Nghịch lư Dương Thu Hương
Chu Việt
Nhà văn Dương Thu Hương nổi tiếng qua những phê phán triệt để chế độ toàn trị bất nhân của đảng cộng sản Việt Nam. Bà vừa tham dự một cuộc thảo luận văn chương do PEN Mỹ tổ chức tại New York mà báo chí đăng tải khá rộng răi. Mới đây, bà đă quyết định không trở về nước. Cầu chúc bà đạt được ư nguyện, là được viết với tư thế một nhà văn tự do.
Về buổi nói chuyện của hai nhà văn - Robert Stone và Dương Thu Hương - trong
chủ đề
“On Faith and Reason” do trung tâm PEN Mỹ tổ chức tại Thư viện
Thành phố New York ngày 30 tháng 4. 2006 vừa qua, tôi xin có vài nhận xét.
Một phần, tôi dựa vào những thông tin trong
bài viết của Trịnh Lữ và những phân tích trong
bài của Trần Ninh mà tôi rất tâm đắc và phần khác đến từ cảm nghĩ của
tôi sau khi may mắn được xem buổi nói chuyện đó chiếu trên đài truyền h́nh
STBN.
|
|
|
Nhà văn Dương Thu
Hương |
Trước hết tôi thấy rơ ràng đây không phải là một cuộc mạn đàm mà thực chất
là một cuộc phỏng vấn, thậm chí cật vấn ráo riết nhà văn Dương Thu Hương.
Một bên (nhà văn Robert Stone và Antoine Audouard) ung dung chủ động đặt câu
hỏi v́ đă chuẩn bị, c̣n bên kia (Dương Thu Hương, Nguyễn Quí Đức) lúng túng
thụ động trả lời v́ thiếu chuẩn bị. Ông Audouard cũng không làm trọn nhiệm
vụ điều hợp (moderator) của ḿnh; đúng lư ra ông phải gợi ư hay mời
Dương Thu Hương đặt câu hỏi mới phải. Đó là một cuộc đối thoại thiên lệch,
bất cân xứng, lỗi ở Ban tổ chức.
Sở dĩ có sự ồn ào của nhiều phản hồi nghịch âm chung quanh buổi nói chuyện
này v́ đây là lần đầu cô [1] Dương Thu Hương đến Mỹ, và trong tư thế một nhà
văn đối kháng được người Việt hải ngoại và thế giới chú ư qua những bản dịch
tác phẩm của cô, Dương Thu Hương lại là hiện thân của những “nghịch lư”, nói
theo Trần Ninh. Nói vậy cũng đúng thôi v́ bất cứ chủ thể nào cũng là một sự
cộng sinh (symbiosis) của hai mặt tương tác và tương tranh: niềm tin
và lư trí, mà Pascal đă gói trọn trong câu: “le Coeur a des
raisons que la Raison ne connait pas”. Trước những hiểm hoạ của thế giới
ngày nay gây ra bởi cuồng tín + bạo động đối chọi với lư trí nhân bản + dân
chủ, PEN đặt vấn đề: “Văn học có thể làm ǵ để hàn gắn sự nứt rạn này?” V́
thế mới có buổi nói chuyện…
Có điều là h́nh như ai cũng ngộ nhận khái niệm “làm giặc” của cô Dương Thu
Hương. Theo tôi, ở đây phải hiểu theo ư hướng của thành ngữ “được làm
vua, thua làm giặc”. Nghĩa là, đă có một thời cô đi theo phe “được”
nhưng sau khi nh́n ra sự thật là cô bị tuyên truyền những điều không đúng
với hiện thực, nên sau khi được, cô thà làm phe “thua”, “làm giặc”. Đơn
giản, cô là một nhà văn “dissident” tranh đấu cho tự do dân chủ, gọi là một
“rebel” cũng được, nhưng nhất định không phải là một “trouble maker”, một kẻ
chuyên quậy phá vô cớ, theo nghĩa xấu. Trong một chế độ cực quyền toàn trị,
“làm giặc” trong những tác phẩm văn học cũng như trong những phát biểu chính
trị của ḿnh, Dương Thu Hương là một nhà văn và một con người dũng cảm, đáng
kính nể.
Trần Ninh cho rằng Dương Thu Hương đă đơn gỉản hoá sự thật của chiến tranh.
Theo tôi, đó chỉ là một kiểu nói thậm xưng trong lời phát biểu khi lên án
chiến tranh một cách chung chung v́ có lẽ cô biết sự thật không đơn giản
chút nào. Tôi thấy trong cuốn
Tiểu thuyết vô đề, văn phong của cô đầy ngôn ngữ bộc trực thậm
xưng như vậy. Thật ra, cuộc chiến tranh mà cô chủ yếu muốn kết án ở đây là “cuộc
chiến tranh chống Mỹ cứu nước” cô đă tham dự, mà sự thật là một cuộc nội
chiến huynh đệ tương tàn được cô ví một cách h́nh tượng: hai bên là những
tampons (trái độn, buffer hay stopper) giữa hai toa tầu.
Cô c̣n nặng lời cường điệu: “Đó là một cuộc chiến phi lư, một tṛ đùa man
rợ của lịch sử.” Bỏ qua sự cường điệu, tôi đă thấy không ít người (kể cả
trong nước) đồng ư với cô về nhận định này (sự phi lư, vô ích của cuộc
chiến). Nhưng tôi không nghĩ cô muốn lên án cuộc kháng chiến giành độc lập
1946-1954 mà cô chưa thể tham dự. Ở đây, thiết tưởng cũng nên nói lại cho
đúng sự thật: Việt Nam chưa hề chiến thắng hai cường quốc [Pháp, Mỹ]
bao giờ cả. Một bộ phận của đoàn quân viễn chinh Pháp (tương đương một sư
đoàn) bại trận ở Điện Biên Phủ. Đúng. Nhưng toàn bộ th́ không. C̣n khi gần
như toàn bộ lực lượng chính quy Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến chiếm Sài
G̣n th́ quân đội Hoa Kỳ đă rút khỏi Việt Nam từ lâu rồi. Đó là lư do tại sao
Dương Thu Hương nói rằng “mọi người vẫn c̣n mê muội trong hào quang chiến
thắng”, ư cô muốn nói là “ảo tưởng chiến thắng”.
“Những sức mạnh to lớn đă giúp người Việt Nam [miền Bắc] chiến
thắng” trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước này, thưa ông Trần
Ninh, đó là những hoả tiễn SAM-2, đại pháo 122mm và 130mm, xe tăng T-54 và
những súng đạn, quân viện không giới hạn mà nguồn gốc ở đâu chắc ông cũng đă
rơ. Ngoài ra cũng c̣n có sự yểm trợ của t́nh báo Nga-Xô và những chí nguyện
quân phe xă hội chủ nghĩa (320 ngàn công binh và xạ thủ pḥng không Hồng
quân Trung Hoa, 801 phi công Bắc Hàn, chuyên gia Cuba). Nói vậy tôi không có
ư phủ nhận tinh thần chiến đấu cao của bộ đội miền Bắc do được tuyên truyền
“chống Mỹ cứu nước” mà chính Dương Thu Hương cũng từng bị mê hoặc. Bởi vậy
nên cô muốn “giải ảo” (debunk) cuộc chiến đó, nói nôm na là lột cái
vỏ “chống Mỹ cứu nước” quẳng đi để cho sự thật cốt lơi hiển lộ ra là một
cuộc chiến giữa những người “da vàng mũi tẹt” với nhau. Sức mạnh giúp họ
[bộ đội miền Bắc] vượt qua những khó khăn thiếu thốn, theo tôi, chính
là ḷng yêu nước và tinh thần chống ngoại xâm. Như vậy chưa đủ sao, thưa ông
Trần Ninh? Chả lẽ phải đi mượn diễn dịch h́nh thức của William James (the
moral equivalent of war) rằng: nhờ có chiến tranh họ mới bộc lộ được
những phẩm chất đó? Thật là một ngụy biện quá nguy hiểm.
Nghịch lư của Dương Thu Hương là cô được thế giới bên ngoài biết đến, thậm
chí vinh danh nhưng lại là một nonperson đối với chính quyền và đa số
người trong nước. Văn chương của cô giầu cảm tính, có khả năng đi thẳng vào
ḷng người; cô mô tả những t́nh huống, nhân vật đă gây cho cô những cảm xúc
bất nhẫn trong đời sống thật dưới chế độ xă hội chủ nghĩa (xem Những
thiên đường mù). Dương Thu Hương không phải là nhà văn làm dáng với
những lư luận hay triết lư trừu tượng, “đao to búa lớn”, ví dụ như “Đạo
lư của nghệ thuật là ở chỗ nó nhận diện được sự thật” hoặc “cái đồng đẳng
đạo lư của chiến tranh’’ (lời dịch của Trịnh Lữ). Tôi rất muốn được nghe
Robert Stone thuyết giảng như thế nào về những điều này với tư cách một học
giả. Dẫu sao đó cũng là mặt hạn chế của Dương Thu Hương. Trần Ninh đă nh́n
rơ vấn đề, và tôi tâm đắc với lời kết sâu sắc của ông: “Nói một cách công
bằng, khi dừng lại trong những giới hạn của ḿnh, bà đă vượt qua được một số
giới hạn mà những người khác không vượt qua được”. Nói thế chứ tôi nghĩ
Dương Thu Hương cũng đă phát biểu được vài triết ngôn sáng giá như: “Cái
đẹp không phải lúc nào cũng thắng” và “văn minh cũng có lúc phải qui hàng”
.
Đặt Robert Stone, một nhà văn-học gỉả, cặp đôi với Dương Thu Hương, một nhà
văn-cựu chiến binh, một mụ đàn bà “răng đen mắt toét” (như cô đă hănh diện
tự nhận) trong buổi nói chuyện cũng là một việc khiên cưỡng v́ Stone chưa hề
chiến đấu ở Việt Nam mà chỉ là phóng viên một thời gian ngắn năm 1971. Trong
bảy cuốn tiểu thuyết của ông cũng không có quyển nào nói về chiến tranh Việt
Nam. Tôi không nghĩ ông hiểu biết nhiều về thực tế chiến tranh Việt Nam.
Theo tôi, nếu mời được một nhà văn cựu chiến binh Mỹ, ví dụ như Tim O’Brien,
để đối thoại với Dương Thu Hương chắc sẽ lư thú và có ư nghĩa hơn. Nhưng
tiếc thay PEN không phải là trung tâm William Joiner.
Về chuyện Utopia, cuốn sách mà ông Trịnh Lữ dịch, vừa được xuất bản
tại Hà Nội, mà ông hồ hởi cho là “vĩ đại” và có ư định tặng nhà văn Dương
Thu Hương, tôi thấy ông đă tự mâu thuẫn. Ông nói: “Tôi nghĩ Dương Thu
Hương, cũng như những nhân vật phản kháng khác ở bất kỳ đâu, chắc phải có
đầu óc utopia”. Tôi không nghĩ là họ có đầu óc utopia, hiểu theo nghĩa
có những lư tưởng tốt đẹp nhưng viển vông để cải thiện cuộc sống con người.
Trái lại tôi chắc họ biết họ muốn ǵ: họ muốn xoá bỏ độc tài đảng trị, vô
sản chuyên chính để dân tộc được sống trong tự do và dân chủ, những lư tưởng
trên hầu hết thế giới văn minh ngày nay. Đó không phải là utopia. Ở một đoạn
khác, ông lại viết: “Cái hay của dân chủ Tây phương là vậy: nó dạy người
ta đừng ảo tưởng; muốn xă hội tốt hơn th́ phải biết tranh đấu cho những xác
tín tốt đẹp của ḿnh chứ không thể trông chờ ở ơn trên nào hết.” Đó
chính là điều mà Dương Thu Hương và những nhân vật phản kháng khác đang làm
đấy ông ạ. Ông thử nghĩ lại xem ai có đầu óc utopia: Dương Thu Hương hay
những nhân vật trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam? Ngoài ra ông c̣n
chứng tỏ đă là một học sinh không xuất sắc lắm. Cùng thế hệ với Dương Thu
Hương, cùng là học tṛ phổ thông ở Hà Nội những năm 1960 mà ông không thuộc
ḷng thơ Petofi hay sao? Theo tôi th́ ư nghĩa của đoạn thơ Petofi mà Dương
Thu Hương đă dẫn c̣n đẹp và đi xa hơn cái nhận định chung chung có hơi sáo
ṃn của Stone: “Nhà văn là người khiến cho sự thật hiển lộ và được nhận
diện”.
Dương Thu Hương phát biểu: “Những phản ứng của người Việt Nam hiện nay
đều là để phản kháng lại chính quyền”. Trong một khía cạnh nào đó, cô
nói đúng. Sự kiện thanh niên Việt Nam nồng nhiệt đón mừng Bill Gates là một
h́nh thức hoan nghênh sự thành công của thị trường tự do không có cái đuôi
“định hướng xă hội chủ nghĩa”, ông Trịnh Lữ không thấy sao? Sở dĩ Dương Thu
Hương vẫn mải mê lục lại quá khứ chiến tranh như nhà văn người Pháp
nói là v́ quá khứ đă làm nên hiện tại. Nếu không có hôm qua làm sao có hôm
nay? “Ôn cố tri tân” là vậy. Muốn sống cho ra cuộc sống con người hôm nay để
xây dựng một tương lai tốt đẹp, phải lục lại quá khứ, từ bỏ những sai lầm
tàn bạo, những định kiến mê muội và những vinh quang giả trá. Đó là thông
điệp gói ghém trong những phát biểu của Dương Thu Hương, tuy lời lẽ có đôi
khi gồ ghề hay ác khẩu như một mụ quê mùa răng đen mắt toét.
Về việc hoà giải Việt-Mỹ, Dương Thu Hương cũng nói không sai khi cô cho rằng
“ông Phan Văn Khải không có lựa chọn nào khác”. Muốn qua sông th́
phải lụy đ̣, có thế thôi, và đó là sự khôn ngoan cũng không khác chi ông Hồ
Cẩm Đào. C̣n Dương Thu Hương có phải là nhà văn khi đối thoại với đồng
nghiệp Tây phương hay không th́ Trịnh Lữ nên phân biệt viết văn với lư luận
trừu tượng trong đàm thoại. Dương Thu Hương không phải là một học giả có tài
hùng biện và cô cũng thiếu chuẩn bị, nhưng chắc chắn cô là một nhà văn có
tài và có tâm. Bởi vậy nên cô đă mượn đoạn cuối trong Truyện Kiều để
biểu lộ tâm trạng và tư thế của cô thay v́ lư luận trừu tượng.
Tựu chung, một phần của t́nh trạng “ông chẳng bà chuộc” giữa R. Stone và
Dương Thu Hương và ngộ nhận nơi những người viết về buổi nói chuyện này cũng
do sự thông dịch và phiên dịch mà ra. Nguyễn Quí Đức là một nhà văn viết
tiếng Anh mà tôi quư mến, nhưng thông dịch khác viết văn hay phiên dịch.
Thông dịch đ̣i hỏi sự lanh trí thiên bẩm mà không phải ai cũng có. Tôi thấy
anh Đức dịch rất trôi chảy nhưng không chính xác lắm. C̣n phiên dịch th́ vô
cùng khó khăn v́ phải thông hiểu không những cả hai ngôn ngữ mà c̣n phải
trải nghiệm cả môi trường văn hoá liên hệ. Là người đă từng dịch và thông
dịch (Ông đại sứ, Xứ tuyết, và 17 cuốn chuyên đề (monograph) về chiến
tranh Việt Nam cho Trung tâm Quân sử Hoa Kỳ), tôi rất thông cảm và không có
ư kiến ǵ. Dịch không những là phản, có khi lại là “diệt” nữa. Tài năng đến
như Nina McPherson khi dịch cuốn
Những thiên đường mù của Dương Thu Hương cũng đă vấp phải vài sai
lầm khó tha thứ, không tiện nói ở đây, bởi cô phải dịch qua tiếng Pháp và
thiếu trải nghiệm văn hoá nông thôn miền Bắc Việt Nam.
[1]Với tư thế một người cao niên ở tuổi cổ lai hy, theo thông tục Việt Nam,
tôi dùng từ “cô” cho thân mật, không có ư ǵ khác.