Nhận Diện Bộ Chính Trị Khóa X
Và 3 Nhân Vật Lănh Đạo Nhà Nước
Của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Lê Tùng Minh
Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ X Của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đă qua 6 tháng nay (4/2006 đến 10/2006) - một thời gian không dài nhưng cũng không ngắn, để cho chúng tôi công bố bài nghiên cứu về vấn đề nhân sự trọng yếu của ĐCSVN khóa X, nhằm góp phần nhận diện tập đoàn lănh đạo tối cao của ĐCSVN - chủ yếu là 3 nhân vật: Chủ tịch Nhà nước, Thủ tướng Chánh phủ và Chủ tịch Quốc hội nước Cộng Ḥa XHCN Việt Nam - đang nắm quyền quyết định tương lai của quốc gia dân tộc Việt Nam hiện nay!
Từ sự nhận diện BCT khóa X và đặc biệt nghiên cứu sâu về 3 nhân vật lănh đạo nhà nước Cộng ḥa XHCN Việt Nam - trên tinh thần trung thực và chính xác đến mức cao nhất - để cho toàn dân Việt Nam, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đặc biệt là giới trẻ Việt Nam, thấy được sự thật! Trên cơ sở sự thật đó, những người dân Việt yêu nước, lo nghĩ cho tương lai của dân tộc Việt Nam, sẽ biết quyết định: Phải hành đông cách mạng như thế nào, để cho quốc gia dân tộc Việt Nam được sinh tồn trong tự do, hạnh phúc và phú cường, trong thế giời dân chủ, văn minh!
I- Nhận diện Bộ Chính Tri..
Trong Đại Hội X, Ban Chấp Hành Trung Ương ĐCSVN khóa X đă bầu ra Bộ Chính Trị (BCT) khóa X, gồm 14 nhân vật, trong đó có 6 ủy viên BCT khóa IX được tái đắc cử. Đó là: Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng...
Và 8 nhân vật mới, được bầu vào BCT khóa X là: Phạm Gia Khiêm, Phạm Quang Thanh, Trương Vĩnh Trọng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt và Phạm Quang Nghị. Tất cả 8 nhân vật này đều là ủy viên trung ương ĐCSVN khóa IX, nghĩa là họ được đôn lên theo chính sách đào tạo cán bộ “kế thừa lănh đạo”, của cái gọi là “cơ cấu bậc thang h́nh tháp”. Trong lịch sử tổ chức cán bộ của ĐCSVN từ trước đến nay, chưa có một đảng viên nào, dù có tài năng hơn người, cũng không được bầu thẳng vào trung ương! Đó là chưa nói đến quan điểm giai cấp, chủ nghĩa thành phần mù quáng, ngăn chặn sự phát huy “tài năng siêu việt” trong đội ngũ lănh đạo của ĐCSVN!
Vị trí và nhiệm vụ của từng ủy viên BCT khóa X đă được sắp xếp như thế nào? Hiểu biết sự sắp xếp này, chúng ta sẽ hiểu về căn bản khả năng lănh đạo, quản lư và điều hành quốc gia của tập đoàn cầm quyền tối cao của ĐCSVN, trong giai đoạn sắp tới!
Dưới đây là Danh sách 14 nhân vật trong BCT khóa X, sắp xếp theo vị trí từ cao xuống thấp, và nhiệm vụ mới của từng ủy viên:
1- Nông Đức Mạnh - Giữ các chức:Tổng Bí thư, Trưởng Ban Bí thư trung ương ĐCSVN và Bí thư Quân ủy trung ương.
2- Lê Hồng Anh - Giữ các chức: Bộ trưởng Bộ Công an và ủy viên Hội đồng Quốc pḥng - An ninh Quốc giạ
3- Nguyễn Tấn Dũng - Giữ các chức: Thủ tướng Chánh phủ, Phó chủ tịch Hội đồng Quốc pḥng - An ninh Quốc gia và Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương Pḥng - Chống Tham Nhũng.
4- Nguyễn Minh Triết - Giữ các chức: Chủ tịch Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc pḥng - An ninh Quốc gia.
5- Trương Tấn Sang - Giữ các chức: Thường trực Ban Bí thư và Trưởng Ban Kinh Tế trung ương ĐCSVN.
6- Nguyễn Phú Trọng - Giữ các chức: Chủ tịch Quốc hội và ủy viên Hội đồng Quốc pḥng - An ninh Quốc gia.
7- Phạm Gia Khiêm - Giữ các chức: Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ủy viên Hội đồng Quốc pḥng – An ninh Quốc giạ
8- Phùng Quang Thanh - Giữ các chức: Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng và ủy viên Hội đồng Quốc pḥng – An ninh Quốc giạ
9- Trương Vĩnh Trọng - Giữ các chức: Ủy viên Ban Bí thư trung ương ĐCSVN, Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Phó Ban Chỉ đạo Trung ương Pḥng - Chống tham nhũng.
10- Lê Thanh Hải: Bí thư thành ủy TP. Hồ Chí Minh
11- Nguyễn Sinh Hùng: Phó thủ tướng thường trực Chính phủ.
12- Nguyễn Văn Chi - Giữ các chức: Ủy viên Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra trung ương ĐCSVN.
13- Hồ Đức Việt: Trưởng Ban Tổ Chức trung ương ĐCSVN.
14- Phạm Quang Nghị: Ủy viên Ban Bí thư trung ương ĐCSVN kiêm Bí thư thành ủy Hà Nộị
[Chú ư: Một nhân vật khác không có tên trong BCT, nhưng khá quan trọng là Tô Huy Rứa, nguyên Bí thư thành ủy Hải Pḥng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia TP. HCM hiện là ủy viên Ban Bí thư khóa X, giữ chức Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa (thay cho Nguyễn Khoa Điềm) Và chắc chắn sẽ được bổ sung vào BCT trong thời gian tới]
Nhận diện tập đoàn lănh đạo tối cao (BCT) của Ban Chấp Hành Trung Ương ĐCSVN khóa X, chúng ta thấy một điểm nổi bật nhất, so với tập đoàn BCT trước đó, từ khóa II (1951-1960) đến khóa IX (2001-2006), là trẻ hơn và có tŕnh độ học vấn đều và tương đối cao hơn.
Trong BCT khóa X, có 4 nhân vật trẻ nhất là Lê Hồng Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang và Phùng Quang Thanh - Họ cùng sinh vào năm 1949, và đều tốt nghiệp Đại học Chính trị Quốc gia (Nguyễn Ái Quốc) – Riêng Nguyễn Tấn Dũng có thêm bằng cấp Cử nhân Luật.
Số ủy viên BCT c̣n lại (10 nhân vật) đều ở lứa tuổi 60 đến 66 – Trong 10 người này, Nông Đức Mạnh là người cao tuổi nhất (sinh năm 1940); và Nguyễn Sinh Hùng là người nhỏ tuổi nhất (sinh năm 1946). C̣n Nguyễn Phú Trọng và Phạm Gia Khiêm đều cùng sinh vào năm 1944. Nguyễn Minh Triết & Trương Vĩnh Trọng cùng sinh vào năm 1942. Trong số người ở lứa tuổi 60 này có 6 người tốt nghiệp Đại học Chính trị Quốc gia (Nguyễn Ái Quốc). C̣n 4 người là: Kỹ sư Lâm nghiệp & Đại học Chính trị Quốc gia (Nông Đức Mạnh), Đại học Toán & Đại học Chính trị Quốc gia (Nguyễn Minh Triết), Đại học Ngữ văn & Tiến sĩ Chính trị học (Nguyễn Phú Trọng), và kỹ sư Công nghệ & Đại học Chính trị Quốc gia (Hồ Đức Việt).
Nh́n chung tŕnh độ học vấn của BCT khóa X, ngoài một số người có văn bằng chuyên môn, c̣n đa số chỉ có Đại học Chính tri – mà thực tế là Chương tŕnh Cao cấp Chủ nghĩa Marx-Lénine của trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (trước 1975) và sau này đổi tên là Học viện Chính trị Quốc gia Nguyễn Ái Quốc. Bằng cấp Chính trị này coi như tiêu chuẩn bắt buộc đối với Cán bô Trung-Cao cấp của Đảng CSVN!
[Chương tŕnh cao cấp Chủ nghĩa Marx Lénine bao gồm: 1/- Triết học Marx-Lénine (Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử). 2/- Kinh tế Chính trị học Marx-Lénine (Phần căn bản trong “Tư Bản Luận” của Marx, và một số tác phẩn Kinh tế-Chính trị nổi tiếng của Lénine). 3/- Chủ nghĩa Xă hội khoa học (Lịch sử của Phong trào Quốc tế Cộng sản, chủ yếu là lịch sử của ĐCS Liên Xô, lịch sử của ĐCS Trung quốc và lịch sử của ĐCSVN].
Với Chương tŕnh Cao cấp Marx-Lénine đó - vốn đă quá lỗi thời và lạc hậu trước trào lưu Kinh tế Trí thức = Chính trị Đa nguyên, trong nền văn minh hiện đại của thế giới tân tiến, theo xu thế dân chủ hóa toàn cầu ngày nay, ĐCSVN chỉ đào tạo ra những Cán bộ Lănh đạo mang nặng tư tưởng giáo điều, phản lại sự tiến hóa của nhân loại văn minh, th́ làm thế nào có đũ khả năng biến lư luận khoa học thành thực tiễn sinh động, trong việc lănh đạo, quản lư và điều hành quốc gia, nếu những Cán bộ lănh đạo đó không thức thời, từ bỏ những kiến thức lạc hậu, lỗi thời, và mạnh dạn tiếp thu kiến thức mới, cấp tiến của thời đại (?)
Về vấn đề nhân sự trong BCT trung ương ĐCSVN khóa X, hiện tồn tại một nghi vấn lớn trong hàng ngũ Cán bộ, Đảng viên, và cả quảng đại quần chúng nhân dân nữa! Nghi vấn đó là: Tại sao một người kém tài, thiếu đức như Nông Đức Mạnh, lại vẫn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư khóa X? Phải chăng, có bí ẩn ǵ làm cho 160 ủy viên chính thức của Ban Chấp Hành trung ương ĐCSVN khóa X, cam đành gật đầu cho họ Nông tái đắc cử Tổng Bí Thư vậỷ
Theo “dư luận hành lang” của Câu Lạc Bộ Ba Đ́nh-Hà Nội, v́ ông Nông Đức Mạnh là người dân tộc (Tày), c̣n có tác dụng đoàn kết các dân tộc thiểu số - đặc biệt ở hai khu Việt Bắc và Tây Nguyên, để ổn định t́nh h́nh an ninh chính trị, trong thời gian nước Cộng ḥa XHCN Việt Nam đang tranh thủ vào WTO (?)
Cũng có "dư luận nội bộ” Đảng ở các địa phuơng Nam-Trung-Bắc, th́ cho rằng: Nông Đức Mạnh thuộc phe cánh của Đỗ Mười-Lê Đức Anh. Mặc dù phe nhóm này đă về hưu, nhưng vẫn c̣n “quyền lực ngầm” khá mạnh, trong quân đội, T́nh báo và Công an. Hơn nữa, phe nhóm Mười- Anh lại có sự “ủng hộ dấu mặt” của Trung Cộng (Hồ Cẩm Đào trong chuyến sang thăm Việt Nam, trước Đại hội X, đă âm thầm đến “hội đàm” riêng với Đỗ Mười và Lê Đức Anh). Có lẽ, v́ để tránh bùng nổ cuộc tranh chấp quyền lực trong nội bộ đến mức “tao sống mày chết”, làm lợi cho “Kẻ thù chống Cộng đang chờ cơ hội nhảy vào”, nên Ban Chấp Hành Trung ương ĐCSVN khóa X, đành phải chấp nhận cho họ Nông tái đắc cử Tổng Bí thư (?) Cũng có tin từ nội bộ BCT, có thể họ Nông chỉ ngồi ghế Tổng Bí thư đến giữa nhiệm kỳ khóa X (4-2008), hoặc sớm hơn vài tháng, ông ta sẽ “rút lui” v́ “tuổi già sức yếu” – nhân lúc “cải tổ cơ cấu lănh đạo” là Tổng Bí thư Đảng kiêm luôn Chủ tịch nước (theo mô h́nh lănh đạo của Trung Cộng?). Và ông Nguyễn Minh Triết sẽ được bầu làm Tổng Bí thư trung ương ĐCSVN kiêm Chủ tịch Nhà nước(?)
Hai nguồn dư luận trên đây đều có lư, nên tạm thời có thể dùng làm lời giải đáp cho nghi vấn đă nêu ra ở trên.
II- Nhận diện 3 nhân vật lănh đạo Nhà nước.
Ba nhân vật đứng hàng thứ 3, thứ 4 và thứ 6 trong BCT khóa X là Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Phú Trọng, đă được BCT khóa X đề cử giữ ba chức vụ cầm quyền cao nhất của Nhà nước Cộng Ḥa XHCN Việt Nam, do ĐCSVN lănh đạo (đă được hợp pháp hóa trong Hiến Pháp 1992, điếu 4). Và vào cuối tháng 6-2006, Quốc hội CSVN đă hợp thức hóa dưới h́nh thức bầu (cho có vẻ dân chủ) theo sự đề cử của BCT khóa X là: Nguyễn Minh Triết làm Chủ tịch Nhà nước, Nguyễn Tấn Dũng giữ chức Thủ tướng Chánh phủ, Nguyễn Phú Trọng ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội.
1- Chủ tịch Nhà nước: Nguyễn Minh Triết.
Lai lịch và quá tŕnh hoạt động, công tác của Nguyễn Minh Triết như thế nào? Trả lời được câu hỏi này, là đă hiểu được căn bản về khả năng lănh đạo, quản lư và điều hành Nhà nước của ông tân Chủ tịch Nguyễn Minh Triết!
Nguyễn Minh Triết sinh vào ngày 8 tháng 10 năm 1942, tại xă Phú An, huyện Bến Cát, tỉnh B́nh Dương (miền Đông Nam bộ). Ông xuất thân từ gia đ́nh nông dân (Trung nông hay Phú nông?). Ông học cấp Tiểu học ở huyện nhà, rồi ra Sàig̣n học Trung học và vào Đại học Khoa học (khoa Toán) trong niên khóa 1960 -1961. Trong thời gian sinh viên (1960-1963), Nguyễn Minh Triết đă tham gia Phong trào Sinh viên Tranh đấu, do Thành đoàn “Thanh niên Nhân dân Cách mạng”, thuộc Thành ủy Sàig̣n của “Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam” (CSVN trá h́nh) lănh đạo.
Từ 1960 đến tháng 11-1963, ông làm cán bộ Phong trào Sinh viên Học sinh của Thành Đoàn Thanh niên (hoạt động công khai tại Sàig̣n). Nhưng v́ bị ngành An ninh của chính quyền VNCH phát hiện, Nguyễn Minh Triết được rút vào mật khu cùa Cục R.từ tháng 12-1963. Từ năm 1964 đến năm 1973 (10 năm), ông đă kinh qua những công tác và chức vụ như sau:
- Cán bộ Nghiên cứu “Phong trào Thanh niên- Học sinh- Sinh viên đô thị” của Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân Dân Cách mạng (TNNDCM) Miền Nam.
- Ngày 30-3-1965, Nguyễn Minh Triết được kết nạp vào ĐCSVN (núp dưới cái tên Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam) Sau khi vào Đảng, ông được cử làm Bí thư Đoàn Thanh niên cơ quan trung ương Đoàn, và giữ chức Thường vụ Đoàn TNNDCM của các cơ quan thuộc Trung ương Cục Miền Nam. Trong thời gian này, ông cũng có đi cộng tác ở chiến trường Mỹ Thọ
Từ năm 1974 đến tháng 8 năm 1979, Nguyễn Minh Triết được đề bạt giữ các chức vụ:
- Phó Văn pḥng Trung ương Đoàn TNNDCM Miền Nam (trước năm 1976).
- Sau khi miền Nam sát nhập vào miền Bắc, dưới danh nghĩa Thống Nhất nước nhà, ông được giao làm Phó Ban Thanh Niên Xung Phong (TNXP) thuộc Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh (TNCSHCM).
Để bồi dưỡng tŕnh độ chính trị cao cấp, đặng có khả năng làm Cán bộ Lănh đạo Đảng sau này, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IV quyết định cho Nguyễn Minh Triết đi học trường Đảng Cao Cấp Nguyễn Ái Quốc, trong thời gian từ tháng 9 năm 1979 đến tháng 7 năm 1981.
Sau khi tối nghiệp “Đại học Chính trị”, từ tháng 8 năm 1981 đến tháng 12 năm 1987, Nguyễn Minh Triết liên tiếp giữ các chức vụ lănh đạo Thanh niên như sau:
-T rưởng Ban TNXP của Trung ương Đoàn TNCSHCM (bộ phận phía Nam).
- Trưởng Ban Mặt Trận của Trung ương Đoàn TNCSHCM (bộ phận phía Nam).
- Bí thư Đảng ủy cơ quan Trung ương Đoàn TNCSHCM phía Nam (đóng tại TP. HCM).
- Ủy viên Ban Chấp Hành, rồi lên chức Bí Thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư Kư Hôi Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam (LHTNVN).
Đến cuối năm 1987, ông Nguyễn Minh Triết đă trải qua hơn 12 năm làm công tác lănh đạo Thanh Niên, từ thấp lên cao, từ trong chiến tranh chuyển sang thời b́nh, đánh dấu một giai đoạn từ công tác Dân vận chuyển sang công tác Đảng vào cuối năm 1988!
Bộ Chính Trị Trung ương ĐCSVN khóa VI, do Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư đă nhận ra triển vọng về khả năng công tác lănh đạo của Nguyễn Minh Triết, kết hợp vơi nhu cầu củng cố Đảng bộ Tỉnh Sông Bé (tức B́nh Dương trước đây), nên mới quyết định điều động Nguyễn Minh Triết về làm Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Sông Bé vào tháng 11 năm 1988.
Từ tháng 11 năm 1988 đến tháng 5 năm 1991, Nguyễn Minh Triết liên tiếp giữ các chức vụ lănh đạo Đảng bộ Sông Bé, từ thấp lên như sau:Ủy viên Tỉnh ủy, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy. Tháng 6 năm 1991, Nguyễn Minh Triết được bầu vào hàng ủy viên trung ương ĐCSVN khóa VII, bắt đầu bước lên nấc thang cao cấp của Đảng, mở ra một tương lai lănh đạo đầy triển vọng!
Từ tháng 12 năm 1991 đến tháng 12 năm 1996, Nguyễn Minh Triết vừa là Ủy viên rung ương Đảng khóa VII & khóa VIII, kiêm Bí thư Tỉnh ủy Sông Bé. Đồng thời cụng là đại biểu Quốc hội khóa IX của nước CHXNCN Việt Nam.
Trong thời gian 5 năm đầy gian lao thử thách này - thời gian mà toàn Đảng CSVN đang dao động về sự tan ră của khối XHCN Đông Âu và Liên Xô (1989-1991). C̣n ở Việt Nam th́ lâm vào t́nh trạng “tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến ḥa b́nh” do các thế lực thù địch gây ra, đang tồn tại và diễn biến phức tạp.” (Văn kiện Đại Hội IX, nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 2001, trang 15) Nhưng, Nguyễn Minh Triết đă cố gắng lèo lái tỉnh Sông Bé vượt qua nguy cơ của nạn đói, và phát triển kinh tế lên một bước mới, ổn định được t́nh h́nh chính trị, giữ vững an ninh xă hội trong tỉnh Sông Bé, nên đă thu hút được một số nhà đầu tư nước ngoài… đưa Sông Bé lên, thành một trong những tỉnh đứng hang đầu của cả nước!
Sở dĩ Nguyễn Minh Triết thành công như vậy, ngoài tài đức của ông, là nhờ biết lắng nghe sự góp ư của Cán bộ, Đảng viên và quần chúng, mạnh dạn tiếp thu những ư kiến đúng, và cương quyết sửa chữa những điều sai trái! Theo dư luận của dân Sông Bé: Nguyễn Minh Triết là một Cán bộ lănh đạo trong sạch, không lên mặt với nhân dân, ghét và cương quyết trừng trị kẻ xấu (?)
Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1997, là ủy viên trung ương ĐCSVN khóa VIII Nguyễn Minh Triết, đă được BCT khóa 8 thuyên chuyển về làm Phó Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, để tạo điều kiện đưa Nguyễn Minh Triết bổ sung vào hàng ngũ Ủy viên BCT khóa VIII (nhân dịp hội nghị Trung ương Đảng khóa 8, lần thứ 4, trong tháng 12-1997).
Từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 1 năm 2000, là thời kỳ chuyển tiếp cương vị lănh đạo của Nguyễn Minh Triết - từ Phó Bí thư thành ủy TP. HCM, lên giữ chức vụ Trưởng Ban Dân Vận Trung ương Đảbg - rồi đưa Nguyễn Minh Truết trở về giữ cương vị lănh đạo cao và quan trọng hơn– Bí thư Thành ủy Thành phố HCM, từ tháng 1 năm 2000!
Bước vào tuổi 58 (1942-2000), Nguyễn Minh Triết là Bí thư trẻ tuổi nhất so với các Bí thư tiền nhiệm (1976-1999) của Đảng bộ CSVN thành phố Hồ Chí Minh.
Trong 6 năm làm Bí thư Thành ủy TP. HCM (1-2000 đến tháng 6-2006) Nguyễn Minh Triết đă lănh đạo tập thể Đảng bộ thành phố phấn đấu vươn lên, quyết tâm khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đưa thành phố lên, xứng với một Trung tâm Kinh tế-Chính trị, Trung tâm Văn hóa-Xă hội của cả nước. Và đến năm 2005, thành phố HCM đă xứng đáng với danh hiệu đó, và thu nhập GDP, tính b́nh quân đầu người, là cao nhất nước! (Cho dù cũng c̣n nhiều thiếu sót, thậm chí sai lầm nghiêm trọng!).
Một việc làm nổi bật, nâng cao uy tín của Nguyễn Minh Triết, là tiêu diệt tập đoàn mafia Năm Cam, phá vỡ đường giây tham nhũng của một số Cán bộ Trung-Cao cấp của các ngành Công an, Tư pháp, Thông tin, từ thành phố đến trung ương, làm chỗ dựa cho tập đoàn xă hội đen Trương Văn Cam!
Tập đ̣àn Mafia Năm Cam (tên đầy đủ là Trương Văn Cam) đă h́nh thành và hoạt động công khai tại thành phố Hồ Chí Minh từ thời ông Vơ Trần Chí làm Bí thư Thành ủy (1996-2000), dưới h́nh thức kinh doanh khách sạn, mua bán nhà đất, cho vay nặng lăi, mở ṣng bạc, mở tiệm hút (á phiện) và nhà điếm… Đường giây hoạt động của chúng rải khắp 3 miền Nam-Trung-Bắc, và c̣n liên hệ với các phe đảng xă hội đen cửa người Việt ở Thái Lan và Hoa Kỳ …Suốt bao nhiêu năm đó, Năm Cam sống như ông hoàng, làm ăn phi pháp, thậm chí giết người, mà chẳng ai làm ǵ chúng! Bởi v́ hắn đă trám tiền đầy họng cho các quan chức Công an, Viện kiểm sát, ṭa án, một số phóng viên và Đài phát thanh, của thành phố HCM và cả trung ương (!?)
Từ khi về làm Phó Bí thư thành ủy thành phố HCM (1997) ông Nguyễn Minh Triết đă nghe và thấy sự hoành hành của tập đoàn mafia Năm Cam, nhưng v́ tiếng nói của ông chưa đủ mạnh hơn những quan chức đang làm chỗ dựa cho tập đoàn mafia Năm Cam, nên ông đành tạm thời im lặng, tiếp tục theo dơi…Cho đến khi ông trở lại thành phố làm Bí thư thành ủy (1-2000), Nguyễn Minh Triêt hạ quyết tâm tiêu trừ băng đảng xă hội đen vô cùng nguy hiểm cho nước nhà này! Sau khi cho điều tra, đă có đủ bằng chứng trong tay, ông Nguyễn Minh Triết đề nghị với BCT khóa IX, chỉ thị cho Bộ Công An thành lập “Ban Chuyên Án Năm Cam”(giữa năm 2001). Bộ trưởng Công An Lê Hồng Anh chỉ định Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, nguyên Giám Đốc Sở Công an thành phố HCM, hiện là Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Cảnh Sát làm Trưởng Ban Chuyên án. Đặc vụ này chỉ có mộ số người có nhiệm vụ trong Ban Chuyên Án biết thôi. Tuyệt đối giữ bí mật đến giờ G. (giờ hành động). Lực lượng Công an dùng để phá án, chỉ trưng dụng một số công an Hànội và Công an tỉnh Tiền Giang. Riêng Công an thành phố HCM, th́ để đến giờ G mới điều động một số bô phận nghiệp vụ tối cần thiết mà thôi (không dùng nhiều người của Sở công an thành phố HCM, để tránh lộ tin tức ra ngoài). Nhờ vậy, nên đến giờ chót tên trùm Mafia Trương Văn Can vẫn không nhận được tin tức t́nh báo nội bộ, như bao lần trước đây. Do đó, ngày 12-12-2001, Ban Chuyên Án đă bắt nguội Năm Cam mà đồng bọn vẫn chưa hay biết! Và đến giờ G ngày 7-1-2002, Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh chỉ huy một lực lượng công an hùng hậu, bất ngờ tấn công vào 12 tụ điểm của tập đoàn Mafia Năm Cam, tại thành phố HCM, 12 đối tượng quan trọng (vậy cánh của Năm Cam) đă bị bắt ngay tại chỗ!
Vụ án Năm Cam đă kết thúc, tập đoàn xă hội đen lớn nhất ở Việt Nam đă bị tiêu diệt, nhưng số Cán bộ có quyền lực trong Đảng và Nhà nước CSVN, đă nhận hối lộ với số tiền khổng lồ, th́ vẫn chưa bị “nhổ lông vặt cánh”, mà chỉ mời “thí chốt” một số Cán Bộ cấp nhỏ mà thôi! Thực tế tệ hại đó, phải chăng là một trong nhiều nỗi ưu tư nặng nề nhất của ông Nguyễn Minh Triết, trong thời gian c̣n ngồi ghế Bí thư Thành ủy “thành phố mang tên chủ tịch Hồ Chí Minh”?
Phá được “vụ án Năm Cam”, ông Nguyễn Minh Triết có công lớn trong việc ổn định Chính trị và Xă hội, không chỉ riêng cho thành phố mà c̣n cho cả nước! Nhưng đối với Tập đoàn Tham Nhũng từ Trung ương đến các địa phương trong cả nước, Nguyễn Minh Triết là kẻ thù, cản trở “cản đường ngồi mát ăn bát vàng” của chúng!
Đối với bọn xă hội đen và bè lũ tham nhũng th́ ông Nguyễn Minh Triết có thái độ cương quyết như vậy, rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, đối với các quyền Tự do Dân chủ và quyền làm ăn sinh sống của mọi giới trong xă hội ở trong phạm vi thành phố, dưới quyền quản trị của ông th́ thế nào? Tôn giáo vẫn c̣n bị khống chế và đàn áp gắt gao, Báo chí vẫn chưa được Tự do Ngôn luận, Tiếng kêu oan của dân chúng “bị chính quyền cơ sở cướp đất cướp tài sản” v.v… đều cho ch́m vào trong quên lăng, gieo biết bao nỗi khổ cho dân lành (!?). Ông Bí thư Thành ủy TP HCM chẳng lẽ không nghe, không thấy trong suốt mấy năm qua? Ông cần suy nghĩ và tự xét lương tâm chính trực của ông, mà ông đă từng được dân B́nh Dương khen ngợi?
Từ tháng 4 năm 2001 đến tháng 4 năm 2006, ông Nguyễn Minh Triết vừa là Ủy viên BCT khóa IX (đứng hàng thứ 4 trong số 15 ủy viên) kiêm Bí thư Thành ủy TP HCM; đồng thời là Đại biểu Quốc hội khóa XỊ
Từ trước Đại hội X, đă có dư luận nội bộ rằng: “Nguyễn Minh Triết sẽ làm Tổng Bí thư khóa X kiêm Chủ tịch Nhà nước, theo mô h́nh của Trung Quốc hiện thờị” (?) Và trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN (4-2006), ông đă được đề cử làm Tổng Bí thư (tranh cử với Nông Đức Mạnh). Nhưng v́ vẫn theo cơ chế cũ, nghĩa là Tổng Bí thư không có kiêm Chủ tịch Nhà nước. Do đó, xét t́nh thế tranh chấp quyền lực không có lợi cho vấn đề an ninh chính trị của đất nước, trong thời điểm 2006-2007, nên ông Nguyễn Minh Triết tự nguyện rút lui, trước khi bầu cử Tổng Bí Thư! Cho nên, chỉ có Nông Đức Mạnh độc diễn! Nguyễn Minh Triết vẫn giữ vững cái ghế ở hàng thứ 4, trong 14 Ủy viên BCT khóa X. Và ông đă được Ban Chấp Hành trung ương ĐCSVN khóa X đề cử làm Chủ tịch Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Cuối tháng 6 năm 2006, Quốc hội CHXHCN Việt Nam khóa XI, đă “bầu” ông Nguyễn Minh Triết làm Chủ tịch Nhà nước, trong nhiệm kỳ 2007-2011.
Từ ngày ông giữ chức Chủ tịch Nhà nước CHXHCN Việt Nam, tuy mới có hơn 3 tháng (tính đến ngày chúng tôi đang viết đoạn này), ông Nguyễn Minh Triết (cùng Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng) đă làm được một số việc nổi bật về Chống Tham Nhũng, có tác dụng sâu sắc về mặt Chiến lược Chính trị Xă hội, mà trước đây Ban Chấp Hành Trung ương Đảng C SVN khóa IX, đưa ra thảo luận từ hội nghị này đến hội nghị khác vẫn không xong (?)
Đó là việc thúc đẩy Ban Chấp Hành Trung ương ĐCSVN khóa X ra Nghị quyết số 04/NQ/TW (21-8-2006) “về sự tăng cường sự lănh đạo của Đảng đối với công tác pḥng, chống tham nhũng, lăng phí”. Bởi v́ lư do như sau: “cuộc đấu tranh pḥng, chống tham nhũng, lăng phí, c̣n nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lăng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút ḷng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe đọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta!” (Theo Văn Kiện Hội nghị lần thứ 3 của BCH TW Đảng khóa X).
Đó là việc thúc đẩy Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội khóa XI, (phiên họp thứ 42, 26-8-2006) thảo luận và thông qua Dự thảo Nghị quyết về Tổ chức, Nhiệm vụ, Quyền hạn và Quy chế Hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương Pḥng, Chống Tham nhũng trong phạm vi cả nước. Trong bản Dự thảo, tại Khoản 4, Điều 5 có chỉ rơ quyền hạn của Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương Pḥng, Chống Tham nhũng, như sau: “Thủ tướng Trưởng Ban chỉ đạo ra quyết định tạm đ́nh chỉ chức vụ Thứ trưởng và các chức vụ tương đương; Chủ tịch, Phó chủ tịch, ủy viên thường trực Hội đồng Nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các thành viên khác của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, và các chức vụ khác do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, cách chức khi người đó có dấu hiệu tham nhũng, gây khó khăn đối với hoạt động chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức..” (Theo Văn Kiện Quốc Hội khóa XI, phiên họp lần thứ 42 cỉa UBTVQH) C̣n đối với “chức vụ từ Bộ trưởng và tương đương trở lên, kịp thời kiến nghị với Bộ chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tam đ́nh chỉ các chức vụ để thanh tra, điều tra, xử lư khi có vi phạm về tham nhũng.” (Nghị quyết số 04-NQ/TW, 21-8-2006, đă dẫn).
Nhưng, liệu Nghị Quyết này có thành “đống giấy rác” hay không, khi các cấp dưới không nghiêm chỉnh chấp hành? Mới đây thôi, sau Nghị Quyết đă ra - Nghị quyết 04+NQ/TW đă được phổ biến tận Chi bộ, tức đến cấp thấp nhất, là ấp ở nông thôn, khóm ở thành thị - Ṭa án Nhân dân Hải Pḥng đă xử ”Vụ án chiếm đất công và đất của dân” của tập đoàn Tham nhũng gồm Bí thư Thị ủy, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND thị xă Đồ Sơn, với mức án như “tṛ đùa với pháp luật”, là chỉ phạt mỗi người 50.000 ĐVN, với lư do v́ “họ là “Đảng viên đă có công với cách mạng” (?) Ông Tân Chủ tịch Nhà nước nghị sao về cú đá gị lái này của Ṭa án Nhân dân Hải pḥng đối với BCHTW Đảng CSVN khóa X? Và Ban Chỉ đạo Trung ương Pḥng-Chống Tham nhũng sẽ làm ǵ đối với thành ủy Hải pḥng đâỷ
Có lẽ, v́ để chấn chỉnh việc làm tắc trách, vô trách nhiệm của ngành ṭa án trong việc xét xể tùy tiện vô pháp luật, nên vào ngày 6-9-2006, ông Nguyễn Minh Triết đă trực tiếp làm việc với Ṭa Án Nhân Dân Tối Cao ở Hànội. Ông tân Chủ tịch Nhà nước đă chỉ đạo rằng: “Ngành ṭa án cần tập trung nâng cao chất lượng xét xử, trong xét xử phải đảm bảo khách quan, nghiêm minh … phải đảm bảo dân chủ trong các phiên tranh tụng tại ṭa, lắng nghe ư kiến để từ đó có phán quyết đúng pháp luật.” (TTXVN, Hànội, 6-9-2006). Nói th́ dễ, nhưng thực tế ngành ṭa án được gọi là Ṭa Án Nhân Dân đó, có nghiêm chỉnh và triệt để chấp hành theo lời chỉ đạo của ông Nguyễn Minh Triết hay không? Thời gian sẽ trả lời!
[Theo Đài Tiếng Nói Việt Nam, phát thanh từ Hànội, buổi tối ngày 9-9-2006, th́ Thành ủy Hải Pḥng đă hứa sẽ làm rơ vụ án tham nhũng ở Đồ Sơn để minh bạch trước dư luận?]
Nguyễn Minh Triết hiện là “nguồn hy vọng đổi mới toàn diện và triệt để” của nhiều Cán bộ, Đảng viên cấp tiến và quảng đại quần chúng có ư thức và đang dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước! Nhưng, muốn nguồn hy vọng đó có thể trở thành sự thật, c̣n phải chờ xem ông Nguyễn Minh Triết có dám quăng bỏ “cái xiềng chuyên chính vô sản”, để làm “một nhà cải cách của thời đại toàn cầu dân chủ hóa”, đưa nước Việt Nam trở thành một quốc gia dân chủ tân tiến, sánh vai cùng thế giới văn minh hay không?
2-Thủ tướng Chính phủ: Nguyễn Tấn Dũng
Nếu Nguyễn Minh Triết trưởng thành và phát triển khả năng lănh đạo (từ thời chiến đến thời b́nh) bằng con đường hoạt động Thanh niên (Dân Vận) và Công tác Đảng, th́ Nguyễn Tấn Dũng trưởng thành và phát triển khả năng lănh đạo (trong thời chiến cũng như thời b́nh) theo một con đường khác. Nghiên cứu lai lịch và quá tŕnh hoạt động của Nguyễn Tấn Dũng th́ sẽ thấy rơ ràng!
Nguyễn Tấn Dũng sinh vào ngày 17 tháng 11 năm 1949, tại xă Tân Lộc, huyện Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Cha mẹ ông đều là Cán bộ Kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Học xong bậc Tiểu học, cuối năm 1961, mới có 12 tuổi Nguyễn Tấn Dũng đă đi tham gia Cuộc kháng chiến “chống Mỹ cứu nước”, theo lời kêu gọi của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTĐTGPMN) ra đời vào ngày 20-12-1960, do luật sư Nguyện Hữu Thọ làm Chủ ti.ch.
Từ tháng 11-1961 đến tháng 6 năm 1967, là 6 năm phấn đấu vượt qua nhiều thử thách của “chú bé Đội viên Cứu thương” Nguyễn Tấn Dũng. Từ một Đội viên Cứu thương (tập sự) và trở thành Y tá của một đơn vị Giải Phóng Quân (thuộc Tỉnh Đội Bộ Rạch Giá). Do sự phấn đấu và tích cực công tác phục vụ thương bệnh binh, nên Ba Dũng (tên thường gọi của Nguyễn Tấn Dũng) đă được Kết nạp vào Đảng NDCMMN trong ngày 10 tháng 6 năm 1967. Sự trưởng thành vượt bậc của Ba Dũng đă bắt đầu từ khi trở thành Đảng viên Cộng sản (năm 18 tuổi).
Từ tháng 7 năm 1967 đến tháng 4 năm 1975, Ba Dũng đă trở thành Quân Y sĩ (sau khi học khóa Trung cấp y tế của Ban Quân y Miền) chuyên về phẫu thuật. Thời gian sau, cấp trên thấy Ba Dũng có khiếu về phẫu thuật, nên đă cử anh đi học khóa “Bổ túc Chương tŕnh Phẫu thuật Ngoại khoa của Bác sĩ Quân y”.
Về cấp bậc trong quân đội, Nguyễn Tấn Dũng đă từ chiến sĩ được thăng vượt lên Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội phó rồi Đại đội trưởng - Đội trưởng Đội phẫu thuật. Sau đó, được làm Chính trị viên trưởng Đại đội phẫu thuật kiêm Bí thư Chi bộ Đảng của đ ơ n vị (thuộc Tỉnh đội bộ Rạch Giá).
Sau tháng 4 năm 1975 là một bước ngoặt mới trên con đường thăng tiến trong quân đội của Nguyễn Tiến Dũng.
Từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 9 năm 1981: Bắt đầu năm 26 tuổi (1949-1975) Nguyễn Tấn Dũng được cử đi học khóa bổ túc “Đào tạo Sĩ quan Chỉ huy Tiểu đoàn và Trung đoàn bộ binh”. Học xong khoá này, Nguyễn Tấn Dũng đă được đề bạt, phong quân hàm Thượng úy, đảm nhiệm chức Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn bộ binh 207 (kiêm Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn). Sau một thời gian, Ba Dũng được thăng cấp Đại úy và đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn bộ binh 152, kiêm ủy viên Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn, làm nhiệm vụ chiến đấu chống quân Pôn-Pốt, bảo vệ biên giới Tây Nam… Sau khi tham gia chiến dịch lật đổ chính quyền Pôn-Pốt (1979) thành công, Nguyễn Tân Dũng trở về Rạch Giá, giữ chức Trưởng Ban Cán Bộ của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang.
Từ tháng 10 năm 1981 là bước ngoặt thứ hai trên con đường thăng quan tiến chức của Nguyễn Tiến Dũng.
Để bồi dưỡng năng lực lănh đạo cho Nguyễn Tấn Dũng, Đảng bộ Kiên Giang đă cử Ba Dũng đi học khóa “Đại học Chính Trị“ (1981-1984) tại trường Đảng Cao Cấp Nguyễn Ái Quốc (Hànội), Sau khi tốt nghiệp, ông Nguyễn Tấn Dũng đă liên tiếp được Đảng giao nắm những chức vụ quan trọng, trong đội ngũ Cán bộ Trung-Cao cấp của Đảng bộ Cộng sản ở tỉnh Kiên Giang, trong 10 năm (1985-1994) như sau:
- Tỉnh ủy viên kiêm Phó Ban Tở chức Tỉnh ủy Kiên Giang.
- Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Bí thư Huyện ủy Hà Tiên.
- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Kiên Giang.
- Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang - Đại biểu HĐND tỉnh Kiên Giang.
- Ủy viên Trung ương Đảng khóa VII, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang kiêm Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh Kiên Giang, đồng thời là Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu IX.
Từ tháng 1 năm 1995 là bước ngoặt thí ba, cũng là bước ngoặt có tính chất quyết định, đưa Nguyễn Tấn Dũng lên chức Thủ tướng Chính Phủ vào tháng 6 năm 2006.
Tháng 1 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ Vơ Văn Kiệt có ư đào tạo Nguyễn Tấn Dũng “trở thành Cán bộ Hậu bị cho đội ngũ lănh đạo Chính phủ trong tương lai”, nên mới bàn với BCT trung ương ĐCSVN khóa VII (1991-1996), quyết định rút Nguyễn Tấn Dũng từ Kiên Giang lên trung ương, giao giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội Vụ kiêm Đảng ủy viên Đảng ủy Công an trung ương. Đến lúc này, Nguyễn Tấn Dũng đă nhận thức được một điều quan trọng “Không có kiến thứ Luật học th́ không thể làm công tác lănh đạo Chính phủ tốt”! Do đó, ông Thứ trưởng Bộ Nội Vụ Nguyễn Tấn Dũng, không mặc cảm, quyết tâm dùng thời gian nghỉ ngơi, ôm cặp đến trường Đại học đêm (tại chức) để theo học khoa Luật. Nhờ quyết tâm đó, mà 4 năm sau, Nguyễn Tấn Dũng đă có bằng Cử Nhân Luật.(?)
Đến Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII của ĐCSVN (28-6-1996) Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử ủy viên trung ương và được bầu vào BCT trung ương khóa VIII (hang thứ 17, trong số 19 ủy viên BCT).
Từ tháng 6-1996 đến tháng 8-1997, Nguyễn Tấn Dũng đă giữ các chức vụ như: Ủy viên BCT rồi Ủy viên Thường trực BCT kiêm Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, đồng thời đặc trách công tác tài chánh của BCH Trung ương ĐCSVN khóa VIII.
Từ tháng 9 năm 1997, Nguyễn Tấn Dũng đă được BCT trung ương khóa VIII cử làm Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ. Về công tác Đảng, là Ủy viên BCT đặc trách Phó Bí thư Ban Cán Sự Đảng bộ Chính Phủ.
Từ năm 1998 đến năm 2001, ngoài chức Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Nguyễn Tấn Dũng c̣n kiêm nhiệm các chức vụ quan trọng như sau:
- Chủ tịch Hội đống Tài chánh-Tiền tệ Quốc giạ
- Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (nhằm ổn định t́nh h́nh “náo loạn” của đồng bào Thượng trong hai vấn đề: quyền sở hữu đất đai và quyền tự do tín ngưỡng!)
- Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. (nhằm phá tan âm mưu của tập đoan Khơ Me đỏ “xúi giục người Việt gốc Khơ Me bạo loạn, đ̣i quyền tự trị”).
Đặc biệt trong hai năm 1998-1999, đă kiêm nhiệm chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN), đồng thời là Bí thư Ban Cán Sự Đảng bộ NHNNVN.
Chính từ thực tế công tác trên nhiều lĩnh vực - Chính quyền, An ninh, Kinh tế-Tài chánh và công tác Đảng – đă giúp cho Nguyễn Tấn Dũng có kinh nghiệm lănh đạo, quản lư vá điều hành công tác chính quyền sẽ được thuận lợi hơn! .
Trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX (4-2001) Nguyễn Tấn Dũng được tái đắc cử vào BCH TW Đảng CSVN khóa IX, và được bầu vào BCT trung ương khóa IX (hàng thứ 5, trong số 15 ủy viên BCT khóa IX).
Từ tháng 5-2001 đến tháng 4-2006, Nguyễn Tấn Dũng vẫn ngồi vững ở ghế Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, đồng thời kiêm nhiệm các chức vụ trọng yếu như sau:
- Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về Đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước.
- Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về các công tŕnh trọng điểm quốc giạ
- Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về Pḥng Chống tội phạm.
Và Trưởng Ban Chỉ đạo một số công tác khác của Chính phủ.
Con đường lên chức Thủ tướng Chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng, thay cho Phan Văn Khải về hưu, đă dọn sẵn…
Trong Đại hội Đại Biểu Toàn quốc lần thứ X, Nguyễn Tấn Dũng lại tái đắc cử vào BCH TW Đảng CSVN khóa X, và được bầu vào BCT trung ương khóa X (hàng thứ 3, trong số 14 ủy viên BCT khóa X)
Ngày 27 tháng 6 năm 2006, trong kỳ họp lần thứ 9 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, đă bầu Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng Chính phủ, trong nhiệm kỳ 2007-2011 (thực chất là hợp thức hóa quyêt định của BCH TW Đảng CSVN khóa X)
Nếu so sánh từng bước thăng tiến của Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Minh Triết - trong chiến tranh (1960-1975) cũng như trong thời b́nh (1976-2006) – chúng ta thấy rất rơ rằng: Nguyễn Minh Triết đă tạo dụng sự nghiệp bằng con đường Công tác Dân vận và công tác Đảng trong suốt 46 năm (1960-2006), để từ một cán bộ sơ cấp (Đảng viên thường) lên tới Chủ tịch Nhà nước (ủy viên BCT khóa X). C̣n Nguyễn Tấn Dũng th́ tạo dựng sự nghiệp bằng con đường Công tác Quân y, rồi Công tác Chính trị trong quân đội, chuyển sang công tác Đảng rồi công tác Chính quyền ở cấp tỉnh. Sau đó lên Trung ương đảm nhiệm công tác trong nhiều lĩnh vực (Nội vụ, Tài chánh, Ngân hàng…) để rồi nắm vững chức Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ. Trong suốt 45 năm (1961-2006) Nguyễn Tấn Dũng đă từ một chiến sĩ vị thành niên tiến lên thành Thủ thướng Chinh phủ, từ Đảng viên thường trở thành ủy viên BCT khóa X.
Có thể nói rằng, thực trạng trong hàng ngũ lănh đạo cao cấp nhất của ĐCSVN hiện nay, Nguyễn Minh Triết là con người chiến lược, th́ Nguyễn Tấn Dũng là con người chiến thuật! Nếu cặp bài trùng này đoàn kết nhất trí với nhau, kiên quyết từ bỏ lối ṃn xây dựng xă hội XHCN theo đường lối Marxist-Léninist đă lỗi thời, cùng ra sức thực hành đổi mới toàn diện và triệt để, đẩy mạnh công cuộc dân chủ hóa đất nước trên mọi phương diện, th́ họ có thể làm nên sự nghiệp lớn, có thể đưa dân tộc Việt Nam tiến vào một kỷ nguyên mới- Kỷ nguyên Tự do Dân Chủ, Phú cường và Văn minh! Chắc chắn, họ sẽ được toàn dân hoan nghênh và ủng hộ! Nhưng, nếu họ cứ dùng thủ đoạn “đổi mới giả hiệu”, “dân chủ lừa bịp”như các tập đoàn Lê Duẩn - Lê Đức Thọ… và Đỗ Mười - Lê Đức Anh, th́ chắc chắn họ sẽ bị lịch sử dân chủ hóa của dân tộc Việt Nam đào thải, bị nền văn minh dân chủ của thế giới đào thải, như đào thải những phần từ phản tiến bộ! Hai ông Nguyễn MinhTriết và Nguyễn Tấn Dũng đâu lẽ nào không nhận thức được quy luật đào thải đó của thời đại dân chủ hóa toàn cầu?
Sau khi nhậm chức Thủ tướng Chính phủ, ông Nguyễn Tấn Dũng đă cùng Nguyễm Minh Triết (có sự ủng hộ mạnh mẽ của các ủy viên BCT người Nam bộ như: Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang, Trương Vĩnh Trọng và Lê Thanh Hải) đă thúc đẩy Hội nghị lần thứ 3 của BCT TW ĐCSVN khóa X (21-8-2006) thông qua Nghị quyết số 04-NQ/TW, về tăng cường sự lănh đạo của Đảng trong công tác pḥng chống tham nhũng. [Trước đó, họ đă thúc đẩy Quốc hội khóa XI thông qua Luật Pḥng Chống Tham Nhũng, tại kỳ họp thứ 8 (16-8-2006).]
Và với một số quyết định cách chức, cho nghỉ việc một số tướng tá, cán bộ cao cấp để điều tra, có liên quan đến các vụ tham nhũng lớn, nên Nguyễn Tấn Dũng cũng đă được báo chí nước ngoài khen ngợi, như trong một bài báo, đăng trên tờ Straits Times phát hành tại Singapore, đă dẫn lời của ông Subinay Nandi-Phó trưởng Đại diện của UNDP ở Việt Nam, rằng: “một trong những biện pháp gây chú ư đầu tiên của Thủ tướng Dũng là liên quan đến cuộc chiến chống tham nhũng.” (Báo đă dẫn, 8-9-2006).
Giáo sư -chuyên gia về Việt Nam của Đại học California (Mỹ), ông Edmund Malesjy, cũng đă đánh giá Nguyễn Tấn Dung như sau: “Ông Dũng đă có thành tích trong việc quản lư bộ máy hành chánh phức tạp và là một chính trị gia khôn ngoan. Ông có thể biết cách đẩy những chính sách của ḿnh lên hàng ưu tiên. Chẳng hạn như, ông quyết tâm đưa Việt Nam lên vị trí xứng đáng trên trường quốc tế trong một thời gian ngắn nhất!” (Báo đă dẫn).
Có một câu hỏi về nội các của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng: Tại sao nội các mới gồm 29 ghế, mà nhân sự của nội các cũ đă chiếm hết 23 ghế? C̣n 6 ghế gọi là mới đó, chỉ là từ dưới đôn lên, hoàn toàn không có người mới từ giới trí thức ngoài chính quyền tham gia? (giáo sư Nguyễn Thiện Nhân không phải đơn lên từ nội các cũ, nhưng là Phó Chủ tịch UBND thành phố HCM).
Câu hỏi này phản ảnh một sự thật là nội các mới nhưng nhân sự cũ! Hoặc là cả nước không có nhân tài xứng đáng hơn? Hay ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn lệ thuộc 100% vào sự quyết định của Ban Tổ chức Trung ương Đảng CSVN?
Với một nội các “B́nh mới rượu cũ” như vậy, ông Tân Thủ Tướng xoay sở cách nào để đáp ứng sự kỳ vọng của những ai đặt ḷng tin vào quyết tâm cải cách của ông? Thời gian sẽ làn cuộc khảo nghiệm chính xác nhất! Chỉ cần đến giữa năm 2007, th́ nọi người sẽ thấy sự thật!
Thí dụ như, việc “bải bỏ biện pháp quản chế hành chánh” theo Nghị định số 31/CP đă nêu ra trong Nghị Quyết của phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2006, xem đến lúc nào mới thực hiện?
Chẳng hạn như, ngày 8-9-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng đă ban hành chỉ thị số 33/2006/CT-TTg, về “chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục” v́ trong những năm gần đây các biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục “không giảm bớt mà c̣n có xu hướng ngày càng phổ biến” (nguyên văn trong chỉ thị).
Vậy, chừng nào mới thi hành những biện pháp nghiêm ngặt đúng theo Luật Giáo dục 2005, để làm sạch ngành giáo dục XHCN trong thời gian sớm nhất?
C̣n việc chiếm đất sản xuất, đất thổ cư, nhà cửa, vườn tược của nhân dân, chiếm các cơ sở-tài sản của giáo hội khắp trong cả nước, ông Tân thủ tướng sẽ xử thế nào đây? Chẳng lẽ để tiếng kêu cứu dậy trời hay saỏ” Mất Long Dân là Mất Tất Cả”!
3- Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Phú Tro.ng.
Trường hợp thăng tiến của Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn khác, với Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng! Nguyễn Phú Trọng trưởng thành trong hoàn cảnh ḥa b́nh, không có sự thử thách trực tiếp của chiến tranh;mà chỉ tiến bước trên con đường coi như bằng phẳng, không bị gian lao khổ cực đến khốn cùng! Nguyễn Phú Trọng được nuôi dưỡng, giáo dục và đào tạo trong môi trường kinh viện, giáo điều, từ trường Đại học Tổng Hợp đến tập sự tại tạp chí Cộng Sản, rồi trở thành nghiên cứu sinh của trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, dọn đường sang thực tập nghiên cứu lư luận xây dựng Đảng ở Liên Xô- “đỉnh cao của tháp ngà lư luận Marx-Lénine”, vốn đă lạc hậu và lỗi thời với thời đại ngày nay! Nguyễn Phú Trọng chỉ nhờ “ng̣i bút và cái lưỡi” để tiến lên đỉnh cao danh vọng cộng sản!
Dưới đây là chi tiết về con đường thăng tiến đó.
Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944, tại xă Đồng Hội, huyện Đông Anh – ngoại thành Hà Nội. Xuất thân từ gia đ́nh khá giả, nên Nguyễn Phú Trông có điều kiện theo học từ bậc Tiểu học đến hết cấp 3 ở tại huyện nhà (1954-1962). Niên khóa 1963-1964, Trọng thi đậu vào Đại học Tổng hợp Hà Nội, học khoa Ngữ Văn, và đă tốt nghiệp vào niên khóa 1966-1967.
Ngày 19 tháng 12 năm 1967, Nguyễn Phú Trọng được kết nạp vào Đảng CSVN, và được nhận vào làm Biên tập viên tập sự của ṭa soạn tạp chí Cộng Sản (tứ 12-1967 đến 8-1973).
Tạp chí Cộng Sản là Cơ quan Lư luận và Chính trị của Trung ương Đảng CSVN, do đó không phải ai vừa tốt nghiệp Đại học là dễ dàng được thu nhận vô làm Biên Tập viên tập sự, nhất là trong thời kỳ mà t́nh trạng “nhất Than, nh́ Thế, tam Quyền, tứ Chế” đang chi phối mạnh mẽ, trong công tác tổ chức cán bộ, ở miền Bắc lúc bấy giờ! Nhưng v́ gia đ́nh của Nguyễn Phú Trọng nhờ có quan hệ như thế nào đó với một ông ủy viên Ban Bí thư trung ương Đảng CSVN (?) Và chính ông ủy viên Ban Bí thư đó, đă trực tiếp gửi gấm Nguyễn Phú Trọng cho ông Tổng Biên Tập Tạp chí Cộng sản (Hoàng Tùng?), để đào tạo Nguyễn Phú Trọng thằnh Biên Tập viên chính thức (Theo sự tiết lộ của một sinh viên ngữ văn, cùng khóa với Nguyễn Phú Trọng – xin được dấu tên)
Trong gần 6 năm phấn đấu, nâng cao tŕnh độ nghiệp vụ và lư luận, Nguyễn Phú Trọng đă chứng tỏ là một người hiếu học và có khả năng nghiên cứu lư luận Marx-Lénine (?) Do đó, vào tháng 9-1973, Ban lănh đạo Tạp chí Cộng Sản đă quyết định cử Nguyễn Phú Trọng đến trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (sau này đổi tên là Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh) làm Nghiên cứu sinh về môn Kinh tế-Chinh trị học Marx-Lénine (từ 9-1973 đến 4-1976).
Sau khi hoàn tất chương tŕnh nghiên cứu sinh, tháng 5-1976, Nguyễn Phú Trọng trở về làm Cán bộ Biên tập của Tạp chí Cộng Sản, phụ trách chuyên mục Kinh tế-Chính trị. Về mặt Đảng Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Phó Bí thư Chi bộ của Ban Biên Tập (từ tháng 5-1976 đến tháng 8-1981). Trong 5 năm này, là thời gian ra sức vươn lên của Nguyễn Phú Trọng, để được cấp trên cho đi du học ở “quê hương của bậc Thầy Lénine”. Và nhờ có hậu thuẫn mạnh cũa “người đỡ đầu” nên Nguyễn Phú Trọng đă đạt nguyện vọng đi du học không có ǵ khó khăn!
Tháng 9-1981, Nguyễn Phú Trọng đă được Ban Tổ Chức Trung Ương quyết định cho sang Liên xô, với tư cách là Thực tập sinh tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Xă Hội Liên Xô, chuyên nghiên cứu về xây dựng Đảng. Đến tháng 7-1983, được cấp bằng Phó tiến sĩ khoa học lịch sử.
Trở về nước vào tháng 8-1983, Nguyễn Phú Trọng vẫn công tác tại Tạp chí Công sản, nhưng được lên chức Phó Ban Xây Dựng Đảng trong Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản. Về công tác Đảng, tháng 7-1985, ông được bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan Tạp chí Cộng sản, nghĩa là đă được thăng từ Cán bộ Sơ cấp lên Cán bộ Trung cấp Đảng!
Tháng 9-1987, Nguyễn Phú Trọng được thăng lên làm Trưởng Ban Xây Dựng Đảng của Tạp chí Cộng sản, và được bầu làm Bí thư Đảng ủy cơ quan. Từ tháng 3-1989, Nguyễn Phú Trọng được thăng lên chức Ủy viên Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản (3-1989 đến 4-1990). Đă có học vị Phó tiến sĩ ở Liên Xô về, lại có hậu thuẫn mạnh ở Ban Bí Thư trung ương Đảng, nên chỉ trong 6 năm (8-1983 đến 3-1989) Nguyễn Phú Trọng đă thăng tiến vượt bậc, so với nhiều bạn học cùng khóa! (Đa số bạn học cùng khóa với Trọng cẫn c̣n lẹt đẹt ở bậc lương Cán sự - Sơ cấp).
Tháng 5 năm 1990, Nguyễn Phú Trọng được thăng lên chức Phó Tổng Biên Tập tạp chí Cộng sản. Sang tháng 8-1991, Nguyễn Phú Trọng lại được thăng lên chức Tổng Biên Tập tạp chí Cộng sản (8-1991 đến 8-1996). Như vậy, từ ủy viên BBT lên Tổng Biên Tập tạp chí Cộng Sản. Nguyễn Phú Trọng chỉ cần có hơn một năm thời gian (4-1990 đến 8-1991) là đă bước vào hang Cán bộ Cao cấp của Đảng CSVN. Thực tế đó, đă chỉ rơ hai điều sau đây: Một là, Nguyễn Phú Trọng đă phấn đấu hết ḿnh. Hai là, Ban Tổ Chức Trung ương Đảng CSVN đă đặc biệt nâng đỡ Nguyễn Phú Trọng!
Tháng 1 năm 1994, giữa nhiệm kỳ khóa VII của Trung ương Đảng CSVN, Nguyễn Phú Trọng được Tổng Bí thư Đỗ Mười trực tiếp giới thiệu, bổ sung vào hàng ủy viên chính thức của BCH TW ĐCSVN khóa VIỊ [Nhiều cán bộ Trung-Cao cấp ở Hànội, đă đặt một dấu hỏi lớn: V́ duyên cớ nào mà ông Tổng Bí thư lại ra mặt, trực tiếp đề cử Nguyễn Phú Trọng? Có người nói: “Đây là một bí mật về quan hệ nhân sự, không thể tiết lộ!”].
Con đường thăng tiến đầy danh vọng đang rộng mở cho người Cộng sản 50 tuổi, nổi tiếng là “con mọt sách” - một “nhà lư luận đầy triển vọng” của Trung ương ĐCSVN (?)
Trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử vào hàng ủy viên của BCH TW Đảng CSVN khóa VIII. Và cũng do Đỗ Mười cho ư kiến chỉ đạo, là nên cử Nguyễn Phú Trọng về giữ chức Phó Bí thư thành ủy Hà Nội, kiêm Trưởng Ban Cán Sự Đảng các trường Đại học trực thuộc thành ủy Hà Nội. Chủ đích của tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh là chuẩn bị cho Nguyễn Phú Trọng lên ngồi ghế Bí thư thành ủy Hà Nội, để có thêm phe cánh, nhằm củng cố vững chắc ”căn cứ chính tri.-kinh tế” của trung ương, tạo thuận lợi cho việc thực hiện mưu đồ xây dựng quyền lực lâu dài của tập đoàn thống trị, theo quan điểm “kiên tŕ xây dựng CNXH dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx-Lénine và tư tưởng Hồ Chí Minh!”
Tháng 12 năm 1997, tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh lại đề cử Nguyễn Phú Trọng bổ sung vào BCT khóa VIII, để hai tháng sau (2-1998) rút Nguyễn Phú Trọng lên Trung Ương, giữ chức Trưởng Ban Tư tưởng-Văn hóa và Khoa giáo trung ương (2-1998 đến 1-2000) kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng lư luận trung ương (từ 3-1998 đến 11-2001). V́ thế, trong những năm 1999-2000, độc giả của Tạp chí Cộng sản đă thấy ông Phó Chủ tịch Hội đồng Lư luận Trung ương Nguyễn Phú Trọng “tŕnh làng” một số bài viết về lư luận xây dựng Đảng, mang tính chất chỉ đạo cho toàn Đảng. Điển h́nh như một số bài dưới đây:
- Bài “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lư luận chính trị của Cán bộ, Đảng viên.” (Tạp chí CS, số 11, tháng 6-1999).
- Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa măi măi soi sáng con đường Xây dựng và Phát triển nền Văn hóa Việt Nam.” (Tạp chí CS, số 14, tháng 7-1999)
- Bài “Xây dựng Đảng trong sạch, vững ma.nhđdiều kiện bảo đảm giữ vững và tăng cường vai tṛ lănh đạo của Đảng.” (Tạp chí CS, số 3, tháng 12-2000).
Nghiên cứu toàn bộ nội dung của 3 bài viết này, chẳng qua chỉ là “xào nấu” ư kiến của những nhà lư luận cộng sản, thuộc về bậc thầy của Nguyễn Phú Trọng, đă từng viết. Và cái gọi là “khuôn vàng thước ngọc” để chứng minh ḷng trung thành mù quáng của các nhà lư luận cộng sản, mà ông Nguyễn Phú Trọng đă sử dụng như cái “huân chương lập trường”, là câu kinh nhật tụng này: “Đảng ta đă xác định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng. Mọi thắng lợi hay vấp váp, tổn thất của cách mạng nước ta đều liên quan trực tiếp đến việc Đảng ta có nhận thức và vận dụng đúng đắn hay không chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.” (Tạp chí CS, số 11, 6-1999, trang 7).
Tháng 8 năm 1999, do yêu cầu xây dựng và phát triển thủ đô Hànội, Nguyễn Phú Trọng lại được BCT khóa VIII cử về làm Bí thư thành ủy Hànội, đúng như dự định của tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh (mặc dù lúc này Đỗ Mười đă không c̣n giữ chức Tổng Bí thư, mà làm Cố vấn, nhưng quyền lực vẫn không giảm sút.)
Trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX (4-2001), Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử vào BCH TW Đảng CSVN khóa IX, và là 1 trong 15 ủy viên BCT khóa IX (hàng thứ 7). Nguyễn Phú Trọng vẫn tiếp tục giữ ghế Bí thư thành ủy Hànội, và đến tháng 11-2001, kiêm luôn chức Chủ tịch Hội đồng Lư luận trung ương, đồng thời đặc trách công tác lư luận của Đảng CSVN (thay cho Nguyễn Đức B́nh). Tháng 5-2002, Nguyễn Phú Trọng được cử làm Đại biểu Quốc hội khóa XỊ
Trong năm đầu làm Chủ tịch Hội đồng Lư luận Trung ương, Nguyễn Phú Trọng đă “tŕnh làng” 2 tiểu luận “tầm cỡ quốc gia” như sau:
- Tiểu luận (1): “Sự lănh đạo của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.” (Tạp chí CS, số 3, tháng 1-2002).
- Tiểu luận (2)” “Tổng kết thực tiễn-một nhiệm vụ trọng yếu của công tác lư luận hiện naỵ” (Tạp chí CS, số 15, rháng 5-2002).
[Dưới 2 bài tiểu luận này, tạp chí CS có ghi chú ông Nguyễn Phú Trọng là Phó giáo sư-Tiến sĩ. Nhưng không hiểu đă được Chính phủ CHXHCNVN phong từ lúc nàỏ].
Với tiểu luận (1), nhà lư luận Nguyễn Phú Trọng chỉ sắp xếp lại những ư kiến của các lănh tụ cộng sản, như Lénine, Hồ Chí Minh… đă từng viết về “quan hệ giữa Đảng cộng sản với quần chúng nhân dân”, Nguyễn Phú Trọng tóm gọn lại, làm thành ư kiến của ông ta, như câu khái quát sau đây: “Đảng chỉ mạnh khi gắn bó mật thiết với nhân dân, c̣n sức mạnh của nhân dân được nhân lên khi có sự lănh đạo của Đảng” (tạp chí CS, số 3, 1-2002, trang 3) Vậy, xin hỏi lư luận gia Nguyễn Phú Trọng rằng: Nếu không có sự lănh đạo của Đảng CSXN th́ sức mạnh của nhân dân ta không được nhân lên hay saỏ
Lịch sử chiến thắng quân giặc ngoại xâm phương Băc của nhân dân ta, từ thời Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (thế kỹ X), Lư Thường Kiệt dẹp tan quân Tống (thế kỷ XI), Trần Quốc Tuấn 3 lần chiến thắng quân Nguyên (thế kỷ XIII), Lê Lơ.i-Nguyễn Trăi đánh đuổi quân Minh (thế kỷ XV) và Quang Trung Nguyễn Huệ một trận đánh tan quân Thanh (thế kỷ XVIII), đă chứng minh rằng kết luận về “vai tṛ lănh đạo của Đảng CSVN” của ông Nguyễn Phú Trọng là một sự cường điệu lịch sử một cách trắng trợn!
Với tiểu luận (2), Nguyễn Phú Trọng đă “Đạo Ư” trong tác phẩm “Làm Ǵ?” của Lénine, và tác phẩm “Bàn Về Thực Tiễn” của Mao Trạch Đông, cùng với một số bài viết về phạm trù “Thực tiễn và Lư luận” đăng trên các tạp chí Triết học của Viện Triết học Liên Xô (trước năm 1990), để tạo thành “tư duy lư luận của Nguyễn Phú Trọng”, mà bài tiểu luận trên chỉ là một sự chứng minh tài năng “Đạo Ư’ của ông đứng đầu HĐLL trung ương Đảng CSVN (!?) Phải chăng, v́ thế, mà ông Nguyễn Phú Trọng mới đưa ra tấm “lá chắn”, bằng câu kinh sau đây, để che đậy sự Đạo Ư của người khác thành của ḿnh, rằng: “Chủ nghĩa Mác-Lénin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng, một lư luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn.” (TCCS, số 15, 5-2002, trang 3).
Vậy, thực tiễn Việt Nam mà lư thuyết gia Marxist-Léninist Nguyễn Phú Trọng đă tổng kết, có phản ảnh đúng sự thật hay không? Hay lại gieo thêm ảo tưởng về cái gọi là “con đường đi lên CNXH ở nước ta”, trong những thập niên đầu của thế kỷ XXỈ
Cụ thể, ông Nguyễn Phú Trọng đă tổng kết như sau:
“Như vậy, rơ ràng là cho đến Đại hội lần thứ IX (tức là từ 1960 đến 2001 – LTM), nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xă hội và con đường đi lên chủ nghĩa xă hội ở nước ta theo tinh thần đổi mới đă từng bước được xác lập và không ngừng hoàn thiện.”
(TCCS, đă dẫn, trang 6).
Trong suốt hơn 40 năm xây dựng CNXH, mà chỉ mới từng bước được xác lập – nói đúng hơn là hơn 40 năm ṃ mẫm, nhưng vẫn chưa hoàn thiện được mô h́nh căn bản của CNXH Việt Nam (?). Thật ra, Đảng CSVN đă mù quáng “rập khuôn” theo con đường xây dựng CNXH của Liên Xô, và copy thêm của Trung Cộng, rồi coi như là sự sang tạo của Đảng CSVN (!?)- Một sự “sáng tạo gọi là cộng của 2 đàn anh CS quốc tế tạo thành của CSVN”, mà không phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của thực tế xă hội Việt Nam, không bắt nguồn từ truyền thống lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam, không thích hợp với trào lưu văn minh tân tiến của thế giới tự do dân chủ!
Vào đầu năm 2005, với cương vị Chủ tịch Hội đồng Lư luận Trung ương, Nguyễn Phú Trọng đă được BCH TW Đảng CSVN khóa IX giao biên soạn “Dự thảo báo cáo chính trị”, để báo cáo cho Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng CSVN. Để hoàn thành bản Dự Thảo dài khoảng 24.000 chữ (khoảng 60 trang in khổ 13.19 cm), mà ông Nguyễn Phú Trọng và một đội ngũ cán bộ biên soạn hùng hậu, dưới sự chỉ đạo của ông, đă phải mất hết gần một năm thời gian, và tiêu phí hết 3 tỷ đồng NHVN (tương đương 200.000 dollars US). Đúng là đạt một kỷ lục “không thể tưởng tượng” của giới cầm bút (!?).
Nếu có nhà nghiên cứu chính trị nào đă đọc kỹ và xem xét tường tận từng trang Bản Dự Thảo, th́ sẽ thấy: “H́nh Thức và Nội Dung của Bản Dự Thảo ở tầm cỡ quốc gia” này, thực chất là như thế nào?
Thực chất của Bản Dự Thảo Báo cáo Chính trị cho Đại hội X của Đảng CSVN, có thể tóm gọn như sau: Câu văn dài ḍng, luộm thuộm, rườm rà, c̣n sai sót những lỗi căn bản về văn phạm Việt ngữ! Nội dung th́ không phong phú về mặt thực tế sinh động của đời sống xă hội trong cả nước, suốt trong 20 năm được coi là “Đổi Mới”, nghèo nàn về lư luận, thiếu tính logic biện chứng, không có sức thuyết phục người đọc, bởi v́ chỉ có một mớ lư luận đầy tính chất kinh điển và giáo điều!
Vậy mà…
Trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng CSVN (4-2006), Nguyễn Phú Trọng cũng tái đắc cử vào BCH TW Đảng CSVN khóa X, và được bầu vào BCT trung ương khóa X (đứng hàng thứ 6 trong số 14 người).
Đến tháng 6-2006 th́ nhà lư luận Mác-Lê, coi như số 1 của Đảng CSVN- Nguyễn Phú Trọng, đă được Đảng CSVN giao giữ chức Chủ tịch Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam!
Chúng ta hảy chờ xem ông Tân Chủ tịch Quốc hội có thực hiện “Đổi mới Toàn diện và Triệt để” như ông đă hứa khi đọc diễn văn nhậm chức hay không?
o0o
Nhận diện 3 nhân vật cầm quyền tối cao của Nhà nước CHXHCNVN, do Đảng CSVN độc quyền lănh đạo, chúng tôi nhằm mục đích cung cấp cho các chính khách, các chiến sĩ dân chủ chân chính và cho mỗi người dân Việt Nam đang quan tâm đến tiền đồ của quốc gia dân tộc, có được cái nh́n tương đối toàn diện, để suy xét bản chất chính trị, tư cách đạo đức và tài năng của họ - trong vai tṛ lănh đạo Nhà nước. Từ đó, rút ra nhưng nhận xét căn bản, có thể giúp ích ǵ cho công cuộc Dân Chủ Hóa Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015?
Để kết luận bài nghiên cứu khá dài này, chúng tôi nêu ra mấy suy xét căn bản về 3 nhân vật cầm quyền tối cao của chế độc CSVN, như sau:
1/- Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng là hạng người có kinh nghiệm thực tiễn về lănh đạo, từ thấp lên cao,cả trong chiến tranh và trong thời b́nh. C̣n Nguyễn Phú Trọng th́ thuộc hạng người trưởng thành trong môi trường cầm bút, chuyên nghiên cứu và viết “lư luận cộng sản” – lư luận Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, về căn bản, có thể nói: Hai ông Triết và Dũng là hạng người thực tiễn, c̣n ông Trọng thuộc về hạng người lư luận. Thực tế đó, cho thấy rơ mục đích của BCH TW Đảng CSVN khóa X, chọn 3 nhân vật cầm quyền tối cao của Nhà nước CHXHCN VN trong nhiệm kỳ mới, là muốn kết hợp hai hạng người có kinh nghiệm thực tiễn và có lư luận để bổ sung cho nhau, tạo thành một thể lănh đạo hoàn chỉnh nhất (?)
Tuy nhiên, mục đích mới chỉ là sự mong muốn, c̣n làm thế nào để đạt mục đích đó lại là một vấn đề khá phức tạp! Vế phương diện gọi là “Lư tưởng Xây dựng CNXH”, chưa chắc là họ đă thống nhất với nhau về quan niệm, mặc dù đă có đường lối-chính sách chỉ đạo của Đảng! C̣n về mặt tâm lư-t́nh cảm giữa họ, th́ đâu phải ḥa đồng một cách đơn giản, như làm một bài toán cộng của số học? Hai người Nam Bộ & một Bắc Bộ có thành ba người Việt Nam nhất trí hoàn toàn hay không? Thời gian sẽ trả lời!
Nhưng, trước mắt, chúng ta thấy rơ một điều rất khác nhau về môi trường sinh hoạt, công tác và tư duy giữa ông Triết & ông Dũng hoàn toàn khác nhau! Nguyễn Phú Trọng đă bị chế độ XHCN miền Bắc nhồi nhét suốt bao nhiêu năm về cái gọi là nền chính trị chuyên chính vô sản và chế độ kinh tế chỉ huy, do đó tầm nh́n của ông đă bị giới hạn trong bốn bức tường đóng kín của cái vương quyền độc tài Đảng trị! C̣n hai ông Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng đă được lớn lên trong môi trường xă hội tự do dân chủ, với nền chính trị đa nguyên và chế độ kinh tế tư bản tư nhân, dù rằng khi trưởng thành hai ông đă đi theo Đảng CSVN chống lại chế độ Việt Nam Cộng Hoà! Nhưng, chắc chắn trong thời gian từ 1976 đến nay, với cương vị lănh đạo, hai ông thế nào cũng có suy nghĩ và so sánh ngầm trong tâm thức về tính ưu việt giữa hai chế độ: Dân Chủ và XHCN - Chế độ nào hơn chế độ nào? Cho nên, hai ông cộng sản gốc Nam Bộ đă có tầm nh́n Mở Rộng thoát ra ngoài khung cửa XHCN (?) Nếu Nguyễn Phú Trọng thức thời, nhận thấy cái dở của ḿnh, tiếp thu cái hay của hai “đồng chí Nam Bộ” là cái phước của Đảng CSVN, để thoát khỏi sự tiêu vong trong thời gian sắp tới! Nhưng, với điều kiện là 3 nhân vật cầm quyền tối cao này phải mạnh dạn tiến hành Đổi mới Toàn diện và Triệt để, mà trươc mắt là kiên quyết dẹp nạn “Nội xâm” đi song song với việc thực hiện tự do dân chủ cho toàn dân! Về Kinh tế th́ phải cắt bỏ cái đuôi “định hướng XHCN”, để cho “Thị trường Tự do” hoàn toàn làm chủ nền kinh tế nước nhà!
2/- Ba nhân vật cầm quyền tối cao của Nhà nước CHXHCN VN, trong nhiệm kỳ 2007-2011, là những người trẻ, có tŕnh độ học vấn và năng nổ hơn các nhân vật cầm quyền tối cao trước đây! Nhưng, họ có đấy đủ bản lĩnh để lănh đạo, quản lư và điều hành Nhà nước từ trung ương đến các địa phương trên cả nước hay không? Bởi v́, họ tiếp nhận một guồng máy quan liêu, tham nhũng nhất nh́ trên thế giới, và kèm theo đó,một thế lực đang ngấm mgầm chống đối họ không phải là nhỏ! Thế lực quan liêu, tham nhũng đang có mât khắp nơi, trong các guồng máy chính quyền, từ các Bộ ở Trung ương, đến các cấp chính quyền ở Tỉnh, Huyện và Xă. Nó h́nh thành một mạng lưới tham nhũng, có hệ thống chằng chịt, quan hệ, che chắn cho nhau, không dễ ǵ phá vỡ trong một thời gian ngắn! Đội quân “nội xâm” đó đang thách thức sự thanh liêm của ba nhân vật tối cao vừa mới chấp chính! Liệu các ông TriếtĐũng-Trọng có dám thẳng tay, cương quyết lănh đạo cả nước tấn công tiêu diệt quân “nội xâm” đó trong một thời gian ngắn nhất, như ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố là phải “Kiên quyết dứt điểm các vụ, việc tham nhũng … theo đúng quy định của pháp luật” hay không? (Theo công điện của Thủ tướng, 1-8-2006, gửi cho các Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan trung ương, chủ tịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương)
3/- Ba ông TriếtĐũng-Trọng, có thể đă thức thời muốn tiến hành “đổi mới toàn diện và triệt để”, để cứu Đảng, để giữ cái quyền lănh đạo quốc gia của Đảng (?) Nhưng, họ chắc chắn khong bao giờ từ bỏ cái gọi là “kim chỉ nam cho hành động” - tức “anh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, cho dù trong thâm tâm của họ cũng đă nhận ra sự lạc hậu, lợi thời của “câu kinh nhật tụng của tôn giáo cộng sản” đó! Bở lẽ họ c̣n bị ràng buộc quá nhiều yếu tố chủ quan và khách quan trong hiện tai, khi mà quyền lực của tập đoàn bảo thủ c̣n quá mạnh!
V́ vậy, nếu ai nghĩ rằng: từ khi ba nhân vật họ Nguyễn lên cầm quyền (6-2006) là “đă tới thời điểm công khai đấu tranh bất bạo động”, th́ quả thật là ấu trị và sai lầm! Tại saỏ Tại v́ bản chất độc tài-chuyên chính của chế độ vẫn c̣n nguyên! Bởi v́ tập đoàn cầm quyền mới cũng chỉ là “B́nh mới Rượu cũ” do Đảng CSVN dựng lên mà thôi! Cho nên, không có ǵ phải ngạc nhiên, khi tự do ngôn luận vẫn bị bóp nghẹt, tôn giáo không quốc doanh vẫn bị đàn áp, các chiến sĩ dân chủ thật (dân chủ chân chính) vẫn bị bắt giam vào nhà tù… Các nhà Dân chủ Chân chính cần phải cảnh giác âm mưu phản gián của Đảng CSVN,không nên lạc quan mà lộ diện trước ngày hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hànội (11-2006), theo “Lời Kêu Gọi” công khai thành lập “Liên Minh Dân Tộc” ǵ đó, tuyên bố ầm ĩ trên các Đài phát thanh nước ngoài, công bố đại trà trên mạng lưới, nào là danh xưng, địa chỉ, số phôn v.v… cho cả thế giới biết, để sa vào lưới của bọn công an cộng sản hay sao?
Quí vi chớ nên nghĩ rằng: Có mặt của tổng thống Hoa kỳ và các nguyên thủ của gần 20 quốc gia khác, mà Đảng CSVN nể sợ, phải dẹp chính sách chuyên chính, đối với những ai ra mặt chống lại quyền lực độc tài của họ! Nếu quí vị đánh giá t́nh thế sai, đốt cháy giai đoạn cần thiết, nhảy vọt không có cơ sở, th́ quí vị chỉ làm hại phong trào dân chủ mà quư vị đă tốn công gầy dựng bấy lâu!??
Trong t́nh thế chính trị “vàng thau lẫn lộn, chính tà bất phân” này, cho dù đấu tranh bất bạo động, vẫn phải duy tŕ Ba Phương Thức Đấu Tranh là: Công khai, Bán công khai và Bí mật! Như vậy, mới rộng đường tiến thoái và mới bảo toàn được lực lượng cho trận đấu quyết định để giành thắng lợi hoàn toàn, khi thời cơ đến! Nếu ra công khai ào ạt, như trong mấy tháng qua, th́ đúng là “thưa ông tôi ở bụi này” (!)
4/- Tập đoàn cầm quyền mới, trước mắt vẫn trung thành với “Truyền thống Ngoại giao Đu dây” từ thời ông Hồ Chí Minh, nghĩa là cố gắng không làm mếch long đối với các siêu cường đang có quan hệ ngoại giao mật thiết với nước CHXHCN Việt Nam! Những năm 1960, khi Trung Cộng bất đồng chính kiến và trở thành kẻ đối nghịch với Liên Xô, th́ ông Hồ đă sử dụng chiến thuật “Ngoại giao Đu dây” đối với hai “đàn anh cộng sản quốc tế” của ḿnh – Anh Cả Liên Xô khuyên thế này th́ làm thế này, c̣n anh Ba Trung Cộng kêu làm thế kia th́ làm thế kia, để nhận viện trị của cả hai, miễn sao đạt cho được mục đích “Giải phóng Miền Nam” mà thôi!
Ngày nay, trong quan hệ ngoại giao với hai siêu cường là Hoa Kỳ (kẽ cực thù của hơn 30 nnăm trước) và Trung Cộng (từ đồng chí biến thành thù địch trong những năm 1980, và sau đó lại bắt tay làm bạn hữu nghị) – cũng là hai siêu cường đang đối đầu trong khu vực Châu Á-Thái B́nh Dương! Nhưng, Đảng CSVN không thể ngả hẳn về phía nào, đồng thời cũng không thể làm mếch ḷng ai! Do đó, trong quan hệ ngoại giao với hai siêu cường này, tập đoàn cầm quyền mới phải triệt để áp dụng kinh nghiệm ngoại giao của ông Hồ Chí Minh đối với Liên Xô và Trung Cộng, nhưng phải sáng tạo kinh nghiệm vào t́nh h́nh cụ thể, đối tượng cụ thể, sao cho có hiệu quả cao nhất, như ông Nguyễn Minh Triết đă phát biểu, khi bàn về việc quan hệ với Mỹ và Trung Cộng, trong phiên họp đặc biệt của BCT khóa X, trước khi ông đi dự Hội Nghị “Phong Trào Không Liên Kết” (NAM) lần thứ 14, ở La Habana (Cu Ba), trong hai ngày 15 và 16-9-2006, rằng: “Trên căn bản, chúng ta phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hợp tác và phát triển, và chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế…Đặc biệt, trong quan hệ tế nhị đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ, chúng ta phải triệt để áp dụng kinh nghiệm của Hồ Chủ tịch trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc một cách sáng tạo, mới có thể đạt được cái thế quân b́nh về vai tṛ của chúng ta trong khu vực!” (Theo sự tiết lộ của một Thường Vụ Thành ủy. theo lời kể lại của ông Lê Thanh Hải- Bí thư thành ủy thành phố HCM)
V́ vậy, sự áp lực của Hoa Kỳ (hay Trung Cộng) đối với Đảng CSVN chỉ đạt hiệu quả trong giới hạn nào đó thôi, chớ không phải áp lực nào CSVN cũng chịu nghe theo! Thực tế đó đă được chứng minh quá nhiều trong mấy năm sau khi kư Hiệp Định Thương Mại Viê.t-Mỹ! Điển h́nh như hiệu quả về “áp lực tự do tôn giáo”, về “tự do ngôn luận và vấn đề nhân quyền” – Có thể nói hiệu quả cao nhất, về áp lực của Hoa Kỳ đối với CSVN, thực tế chỉ đạt từ 5% đến 10% mà thôi! Cho nên, công cuộc dân chủ hóa đất nước Việt Nam là của bản thân những người Việt Nam yêu nước, chúng ta phải tự lực là chính! Sự yểm trợ của quốc tế là cần thiết, nhưng không phải mang tính quyết định! Chỉ có áp lực của hàng triệu triệu quần chúng giác ngộ ở trong nước, được tổ chức thành lực lượng cách mạng, tiến hành một cao trào đấu tranh chính trị, diễn ra trên cả nước, dù là bất bạo động cũng làm cho Đảng CSVN phải chấp nhận Dân Chủ Hóa và thực hiện chế độ Chính Trị Đa Nguyên!
Một Ngày Đầu Mùa Thu 2006
Lê Tùng Minh