĩa và xă hội chủ nghĩa- của ḿnh sẽ tiến hành cải tạo, tước đoạt tất cả tài sản của "bọn họ" (bọn tư bản) và đuổi họ về nước như đă từng làm trước đây ? Nhưng liệu đảng cộng sản VN có khả năng làm nổi công việc đầy tính mạo hiểm ấy không ? Bài học: ngạo nghễ, thách thức, phiêu lưu của Sađam Hussein đă buộc nhân dân Iraq phải trả một giá quá đắt cho cuộc chiến tranh vùng vịnh : đất nước đẩm máu, tan tành, hy sinh quá lớn lao và vô nghĩa, đói khổ, chết chóc và tủi nhục kéo dài.

Hay phải trung thực nh́n nhận rằng chính chánh sách đổi mới và mở cửa của đảng cộng sản VN đă tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản giành toàn thắng trên đất nước ḿnh; đồng thời phủ định cái "chủ nghĩa xă hội" nghèo đói, lạc hậu và lỗi thời mà lâu nay vẫn được ấp ủ tại đây.

Trước t́nh h́nh cả thế giới xă hội chủ nghĩa (Liên Xô, Đông Ấu, Mông Cổ) sụp đổ, bên cạnh thế giới tư bản chủ nghĩa hùng mạnh đang tồn tại và quay tít về phía trước, VN t́nh nguyện "ḥa nhập" vào cộng đồng thế giới tức cộng đồng tư bản chủ nghĩa th́ VN cũng phải quay tít theo guồng máy tư bản chủ nghĩa nói trên, tuy VN c̣n thích đội cái mũ "xă hội chủ nghĩa". Ngoài ra không có sự chọn lựa nào khác cả.

Rơ ràng hiện nay, VN thực tế đang chuyển từ chủ nghĩa xă hội sang chủ nghĩa tư bản- tự quay 180 độ. Đó là điều không thể đảo ngược được. Vấn đề c̣n lại là phải có một tinh thần thật sự cầu thị, dám nói thẳng, nói thật. Đáng lẽ phải nói: Thưa các ngài tư bản,

Từ lâu, đi theo chủ nghĩa Mác Lenin, chúng tôi đă tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản của các ngài và thật sự, chúng tôi - phe xă hội chủ nghĩa - đă tiêu diệt được chủ nghĩa tư bản của các ngài trên qui mô rộng lớn của thế giới trong một thời gian khá dài. Thế nhưng chúng tôi đă thất bại do không tuân thủ qui luật khách quan trong việc xây dựng một phương thức sản xuất mới nhưng rất yếu đuối, tŕ trệ, không đem lại một năng suất lao động cao, một sự phồn vinh và cuộc sống tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân, xă hội và do đó, nó không có khả năng ǵ để thay thế phương thức hấp dẫn, thu hút mạnh mẽ của các ngài, và nó đă sụp đổ. V́ vậy, giờ đây chúng tôi thấy phải học tập các ngài, học tập chủ nghĩa tư bản, mà theo mô h́nh tư bản chủ nghĩa của các ngài và tất nhiên phải từ bỏ chủ nghĩa Mác Lenin - chủ nghĩa cộng sản - đă quá lỗi thời để tiến kịp theo các ngài trên con đường tiến hóa của lịch sử.

Đối với VN chúng tôi hiện nay: Tổ Quốc giàu có, hùng mạnh, nhân dân tự do, ấm no hạnh phúc là trên tất cả.

(viết xong ngày 19/01/1993 lúc c̣n đang bị quản thúc tại gia từ 07/09/1993 đến 19/01/93 ở TP Hồ Chí Minh)

Phần 2 :
Tư Bản Chủ Nghĩa Con Đường Không Thể Đảo Ngược Được.

A.- Mác-Lênin Với Chủ Nghĩa Tư Bản.

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời cách đây khoảng trên 300 năm (thế kỷ 17) là đối tượng nghiên cứu của Các-Mác và Ắn-ghen - hai nhà thủy tổ của chủ nghĩa cộng sản. Do đó bản tuyên ngôn của Đảng cộng sản mà Mác và Ắn-ghen là đồng tác giả đă được ông bố vào năm 1848, cách nay 145 năm, phân tích những mâu thuẩn, những mặt tiêu cực, yêú kém của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và bản chất áp bức, bóc lột thậm tệ của giai cấp tư sản lúc bấy giờ. Mác và Ắn-ghen đă đi đến kết luận xă hội rằng chũ nghĩa tư bản nhất định diệt vong, phương thức sản xuất xă hội chủ nghĩa sẽ thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cản ngại lớn của lịch sử tiến hoá của xă hội loài người. Vả lại, trên thực tế, chủ nghĩa tư bản đă bị tiêu diệt ở nhiều nước mà nên kinh tế c̣n rất lạc hậu, nghèo nàn (kinh tế tư bản chưa phát triển cao) như các nước Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Mông Cổ, An-ba-ni, Ru-ma-ni, Hung-ga-ri,...Đến khi Lê Nin với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917, càng khẳng định chủ nghĩa tư bản phát triển đến thời kỳ đế quốc chủ nghĩa là đêm trước của cách mạng vô sản và xă hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Thế nhưng kể từ khi có Tuyên Ngôn của đảng cộng sản (của Mác, Ắm-ghen) và quan điểm của Lê Nin về chủ nghĩa đế quốc đến nay (145năm) lại chưa hề có cuộc cách mạng vô sản bằng bạo lực nào xảy ra ở các nước tư bản phát triển nhất (thành đế quốc chủ nghĩa) như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ư, Nhật, Canada...bởi v́ tại đây, các Đảng cộng sản đều không tán thành cách mạng vô sản - cách mạng bạo lực - và chuyên chính vô sản, độc quyền lănh đạo của Đảng cộng sản, mà chủ trương đấu tranh bằng phương thức hoà b́nh: đấu tranh nghị trường với sự liên minh của nhiều đảng phái, lực lượng cấp tiến, đấu tranh bằng đ́nh công, biểu t́nh...cho lợi ích dân sinh, dân chủ của nhân dân lao động; cho hoà b́nh hữu nghị giữa các dân tộc, cho tiến bộ xă hội: và cũng v́ tính chất ấy mà Đảng cộng sản Anh đổi tên thành Đảng dân chủ xă hội; Đảng cộng sản Ư đổi thành Đảng dân chủ cánh tả vào những năm 1990 - 1991,...

B.- Tại Sao Chủ Nghĩa Xă Hội Hiện Thực "Tan Ră" ?

C̣n chủ nghĩa xă hội được xây dựng ở các nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu như đă nói trên trong suốt 45 năm hoặc trên 70 năm tuy có đạt được những thành quả nhất định về các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, giáo dục, ư tế, đời sống vẫn lâm vào t́nh trạng tŕ trệ. Khủng hoảng kéo dài thậm chí đưa đến sự sụp đổ của "chủ nghĩa xă hội hiện thực" hồi năm 1990-1991 (Đông Ấu, Liên Xô, Mông Cổ...) do sự vận động của nó trái với qui luật khách quan (chuyên chế toàn diện: độc tài về kinh tế, độc tài về chính trị và các mặt khác; tiêu diệt kinh tế cá thể, tư nhân, bóp nghẹt dân chủ tự do là nguyên nhân chính yếu của sự sụp đổ ấy.

"Chủ nghĩa xă hội hiện thực" tan ră và việc không hề xảy ra cách mạng vô sản, xă hội chủ nghĩa ở các nước tư bản tiên tiến nhất theo như dự đoán của Mác, Ắn-ghen, Lê Nin; đồng thời kinh tế cá thể tư nhân (tư bản) được phục hồi ở các nước XHCN đă tan ră và chưa tan ră, th́ lấy phương thức sản xuất nào để thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang là phương thức sản xuất hoàn chỉnh nhất, hùng mạnh nhất của xă hội loài người ngày nay ? và dựa vào cơ sở thực tiễn nào để nói rằng chủ nghĩa tư bản nhất định diệt vong ? (nếu nói theo cảm tính, quán tính hoặc theo sách vở, giáo điều th́ có giá trị ǵ ?)

C.- Chủ Nghĩa Tư Bản Tồn Tại Như Thế Nào ?

Người ta biết rằng trên 300 năm tồn tại và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một quá tŕnh đầy thử thách; khủng hoảng kinh tế định kỳ rất trầm trọng (hàng hoá dư thừa, ế ẩm do bán không được phải đem ra biển đổ hoặc đốt đi), nhân dân lao động sống lầm than, đói rách do bị áp bức bóc lột nặng nề phải vùng lên đấu tranh tự cứu lấy ḿnh bằng đ́nh công, biểu t́nh nhiều lúc có cả bạo lực; hai lần chiến tranh thế giới (1914-1918 và 1940-1945) bùng nổ giữa các nước tư bản mất đi một số nước (trở thành nước xă hội chủ nghĩa). tất cả t́nh h́nh ấy làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xă hội- chủ nghĩa cộng sản càng có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới.

Tuy nhiên, các nhà thủy tổ của chủ nghĩa cộng sản chỉ thấy chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn máy hơi nước (thế kỷ 19) và máy điện (đầu thế kỷ 20-hồi Lê Nin), chớ không hề thấy chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn của vũ khí hạt nhân, nguyên tử, của tin học, máy vi tính, rô-bốt (người máy), vệ tinh nhân tạo, con tàu vũ trụ bay vào không gian và lắp ghép với nhau, con người lên mặt trăng thám hiểm và dự định sẽ sinh sống tại đó,...Các nhà kinh điển của chủ nghĩa cộng sản chủ yếu nh́n thấy sâu sắc những mặt tiêu cực, khuyết tật của chủ nghĩa tư bản để từ đó rút ra kết luận và không bao giờ nghĩ rằng chủ nghĩa tư bản trong quá tŕnh phát triển đầy thử thách ấy, nó lại có nhiều khả năng tự điều chỉnh ḿnh, tự cải tạo, thậm chí "lột xác" để tiến lên bằng tiềm năng kho học kỹ thuật, bằng tŕnh độ tổ chức quản lư, bằng sức sáng tạo và nhiều chính sách xă hội hợp lư khác. Cho nên, trái hẳn với dự đoán của Mác-Lênin, chủ nghĩa tư bản đă tồn tại cho đến ngày nay (1993) trên 300 năm và chưa bao giờ chủ nghĩa tư bản phát triển hùng mạnh như bây giờ, và nhờ vậy nó đă đưa xă hội loài người đến đỉnh cao của nền văn minh. Với tuổi tác đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không những không già nua mà trái lại, nó giống như một lực sĩ c̣n rất sung sức với đầy đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu toàn diện và phức tạp của loài người. Như vậy, chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở hùng mạnh có một không hai và chưa từng có trong lịch sử, có thể tiếp tục tồn tại và phát triển lâu dài hơn so với thời gian tồn tại và phát triển đă qua. (trên 3 thế kỷ) của nó.

D.- Chủ Nghĩa Tư Bản Đi Đến Diệt Vong Dưới Dạng Nào ?

Câu hỏi được đặt ra là chủ nghĩa tư bản có diệt vong không và bao giờ? Như mọi sự vật trong thế giới tự nhiên, chủ nghĩa tư bản cũng không thể đứng ngoài qui luật của nó: có sanh, có tử, có phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhưng có điều có thể khẳng định là chủ nghĩa tư bản sẽ không diệt vong bởi cuộc cách mạng vô sản- bạo lực của Đảng cộng sản, v́ điều đó đă từng diễn ra và đă thất bại rồi ("chủ nghĩa xă hội hiện thực" sụp đổ trên phạm vi thế giới năm 1990-1991). Tuy nhiên đến lúc nào đó, chủ nghĩa tư bản cũng sẽ tiêu vong bởi những mâu thuẩn nội tại do phương thưc sản xuất của nó tạo ra, chứ không phải bằng một áp lực từ bên ngoài, giống như khi trái chín, nó rụng, chứ không phải nó bị người ta hái đi trước thời gian nó chín.

Sự phát triển của xă hội loài người đă trăi qua nhiều giai đoạn với những thay đổi lớn lao: "văn minh nông nghiệp (làng, xă), "văn minh công nghiệp" (thành phố và hiện nay đang bước vào giai đoạn của "văn minh trí tuệ" (chất xám) " - theo nhận định của nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler. Do đó những năm cuối của thế kỷ 20 này và đầu thế kỷ 21 tới đây, mọi vấn đề trong xă hội sẽ được giải quyết bằng máy tính điện tử, máy vi tính. Không những trong lĩnh vực sản xuất mà cả trong lĩnh vực kinh doanh, công tác, phục vụ, dịch vụ cũng đều sử dụng máy tính điện tử, máy vi tính. Chính thời đại bùng nổ thông tin - thời đại của máy tính điện tử, máy vi tính - đă giúp chúng ta (người Việt Nam) có thể ngồi tại nhà ḿnh và thông qua vệ tinh nhân tạo và máy truyền h́nh màu mà xem được "Thế vận hội" ở Mockba, Mehico, Bắc Kinh, Xê-un, Bác-xê-lô-na... và các trận đá bóng ở thủ đô các nước trên thế giới, hoặc như người dân Nga ngồi tại Mockba có thể đối thoại với người dân Mỹ đang ngồi tại Hoa-Thạnh-Đốn cũng thông qua các phương tiện thông tin nói trên. Thật là kỳ diệu nền "văn minh trí tuệ" (chất xám,khoa học kỹ thuật).

Với nền văn minh ấy, nhà máy, xí nghiệp không tổ chức đại qui mô như trước đây mà tổ chức theo qui mô vừa và nhỏ trong đó máy móc điện tử, máy vi tính giữ vai tṛ quyết định. Những xí nghiệp được rô-bốt hoá (toàn người máy) là những xí nghiệp sản xuất ra hàng hóa dồi dào chủ yếu do máy móc, chớ không có người lao động (công nhân). Như vậy, vấn đề mới đă phát sinh, xí nghiệp vẫn sản xuất nhưng lại không có công nhân - một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử.

Tin học hoá, rô-bốt hoá dần dần sẽ trở thành phổ biến trong hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác, phục vụ (dịch vụ) của xă hội loài người với nền "văn minh trí tuệ" ngày nay. Theo tin tức được biết: Nhật Bản chiếm 70% người máy (rô-bốt) trên thế giới, là nước đi đầu trong lĩnh vực rô-bốt hoá.

Từ "văn minh trí tuệ", những thay đổi lớn lao ấy không thể không ảnh hưởng đến các quan hệ xă hội, quan hệ giai cấp, quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa chủ và thợ. Chắc chắn quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa chủ và thợ sẽ dần dần lu mờ đi bởi những hiện tượng mới kể trên. V́ vậy, học thuyết về "thặng dư giá trị", về "đấu tranh giai cấp" của Các-Mác tất nhiên không thể không rơi vào t́nh trạng lăng quên. Nhưng sự tiêu vong của quan hệ giai cấp người bóc lột người, quan hệ chủ, thợ là một quá tŕnh diễn biến lâu dài dưới nhiều dạng cụ thể khác nhau đến khi không c̣n giai cấp nữa. Sự tiêu vong của quan hệ giai cấp ấy không phải được giải quyết bằng một cuộc cách mạng vô sản - bạo lực đẫm máu của Đảng cộng sản, mà bằng một cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật - cách mạng của "văn minh trí tuệ" - rất hoà b́nh, nhân hậu, không hề đổ máu.

Hoà b́nh và khoa học kỹ thuật - "văn minh trí tuệ" - nhất định sẽ đưa cả loài người đi đến một thế giới văn minh tột đỉnh: phồn vinh, tự do, ấm no hạnh phúc, công bằng xă hội và đầy t́nh người.

E.- Những Điều Nghịch Lư.

Như mọi người đều biết, khi trên thế giới xuất hiện hai hệ thống kinh tế, chính trị, xă hội: tư bản chủ nghĩa và xă hội chủ nghĩa song song tồn tại và đối đầu nhau quyết liệt th́ đồng thời cũng bộc lộ khá rơ nét những hiện tượng nghịch lư:

- Chủ nghĩa tư bản xuất phát từ của riêng, lợi ích cá nhân, lợi nhuận - từng bị lên án là "thối nát", phản động và "phải bị tiêu diệt" - nhưng trong tác động thực tiễn của nó lại dẫn đến những hậu qủa kinh tế, xă hội kỳ diệu, không lường trước được: năng suất lao động cao, hàng hóa dồi dào có thể thỏa măn mọi nhu cầu của xă hội, làm cho đất nước phồn vinh, giàu có, hùng mạnh, nhân dân ấm no hạnh phúc, xă hội phát triển đạt đến đỉnh cao của nền văn minh hiện đại ngày nay.

- Ngược lại chủ nghĩa xă hội được coi là "ưu việt", xuất phát từ của chung (sở hữu công cộng), luôn luôn v́ lợi ích của xă hội (tức không có của riêng, không có lợi nhuận, không có giai cấp người bóc lột người) nhưng trong tác động thực tiễn lại dẫn đến những hậu quả hoàn toàn khác hẳn: kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng bởi chính sách cải tạo xă hội chủ nghĩa, năng suất lao động thấp kém, hàng hoá đơn điệu, thiếu thốn không đáp ứng nổi các yêu cầu cấp bách của xă hội (tem phiếu, xếp hàng,quầy hàng trống rỗng...), đất nước lâm vào cảnh nghèo nàn lạc hậu triền miên, nhân dân sống cơ cực, lầm than, đói rách và không hề có dân chủ tự do.

- Rơ ràng, các mục tiêu của chủ nghĩa xă hội, dân chủ tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh, hiện đại lại không được tạo ra bởi chính phương thức sản xuất của nó mà ngược lại được tạo ra bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó, các nước xă hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc ngày nay phải thực hiện cải cách, đổi mới, tức là thông qua phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - tức kinh tế thị trường - để đem lại phồn vinh, giàu có, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

G.- Hiểu đúng kinh tế hàng hoá.

Rất đúng khi nói rằng kinh tế hàng hoá ra đời trước chủ nghĩa tư bản tức kinh tế hàng hoá có trước, kinh tế tư bản có sau. Tuy nhiên nó không mâu thuẫn khi nói rằng kinh tế hàng hoá - kinh tế thị trường - là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bởi v́ kinh tế tư bản phát sinh trên cơ sở của kinh tế hàng hoá. Vả lại, kinh tế hàng hoá trong chủ nghĩa tư bản mang những nét đặc thù (riêng biệt) của nó: phát triển vượt bực về qui mô, số lượng và chất lượng so với kinh tế hàng hoá trong điều kiện của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến (kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa có thể giúp con người đi nửa ṿng quả đất với thời gian khoảng 24 giờ (1 ngày 1 đêm); có thể ngồi tại nhà và xem ca nhạc, thể thao diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới,...- điều mà kinh tế hàng hóa của chế độ nô lệ và phong kiến không thể làm được. Cho nên nói kinh tế hàng hoá là kinh tế tư bản trong ư nghĩa đó. Vậy hiện nay, Việt Nam, Trung Quốc thực hiện thứ kinh tế hàng hoá nào ? Kinh tế hàng hoá của chế độ nô lệ, phong kiến hay tư bản ? Không lẽ v́ sĩ diện, muốn tránh né để không dính líu đến chủ nghĩa tư bản mà hai nước này lại áp dụng kinh tế hàng hoá của thời nô lệ, phong kiến sao ? Thị trường chứng khoán thuộc kinh tế hàng hoá nào ?

H.- Sự lựa chọn dứt khoát.

Xă hội tư bản - xă hội thừa nhận của riêng, lợi nhuận, có giai cấp, cạnh tranh gay gắt - là một xă hội năng động đáp ứng tất cả những ǵ mà nhân dân mong muốn, yêu cầu. Trong chủ nghĩa tư bản với năng suất lao động cao, hàng hoá dồi dào, đời sống cao, dân chủ tự do cao, nhân dân trở thành người chủ đích thực của xă hội. Tất cả điều đó đă cắt nghĩa việc hai triệu người Việt Nam sau năm 1975 đă di tản sang 70 nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt tập trung ở các nước phương tây (Mỹ, Canada, Pháp, Anh, Đức, Ư, Nhật, Hà Lan, Thụy Sĩ,...). Đó là sự lựa chọn dứt khoát và khá chính xác của những người dân b́nh thường mà có khi người cách mạng chân chính khó hiểu nổi, nghĩ không ra.

Hơn nữa những điều kể trên cũng cắt nghĩa được rằng các đoàn đại biểu của chính phủ CHXHCN Việt Nam vừa qua đă sang thăm hữu nghị các nước Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm Thái lan, Malaixia, Indonexia, Philipin, Bơ-ru-nây, Singapo,...; thăm Nhật Bản, Nam Triều Tiên,...và các nước phương tây (Mỹ,Anh,Pháp,Hà Lan,Đức,Thụy Sĩ,...) đă bị thu hút bởi những thành tựu kỳ diệu trong công cuộc xây dựng kinh tế,văn hoá,xă hội,môi sinh,...của các nước tư bản chủ nghĩa kể trên và ao ước sao Việt Nam cũng làm được như vậy.

Từ thực tiễn đó, ta thấy rằng không phải là vấn đề tiêu diệt chủ nghĩa tư bản như Đảng cộng sản từng khẳng định mà chính là vấn đề học tập và làm theo mô h́nh tư bản chủ nghĩa như thế nào cho tốt; cho nên cần khiêm tốn một chút v́ thực tiễn luôn luôn là chân lư sáng ngời.

I.- Tư bản hoá - Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.

Chủ nghĩa Mác-Lênin thường lên án chủ nghĩa tư bản là ích kỹ, tham lam, phản động, nhưng chính sự tồn tại và phát triển của nó trong mấy thế kỷ qua cho thấy khá đầy đủ toàn bộ tính chất xă hội của nó trong sản xuất, lưu thông, phục vụ (văn hoá, giáo dục, ư tế, môi sinh...ở từng nước). Như người ta thường nói đến hàng ngàn, hàng vạn công ty siêu quốc gia - công ty đa quốc gia tức nói đến những thứ hàng hoá nào đó của các công ty nói trên không những được sản xuất ngay trong nước mà c̣n được sản xuất ở nhiều nước khác và đồng thời được lưu thông tiêu thụ ở hằng trăm nước trên thế giới. Chính tính chất xă hội ấy đ̣i hỏi phải thúc đẩy công cuộc khu vực hoá, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và nhiều lĩnh vực khác nữa.

Hàng ngàn, hàng vạn công ty các nước đổ xô vào làm ăn ở một nước nào đó và ngược lại, hàng trăm, hàng ngàn công ty của một nước đến làm ăn ở hàng trăm nước khác trên thế giới đă nói lên tính chất phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, kể cả nước Mỹ bởi hiện tượng toàn cầu hóa nói trên.

Trong điều kiện đó, khu vực hoá kinh tế như Cộng đồng kinh tế Ấu Châu (EEC gồm 12 nước) và khu kinh tế tự do Bắc Mỹ (NAFTA gồm Hoa Kỳ, Canada, Mê-hi-co) là những bước tiến cao hơn trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Khu vực hoá nền kinh tế các nước là sự thai nghén đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, nhưng chính nó đă nói lên khát vọng muốn tiến măi không ngừng của con người.

Từ tháng giêng năm 1993, kế hoạch giai đoạn đầu của Cộng đồng kinh tế Ấu Châu là thực hiện ba không:

- Việc đi lại của công dân ở 12 nước thuộc cộng đồng không cần hộ chiếu.

- Đi lại mua bán xuất nhập khẩu hàng hóa giữa 12 nước không qua hải quan.

- Tiền của một nước không bị cấm tiêu xài ở 11 nước khác của cộng đồng.

Nếu đến cuối năm 1993, Quôc Hội các nước trong cộng đồng đều thông qua hiệp ước Mastritch th́ đầu năm 1994 sẽ bắt đầu thực hiện Liên Minh kinh tế và tiền tệ của giai đoạn hai.

Thật là kỳ lạ, chủ nghĩa tư bản không hề chủ trương "thế giới đại đồng" nhưng lại thực hiện "thế giới đại đồng". C̣n CNCS th́ chủ trương, hô hào tiến tới một "thế giới đại đồng" nhưng lại thực hành một quốc gia khép kín, tự cung, tự cấp (ích kỷ), bế môn tỏa cảng (Bắc Triều Tiên,Cuba,Việt Nam,Trung Quốc trước đây cũng vậy tuy hiện nay có khác rồi).

Tất nhiên sau cộng đồng kinh tế Ấu Châu và khu vực kinh tế do Bắc Mỹ như đă nói trên sẽ lần lượt h́nh thành các khu vực kinh tế tự do của Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ la tinh,...

Chủ nghĩa tư bản năng động, luôn luôn t́m mọi cách để tự hoàn thiện ḿnh, do đó nó chưa phải hoàn hảo và c̣n những khuyết tật nhất định. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản đă vượt qua những cơn băo tố dữ dội suốt quá tŕnh tồn tại và phát triển của nó trên 3 thế kỷ qua; điều đó cho phép nó có thể tiếp tục tiến lên một cách thuận lợi theo xu thế của thời đại ngày nay sau khi chấm dứt chiến tranh lạnh (giữa phe tư bản, đế quốc chủ nghĩa và phe xă hội chủ nghĩa trên phạm vi thế giới) - hoà b́nh, đối thoại, hợp tác - từ trên cơ sở đă tốt đến chỗ ngày càng tốt hơn nhiều. Với xu thế mới của thời đại (hoà b́nh, hợp tác) nêu trên, chủ nghĩa tư bản lại có thị trường rộng lớn để tiêu thụ hàng hoá và mua nguyên vật liệu và đưa vốn ra đầu tư đă đẩy chủ nghĩa tư bản lâm vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng đầy tác hại và nguy hiểm suốt thế kỷ qua.

Ngoài ra, ngày nay chủ nghĩa tư bản lại có thêm những công cụ đắc lực như: Qũy tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á, Tổ chức "Hiệp định về thuế quan và mậu dịch" (GATT) - những tổ chức trụ cột - nhằm bảo vệ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giúp nó vượt qua những cơn suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế nếu có.

Khác với sự suy nghĩ, tưởng tượng trong đầu óc của con người, cuộc sống thực tiễn bao giờ cũng mang ư nghĩa tương đối thôi.

Cái ǵ được tuyệt đối hoá, thần tượng hoá hay bị sụp đổ. Đó là bài học qúi giá giúp con người phải biết thức tỉnh nếu không muốn bị lịch sử gạt qua bên lề. Vấn đề ở đây không phải là đă có bao nhiêu năm thâm niên cách mạng, kinh qua bao nhiêu chức vụ, mấy mùa kháng chiến hoặc mấy khóa tù mà vấn đề chính là có đuổi kịp và nhận thức được sự chuyển động của qủa đất, của cuộc sống ngày nay không ? và từ đó rút ra được kết luận ǵ làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng liên tục v́ dân, v́ nước của ḿnh ?

Phần 3 :

A.- Dân Chủ Tự Do Là Thước Đo Chính Xác Về Ḷng Trung Thành Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đối Với Dân Tộc Ḿnh.

Xă hội văn minh là xă hội dân chủ tự do. Ngược lại chính dân chủ tự do càng thúc đẩy nền văn minh phát triển. V́ vậy dân chủ tự do trở thành xu thế tất yếu của thời đại và là yêu cầu không thể thiếu được của xă hội loài người. Do đó, đối với dân tộc Việt Nam hiện nay, dân chủ tự do càng cấp bách hơn bất cứ lúc nào hết. Dân chủ tự do là một trong những yếu tố căn bản nhất tạo nên định hướng chiến lược của Việt Nam. Vậy vấn đề dân chủ tự do từ trước tới nay ở Việt Nam ra sao ?

Từ khi ra đời năm 1930 đến năm 1945 (cách mạng tháng 8), Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động chủ yếu trong điều kiện bí mật, bất hợp pháp mặc dù trong hoàn cảnh thời gian nào đó, có một bộ phận của Đảng hoạt động công khai, bán công khai. Nhưng có điều xuyên suốt trong quá tŕnh dài đó, Đảng cộng sản Việt Nam - người biết rơ khát vọng lớn lao về độc lập và dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam trên một thế kỷ làm nô lệ cho chủ nghĩa đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ) - đă luôn luôn phát động phong trào đấu tranh rộng răi của các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn đ̣i dân chủ tự do gắn liền với cuộc đấu tranh đ̣i và bảo vệ lợi ích của quần chúng; cụ thể là đấu tranh đ̣i tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội, lập nghiệp đoàn, tự do đi lại, xuất dương (ra nước ngoài), tự do kết hôn, nam nữ b́nh đẳng, tự do biểu t́nh, tự do đ́nh công... coi dân chủ tự do là vũ khí sắc bén để bảo vệ lợi ích quần chúng; đồng thời là động lực phát triển phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng chống áp bức bóc lột, bất công. Ngay trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ (1955-1975), ở các cùng tạm chiếm (địch hậu) như Sài G̣n, Huế, Đà Nẵng v.v..,Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn phát động quần chúng đấu tranh chống kềm kẹp, áp bức, đ̣i dân chủ, dân sinh kết hợp với đấu tranh vơ trang cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Tại Sài G̣n - trung tâm đầu năo của các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây - bất chấp khủng bố, đàn áp dă man, quần chúng nhân dân thành phố liên tục vùng lên đấu tranh chống các chính quyền độc tài, phát xít, tay sai của đế quốc, đ̣i dân chủ tự do bằng hội thảo, báo chí bán công khai, bằng mít tinh biểu t́nh, đ́nh công thậm chí bằng tự thiêu (của tín đồ Phật giáo). Do đó, đối với nhân dân Việt Nam nói chung đặc biệt với nhân dân Miền Nam (bao gồm thanh niên, phụ nữ, sinh viên, học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân lao động, nông dân, tín đồ Phật giáo, Công giáo và các từng lớp khác) nói riêng, vấn đề tự do dân chủ không phải là điều ǵ xa lạ đối với họ; mà ngược lại chính dân chủ tự do đă thấm vào xương, vào máu của nhân dân Việt Nam, đă trở thành giá trị thực sự được tạo ra bằng sự hy sinh lớn lao, dai dẳng thông qua thực tiễn đấu tranh ngoan cường, mặt giáp mặt với quân thù của dân tộc Việt Nam suốt 45 năm chiến đấu cách mạng. Đó là cái giá rất đắt phải trả cho một giá trị - giá trị dân chủ tự do. Điều đó có nghĩa là giá trị ấy tuyệt đối không thể biến thành đặc ân của bất cứ ai.

Thế nhưng, từ sau thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), đất nước Việt Nam đi vào con đường xă hội chủ nghĩa dưới sự độc quyền lănh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam th́ bốn chữ: Dân chủ-Tự do và cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do dần dần bị lu mờ và tắt lịm; v́ lúc bấy giờ, mọi người đều được giáo dục rằng: trong chủ nghĩa xă hội, mọi vấn đề đều có sự lănh đạo của Đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xă hội cũ - xă hội thuộc địa. Trong chủ nghĩa xă hội, Đảng và nhân dân là một; giữa Đảng và nhân dân không thể có ư kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên không thể có đấu tranh, đ́nh công, biểu t́nh. Do đó, trong chủ nghĩa xă hội không có vấn đề đấu tranh cho dân chủ tự do v́ chế độ xă hội chủ nghĩa (chuyên chính vô sản) là chế độ "dân chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản " (?)

B.- Chủ Nghĩa Xă Hội Không Thể Công Nhận Có Đấu Tranh Của Quần Chúng.

Song, thực tiễn th́ rất phức tạp, luôn luôn vận động theo qui luật và không hề diễn biến theo xét đoán chủ quan của con người. Vả lại, trong chủ nghĩa xă hội, thực tế th́ có biết bao nhiêu vấn đề không tốt, không kém ǵ những vấn đề không tốt trong xă hội thực dân, đế quốc trước đây. thậm chí có những mặt c̣n nghiêm trọng, tồi tệ hơn nhiều; cụ thể là trong chủ nghĩa xă hội vẫn có những kẻ dựa vào địa vị, quyền lực mà áp bức, bóc lột quần chúng,cướp đất, cướp nhà, trấn áp, uy hiếp, trù dập quần chúng, bắt bớ giam cầm họ một cách phi pháp; xă hội dẫy đầy bất công tham nhũng, ăn hối lộ "tràn đồng"; thất nghiệp, ăn mày, làm đĩ nhan nhăn; giết người cướp của lộng hành; đồng lương chết đói kéo dài 15-20 năm không được cải thiện trong khi giá cả cứ tăng vùn vụt 10 lần, 20 lần...(năm 1975: 1 tô phở chỉ có 5 đồng nhưng đến năm 91-92 là 2000 đồng trở lên và mọi thứ hàng hóa khác đều tăng giá giống như vậy).

Do chính sách độc tài, do bị kiềm kẹp nặng nề và sợ bị "chụp mũ", bị trấn áp nên quần chúng nhân dân ngán ngại đấu tranh đ̣i và bảo vệ quyền lợi bức bách của ḿnh như vấn đề tiền lương, giá cả, thuế khoá, nhà ở, ruộng đất, sa thải, thất nghiệp, tham nhũng, hối lộ, bắt bớ giam cầm trái phép, v.v... và đành phải im hơi lặng tiếng, cam chịu lầm than cơ cực, sống cuộc đời nô lệ như xưa kia mặc dù vẫn mang danh là công dân của nước Việt Nam "xă hội chủ nghĩa".

Rơ ràng ở Việt Nam - đất nước của một dân tộc anh hùng - chỉ có độc lập (không c̣n bị nước ngoài thống trị), chớ không hề có dân chủ tự do, đặc biệt về chính trị, tư tưởng, mặc dù nhân dân Việt Nam đă chịu hy sinh hàng triệu người cho cuộc đấu tranh lâu dài v́ độc lập dân tộc, v́ dân chủ tự do và v́ ấm no hạnh phúc (tuy về kinh tế với chính sách đổi mới gần đây, người nông dân được tự do canh tác trên mănh đất của ḿnh và người sản xuất kinh doanh được tự do hoạt động theo ngành nghề của họ).

C.- Hậu Quả Ǵ Khi Các Quyền Dân Chủ Tự Do Của Nhân Dân Bị Tước Đoạt.

Ai cũng biết rằng độc lập dân tộc, dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc là những nội dung, yêu cầu rất quan trọng mang tính chất chiến lược tuy nó có khác nhau nhưng lại quyện chặt vào nhau trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt nam - cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ và toàn thắng. Chính v́ lẽ đó mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đă chỉ ra lời giáo huấn sâu sắc là:" Không có ǵ quí hơn độc lập tự do", có độc lập mà không có tự do ấm no hạnh phúc th́ độc lập cũng vô nghĩa. Nhưng điều khó hiểu là những người kế tục sự nghiệp cao cả của cụ Hồ, một mặt luôn luôn đề cao tư tưởng Hồ Chí minh, mặt khác th́ lại vô hiệu hóa lời dạy ấy của Cụ, đă tách dân chủ tự do khỏi nội dung độc lập dân tộc. Cho nên ở Việt Nam, như đă nói trên chỉ có độc lập dân tộc chứ không có dân chủ tự do là như thế đó.

Chính Đảng cộng sản Việt Nam đă tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đă từng trả giá quá đắt - thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của ḿnh khi nó bị vi phạm bất cứ trong hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt th́ nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù binh của Đảng cộng sản Việt Nam.

Trên khắp thế giới sau thắng lợi của cách mạng và khi đă cầm quyền rồi, các Đảng cộng sản (Liên xô, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Đông Ấu cũ, Cuba,...) đều trở thành các đảng độc tài, chuyên chế, phản dân chủ. Cho nên, các Đảng nói trên rất sợ dân chủ tự do, sợ nói đến dân chủ, sợ đối thoại với quần chúng và luôn luôn sẵn sàng đàn áp những quan điểm tư tưởng trái với ḿnh, đàn áp những yêu sách về dân chủ của quần chúng mặc dù hằng ngày trên miệng của người lănh đạo đảng luôn nói về "quyền làm chủ của nhân dân", trong khi trên thực tế, các quyền dân chủ tự do của công dân như hiến pháp qui định đă bị chà đạp trắng trợn th́ lấy ǵ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của ḿnh đối với đất nước xă hội (làm chủ khác hẳn với làm theo lịnh của cấp trên).

Khi nói đến nhân dân quần chúng là phải nói đến vấn đề dân chủ. Chỉ có thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của nhân dân th́ người lănh đạo mới thiết lập được mối liên hệ chân chính giữa ḿnh với nhân dân quần chúng. Nhân dân bị kiềm kẹp, không được quyền tự do bộc lộ ư kiến tư tưởng, quan điểm, tâm tư nguyện vọng của ḿnh mặc dù có thể nó không phù hợp với quan điểm của lănh đạo th́ làm sao giải thích được rằng đất nước này đă có dân chủ tự do ?

D.- Ai Khác Ư Kiến Quan Điểm Th́ Bị Qui Chụp Trấn Áp.

Phải chăng Việt Nam đă có "dân chủ tự do" khi mà một uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (khoá 6) Trần Xuân Bách chỉ v́ phát biểu ư kiến về vấn đề đa nguyên chính trị (dân chủ-công khai-đa đảng) th́ lập tức bị lên án, bị cách chức ngay ? hay như ông Bùi Tín - Phó tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan trung ương của ĐCSVN) phải t́m cách ra nước ngoài để được tự do phát biểu ư kiến của ḿnh về chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với nhân dân cả nước và thế giới ?

Phải chăng đó là dân chủ tự do khi nữ văn sĩ Dương Thu Hương phát biểu ư kiến phản đối chuyên chính vô sản, độc quyền lănh đạo của ĐCSVN, đ̣i thi hành dân chủ tự do th́ bị qui là "phản động" và bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt, bị giam (sau một thời gian th́ được trả tự do nhờ có sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế) ? hoặc như Ông Nguyễn Thành Thơ ( Mười Thơ) - nguyên chủ tịch hội nông dân tập thể Việt Nam - bị quản thúc mấy năm liền chỉ v́ Ông quyết tâm đấu tranh đ̣i Đảng và nhà nước trả lại ruộng đất (đă hợp tác hóa) cho người nông dân để họ được tự do canh tác trên mănh đất của ḿnh và được cơm no áo ấm ?

Phải chăng đó là dân chủ tự do khi Đảng cộng sản Việt Nam làm áp lực buộc hai Đảng Dân Chủ và Xă Hội - bạn đường kháng chiến mấy mươi năm của ḿnh phải tuyên bố tự giải tán "v́ đă hoàn thành nhiệm vụ lịch sử" trong lúc nhân dân khắp thế giới đang vùng lên đấu tranh phá tan các chuyên chế độc tài và thành lập nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng ? hay như trường hợp của Ông Bảy Triển - Phó giám đốc đài truyền h́nh Cần Thơ - bị cách chức và cho nghỉ hưu chỉ v́ ông đă làm tốt chức năng thông tin của ḿnh, tường thuật đầy đủ trong 7 đêm liền diễn biến của phiên toà xét xử Dương văn Ba (cán bộ kinh tế của tỉnh) tại tỉnh Minh Hải (đầu năm 1990) và phiên toà được lănh đạo đánh giá là "xét xử đúng đắn" ? (v́ lănh đạo chỉ cho phép đưa tin về kết qủa xét xử, tuyên án chớ không cho phép tường thuật toàn bộ diễn biến của phiên toà. Vả lại, đông đảo nhân dân và cán bộ nghỉ hưu Đồng bằng Cửu Long phản đối phiên ṭa và đă có đơn tập thể khiếu nại, đ̣i xét xử lại).

Phải chăng đó là dân chủ tự do khi những người kháng chiến thời kỳ ở Sài G̣n không được quyền lập Hội những người kháng chiến mà chỉ được phép lập Câu lạc bộ thôi, không được quyền hội thảo chống tiêu cực, không được quyền làm mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống (Nam Bộ kháng chiến), báo "Truyền thống kháng chiến" bị tịch thu và bị đ́nh bản, Câu lạc bộ những người kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh bị cấm hoạt động và cuối cùng nhiều cán bộ của Câu lạc bộ những người kháng chiến TP kể cả chủ nhiệm bị bắt, bị giam, bị quản thúc (từ đầu năm 1990) thậm chí nhiều người có quan hệ tốt với CLB những người kháng chiến thành phố (đọc báo "truyền thống kháng chiến", dự hội thảo...) ở các tỉnh Sông Bé, Tiền Giang, Cửu Long, Hậu Giang,...cũng bị khủng bố, đàn áp ?

E.- Đảng Cộng Sản Việt Nam Phát Động Đấu Tranh "Chống Đa Nguyên, Đa Đảng".

Không phải v́ dân tộc, đất nước mà chính v́ sợ mất vai tṛ lănh đạo và đặc quyền, đặc lợi của cá nhân hoặc một nhóm người lănh đạo mà Đảng cộng sản Việt Nam đă chà đạp thô bạo hiến pháp của nước CHXHCN Việt nam, biến nó thành một thứ trang trí, không có giá trị thực tiễn trong việc bảo vệ dân chủ tự do và lợi ích của công dân; ra sức chống lại quyết liệt những đ̣i hỏi về các quyền dân chủ tự do của nhân dân dưới chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" để hù họa trước hết trong nội bộ Đảng và sau đó trong đông đảo quần chúng rằng "đa nguyên, đa đảng là một quan điểm rất nguy hiểm, chống Đảng, chống cách mạng, chống chủ nghĩa xă hội của bọn phản động "nhằm siết chặt đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo thêm sức mạnh để chống "đa nguyên, đa đảng" và làm cho quần chúng ngán ngại quan điểm nói trên. Việc làm đó nhắm vào 2 mục tiêu : một mặt, nó cô lập cao độ và làm suy yếu lực lượng đấu tranh cho dân chủ tự do của cả nước; mặt khác nó che đậy khéo léo bản chất độc tài phản dân chủ của Đảng cộng sản.

Tất nhiên, sự hù họa ấy có tác dụng lôi kéo những người nhẹ dạ, khiếp đảm, kém hiểu biết, ngă về phía độc tài chuyên chế, phản dân chủ, nhưng nó không thể lung lạc được những người trung thực, hiểu biết, có đầu óc dân chủ.

Để bảo vệ chế độ độc tài, chuyên chế, phản dân chủ ấy trong nền kinh tế thị trường phồn vinh (kinh tế tư bản mà Đảng cộng sản Việt Nam buộc phải chấp nhận để cứu lấy ḿnh), người ta đưa ra lập luận để thực hành rằng Việt Nam có đặc điểm riêng là một nước nghèo nàn, lạc hậu, tŕnh độ dân trí kém nên không thể thiết lập một chế độ dân chủ tự do rập khuôn như ở các nước phương Tây. Do đó Đảng cộng sản Việt Nam thông qua Ông Vơ Văn Kiệt - đang là chủ tịch Hội đồng bộ trưởng - chánh thức mời Ông Lư Quang Diệu (cựu thủ tướng Xinh-ga-po) sang làm cố vấn cho Việt Nam (gần cuối năm 1992) không những về kinh tế mà cả về chính trị. Điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ làm theo mô h́nh Xinh-ga-po: thiết lập nền kinh tế thị trường phồn vinh nền chính trị chuyên chế độc tài, phản dân chủ. Thật là đáng tủi nhục cho dân tộc Việt Nam với gần 70 triệu người và với một lịch sử chiến đấu oai hùng mà thế giới đều biết và khâm phục, ngày nay lại được so sánh và xếp hạng về chính trị nganh hàng với Xinh-ga-po (với non 3 triệu dân và với một lịch sử b́nh thường). Từ đó cho thấy rằng xuyên qua tầm nh́n của Đảng cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại chưa có tŕnh độ và chưa xứng đáng được quyền hưởng một chế độ dân chủ tự do đúng nghĩa đầy đủ của nó, mặc dù họ đă hy sinh qúa lớn lao, máu chảy, đầu rơi,núi xương, sông máu cũng chính là v́ dân chủ, tự do.

Quyết định một vấn đề rất quan trọng liên hệ đến vận mạng của dân tộc, đất nước như nói trên mà không cần trưng cầu ư dân lại chủ yếu vẫn làm theo phương thức độc đoán, độc tài; rơ rằng Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay khinh rẽ dân tộc Việt Nam cỡ nào ?

Nhưng cả nước lại im lặng, có phải là đồng t́nh không ? Hay v́ bị kiềm kẹp quá nặng nề mà không thể cất tiếng lên được ?

Cho nên, trước t́nh h́nh phức tạp nầy, có nhiều người đặt ra câu hỏi: Dân chủ đa nguyên là ǵ ?

G.- Đa Nguyên: Biểu Tượng Muôn Màu Muôn Vẻ Của Mọi Sự Vật.

Chúng ta biết rằng tạo hóa, thiên nhiên vạn vật, xă hội loài người, tất cả điều là biểu tượng của đa nguyên - tổng hợp những cái khác nhau của mọi sự vật và thúc đẩy sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

Khi nói đến vũ trụ, người ta nghĩ trong đó không những có mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao hỏa, sao kim mà c̣n có hàng triệu, hàng tỷ thiên hà và mỗi thiên hà có hàng triệu hàng tỷ v́ sao (hành tinh) mà mắt thường của chúng ta không thể nh́n thấy rơ.

C̣n nói đến sự vận động của trái đất, nó không những tạo ra ban ngày ban đêm, mặt trời mọc, mặt trời lặn, đêm sáng trăng, đêm tối như mực, bốn muà: xuân, hạ, thu, đông; mưa nắng mà cả băo lụt dông tố, hạn hán, động đất, hoạt động của núi lửa, ḍng chảy dữ dội và tàn phá của dung nham; những cơn lốc rất tai hại; những đợt nước biển dâng cao kéo theo nhiều thảm họa, đất sụp, núi sụp...

Rừng không những ở núi cao mà c̣n có rừng ở thung lũng, đồng bằng và dưới nước (rừng sát). Điều chắc chắn là sự cấu tạo của rừng sát hoàn toàn khác với rừng trên núi cao. Rừng không những có nhiều loại cây rất phong phú mà c̣n có nhiều loại thú, loài chim khác nhau thậm chí có những loại hoa hương sắc kỳ diệu và các loại cây thuốc trị bịnh quí giá.

Có vườn hoa nào mà chỉ có một loại hoa, ít nhất phải có hàng chục, thậm chí hàng trăm loại với hàng trăm màu sắc lộng lẫy và hương thơm đậm đà quyến rũ.

Trong văn học nghệ thuật, tự do cá nhân của con người được nẫy nở bao nhiêu th́ văn học nghệ thuật được nẫy nở bấy nhiêu. Chính sự nẫy nở tự do ấy tạo nên sự khác nhau - muôn màu, muôn vẻ - trong văn học nghệ thuật mà người ta thường gọi đó là sự sáng tạo đầy cá tính. Có vậy, văn học nghệ thuật mới có ư nghĩa lớn lao và không ngừng phát triển. Nếu ca hát giống nhau, âm nhạc giống nhau, viết văn giống nhau th́ văn học nghệ thuật c̣n có ư nghĩa ǵ ?

Nói "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là thừa nhận tính chất đa nguyên của mọi sự vật, của mọi lănh vực.

Trong xă hội loài người gồm nhiều màu da, sắc tộc ở nhiều nước khác nhau trên nhiều Châu và đại dương khác nhau (Châu Á, Châu Ấu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc; Thái b́nh dương, Đại tây dương, Ần độ dương, Bắc băng dương); và trong một nước cũng có nhiều dân tộc, sắc tộc, nhiều tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán khác nhau: nhiều giai cấp, giai tầng, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau và nhiều Đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau.

Vậy tại sao ở Việt Nam cũng có nhiều dân tộc, nhiều giai cấp, giai tầng, nhiều tín ngưỡng tôn giáo, nhiều tŕnh độ học vấn và môi trường đào tạo khác nhau,...lại chỉ được quyền tồn tại một quan điểm, một tư tưởng, một Đảng thôi ?

Trong khi đó ở khắp thế giới - 5 châu, 4 biển - đâu đâu cũng thấy có sự tồn tại và phát triển của nền chính trị đa nguyên, dân chủ đa đảng (ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ư, Nhật, Canada, Ần độ, Ang-giê-ri, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Nam Phi, các nước Bắc Ấu, Châu Mỹ la-tinh,...), đặc biệt ở Cam-pu-chia - nước láng giềng mà Việt Nam với tinh thần "quốc tế vô sản" đă hy sinh biết bao xương máu tại đây để giúp bạn "bảo vệ độc lập" và "xây dựng chủ nghĩa xă hội" - vào cuối năm 1991 đă tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xă hội, từ bỏ chủ nghĩa độc nguyên - độc quyền lănh đạo của Đảng - biến Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia (tức đảng cộng sản) thành đảng của nhân dân Cam-pu-chia; chủ trương thi hành chính sách ḥa giải, ḥa hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hoà b́nh, thi hành chính sách dân chủ - đa nguyên, đa đảng và xây dựng một nền kinh tế thị trường sống động (kinh tế tư bản) ở Cam-pu-chia.

H.- Người Bảo Vệ Độc Tài Trở Thành Người Bảo Vệ Đa Nguyên.

Nhưng một thực tế trớ trêu khác lại đồng thời diễn ra trên thế giới ngày nay: những người cộng sản trong Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ), nếu trước đây họ tán thành và ra sức bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài vô sản, độc tài của Đảng cộng sản - chống quyết liệt chủ nghĩa đa nguyên chính trị (dân chủ đa đảng), chống việc h́nh thành lực lượng đối lập trong chánh quyền Xô Viết, xă hội chủ nghĩa th́ ngày nay, sau khi Liên Bang Xô Viết và Đảng cộng sản Liên Xô (cũ), các nước xă hội chủ nghĩa và các đảng cầm quyền ở Đông Ấu (cũ) tan ră, những người cộng sản nói trên lại nhiệt liệt hoan nghinh và ra sức bảo vệ chủ nghĩa đa nguyên chính trị v́ chính họ phải được tiếp tục tồn tại trên cơ sở môi trường mới này. Do đó, hiện nay, khoảng 20 triệu Đảng viên của Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) đang tích cực tham gia không phải một Đảng mà tham gia vào hàng trăm Đảng phái và tổ chức chính trị khác nhau trong đó đa số có khuynh hướng mác-xít ở các nước cộng ḥa thuộc Liên Xô (cũ) kể cả nước Nga, do họ có nhiều quan điểm, tư tưởng bất đồng, không dễ dàng thống nhất được, nhưng tất cả họ đều nổ lực hoạt động để trở thành lực lượng đối lập với chính quyền hiện hữu để góp phần thúc đẩy tiến tŕnh phát triển toàn diện đất nước và xă hội. Điều đó xác nhận rằng việc họ bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài của Đảng cộng sản trước đây, chẳng qua v́ họ phải chịu một áp lực quá nặng nề của Đảng cộng sản Liên Xô và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ). Họ là "tù binh", là nô lệ về tư tưởng trong chế độ Xô Viết, xă hội chủ nghĩa mà họ không hề biết. Nhưng chính thực tiễn cuộc sống ngày nay đă làm thay đổi sâu xa nhận thức của họ về quyền con người, về dân chủ tự do và độc tài chuyên chế, về động lực thúc đẩy xă hội đi đến phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh hiện đại và giúp họ tránh được mù quáng trong niềm tin.

I.- Giữa Thay Đổi Chính Trị và Thay Đổi Kinh Tế Có Sự Khác Biệt Lớn.

Tuy nhiên đối với các nước cộng hoà Liên Xô cũ và các nước Đông Ấu cũ hiện nay, điều quan trọng là không nên lẫn lộn giữa sự thay đổi của cục diện chính trị và sự thay đổi của cũc diện kinh tế. Hai lĩnh vực này hoàn toàn khác nhau và mỗi lĩnh vực có qui luật vận động riêng của nó, tuy nó có liên quan chặt chẽ và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thay đổi cục diện chính trị của một nước có khi chỉ diễn ra trong một vài năm thậm chí năm, ba tháng; c̣n thay đổi cục diện kinh tế của một đất nước sẽ khó khăn gấp trăm lần.

Từ chủ nghĩa xă hội tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường (kinh tế tư bản chủ nghĩa) - tự quay 180 độ - các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và các nước thuộc Đông Ấu cũ nếu không đ̣i hỏi 70-80 năm th́ ít nhất cũng phải mất 20-30 năm để đạt sự phồn vinh, giàu có, ấm no hạnh phúc, văn minh hiện đại. Nếu bằng t́nh cảm và ước vọng, thiếu căn cứ khoa học, người ta định áp đặt thời gian để xây dựng nền kinh tế thị trường đạt tới tŕnh độ phát triển cao của thế giới ngày nay chỉ trong thời hạn 5-7 năm. Đó là điều ảo tưởng nếu không nói là "bốc đồng".

K.- Chế Độ Phát-Xít: Không Hề Có Đa Nguyên Đa Đảng.

Như trên đă nói, Đảng cộng sản Việt Nam phát động chống đa nguyên, đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước tức muốn kiềm hăm dân tộc Việt Nam trong mê muội tối tăm, mù quáng. Bởi v́ không có một nước nào trên thế giới có một chế độ đa nguyên, đa đảng mà lại không có một nền dân chủ rộng lớn. Đa nguyên, đa đảng gắn liền với dân chủ tự do là nền tảng đă sản sinh ra đa nguyên đa đảng. Chỉ có ở những nước chuyên chế độc tài, phát xít tàn bạo th́ không bao giờ có sự tồn tại của đa nguyên đa đảng.

Bằng chuyên chế độc tài được sơn phết bóng loáng, Đảng cộng sản Việt Nam quyết chống lại các quyền dân chủ tự do của nhân dân quần chúng, nhưng lại không dám nói thẳng điều đó mà phải mượn cái chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng"; v́ nếu tuyên bố thẳng thừng rằng: Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận mà bác bỏ dân chủ tự do, hoá ra Đảng đă tự phơi trần bản chất độc tài, phản dân chủ của ḿnh trước nhân dân cả nước và thế giới sao ?

Chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" có thể lường gạt được những kẻ nhẹ dạ, yếu bóng vía, kém hiểu biết, mù quáng; ngoài ra nó không thể lừa gạt được ai.

Để chống lại dân chủ tự do của nhân dân có hiệu lực, ngoài việc kêu gọi "chống đa nguyên, đa đảng", Đảng cộng sản Việt nam c̣n phát động trong nội bộ Đảng và ngoài quần chúng đấu tranh "chống tư tưởng tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà b́nh".

L.- Tư Tưởng "Tự Do Tư Sản Hoá" Là Ǵ ? - Tư Tưởng Muốn Có Tự Do 100%.

Tư tưởng "tự do tư sản hoá" là tư tưởng của nhiều người Việt Nam muốn ở nước ḿnh có một nền dân chủ thực sự như ở các nước tư bản tiên tiến phương Tây để thay thế nền dân chủ giả hiệu của Việt Nam hiện nay - dân chủ trên lời nói, dân chủ h́nh thức. Hiến pháp của nước cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn có ghi đủ các quyền tự do của công dân như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do mít tinh, tự do biểu t́nh,...nhưng trên thực tế th́ không hề có những thứ tự do đó. Bởi v́ bộ máy kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ của Đảng cộng sản và chánh quyền, kể cả các cơ quan thông tin tuyên truyền (quốc doanh) đều làm cho đông đảo quần chúng ngán ngại, không dám hành động để đạt được các quyền tự do dân chủ nói trên của ḿnh. V́ vậy, đối với các quyền dân chủ tự do của công dân, hiến pháp chỉ là một mănh giấy lộn, không có giá trị thực tiễn ǵ cả. Nhưng điều đáng kinh ngạc là trước t́nh h́nh vi phạm nghiêm trọng các quyền dân chủ tự do của công dân trong nhiều năm qua và cho đến bây giờ, không hề có sự lên tiếng đấu tranh phản đối của Quốc hội - được coi là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" hoặc Quốc hội chất vấn chính phủ về những vi phạm ấy và đề ra những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của công dân đă ghi trong hiến pháp.

V́ sự độc quyền lănh đạo của Đảng cộng sản nên Quốc hội chỉ biết làm theo chỉ thị của Đảng. Vả lại, hầu hết đại biểu quốc hội là cán bộ đảng viên của đảng, do đó trước khi khai mạc quốc hội, những đảng viên, cán bộ ấy được một đại diện của bộ chính trị đến để huấn thị là Quốc hội cần phải làm như thế này, như thế này...Số người ngoài Đảng trong Quốc hội không đáng kể, hơn nữa, nếu có th́ chính họ cũng đă được đảng hóa (mác-xít hóa) mất rồi.

Cho nên có thể nói: Quốc hội là Đảng, Đảng là Quốc hội - Nhà nước là Đảng, Đảng là Nhà nước. Với tính chất ấy đại biểu Quốc hội không phải là người nói tiếng nói trung thực của nhân dân (cử tri) mà chính là người chỉ nói tiếng nói của Đảng thôi.

Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản ở các nước xă hội chủ nghĩa c̣n lại (Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên) đều rất sợ "tự do tư sản hoá" - thứ tự do đúng nghĩa của nó 100% tức là các quyền dân chủ tự do của công dân như: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, lập đảng phái, tự do đ́nh công, biểu t́nh,...đă ghi trong Hiếp Pháp đều được thể hiện đầy đủ trong thực tiễn sinh động của xă hội. V́ vậy khi quần chúng nhân dân có các quyền dân chủ tự do - thứ vũ khí tự vệ và tấn công rất sắc bén - th́ bất cứ đảng phái cầm quyền nào không thể dễ dàng thực hiện chuyên chế độc tài, đặc quyền, đặc lợi, áp bức, trù dập quần chúng nhân dân được. Cụ thể là: Khi quyền lợi bị vi phạm và trước những bất công, hàng ngàn, hàng vạn, hàng chục vạn thậm chí hàng triệu người bao gồm các tầng lớp nhân dân: nhân sĩ trí thức, thầy cô giáo, ư tá bác sĩ, công nhân lái xe, bốc vác, thợ mỏ, công nhân đường sắt, cơ khí, luyện kim, đóng tàu,...viên chức ngành hàng không, bưu điện viễn thông, sinh viên, học sinh, nông dân trang trại ở các nước: Anh, Pháo, Mỹ, Đức, Ư, Nhựt, Ần độ, Bra-xin, Nam Triều Tiên, Thái Lan,...đă vùng lên đấu tranh liên tục bằng các h́nh thức: đính công, tổng đ́nh công, băi khóa, tổng băi khóa thậm chí xuống đường biểu t́nh đói tăng lương, cải thiện điều kiện lao động và đời sống, đói tăng ngân sách giáo dục, y tế, đ̣i bảo đảm tiếp tục tài trợ cho nông nghiệp, bảo vệ nông sản trong nước, đ̣i Quốc hội cách chức và đưa Tổng Thống ra xét xử (Bra-xin) v́ có dính líu đến tham nhũng nghiêm trọng; biểu t́nh phản đối phiên toà xét xử bất công (vụ 4 cảnh sát da trắng đánh chết một lái xe da đen ở LosAngeles - 1992); biểu t́nh hoan hô các quan ṭa có sáng kiến phát động mạnh mẽ phong trào chống tham nhũng - "Bàn tay trong sạch" - trong cả nước (Ư); và cả những cuộc biểu t́nh chống quân phiệt, độc tài, đ̣i dân chủ tự do bị đàn áp dữ dội (ở Thái Lan tháng 5/1992)..v..v..Tất nhiên, trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chính quyền các nước có liên quan phải nhượng bộ và giải quyết thỏa đáng các yêu sách của quần chúng.

Ở các nước dân chủ, người được bầu làm tổng thống, thủ tướng là người được đa số nhân dân tín nhiệm trong việc điểu khiển đất nước theo một nhiệm kỳ nhất định. Tuy nhiên người ta không coi những vị ấy là những ông thánh sống. Do đó, họ tự đặt cho ḿnh có nhiệm vụ giám sát những hoạt động của tổng thống, thủ tướng và trong từng lúc họ đều có phản ứng kịp thời.

Những cuộc thăm dó dư luận thường xuyên ở các nước dân chủ là cách tốt nhất cho mọi người dân biết rơ từng lúc vị tổng thống, thủ tướng nào cón giữ được sự tín nhiệm của nhân dân hay sự tín nhiệm ấy đă bị giảm sút nhiều (với tỷ lệ phần trăm rất cụ thể) thậm chí tín nhiệm không c̣n. Có như vậy tổng thống và thủ tướng mới biết rơ ḿnh hiện giờ ra sao trước con mắt giám sát của đông đảo quần chúng nhân dân để phấn đấu, tiếp tục vươn lên phía trước hoặc để khắc phục những sai lầm thiếu sót về đạo đức, tác phong và tinh thần trách nhiệm của ḿnh.

Chớ không phải như ở Việt Nam, một vài ông Ủy viên bộ chính trị đồng thời là thành viên của Hội đồng bộ trưởng (từ năm 1990 trở về trước) có vợ đi buôn lậu, dựa vào thế lực của chống tha hồ sử dụng các phương tiện giao thông của nhà nước như máy bay, ô-tô,...cho hoạt động vụ lợi bất chính của ḿnh suốt hàng chục năm mà vẫn b́nh yên vô sự; cũng như có ông đă biến công việc của nhà nước thành công việc riêng của gia đ́nh ḿnh, tha hồ hoạt động kiếm đô la (ở nước ngoài) một cách dễ dàng suốt trên hai thập kỷ mà vẫn phơi phới vững như bàn thạch: trong khi cả xă hội từ Bắc chí Nam, nhân dân, đặc biệt là công nhân viên chức, gia đ́nh cán bộ bàn tán xôn xao t́nh h́nh nói trên. Nhưng tuyệt đối không hề được các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, đài truyền h́nh (tất cả là của Đảng và nhà nước) nêu lên. Hơn nữa cơ quan lănh đạo của Đảng cũng không hề tỏ rơ thái độ của ḿnh một cách công khai trước nhân dân cả nước đối với t́nh h́nh suy thoái nghiêm trọng nói trên ngay tại cơ quan đầu năo mà vẫn cứ coi như trong lănh đạo không có việc ǵ xảy ra và rất êm thắm. Rơ ràng, đây là một sự bao che đấy quyền lực đối với những hành vi tiêu cực kéo dài ở tận chóp bu.

Ở Việt Nam tham nhũng đă trở thành quốc nạn, nhưng Việt Nam lại là nước không có dân chủ tự do - dân không có quyền - th́ làm sao chống tham nhũng có hiệu quả ? Cho nên, điều trớ trêu thường xuất hiện là người hô hào chống tham nhũng chính lại là kẻ tham nhũng rất tệ hại.

Tất cả t́nh h́nh nói trên cho thấy dân chủ tự do là rất bức bách đối với mọi dân tộc, là vũ khí sắc bén được nhân dân sử dụng để thực hiện quyền làm chủ thực sự của ḿnh đối với đất nước, xă hội; chớ không phải như ở Việt nam, "làm chủ" chỉ là khẩu hiệu suông, trống rỗng v́ nhân dân không hề có quyền dân chủ tự do thật sự bao giờ.

Phải dám nh́n thẳng vào sự thật và không được quyền bóp méo nó qua cặp kính "ư thức hệ mác-xít"; chúng ta phải thừa nhận rằng dân chủ tư sản (dân chủ ở các nước tư bản) là chế độ dân chủ thực sự được xây dựng hơn hai thế kỷ qua bằng cuộc đấu tranh trường kỳ bền bỉ thậm chí đổ máu của nhân dân các nước, chớ dân chủ không hề là một thứ đặc ân của giai cấp thống trị.

Chúng ta đều biết ở nhiều nước tư bản đă từng trải qua những thời kỳ mà chế độ độc tài phát-xít được thiết lập; đồng thời nền dân chủ tự do ở đây bị thủ tiêu như: chế độ Phát-xít Hittle ở Đức, Mussolini ở Ư, Thiên Hoàng ở Nhật, Franco ở Tây Ban Nha, Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (trước 1949), Lư Thừa Văng ở Nam Triều Tiên, Ngô Đ́nh Diệm ở Miền Nam Việt Nam, Pinochet ở Chi Lê,..v.v...

Do đó, nhân dân các nước nói trên không thể không vùng lên đấu tranh quyết liệt kể cả đổ xương, đổ máu để giành giựt lấy nó, bảo vệ và phát triển nền dân chủ tự do của ḿnh.

M.- Dân Chủ Tự Do Phải Trả Giá.

Dân chủ tự do là một sự nghiệp cách mạng lớn lao nên không thể không có hy sinh, và chính nền dân chủ phải trả gía đắt ấy là nền dân chủ thật sự, chân chính.

Cuộc đấu tranh v́ dân chủ tự do của nhân dân Trung Quốc ở Thiên An Môn (Bắc Kinh) hồi tháng 05 và tháng 06/1987 và của nhân dân Thái Lan, Nam Phi gần đây (1992), bất chấp súng đạn, xe tăng của bọn phát xít diệt chủng, bọn phân biệt chủng tộc đă nói lên t́nh chất quyết liệt, đầy hy sinh gian khổ của cuộc đấu tranh v́ dân chủ tự do.

C̣n dân chủ do lănh đạo ban cho - dân chủ không phải trả gía ǵ cả - là thứ "dân chủ giả hiệu" nhằm đánh lừa thiên hạ và để tạo ra trong xă hội nhiều thứ bù nh́n, nhiều kẻ nịnh bợ và bọn tham nhũng mà thôi.

Nói tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam phát động "chống đa nguyên, đa đảng", "chống tự do tư sản hoá", "chống diễn biến ḥa b́nh" (tức chống phong trào đấu tranh đ̣i dân sinh dân chủ), chống đàn áp, khủng bố, chống tham nhũng của quần chúng bằng báo chí, hội thảo, mít tinh, biểu t́nh, đ́nh công - đấu tranh ôn hoà, không có vơ trang - là đi ngược ḍng lịch sử, không tuân thủ qui luật phát triển khách quan của xă hội, đă ra mặt độc tài chống lại yêu cầu, nguyện vọng về dân chủ tự do của quần chúng nhân dân, của dân tộc.

N.- Chuyên Chế Độc Tài: Thách Thức Nghiêm Trọng Đối Với Dân Tộc Việt Nam.

Chính Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đă biến ḿnh trở thành một cản ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam, bất chấp sự phản kháng của quần chúng, quyết duy tŕ chuyên chế, độc tài, dựa vào bạo lực (quân đội, công an) như tất cả các chế độ độc tài trên thế giới để chà đạp lên nguyện vọng về dân chủ tự do của nhân dân và gây cho nhân dân biết bao tai họa khác. Nhưng những bài học của lịch sử luôn luôn sáng ngời: tất cả các thế lực độc tài, phát xít tàn bạo trên thế giới đều bị phủ định bởi sức mạnh áp đảo của nhân dân. Cuộc đấu tranh anh hùng đă đánh bại bọn độc tài quân phiệt khát máu của nhân dân Thái Lan hồi tháng 5/1992 vừa qua là một tấm gương sáng chói cho các dân tộc trên thế giới kể cả dân tộc Việt Nam.

Không phải đi ăn xin mà có dân chủ tự do được. Muốn có nó phải dám đấu tranh ngoan cường, bền bỉ, trừ phi cam tâm làm nô lệ.

Cả thế giới đều biết rằng quá tŕnh kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng là qúa tŕnh đấu tranh chống độc tài chuyên chế, phát xít tàn bạo, giành dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam. Do đó sau thắng lợi của cách mạng (hơn 30 năm liên tục đấu tranh chính trị và vơ trang), Đảng cộng sản Việt Nam lại thiếp lập, duy tŕ, củng cố chế độ chuyên chế, độc tài ở Việt Nam; đó là sự thách thức rất nghiêm trọng của Đảng cộng sản đối với nhân dân Việt Nam. Về những thách thức tương tự đó, trên thế giới đă có nhiều bài học:

Chính v́ dựa vào bạo lực để tồn tại mà chính quyền mác-xít - chuyên chế độc tài phủ định tất cả ư kiến, quan điểm đối lập, lực lượng đối lập - ở Áp-ga-ni-xtan và Ê-ti-ô-pi đă gây ra cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài ở hai nước này dẫn đến hậu qủa cuối cùng là lực lượng vơ trang của các đảng phái đối lập đă tấn công đến sào huyệt (thủ đô) của chánh quyền mác-xít độc tài ở hai nước nói trên và đă chiến thắng. Tổng thống mác-xít Áp-ga-ni-xtan - Na-gi-pu-la phải chạy vào cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Ca-bun (thủ đô) để ẩn náu; c̣n Tổng thống mác-xít Ê-ti-ô-pi - M.H. Mariam th́ chạy trốn sang phương Tây.

Rơ ràng, số phận bi đát luôn luôn dành sẵn cho bọn ngoan cố độc tài, tham quyền cố vị, đi ngược qui luật tiến hóa của lịch sử.

Nh́n theo vhiều dài của lịch sử, khác với sự đắc chí kiêu ngạo, không biết giựt ḿnh và tự sám hối của Đảng cộng sản Việt Nam, người ta không thể không kinh ngạc khi biết rằng chính chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam đă gây nên biết bao thảm họa, tội ác đối với nhân dân Việt Nam suốt một quá tŕnh cách mạng lâu dài của đất nước, dân tộc.

Khi cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam coi công an, quân đội là công cụ riêng của Đảng dùng để đàn áp những ai có ư kiến, quan điểm khác với Đảng, được xem là "chống Đảng, chống cộng sản". Chớ công an, quân đội không phải là công cụ của chánh quyền cách mạng - chánh quyền của dân, v́ dân, do dân.

O.- Ư Thức Hệ Cộng Sản Dẫn Đến Các Cuộc Đàn Áp Tôn Giáo.

Với ư thức hệ Mác-xít: duy vật chống duy tâm, vô thần chống hữu thần, Đảng cộng sản Việt Nam đă thi hành chánh sách khống chế, kềm kẹp thậm chí khủng bố đàn áp đẫm máu đối với các tôn giáo ở Việt Nam như : Cao Đài, Ḥa Hảo, Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Phật Giáo,...với lư do tôn giáo là "hữu thần chống vô thần', "chống cộng sản", là những kẻ "phản động", "làm tay sai cho đế quốc". Bằng lực lượng vơ trang nắm trong tay, Đảng cộng sản Việt Nam đă tiến hành những cuộc tảo thanh Cao đài, Ḥa Hảo tức tấn công, giết hại hàng loạt tín đồ và hàng giáo phẩm của hai đạo này trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược (1945,46,47,48,49). Đối tượng tảo thanh lúc bấy giờ ở Miền Đông Nam bộ bao gồm các tỉnh: Tây Ninh, Gia Định (nay là TP Hồ Chí Minh), Thủ dầu một (Sông Bé), Biên Hoà (Đồng Nai), Bà Rịa (Bà Rịa-Vũng tàu), Chợ Lớn (Long An) là đồng bào tín đồ Cao Đài. C̣n đối tượng tảo thanh ở Miền tây Nam Bộ bao gồm các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), Tạch Giá (Kiên Giang), Bạc Liêu (Minh Hải), Cần Thơ,...là đồng bào tín đồ Ḥa hảo.

Mặt trận liên quân B - mặt trận tảo thanh Cao đài - ở Miền Đông Nam Bộ được thành lập (1946) với các lực lượng vơ trang bao gồm các cho đội: 12, 13, 15, 22, 6, bộ đội Hoàng Thọ...lấy ṭa thánh Tây Ninh - trung tâm đầu năo của lực lượng Cao Đài - làm mục tiêu tấn công. Chiến trận diễn ra ác liệt năm này sang năm nọ giữa lực lượng vơ trang nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam và lực lượng vơ trang cao Đài có sự yểm trợ của quân đội Pháp; đồng thời cũng diễn ra các cuộc "tảo thanh" tín đồ Cao Đài ở khắp các ấp, xă thuộc các tỉnh Miền Đông Nam Bộ như: Tây Ninh, Gia Định (TP HCM), Thủ Dầu Một (Sông bé)...

Bằng cách tập hợp đồng bào đi phá hoại đường để bảo vệ vùng giải phóng thuộc Củ Chi - gọi là "khu 5" - Ban chỉ huy ra lịnh: ai có đạo đứng một bên, ai không có đạo đứng một bên; ai có đạo ở lại, ai không có đạo đi phá đường. Do vậy, hàng trăm người có đạo - toàn là tín đồ Cao Đài gồm nam, nữ, ông già, bà cả, thanh niên, trung niên - được điều động đến mé rừng rậm. Sau đó nhiều loạt súng liên thanh nổ liên tiếp với tiếng người kêu la gào thét kinh khủng. Thế là số phận bi thảm của đồng bào Cao Đài nói trên đă kết liễu. Thi hài của họ được vùi dập xuống các hầm đào sẵn ở rừng Làng và Sở cao su Me-sắc (thuộc xă Phú Mỹ Hưng, Củ Chi). Vào năm 1950, người ta đă phát hiện ở rừng Bời Lời (Trảng Bàng - Tây Ninh) có 5-7 hầm toàn sọ người. Hay như ở xă Vĩnh Lộc (thuộc G̣ Vấp, Gia Định cũ), về sau này, hàng năm đều có ngày giỗ thống nhứt - giỗ những đồng bào tín đồ Cao Đài trong xă, ấp bị giết hàng loạt cùng một ngày bới các cuộc tảo thanh tàn bạo nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam.

Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và 20 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1955-1975) bao gồm cả thời kỳ đất nước chia cắt thành 2 miền: Nam, Bắc (miền Bắc xă hội chủ nghĩa, miền Nam thuộc địa củ Mỹ), đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ở miền bắc xă hội chủ nghĩa là đối tượng đàn áp quyết liệt của chánh quyền cộng sản; đặc biệt lúc Hiệp định đ́nh chiến Giơ-ne-vơ (tháng 07/1954) qui định chia cắt tạm thời đất nước thành hai miền, được kư kết th́ lập tức có hai triệu đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ồ ạt di cư vào Nam sinh sống và để thoát khỏi "tai họa cộng sản". Do đó, đối với số đồng bào và hàng giáo phẩm của các tôn giáo nói trên c̣n ở lại miền Bắc xă hội chủ nghĩa suốt 20 năm (1955-1975) qủa là rất nặng nề, không khác ǵ cuộc sống ở một trại giam lớn.

Phật giáo Việt Nam với truyền thống yêu nước là tôn giáo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống độc tài, tham nhũng, đ̣i dân chủ tự do và hoà b́nh (đặc biệt ở Miền Nam Việt Nam) trong suốt thời kỳ Đế quốc Mỹ và tay sai thống trị. Nhưng sau khi Miền nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Phật Giáo lại trở thành đối tượng kềm kẹp, khống chế, trấn áp của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều người thuộc hàng giáo phẩm và tín đồ phật giáo bị qui chụp là "phản động", "chống cách mạng" và bị bắt bớ, giam cầm, quản thúc chỉ v́ họ muốn được tự do trong cuộc sống, tự do tín ngưỡng, hành đạo, tự do nói lên quan điểm tư tưởng riêng của ḿnh.

Với "ư thức hệ mác-xít, lập trường giai cấp vô sản", Đảng cộng sản Việt nam không những đố kỵ và áp bức các tôn giáo mà c̣n đố kỵ áp bức các dân tộc ít người: dân tộc người Hoa, người Khơ-me và nhiều sắc tộc khác.

Vào những năm 1956-1957, sau sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức - chiến dịch tấn công vào nhân dân, nông dân và bản thân nội bộ Đảng - với chuyên chính độc tài dựa vào bạo lực, Đảng cộng sản Việt Nam lại lao vào tội lỗi khác là đàn áp, bắt bớ, tù đày hàng chục năm một số trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ đảng viên dám phát biểu ư kiến, quan điểm của ḿnh, phê phán những sai trái trong sự lănh đạo của Đảng cộng sản bằng văn học, nghệ thuật, bằng bài nói, bài viết của bản thân. "Vụ án nhân văn giai phẩm" 1956-1957 chính là sự đàn áp của Đảng cộng sản Việt Nam đối với những ai có quan điểm, tư tưởng khác với Đảng. Những văn nghệ sĩ, trí thức, cán bộ đảng viên có liên quan đến vụ án khi vào tù tuổi c̣n thanh xuân, nhưng đến khi ra tù th́ tóc đă bạc phơ, già yếu. Rơ ràng, đối với Đảng cộng sản Việt Nam thấm nhuần ư thức hệ Mác-Lênin, ai ai cũng dễ dàng bị qui chụp là "kẻ chống Đảng, kẻ thù của Đảng" và tất nhiên, điều đó không thể không dẫn đến hậu qủa là ai ai cũng coi Đảng cộng sản Việt Nam là kẻ thù của chính họ.

P.- Trong Chiến Tranh: Rất Hiếm Cấp Tướng Hy Sinh; Trong Hoà B́nh: Đại Tướng, Trung Tướng Hy Sinh Dễ Dàng. Do Đâu ?

Điều đặc biệt quan trọng xảy ra trước và sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản VN (tháng 12/1986) là một loạt cấp tướng ( đại tướng, trung tướng) bị giết hại một cách bí mật và nhiều câu hỏi được đặt ra trong dư luận xă hội lúc bấy giờ, nhất là ở Thủ đô Hà Nội: kẻ sát nhân là kẻ nào ? bàn tay bí mật giết người từ đâu ? Bởi v́, chỉ trong một thời gian rất ngắn, liên tiếp cá hai đại tướng: Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cùng ở vào một t́nh huống giống nhau - chuẩn bị nhận chức vụ mới (Bộ trưởng Quốc pḥng) - cũng đều bị chết bất ngờ (ngộ độc). Trường hợp của Đại tướng Hoàng Văn Thái trước khi trút hơi thở cuối cùng đă nói với vợ ông rằng: "Người ta đă giết tôi", và vợ ông trước những người đến viếng thăm đă khóc thê thảm và kêu to lên rằng: "Người ta đă giết chồng tôi". Cái chết đột ngột của Đại tướng Lê Trọng Tấn cũng tương tự như trên (theo lời kể tỉ mỉ của hai vợ chồng ông Trung tướng đương chức ở Hà Nội - năm 1987).

Dĩ nhiên trước đó không lâu, một Đại hội đảng bộ toàn quân đă diễn ra trong bầu không khí căng thẳng của cuộc đấu tranh nội bộ chưa từng có đưa đến kết quả là hai ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt nam: Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng quốc pḥng và Đại tướng Chu Huy Mân - phó bí thư quân uỷ trung ương, đều thất cử, không được bầu vào cấp ủy Đảng và đoàn đại biểu Đảng bộ toàn quân đi dự đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam. Do đó, Đại tướng Hoàng Văn Thái được trung ương chỉ định làm Bộ trưởng Quốc pḥng thay thế Văn Tiến Dũng (bị mất tín nhiệm nhiều) không may bị chết bất đắt kỳ tử và người được chỉ định lên thay ông là Đại tướng Lê Trọng Tấn, cũng chịu số phận bi thảm liền sau đó. Thật khủng khiếp và đáng kinh ngạc.

Sau 2 sự kiện đau buồn nói trên (tức sau đại hội 6 ĐCSVN) khoảng mấy tháng lại có thêm hai trung tướng: Đinh Đức Thiện và Trần B́nh bị giết hại. Theo tin loan truyền th́ Trung tướng Đinh Đức Thiện bị tai nạn ô tô mà chết, c̣n dư luận xă hội, kể cả gia đ́nh, cán bộ quân sự th́ cho rằng ông Đinh Đức Thiện không bị tai nạn ô tô mà bị bắn chết tại rừng Cúc Phương (Ninh B́nh) khi ông đi săn thú. Dư luận c̣n nhấn mạnh: Ông Thiện chắc chắn bị một người bà con có quyền thế sát hại. C̣n Trung tướng Trần B́nh - Cục trưởng cục t́nh báo quân đội nhân dân Việt Nam bị bắn chết ngay trên đường phố thuộc quận 3 - thành phố Hồ Chí Minh; và sau đó độ mấy ngày, người con trai của ông cũng bị bắn chết tại khu vực nói trên.

Trước những sự kiện nghiêm trọng đó của đất nước, dư luận xă hội rất xôn xao, ầm ỉ; c̣n các cơ quan thông tin đại chúng: báo chí, đài phát thanh,...th́ im hơi lặng tiếng, kể cả báo "Quân đội", "Hội cựu chiến binh Việt Nam" là cơ quan tổ chức có mối liên hệ trực tiếp với các nạn nhân nói trên. Bởi v́ sự độc quyền lănh đạo - độc tài - của Đảng cộng sản Việt Nam đ̣i hỏi tất cả phải được giữ kín, không được b́nh luận, bàn tán ồn ào. Tuy nhiên, áp lực đó không ngăn cản nổi sự quan tâm bức xúc của dư luận xă hội đi đến khẳng định rằng những sự kiện kể trên (2 ủy viên bộ chính trị bị đánh rớt khỏi cương vị lănh đạo và 2 đại tướng bị chết đột ngột, 2 trung tướng bị sát hại) là những sự kiện rất nghiêm trọng, chưa từng có trong lịch sử quân đội và ĐCSVN; nó có quan hệ hữu cơ bắt nguồn từ những mâu thuẩn sâu sắc trong nội bộ Đảng, toàn quân ở độ chín muồi dẫn đến làm nổ tung các mặt trong cuộc sống và hoạt động ít nhất ở một bộ phận đầu năo của quân đội Việt Nam.

Sở dĩ không có thông tin đầy đủ và không thể có sự phân tích sâu sắc, công khai các sự kiện nói trên nhằm vạch trần bộ mặt của những tên khát máu, giết người trước ánh sáng dư luận là do trong thực tiễn ở Việt Nam không hề có dân chủ tự do (tự do ngôn luận, tự do báo chí,...); nó chỉ có trên giấy trắng mực đen (bản hiến pháp) thôi.

Sự độc quyền lănh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được ghi trong Hiếp Pháp nước CHXHCN Việt Nam đă đặt Đảng cộng sản đứng trên Quốc Hội và Hiến Pháp, cho phép Đảng phủ định các quyền tự do ấy của công dân trong thực tiễn và tự do chà đạp Hiến Pháp được xây dựng lên bằng xương máu của nhân dân Việt Nam; vô hiệu hoá Quốc Hội, biến Quốc Hội thành một tổ chức bù nh́n, thành bộ máy bỏ phiếu cho Đảng cộng sản. Nh́n chung, các cơ quan, tổ chức khác như: chánh phủ, ṭa án, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng chỉ là công cụ, tay sai của Đảng mà thôi (bất cứ việc xét xử nào của toà án ở từng cấp đều phải làm đúng theo sự xét xử trước đó của cấp ủy Đảng tức tuyên án công khai đúng như cấp ủy Đảng đă tuyên án trước trong nội bộ).

Gần đây, điều đáng chú ư là nhà nước Việt Nam đă quan tâm nhiều hơn đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, tại Hội nghị Việt kiều hồi tháng 2/1993, Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt - trước hàng trăm đại biểu đại diện cho khoảng 2 triệu người Việt kiều cư ngụ ở 70 nước trên thế giới mà đa số tập trung ở các nước tư bản phát triển nhất (G7 - nhóm các nước giàu), trong đó có trên 300.000 ngàn trí thức có tŕnh độ đại học và trên đại học - đă nhấn mạnh: "Đoàn kết ḥa hợp dân tộc là động lực phát triển đất nước".

Q.- Trên Cơ Sở Dân Chủ B́nh Đẳng, Thực Hiện Ḥa Giải Ḥa Hợp Dân Tộc.

Rơ ràng lực lượng Việt kiều là tiềm lực lớn lao, là tài sản trí tuệ quí báu của dân tộc Việt Nam cần phải được phát huy cao độ v́ sự phồn vinh, giàu có của Tổ quốc, v́ ấm no hạnh phúc của nhân dân, v́ một nước Việt Nam dân chủ, tự do, b́nh đẳng, bác ái, hiện đại, văn minh. V́ vậy có vấn đề đặt ra là làm sao tạo được một môi trường tốt, phù hợp và bền vững cho đồng bào Việt kiều - những người đă từng sống và hoạt động ở môi trường tự do hóa về kinh tế và chính trị; môi trường của nền kinh tế thị trường (tư bản chủ nghĩa) và nền chính trị dân chủ, đa nguyên - tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Do đó, nhà nước Việt Nam không thể dừng lại ở việc ban hành một số chánh sách mang tính chất chiến thuật như: nhập cảnh, cư trú, đi lại, hoạt động kiều hối, xuất nhập khẩu, ngân hàng, tín dụng,... mà c̣n phải dám đi xa hơn nữa vào chiến lược lâu dài: cải cách kinh tế đi liền với cải cách chính trị, không những phải xây dựng một nền kinh tế thị trường và mở cửa mà c̣n phải xây dựng một nền chính trị đa nguyên - dân chủ - đa đảng. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc để thực hiện một cách đồng bộ, hài ḥa, sự ḥa giải, ḥa hợp, đoàn kết dân tộc, tạo nên tính tự giác cao và tấm ḷng hồ hởi, cởi mở của đông đảo đồng bào Việt kiều hướng về Tổ Quốc thân yêu, hội nhập thực sự với quê hương, dân tộc. Mặt khác, điều đó cũng nói lên rằng Việt Nam hội nhập vào thế giới, tiếp thu những giá trị của xă hội loài người không chỉ thuần túy về mặt kinh tế mà tiếp thu hoà nhập toàn diện (cả về kinh tế và chính trị). Sự hài ḥa giữa môi trường thế giới (tự do hóa cả về kinh tế và chính trị) và môi trường trong nước (Việt Nam - tự do hoá không những về kinh tế mà cả về mặt chính trị) chắc chắn sẽ tạo ra sự an tâm phấn khởi không những trong đồng bào Việt kiều mà cả gần 70 triệu đồng bào trong nước (bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nhiều sắc tộc, tôn giáo, nhiều khuynh hướng, quan điểm,...) khiến tất cả mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước đều cảm thấy bức bách phải dốc toàn lực tham gia xây dựng quê hương, Tổ quốc giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

Nếu Việt nam chỉ mở cửa kinh tế và đóng kín cửa chính trị, chỉ đi có một chân (kinh tế), chớ không phải đi hai chân (kinh tế và chính trị) th́ càng làm bộc lộ nổi cộm sự lạc hậu về chính trị của Việt Nam trước thế giới - lạc hậu không những so với các nước Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Á (kể cả các nước láng giềng như: Thái Lan, Cam-pu-chia) mà c̣n lạc hậu so với nhiều nước Châu Phi: An-giê-ri, Tu-ni-si, Ma-da-grát-xca, Nam Phi,...Tất nhiên cái ǵ lạc hậu, đi ngược qui luật tiến hóa th́ chắc chắn sẽ bị đào thải, sụp đổ.

Hiện nay, không những 2 triệu đồng bào Việt kiều và gần 70 triệu đồng bào Việt Nam mà cả thế giới văn minh đều đ̣i hỏi Việt Nam phải cải cách toàn diện: cả kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện không thể thiếu được cho sự hội nhập thực sự của Việt nam vào cộng đồng thế giới (tư bản chủ nghĩa) ngày nay; đồng thời đó cũng là điều kiện phải có để đồng bào Việt kiều, đồng bào cả nước ḥa nhập thực sự với dân tộc, đất nước.

Chúng ta biết rằng: sở dĩ Trung Quốc đạt được những thành quả lớn lao suốt 14 năm cải cách kinh tế và mở cửa là nhờ có được một trong những yếu tố quan trọng - một đội ngũ chuyên gia giỏi từ các nước tiên tiến nhất: Mỹ, Nhật, Đức,...gồm khoảng 300-400 ngàn người cho một đất nước có khoảng 1,2 tỉ dân, có nghĩa là cứ khoảng 3000 người dân Trung Quốc th́ có một chuyên gia giỏi nước ngoài phục vụ. Tất nhiên nhà nước TRung Quốc phải chi một số tiền thích đáng cho yêu cầu quan trọng nói trên. Trong khi đó, tại sao Việt Nam chúng ta với dân số 70 triệu người, lại không biết sử dụng trên 3000,000 trí thức Việt kiều của ḿnh cũng gồm giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực cho lợi ích dân tộc ḿnh ?

Đảng cộng sản Việt nam có dám làm một cuộc cách mạng về tư tưởng của bản thân ḿnh, có dám "lột xác" không ? có dám vứt bỏ ư thức hệ mác-xít giáo điều, lỗi thời không ? có dám vứt bỏ tư tưởng quan điểm, thành kiến cũ rích đối với đồng bào Việt kiều ("theo tư bản chủ nghĩa") không ?

R.- Hiện Giờ, Ai Theo Tư Bản ?

Với đầu óc khách quan, dám nh́n thẳng vào thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam phải thừa nhận rằng bằng chính sách đổi mới, hàng ngày, hàng giờ Việt Nam luôn luôn hướng về chủ nghĩa tư bản (Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Ư, Canada, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Thụy Điển, Ần Độ, Hồng Kông, Indonexia,...), chứ không phải hướng về Bắc Triều Tiên, Cuba của chủ nghĩa xă hội; có nghĩa là trên thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam đă đồng hoá về quan điểm, tư tưởng với đồng bào Việt kiều đang sinh sống ở 70 nước tư bản chủ nghĩa trong nhiều thập kỷ qua. Từ thực tế đó cho thấy giữa Đảng cộng sản Việt Nam và đồng bào Việt kiều đă không c̣n tồn tại cơ sở của sự đối đầu, chia rẽ, ngăn cách nữa mà nó đang chuyển sang một cơ sở mới để đôi bênhoà nhập vào nhau; thật sự ḥa giải và chân thành đoàn kết với nhau v́ lợi ích tối cao của dân tộc, đất nước. V́ vậy, khi kêu gọi đồng bào Việt kiều :"xóa bỏ mặc cảm, xóa bỏ hận thù, hướng tới tương lai", Đảng cộng sản Việt Nam phải là người trước tiên thực hiện điều đó, mở rộng ṿng tay để đoàn kết, ḥa giải, ḥa hợp dân tộc trên cơ sở thực sự dân chủ tự do và b́nh đẳng - hoà hợp có nội dung, có điều kiện chớ không thể là khẩu hiệu suông.

Thật là khó hiểu khi ở nước sở tại, đồng bào Việt kiều không những tự do hoạt động kinh tế mà c̣n tự do hoạt động chính trị, tự do tham gia các đảng phái, tổ chức chính trị, xă hội, tự do viết báo, hội thảo, mít tinh, biểu t́nh, tự do nói lên ư kiến, tư tưởng, quan điểm riêng của ḿnh đối với mọi vấn đề trong xă hội; nhưng khi về nước ḿnh (Việt Nam) th́ có thể được tự do hoạt động kinh tế ở chừng mực nhất định nào đó; c̣n về chính trị th́ hoàn toàn không có tự do kể cả phát biểu ư kiến, quan điểm riêng của ḿnh có thể trái với lănh đạo. Bởi v́, ở Việt Nam, những ư kiến, quan điểm của bất cứ người nào ngược với quan điểm lập trường của Đảng cộng sản Việt Nam th́ nhất định sẽ bị lên án và bị trấn áp ngay do sự độc quyền lănh đạo của Đảng tức nền chuyên chế độc tài đă được khẳng định ở đây từ hơn 60 năm qua (1930-1993).

Chuyên chế độc tài đă từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện ḥa giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc ? Cơ sở cốt lơi của vấn đề phải là : dân chủ, tự do và b́nh đẳng thật sự. V́ vậy, chừng nào c̣n chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở Việt nam th́ chừng ấy vẫn chưa xóa được mặc cảm, thành kiến,...chưa có thể ḥa giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể th́ sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành.

Môi trường sinh sống và hoạt động hàng ngày đă giúp đồng bào Việt kiều hiểu rơ thế nào là một nước văn minh, hiện đại. Một nước không thiết lập được một nền dân chủ tự do và b́nh đẳng thật sự th́ làm sao có thể gọi đó là nước văn minh, hiện đại, tiên tiến ?

Việt Nam rất muốn hội nhập vào thế giới văn minh, nhưng đồng thời cũng rất không muốn trở thành một nước văn minh - nước có nền dân chủ đa nguyên - và quyết duy tŕ chế độ chuyên chế độc tài dựa vào vũ lực, bạo lực. Thật là nghịch lư và khó hiểu.

Tóm lại, Liên Xô cũ và Đông Ấu cũ - được xây dựng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin - đă tan ră; đó là sự khuyến cáo đang thép về sự phá sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi v́ đây không phải là một sự thất bại tạm thời của một cuộc cách mạng mà là sự sụp đổ của một "học thuyết cách mạng" đă từng là "ngọn đèn pha" soi đường đi lên CNXH và CNCS. Cái chính là "đèn pha" đă tắt lịm.

Sự sụp đổ của một chế độ độc tài về chính trị và kinh tế nói trên đă mở ra kỷ nguyên cả thế giới bao gồm Liên Xô cũ, Đông Ấu cũ, Mông Cổ, Cam-pu-chia và nhiều nước khác đi vào con đường tự do hóa về kinh tế và tự do hóa về chính trị - thực hiện nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng - theo đúng qui luật vận động của thế giới đương thời. Đó chính là những giá trị phổ cập nhất của xă hội loài người ngày nay.

S.- Thập Kỷ 60-70 Đến Cuối 80 - Chủ Nghĩa Xă Hội Đích Thực; Cuối Thập Kỷ 80 Và Đầu Thập Kỷ 90 - Chủ Nghĩa Tư Bản Đích Thực.

Trước sự chuyển động lớn lao ấy của thế giới, Việt Nam thực hành chính sách đổi mới qùe quặt: chỉ đổi mới kinh tế, phản đối đổi mới chính trị: lấy tự do hoá kinh tế để củng cố độc tài chuyên chế, khẳng định độc tài, phản dân chủ là "đúng đắn", "hợp ḷng dân"; lấy sự phát triển và phồn vinh của kinh tế thị trường làm thành quả của chủ nghĩa xă hội, coi đó mặc nhiên là chủ nghĩa xă hội. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam, của những thập kỷ 60,70,80 là đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, tiêu diệt kinh tế cá thể, tư nhân, tiêu diệt giai cấp người bóc lột người; c̣n chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam của thập kỷ cuối 80 và đầu 90 hiện nay là đuề huề, thoả hiệp, hợp tác, thậm chí liên minh giai cấp nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản - phục hồi kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản chủ nghĩa trong nước và cho tư bản nước ngoài vào đầu tư kinh doanh kiếm lời; đặc biệt đă dựa hẳn vào các nước tư bản phát triển nhất để "xây dựng chủ nghĩa xă hội" ?. Do đó, Việt Nam giống như cá đă "mắc câu", càng vùng vẫy th́ "mắc câu" càng sâu tức càng khẳng định "kiên tŕ chủ nghĩa xă hội" th́ càng đi sâu vào qũy đạo của chủ nghĩa tư bản mà không có sức mạnh nào cưỡng lại được.

Tất nhiên, chấp nhận và phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa của Việt Nam đă tạo điều kiện thúc đẩy sự h́nh thành và phát triển của nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng. Bởi v́ qui luật vận động khách quan vẫn là: kinh tế nào, chính trị ấy - kinh tế độc tài đi liền với chính trị độc tài; kinh tế tự do đi liền với chính trị tự do; chớ không thể kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa lại đi liền với chuyên chính độc tài vô sản được.

Cả thế giới tư bản chủ nghĩa nhiệt liệt hoan nghinh Việt Nam đổi mới và mở cửa v́ Việt Nam đang tiến mạnh vào qũy đạo kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, nhiều nước tư bản sẵn sàng viện trợ, cung cấp tín dụng cho Việt nam, đầu tư vào Việt nam để cho Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường tư bản chủ nghĩa không những về kinh tế mà cả về chính trị. Bởi v́ các nước tư bản nói trên đi vào Việt Nam bằng hai chân: kinh tế và chính trị, không những bằng đô la, máy móc thiết bị tối tân, hàng hóa, chuyên gia giỏi,...mà có cả vấn đề dân chủ, nhân quyền. Cho nên đừng có ai đó ngây thơ nghĩ rằng "họ" chỉ được quyền đến Việt Nam bằng kinh tế thôi. Kinh tế luôn luôn là tiền đề của chính trị. Sức mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự của thế giới tư bản cũng sẽ tác động rộng khắp trên các lĩnh vực của Việt nam, thúc đẩy Việt nam đổi mới triệt để, sâu sắc, chớ không phải đổi mới nửa vời như hiện nay.

Dựa vào vũ lực để củng cố chuyên chế độc tài đồng thời uy hiếp một dân tộc suốt 30 năm cầm súng chống ngoại xâm, sự thách thức ấy liệu sẽ dẫn đến hậu quả ǵ ? Các chế độ độc tài thường xô đẩy đất nước vào thảm họa nội chiến. Gương Áp-ga-ni-xtan, Ê-ti-ô-pi, Nam Phi,...vẫn c̣n sờ sờ đó.

Điều tủi nhục cho dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng lừng danh khắp thế giới - cuối cùng lại là dân tộc bị kềm kẹp nặng nề nhất, không có được một chút quyền dân chủ tự do (ngôn luận, báo chí, tư tưởng, quan điểm, mít tinh, biểu t́nh, đ́nh công,...)

Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc, là nước đă kư vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng Việt Nam không thực hiện bản tuyên ngôn ấy và không hề cho nhân dân Việt Nam biết rơ Bản Tuyên Ngôn, bưng bít suốt mấy mươi năm. Điều đó chỉ ra rằng Đảng cộng sản và chánh phủ Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt nam đă biểu thị sự khinh thường của ḿnh đối với Liên Hiệp Quốc và với cả dân tộc Việt Nam, với nhân dân thế giới. Vậy Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam có xứng đáng là thành viên của Liên Hiệp Quốc không ?

Mặc dù luôn luôn tự xưng là "Đảng tiền phong, giải phóng dân tộc", nhưng suốt mấy mươi năm cầm quyền của Đảng là mấy mươi năm Đảng đă tước đoạt các quyền dân chủ tự do cơ bản của nhân dân, giam hăm nhân dân trong mê muội, tối tăm; từ đó đă mặc nhiên tạo nên sự khiếp sợ Đảng rộng khắp cả nước kể cả trong cán bộ đảng viên lâu năm, không khác ǵ sự khiếp sợ của nhân dân đối với các triều đại vua chúa ngày xưa. Cho nên trước những sai trái của Đảng, nhiều người lặng thinh không dám có ư kiến v́ quá sợ Đảng. Đó là hậu quả tai hại nhất, nghiêm trọng nhất của chế độ độc tài, độc đảng ở Việt Nam.

Rơ ràng, Đảng cộng sản Việt Nam với hơn 60 năm lănh đạo cách mạng và do không biết tự sám hối, nhạy cảm trước biến đổi của lịch sử, ngày nay đă tự biến ḿnh trở thành chướng ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam.

Dân chủ tự do đối với loài người, mọi dân tộc trên thế giới như cơm ăn, nước uống, không khí để thở, tức con người muốn sống phải có dân chủ tự do; chớ không phải chỉ có những người ở phương Tây (Anh, Pháp, Đức,...) mơí cần có dân chủ tự do. Nhân dân Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc đều bức bách đ̣i hỏi phải có dân chủ tự do v́ đó là sự sống. Chỉ có ở nước nào mà chế độ độc tài, phát xít được thiết lập th́ ở đó mới không có dân chủ tự do và nhân dân phải sống lầm than, tủi nhục, đầy lo âu, sợ hăi.

Phải chăng Đảng cộng sản Việt nam đả kích mạnh dân chủ phương Tây để tiếp tục tước đoạt quyền dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam hay đă đến lúc phải kịp thời thức tỉnh, sám hối và mau chóng hoàn trả lại cho nhân dân các quyền dân chủ tự do thật sự của họ ?

Phần 4 :
Định Hướng Chiến Lược

Trong bối cảnh thế giới biến đổi hoàn toàn khác trước (như đă tŕnh bày ở các Phần I,II,III) và từ yêu cầu bức bách, lâu dài của dân tộc trên các lĩnh vực, định hướng chiến lược của Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 sẽ là:

A.- Về Chính Trị.

1. Từ bỏ chủ nghĩa xă hội đă trở nên lỗi thời, không có sức sống v́ nó đă cáo chung trên phạm vi thế giới.

2. Tiếp thu mọi giá trị của xă hội loài người để đưa đất nước tiến lên phát triển không ngừng. Cụ thể là Việt Nam cần phải thật sự cầu thị, phải học tập chủ nghĩa tư bản và làm theo mô h́nh tư bản chủ nghĩa, v́ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức hoàn chỉnh và hiện đại nhất của xă hội loài người ngày nay.

3. Bác bỏ nền chuyên chính độc tài, độc đảng đă từng ngự trị lâu dài ở Việt nam và được trang trí bằng mọi kiểu dân chủ h́nh thức.

Thực hiện nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng; đảm bảo quyền con người của mọi công dân trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xă hội; đặc biệt cần phải thi hành nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của công dân như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do đ́nh công, tự do biểu t́nh, coi đó là vũ khí sắc bén để nhân dân bảo vệ những lợi ích của ḿnh và thực hiện vai tṛ người chủ thực sự đối với đất nước, xă hội.

Để thực hiện chế độ dân chủ công khai, cả dân tộc cùng đối thoại, Đại Hội "Diên Hồng" cả nước phải được triển khai mỗi năm một lần để thảo luận tất cả các vấn đề nóng bỏng của đất nước và xă hội đặt ra. Dựa vào những kết luận đă được đúc kết của Đại Hội nói trên, Quốc Hội sẽ nghiên cứu thảo luận và xây dựng thành chánh sách, luật pháp hoặc sửa đổi bổ sung Hiến Pháp.

4. Thực hiện một nhà nước pháp quyền - đất nước được cai trị, quản lư bằng một hệ thống pháp luật; chớ không phải bằng chỉ thị, nghị quyết của một Đảng phái hay một tổ chức chính trị, xă hội nào khác.

Mọi công dân phải tuân theo pháp luật, hành động đúng pháp luật. Không ai có quyền đứng trên và đứng ngoài luật pháp. Mọi công dân đều b́nh đẳng trước pháp luật. Một xă hội càng dân chủ bao nhiêu th́ càng có kỷ cương bấy nhiêu. Đó là một xă hội văn minh, tiên tiến.

5. Thực hiện bầu cử thực sự dân chủ (tự do bầu cử, tự do ứng cử). Ai có đức có tài th́ sẽ được nhân dân bầu, c̣n ngược lại ai không đức không tài th́ nhân dân sẽ bác bỏ. Tổ chức giám sát nghiêm nhặt cuộc bầu cử, chống gian lận. Kể cả có sự giám sát của cơ quan Liên Hiệp Quốc nếu xét thấy cần.

6.- Quốc Hội là cơ quan đại diện quyền lực cao nhất của đất nước Việt Nam. Do đó, không có cá nhân nào, đảng phái nào, tổ chức chính trị xă hội nào đứng trên Quốc Hội, lănh đạo Quốc Hội,chỉ thị cho Quốc Hội phải làm cái này, cái kia.

Không có tổ chức và hoạt động của bất cứ đảng phái nào, tổ chức chính trị xă hội nào trong Quốc Hội, trong các cơ quan nhà nước và quân đội.

Quốc Hội, hội đồng nhân dân và ṭa án phải hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của ḿnh, tuyệt đối không hề chịu áp lực của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào khác.

7. Thực hiện chế độ tam quyền phân lập giữa 3 cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba tổ chức này độc lập nhau trong hành động, nhưng có mối liên hệ nhau, hổ trợ nhau và tuyệt đối không xâm phạm quyền hạn và chức năng của nhau.

8. Thành lập một chính phủ liên hiệp trên cơ sở ḥa giải, hoà hợp và đại đoàn kết dân tộc đúng nghĩa của nó. Dân chủ tự do và ḥa giải, ḥa hợp dân tộc là yêu cầu sống c̣n của dân tộc Việt Nam ngày nay để tiến lên không ngừng.

9. Công an quân đội là hai trong những bộ phận cấu thành nhà nước; nó là công cụ của nhà nước và chịu sự lănh đạo, quản lư của nhà nước - nhà nước của dân, v́ dân, do dân. Do đó, công an quân đội tuyệt đối không thể là công cụ riêng của bất cứ đảng phái nào; không có đảng phái nào lại có quyền ra lịnh trực tiếp cho công an bắt người này và ra lịnh cho quân đội tấn công vào lực lượng kia.

B.- Về Kinh Tế.

1. Dựa vào mô h́nh tư bản chủ nghĩa đặc biệt mô h́nh của các nước tư bản tiên tiến, Việt Nam thực hiện nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần cạnh tranh nhau nhằm đạt tới mục tiêu kinh tế phồn vinh, đất nước giàu mạnh, hiện đại, văn minh, nhân dân ấm no hạnh phúc.

2. Tiến hành công nghiệp hóa đất nước bằng cách thu hút mạnh vốn đầu tư của nước ngoài kể cả viện trợ, cung cấp tín dụng của các tổ chức tài chánh, ngân hàng quốc tế; đồng thời huy động và dựa vào tiềm năng to lớn, ưu thế sẵn có của bản thân Việt Nam để có bước đi vững chắc trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

3. Kết hợp việc xây dựng và phát triển nền công nghiệp nặng (khai thác dầu mỏ, hoá dấu, thủy điện, nhiệt điện, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất,...) với việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến để đến năm 2000 trở đi, sản phẩm công nghiệp sẽ chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của nước ta hàng năm.

4. Hiện đại hoá bản thân nền công nghiệp (đang lạc hậu) với những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ học tiên tiến, với máy móc thiết bị hiện đại ngày nay.

5. Hiện đại hóa nền nông nghiệp lạc hậu, kể cả lâm nghiệp, thủy hải sản và chăn nuôi, kết hợp với hiện đại hóa dần dần các lĩnh vực đời sống nông thôn bao gồm: ư tế, giáo dục, văn hóa, xă hội, môi sinh, giao thông, đi lại.

6. Xây dựng phát triển và hiện đại hóa hệ thống hạ tầng cơ sở của ngành giao thông vận tải và bưu điện, vô tuyến viễn thông bao gồm: sân bay, bến cảng, đường sắt, đường bộ, đường thủy,...xây dựng các cơ sở sản xuất và chế tạo các loại phương tiện cho nhành.

7. H́nh thành những đặc khu kinh tế tự do ở vùng ven biển có điều kiện nhất và cả ở vùng biên giới thuận lợi nhất.

8. Hiện đại hóa ngành ngân hàng, tài chánh Việt Nam đạt tŕnh độ đuổi kịp các ngân hàng, tổ chức tài chánh trên thế giới. H́nh thành thị trường chứng khoán ở nơi có điều kiện nhất như TP Hồ Chí Minh rồi dân dần phát triển rộng ra. Khuyến khích các nước đặt chi nhánh ngân hàng, tài chánh ở Việt Nam, đặc biệt ở TP Hồ Chí Minh nhằm biến nơi đây trở thành một trung tâm tài chính, ngân hàng quan trọng của đất nước và của cả khu vực.

9. Sử dụng nhiều chuyên gia, nhà quản lư giỏi của các nước trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế của Việt Nam. Kết hợp việc đào tạo cán bộ kinh tế, khoa học kỹ thuật bằng giáo sư nổi tiếng trên thế giới với việc cử học sinh Việt Nam đi học ở các trường đại học nổi tiếng ở các nước :Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ư, Nhật,...

10. Khai thác triệt để tiềm năng kinh tế, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lư, đào tạo trong đồng bào Việt kiều (trên 300.000 trí thức) cho yêu cầu phát triển toàn diện của đất nước.

C.- Về Văn Hoá, Giáo Dục, Y Tế, Xă Hội.

1. Dựa vào khả năng của đất nước và các tổ chức nhân đạo, văn hóa, giáo dục, y tế, xă hội, dân số, môi sinh,...của Liên Hiệp Quốc, của các tổ chức quốc tế khác, xây dựng và hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng thuộc các lĩnh vực nói trên của Việt Nam.

2. Thực hiện một chánh sách xă hội, văn hóa, giáo dục, phù hợp vớiyêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và sự phát triển của đất nước, phù hợp với tŕnh độ thế giới ngày nay, với truyền thống và bản sắc dân tộc; hướng tới một xă hội dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc, công bằng, nhân đạo,văn minh và hiện đại.

D.- Về Quan Hệ Quốc Tế.

1. Thiết lập quan hệ với tất cả các nước trên thế giới v́ hoà b́nh, hữu nghị, hợp tác và phồn vinh theo nguyên tắc: tất cả các nước đều b́nh đẳng nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.

2. Kiên tŕ đấu tranh bảo vệ ḥa b́nh, chấm dứt xung đột vơ trang, nội chiến, chiến tranh cục bộ trên thế giới; đấu tranh giải trừ quân bị toàn diện và triệt để đặc biệt giải trừ vũ khí hạt nhân chiến lược đi đến thủ tiêu hoàn toàn vũ khí hạt nhân, chấm dứt thử bom hạt nhân.

3. Kư kết hiệp ước hoà b́nh hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng: Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Thái Lan đặc biệt kư kết hiệp ước hoà b́nh, hữu nghị, hợp tác và an ninh giữa Việt Nam và Mỹ.

4. Phát huy vai tṛ của Việt Nam trong hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN), trong việc thi hành hiệp ước Ba-li.

5.- Kiên tŕ thương lượng ḥa b́nh đàm phán song phương hoặc đa phương nhằm giải quyết tốt tranh chấp trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; trên thềm lục địa Việt Nam; trên biển Đông theo phương châm: cùng có chủ quyền, cùng hợp tác, khai thác, sử dụng và cùng có lợi; thậm chí phải đưa ra Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc giải quyết nếu thấy cần.

E.- Về Quốc Pḥng.

Dựa vào sức ḿnh, đồng thời ra sức tranh thủ sự chi viện, giúp đở của các nước tiên tiến trên thế giới, xây dựng và hiện đại hóa quân đội Việt Nam bao gồm: hải, lục, không quân thành một quân đội hùng mạnh tinh về chất lượng, giảm về số lượng, phối hợp với lực lượng dân quân đông đảo được rèn luyện và trang bị tốt, đủ sức bảo vệ biên cương, vùng trời, vùng biển của Tổ Quốc Việt Nam thân yêu và sẵn sàng đánh bại bất cứ cuộc xâm lăng từ đâu đến.

(Viết xong ngày 20/05/1993 ngày c̣n bị quản thúc tại gia, từ ngày 07/09/1990 đến 20/05/1993 ở TP Hồ Chí Minh)    Nguyễn Hộ.