Hợp lư hay phi lư?

04 Tháng 9 2006 - Cập nhật 09h26 GMT


BBC: Từ ngày 1-9-2006, sẽ đi vào hiệu lực Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. Tuy nhiên, theo tác giả Bùi Kiến Thành, nghị quyết này có nhiều điểm 'không hợp tình hợp lý.'

Nghị quyết 1037 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, được ký hôm 27-7 và có hiệu lực từ ngày 1-9 năm nay, xuất phát từ bản dự thảo “Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch nhà ở có yếu tố nước ngoài trước ngày 1/7/1991” được công bố từ tháng 1-2006.

Có những điểm thay đổi giữa văn bản cuối cùng và bản dự thảo, nhưng chủ đích “tối hậu” cũng như nhau. Đó là tạo cơ sở pháp lư để hợp thức hoá quyền sở hữu của những người “quản lư” được nhà nước phân cho sử dụng tài sản của bà con xa xứ, xác lập quyền sở hữu nhà cho cán bộ được nhà nước phân cho nhà “vắng chủ”, chứ không phải là tạo điều kiện cho “Việt Kiều được lấy lại nhà” như thuật ngữ hành văn có thể làm cho người đọc nhầm tưởng.

Về tên của Nghị Quyết và đối tượng áp dụng

Đây là một Nghị quyết về “giao dịch dân sự” có nghĩa là về những trường hợp có sự đồng thuận giữa các bên tham gia. Đối với phần lớn Việt Kiều lúc ra đi trong thời thế hỗn loạn sau ngày 30/04/75 hay “vượt biên” trong những năm tháng sau đó đều không có “giao dịch dân sự”. Nếu có chăng là “hiến dâng” hay “ủy quyền” cho nhà nước “quản lư” tài sản trước khi được phép xuất cảnh. Những trường hợp như vậy không thể được xem là giao dịch dân sự v́ sự thật là bị ép buộc, không có sự đồng thuận tự do giữa các bên.

 Dầu lấy mốc thời gian nào th́ số lượng đối tượng cũng là thiểu số so với đa số là bà con Việt Kiều ra đi từ sau 30/04/1975. Vậy đối với đa số này th́ Nghị quyết xử lư ra sao?
 

 

Vậy th́ Nghị quyết này được soạn ra để áp dụng cho các đối tượng nào? Những ai có thực hiện các “giao dịch dân sự” nêu trong Nghị quyết? và được xác lập trước ngày 01 tháng 07 năm 1991? Nghi quyết không quy định rõ mốc thời trước ngày 01 tháng 07 năm 1991 là đến đâu? Là 30/04/1975 hay là 1954, 1945, 1884… hay xa hơn nữa ? Và cũng không nói rơ v́ sao lấy mốc thời gian 01 tháng 07 năm 1991 làm dứt điểm?

Dầu lấy mốc thời gian nào th́ số lượng đối tượng cũng là thiểu số so với đa số là bà con Việt Kiều ra đi từ sau ngày 30/04/1975. Vậy đối với đa số này th́ Nghị quyết xử lư ra sao?

Về tác dụng của Nghị quyết

Trong bản dự thảo có đoạn:

Trường hợp trước khi xuất cảnh, chủ sở hữu không ủy quyền cho người khác quản lư nhà th́ giải quyết theo hai hướng: Nếu người quản lư là bố, mẹ, vợ, con của chủ sở hữu và thời gian quản lư liên tục trên 30 năm th́ được công nhận sở hữu; Nếu người quản lư không phải là bố, mẹ, vợ, con của chủ sở hữu th́ tài sản đó thuộc về nhà nước, người quản lư được ưu tiên mua, thuê lại nhà.

Bản Nghị quyết cuối cùng được thông qua chi tiết hoá một số các t́nh huốn cho thuê, cho mượn, “uỷ quyền quản lư” v.v… nhưng cốt lơi của vấn đề được gói gọn vào đoạn cuối của phần trích dẩn trên đây, và điều 22.2 Chương VII của Nghị quyết:

Đây là nội dung của Điều 22.2:

Trường hợp thừa kế nhà ở được mở trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 mà không có người thừa kế th́ xác lập quyền sở hữu cho người đang quản lư, sử dụng nhà ở đó liên tục từ ba mươi năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lư, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực; nếu không có những người này th́ nhà ở đó thuộc Nhà nước và người đang quản lư, sử dụng nhà ở được ưu tiên thuê, mua nhà ở đó.

Thực tế là ngay cả bố, mẹ, vợ, con của chủ sở hữu cũng bị chính quyền quân quản trục xuất ra khỏi nhà để phân nhà cho cán bộ. Một số không nhỏ những chủ sở hữu này lại c̣n bị quy vào nhiều thứ tội và đưa đi các khu “kinh tế mới” hoặc vào trại “cải tạo tư sản”. V́ vậy cái vế thứ nhất là không thực tế.

 Đây là vận dụng thuật ngữ để xác lập quyền sở hữu nhà cho cán bộ đang chiếm hữu nhà của bà con Việt Kiều bị nhà nước tiếp quản

 

Chỉ c̣n lại vế thứ hai, tức là “nhà vắng chủ” mà theo Nghị quyết 1037 “người quản lư được ưu tiên thuê, mua nhà ở đó”. Có nghĩa là theo Nghị Quyết này đa số Việt Kiều bị truất hữu tài sản để cho người “quản lư được ưu tiên thuê, mua lại nhà”. Tóm lại đây là vận dụng thuật ngữ để xác lập quyền sở hữu nhà cho cán bộ đang chiếm hữu nhà của bà con Việt Kiều bị nhà nước tiếp quản.

Về bảo vệ quyền sở hữu của nhân dân

Đây là một vị phạm nghiêm trọng quyền sở hữu của nhân dân. Trong lịch sử đất nước ta chưa hề có một chế độ nào, kể cả thời phong kiến hay thời Pháp thuộc, nhân dân bị tịch thu tài sản không có lư do, không có phạm tội. Thậm chí các thời cổ đại xa xưa, chỉ có những đạo quân xâm lược mới chiếm đoạt tài sản của các nước chiến bại, chứ không hề có bạo chúa chiếm đoạt tài sản của dân ḿnh.

Từ trước đến nay việc xử lư về tài sản nhà ở của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài là do quyết định của hành pháp, chỉ có giá trị giải pháp hành chính, có thể không hợp t́nh hợp lư, không hợp pháp hoặc không hợp Hiến, và có thể được sửa đổi bởi luật pháp do Quốc Hội thông qua. Nay Ủy ban Thường vụ Quốc Hội lấy nghị quyết để xử lư vấn đề này, có nghĩa là tạo dựng cơ sở pháp lư chứ không c̣n phải là những giải pháp hành chính nữa. Do đó việc làm này có ư nghĩa rất quan trọng, cần phải được tŕnh ra Quốc Hội xem xét lại và phổ biến rộng răi cho nhân dân nắm rơ tác động tai hại của nó đối với tinh thần Đại Đoàn Kết Dân Tộc.

Quốc Hội là cơ quan quyền lực tối cao của đất nước, là lương tri của nhân dân. Quốc Hội cần phải thận trọng không tạo ra những cơ sở luật pháp để thực hiện những điều phi nghĩa, trái với đạo lư, có hại cho khối Đại Đoàn Kết Dân Tộc, và tác động sâu xa trầm trọng đối với đa số bà con Việt Kiều mong muốn hàn gắn vết thương tinh thần để trở về với cội nguồn quê hương đất tổ.

Điều mà Quốc Hội cần làm là xây dựng một chính sách đồng bộ, hợp t́nh, hợp lư, để phát huy tinh thần tương thân tương ái, đạo lư uống nước nhớ nguồn, san bằng mọi phân biệt đối xử, bất công giữa người Việt Nam trong nước và đồng bào ở nước ngoài. Cụ thể là Quốc Hội nên huỷ bỏ Nghị quyết 1037 với những nội dung bất công bất chính nêu trên và thông qua một nghị quyết:

Xoá bỏ mọi phân biệt đối xử đối với đồng bào ở nước ngoài do hoàn cảnh lịch sử và tàn tích chiến tranh gây ra, lập lại b́nh đẳng giữa bà con ở nước ngoài và đồng bào trong nước, bảo vệ quyền sở hữu tài sản, nhà ở, và quyền lợi chính đáng của tất cả các tầng lớp đồng bào không phân biệt thành phần, quá khứ, nơi cư trú, và lư do xuất ngoại.

Chủ trương này đă được Đảng và nhà nước công bố từ nhiều năm nay, nhưng chưa được xác định bằng một văn bản có giá trị pháp luật. Việc này là chức năng của Quốc Hội.