Hăy trả lại Hiến pháp 1946 cho giá trị đích thực của nó

 

LTS. Dưới đây Viễn Tượng Việt Nam đăng lại hai cuộc phỏng vấn các ông Trần Thanh Hiệp (A) và Phạm Duy Nghĩa (B) do Đài RFA, Á Châu Tự D, và báo điện tử Tuổi Trẻ online thực hiện. Dịp này, theo lời yêu cầu của Viễn Tượng Việt Nam, ông Trần Thanh Hiệp đă viết thêm ghi chú và nhận xét để khai triển một số điểm ông chưa có dịp tŕnh bày khi được phỏng vấn.

V.T.V.N.

 

A. Nhà báo Nguyễn An của Đài RFA (Á Châu Tự Do) phỏng vấn Trần Thanh Hiệp

 

Việt Nam có cần thay đổi hiến pháp không?

 

RFA. Thời gian gần đây dư luận ở trong nước từ nhiều phía, thân cũng như không thân chính quyền, đă bàn luận rất nhiều về bản Hiến pháp 1946 ra đời cách đây trên nửa thế kỷ và đă hết hiệu lực từ cuối thâp niên 1950. Nhân dịp năm nay kỷ niệm 60 năm Quốc khánh 2-9, Giáo sư Phạm Duy Nghĩa Đại học Quốc gia Hà Nội, khi được báo Tuổi Trẻ online phỏng vấn, đă tuyên bố rằng bản hiến pháp 1946 vẫn c̣n nguyên giá trị cho một xă hội dân chủ pháp quyền ở VN. Để bàn sâu thêm về ư kiến này, Nguyễn An của Đài Á Châu Tự Do đă trao đổi với Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân quyền ở Pari về Hiến pháp nói chung và Hiến pháp 1946 nói riêng. Luật sư Hiệp là tác giả của nhiều bài nghiên cứu về chủ thuyêt Hiến trị cũng như về các Nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp trị.

 

RFA: Thưa luật sư Trần Thanh Hiệp, Việt Nam đang thực hiện cải tổ trong lănh vực luật pháp với nhiều dự luật mới cũng như tu chính lại luật cũ. Tuy nhiên, c̣n chính luật mẹ, tức là hiến pháp th́ sao? Có cần thay đổi không, và nếu có th́ những thay đổi ấy sẽ là ǵ?

 

TTH: Thưa nhà báo Nguyễn An, tôi cho rằng cách nhà báo đặt câu hỏi, h́nh như đă hàm ư câu trả lời rồi, đó là cần phải sửa đổi Hiến pháp v́ việc cải tổ trong lănh vực luật pháp, tuy đă và đang được thực hiện ồ ạt, nhưng chỉ ở trên ngọn chứ chưa phải ở tận dưới gốc tức là Hiến pháp mà nhà báo gọi là luật mẹ. Cho tôi nói thêm về điểm này cho rơ nữa. Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội, sau hơn 50 năm toàn trị, vào đầu những năm 2000 đă phải công khai nh́n nhận phải đổi sang dân chủ [1]. Nhưng họ lại vẫn duy tŕ một Hiến pháp toàn trị. Điều này th́ không thể chối căi được. Như vậy muốn có dân chủ thực sự, đương nhiên phải sửa đổi Hiến pháp. Đứng về mặt nguyên tắc mà bàn th́ phải như thế. Nhưng  trong thực tế, không hẳn như thế nên có một nghi vấn, là liệu trong đợt cải tổ luật pháp hiện nay, Hiến pháp năm 1992 đang đựơc áp dụng, có được sửa đổi để mang tính dân chủ không? Theo tôi, chúng ta đừng chờ đợi, ít ra là trong một tương lai gần, những sửa đổi để đất nước có một Hiến pháp đích thực dân chủ.

 

RFA: Luật sư có thể nói lư do tại sao lại không nên chờ đợi?

 

TTH: Không nên chờ đợi bởi v́ cách đây chỉ mới hơn 3 năm, Hà Nội đă mở ra một đợt sửa đổi và bổ sung Hiến pháp rất quan trọng, sửa lại đoạn cuối của Lời nói đầu và sửa đổi và bổ sung 23 điều trong nội dung Hiến pháp năm 1992 [2]. Tức là, trừ phi có một biến cố quan trọng nào đó xảy ra, Hà Nội sẽ không c̣n nhu cầu sửa đổi Hiến pháp nữa. V́ Hà Nội đă thực hiện đợt cải tổ mới nhất này để khẳng định thêm một lần nữa, nơi đoạn cuối điều 2 của Hiến pháp, rằng không thể phân quyền mà phải tập quyền tối đa và vẫn đặt chế độ dưới sự lănh đạo độc quyền của Đảng Cộng sản, như được quy định ở điều 4, là điều không sửa đổi để giữ nguyên tiền lệ được đặt ra từ thời chuyên chính vô sản thập niên 1980. Tôi cho rằng trước một ư chí đảng trị độc tôn mănh liệt như vậy, không hy vọng ǵ t́m ra khả thế thống nhất tư duy về Hiến pháp như giáo sư Phạm Duy Nghĩa của Đại học quốc gia ở Hà Nội đă nêu lên trong cuộc phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ online [3].

 

RFA: Luật sư nhắc tới Phó giáo sư tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, chắc Luật sư cũng biết giáo sư Nghĩa có nhận xét trên báo Tuồi Trẻ online rằng bản hiến pháp năm 1946 vẫn c̣n giữ nguyên giá trị cho một xă hội dân chủ pháp quyền ở Việt Nam. Ư kiến của luật sư ra sao?

 

TTH: Ở Việt Nam không dễ ǵ t́m thấy được một luật gia không giáo điều như giáo sư Nghĩa. Trước đây tôi t́nh cờ có được đọc công tŕnh nghiên cứu của ông khi ông c̣n thụ huấn tại trường Đại học Harvard. Cách nh́n các vấn đề của ông lúc đó thật là thoáng. Bây giờ ông đă là người có học vị để giảng dạy tại trường Đại học quốc gia ở Hà Nội, cách phát biểu của ông có lẽ khó tránh được những hạn chế v́ hoàn cảnh. Tôi không đọc giáo tŕnh của ông nên không có cơ sở để lượng định thật chính xác mức độ không giáo điều nơi ông hiện giờ. Tuy là người ở ngoài cuộc, tôi cũng thấu hiểu được rằng ở một nước mà chủ nghĩa Mác-Lenin và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn c̣n là những môn học bắt buộc trong chương tŕnh giảng dạy ở các trường th́ các giáo sư tất nhiên không thể đi ngược lại đường lối giáo dục này. Tôi hy vọng giáo sư Nghĩa đă vượt được khó khăn để mang những tinh hoa sở đắc ở một trường Đại học danh tiếng của Mỹ để dẫn dắt tuổi trẻ Việt Nam hội nhập vào văn minh tự do phổ quát của cả nhân loại.

 

RFA: Thưa luật sư, có lẽ chúng ta hăy quay lại với ư kiến của giáo sư Nghĩa về Hiến pháp năm 1946.

 

TTH: Trở lại ư kiến của giáo sư Phạm Duy Nghĩa về Hiến pháp năm 1946, tôi thấy cần phải đặt ư kiến này vào trong toàn văn cuộc phỏng vấn để khỏi đánh giá sai nó [4]. Nói chung, khi trả lời các câu hỏi của Tuổi Trẻ online, giáo sư Nghĩa đă dùng một ngôn ngữ phóng khoáng rất mới, so với biểu văn giáo điều của nhiều thế hệ luật gia cộng sản ở Hà Nội [5]. Nhưng h́nh như ông cố ư né tránh phê b́nh hiện tại, mà chỉ mượn quá khứ để phóng thẳng lên tương lai. Và nếu bắt buộc phải nhắc tới hiện tại th́ ông lại dùng những uyển ngữ để phê b́nh một cách vô hại. Cho nên ông mới nói rằng “hiến pháp năm 1946 vẫn c̣n giữ nguyên giá trị cho một xă hội dân chủ pháp quyền ở Việt Nam”. Đặt câu này vào trong văn cảnh cuộc phỏng vấn th́ phải hiểu ông muốn nói một xă hội dân chủ pháp quyền trong tương lai. Có lẽ chính v́ không nói về hiện tại nên biểu văn của giáo sư Nghĩa, qua cuộc phỏng vấn, đă không đạt tới mức độ chính xác phải có và thường có của luật học. Giáo sư Nghĩa mặc dù nói về một đề tài luật học là Hiến pháp nhưng lại chỉ chú trọng nhấn mạnh về mặt chính trị. Tuy nhiên, từ trong nước, ông đă thẳng thắn nêu vấn đề, trên một diễn đàn quốc tế, để chúng ta ở hải ngoại bàn sâu thêm. Tôi thấy có thể đứng trên b́nh diện luật hiến pháp mà bổ túc biểu văn của giáo sư Nghĩa ít ra về hai điểm. Một là, giá trị pháp lư của Hiến pháp năm 1946. Hai là, khi nói Hiến pháp là nói luật hay nói chính trị.

 

[MC: Trong phần đầu của cụôc trao đổi về vấn đề hiến pháp Việt Nam, luật sư Trần Thanh Hiệp cho rằng hiến pháp Việt Nam cần thay đổi, nhưng phải thay đổi thế nào? Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Việt Nam đă đựơc giáo sư Phạm Duy Nghĩa của đại học quốc gia Hà nội coi là “c̣n nguyên giá trị”. Về quan điểm của giáo sư Nghĩa, luật sư Hiệp cho rằng có thể bổ túc biểu văn của ông Nghĩa ít ra về hai điểm. Một là giá trị pháp lư của Hiến pháp năm 1946, và hai là cần phân biệt cho rơ, nói luật hay nói chính trị. Trứơc hết, ông Hiệp phân tích về giá trị pháp lư của bản hiến pháp năm 194].   

 

TTH: Khi nói bản Hiến pháp năm 1946 vẫn c̣n nguyên giá trị là nói c̣n giá trị về mặt chính trị. Nhưng về mặt pháp lư th́ không thể nói nó c̣n nguyên giá trị được. Tại v́ bản Hiến pháp năm 1946 chưa bao giờ có giá trị pháp lư cả. Muốn có giá trị pháp lư th́ nó phải hội đủ những điều kiện pháp định cả về h́nh thức lẫn nội dung. Không nên nghĩ sai lầm rằng chỉ có nội dung của Hiến pháp mới quan trọng, c̣n h́nh thức th́ đại khái thế nào xong thôi [6]. Trên b́nh diện pháp lư, nếu một Hiến pháp có hà t́ về h́nh thưc th́ đương nhiên nó bị coi là vô hiệu, tức cũng như chưa hề bao giờ có bản Hiến pháp đó cả.

 

RFA: Xin ông nói rơ về điều ông gọi là hà t́ của hiến pháp năm 1946. Hà t́ là ǵ, và hà t́ của Hiến pháp 1946 là ǵ?

 

TTH: Hà t́ là một thuật ngữ luật học không thông dụng ở ngoài đời dưới dạng từ kép hán việt. Nhưng hai từ đơn chữ hán “hà” và “t́” đă được việt hoá th́ rất thông dụng thí dụ “khoai hà”, là khoai bị sâu ăn, hay “ngựa hà”, là ngựa mà chân bị sâu ăn. C̣n “t́” là vết xấu như có t́ vết. Trở lại nghĩa gốc của tữ kép chữ hán “hà t́” th́ “hà” là ngọc có vết, nứt, sứt mẻ, không được toàn bích và “t́”, là những chỗ sai lầm, là vết xấu. Trong thuật ngữ luật học, hà t́ dùng theo nghĩa bóng, và nói hà t́ là nói một vật, một hành vi pháp lư nào đó, có khuyết điểm, khuyết tật, thiếu sót, thiếu điều kiện, nên không có giá tri, hay không được coi là hợp lệ v.v… Hiến pháp năm 1946 có một số hà t́ về h́nh thức, ở đây tôi chỉ nói về một hà t́ thôi, đó là hà t́ nó chưa được ban hành (promulguer, to promulgate), thuật ngữ cộng sản trước đây gọi là “ban bố”, nay gọi là “công bố”. Hiến pháp năm 1946, nơi điều 49, đoạn (đ) định rằng quyền ban hành các đạo luật thuộc về Chủ tịch nước VNDCCH, c̣n điều 31 th́ buộc rằng các luật đă được quốc hội (Nghị viện) thông qua phải được Chủ tịch nước ban hành (ban bố) chậm nhất là 10 ngày sau khi được thông tri. Trong thời hạn này, Chủ tịch có quyền yêu cầu quốc hội thảo luận lại. Nếu quốc hội sau khi thảo luận lại vẫn không sửa đổi th́ Chủ tịch bắt buộc phải ban hành. Như vậy, ban hành không phải chỉ là cho đăng chính thức luật lên công báo mà là một thủ tục để xác nhận rằng luật đă được biểu quyết một cách hợp lệ và kể từ lúc nó được ban hành, luật bắt đầu có hiệu lực, mọi người kể cả công quyền phải tuân theo và áp dụng. Nếu luật không được ban hành th́ không ai bắt buộc phải tuân thủ. Hiến pháp 1946 là một đạo luật không được ban hành, không ở trong thời hạn 10 ngày, cũng không ngoài thời hạn này v́ có lư do bất khả kháng [trong thời hạn 10 ngày để ban bố, ông Hồ Chí Minh không hề nại ra một lư do bất khả kháng nào để hoăn ban bố]. Vậy về mặt pháp lư, bản Hiến pháp năm 1946 phải coi như không có. Nói nó c̣n giữ nguyên giá trị là đưa ra một lư luận về mặt chính trị, chứ không phải để khẳng định rằng một bản văn pháp lư không được ban hành vẫn có giá trị pháp lư [7].

 

RFA: Xin bàn tiếp về về điểm Hiến pháp là luật hay là chính trị 

 

TTH: Thật ra trong Hiến pháp có cả chính trị lẫn luật nhưng khi chính trị đă được luật hoá để trở thành Hiến pháp th́ luật quay trở lại chi phối chính trị và từ đó nói Hiến pháp là phải nói luật. Giữa chính trị và luật ở trong Hiến pháp có quan hệ biện chứng. Chính trị và luật ảnh hưởng qua lại để điều lư lẫn nhau trong khuôn khổ một cơ chế có tên gọi là Hiến trị (constitutionnalisme, constitutionalism) chứ không phải là “pháp quyền”. “Pháp quyền” là một thuật ngữ luật học mà nhà nứơc cộng sản Việt Nam mới đặt ra để gọi tên một chế độ trong đó luật chỉ là công cụ cầm quyền của đảng và Hiến pháp là một kỹ thuật pháp lư để thể chế hoá đuờng lối của Đảng [8]. Theo tôi, bây giờ nếu muốn đánh giá một cách khách quan Hiến pháp 1946 th́ tất phải rút ra hai kết luận sau đây. Thứ nhất, về mặt luật. Nếu đặt nó vào thời điểm cuối năm 1946, lúc nó được thông qua mà xét th́ Hiến pháp năm 1946 không có giá trị pháp lư v́ đă không được ban hành. Mặc dù vậy, chính quyền cộng sản sau đó vẫn cứ tiếp tục quy chiếu vào bản văn phải đựơc coi là vô hiệu này để mượn danh nghĩa “Ban Thường vụ” làm ra sắc luật, sắc lệnh mà cai trị. Cho đến đầu thập niên 1950, tuy vẫn chưa bầu lại quốc hội nhưng đă làm ra đạo luật cải cách ruộng đất là môt đạo luật vi hiến từ tinh thần đến văn tự [hiểu theo nghĩa vi phạm những nguyên tắc thiết yếu của Hiến pháp 1946 là tinh thần cộng hoà không đấu tranh giai cấp và không xoá bỏ quyền tư hữu], mà sự áp dụng đă thô bạo dẫm đạp lên công lư như Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đă vạch ra [9]. Nếu chuyển dịch nó vào hoàn cảnh chế độ xă hội chủ nghĩa đương hành để áp dụng nó trong “nguyên trạng” th́ nhất định không thể có chỗ đứng cực quyền “lănh đạo” cho Đảng Cộng sản như bây giờ được.

 

RFA: Xin ông giải thích thêm về điểm này: tại sao nếu áp dụng nó trong “nguyên trạng” th́ sẽ không thể có chỗ đứng cực quyền lănh đạo cho đảng Cộng sản như bây giờ được?

 

TTH: Nguyên trạng [10] là một từ kép hán việt, hiểu một cách nôm na là “nguyên con”. Nếu mang toàn văn bản Hiến pháp năm 1946, không thêm bớt, sửa chữa một chữ hay một điều khoản nào mà thay vào Hiến pháp đương hành năm 1992 để áp dụng th́ Đảng Cộng sản Việt Nam không có bất cứ một quyền nào trong tất cả mọi quyền hiện nó đang có để lănh đạo - thật ra là cai trị - cả nước, cả xă hội như hiện nay. V́ bản Hiến pháp năm 1946 trong lời nói đầu không hề nói tới cơ chế “Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lư” và trong nội dung cũng không có điều nào giống điều 4 của Hiến pháp năm 1992. Vậy không có cơ sở pháp lư để cho Đảng Cộng sản trực tiếp hay gián tiếp độc chiếm quyền hành.  

 

RFA: Bây giờ xin luật sư nói tiếp về điểm thứ hai.

 

TTH: Thứ hai, về mặt chinh trị. Phải công nhận một ưu điểm cho Hiến pháp năm 1946 là nó đă phản ánh rất phong phú tinh thần cộng ḥa. C̣n về mặt dân chủ th́ cũng chỉ… thường thường bậc trung, so với những phát kiến của hai cuộc cách mạng tư sản dân quyền cuối thế kỷ XVIII ở Mỹ và ở Pháp [11]. Nhưng so với ba bản Hiến pháp kế tiếp là các Hiến pháp năm 1959, năm 1980 và năm 1992 th́ Hiến pháp năm 1946 có hai nét ưu việt, đó là không chủ trương đấu tranh giai cấp và tôn trọng quyền tư hữu của người dân. Ưu việt là giữa người Việt Nam với nhau thôi chứ người dân các nước khác, phương Tây cũng như phương Đông, đă đi xa hơn thế nhiều từ lâu rồi. Nếu chúng ta không dễ dàng hài ḷng về thân phận tụt hậu đáng tủi hổ của đất nước, trải qua 60 năm hy sinh gian khổ, th́ nên thành thật nh́n nhận rằng Hiến pháp năm 1946 chỉ là một “bánh vẽ dân chủ” mà vẻ hấp dẫn chưa tàn phai, thay v́ đánh giá cao nó như khuôn vàng thước ngọc cho tương lai. Nói như thế không phải là quá, v́ nếu môn học luật hiến pháp so sánh được giảng dạy ở Việt Nam và không bị tinh thần giáo điều chỉ đạo th́ chắc cũng sẽ đi tới kết luận như thế.

 

 

So sánh các bản hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 (hiện hành)?

 

Khi nói về những khác biệt giữa các bản hiến pháp đă qua của Việt Nam, câu hỏi đặt ra cho luật sư Hiệp là:

 

‘Cũng trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Tuổi trẻ on line, tiến sĩ Nghĩa cho là hiến pháp hiện hành (sửa đổi năm 1992) có nhiều điểm quay về với hiến pháp 1946, khi ngừơi dân đựơc công nhận và bảo vệ một số quyền cơ bản mà ở các bản hiến pháp 1959 và 1980 đă không quy định rơ ràng hoặc không đầy đủ. Luật sư có chia xẻ nhận định này không? Xin giải thích’.

 

TTH: Trên đại thể, tôi có thể chia xẻ sự nhận định với giáo sư Phạm Duy Nghĩa về sự sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một hiện tượng thay đổi với bước lùi so với hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp thiết lập nền độc tài toàn trị trên cả nước. Nhưng về điểm t́m một ngôn ngữ thích đáng để làm rơ nét sự thay đổi này th́ tôi sợ rằng c̣n phải cân nhắc rất nhiều. Chẳng hạn chữ “quay về” theo tôi là khiên cưỡng. Hiến pháp năm 1992 tuy ở một số điểm có gợi nhớ Hiến pháp năm 1946 nhưng nó không quay về với nội dung hoàn toàn cộng hoà của Hiến pháp đầu tiên này. Bước lùi cùa Hiến pháp năm 1992 đă dừng lại ở giữa đường. Nói theo danh từ chuyên môn th́ Hiến pháp năm 1992 đă xuống thang từ chuyên chính vô sản toàn trị của Hiến pháp năm 1980 để chỉ c̣n là “chuyên hoành” [12] đảng trị độc đảng. Tôi xin mở một ngoặc đơn để giải thích về chữ “chuyên hoành”, một thuật ngữ chính trị học, ít hay chưa được dùng trong ngôn ngữ chính trị Việt Nam. Không như các chữ toàn trị hay độc tài. Theo nhận định của một vài nhà nghiên cứu chính trị học quốc tế th́ chế độ chính trị ở Việt Nam nay không c̣n mang đủ tính chất của một chế dộ toàn trị nữa và họ xếp chế độ nay vào loại các chế độ độc đoán, chuyên quyền, một thứ độc tài đứng ở giữa đa nguyên và toàn trị [13]. V́ thuật ngữ chính trị học Việt Nam chưa có danh từ ổn định để dịch chữ tiếng Anh authoritarianism nên tôi đă mượn chữ hán việt chuyên hoành để dùng tạm trong khi chờ đợi t́m được chữ thích hợp. Nếu dùng quen th́ chữ chuyên hoành cũng có thể trở thành thông dụng. Tôi xin đóng ngoặc. Chỉ cần một điều 4 của Hiến pháp năm 1992, kết hợp với cụm từ ở đoạn cuối Lời nói đầu “Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lư” cũng thừa đủ để chứng minh rằng chế độ độc tài đảng trị bất b́nh đẳng, phân biệt đối xử của Hiến pháp năm 1992 không thể là chế độ cộng hoà tự do, b́nh đẳng của Hiến pháp năm 1946. Như vậy không thể nói là quay về với Hiến pháp năm 1946 được. C̣n ngụ ư rằng một số quyền cơ bản của người dân đă được công nhận và bảo đảm giống như ở Hiến pháp năm 1946 th́ không đúng. V́ trong 11 điều, từ điều 6 đến điều 16 của Hiến pháp năm 1946, không hề có những hạn chế kiểu “do Hiến pháp và luật quy định” hay “theo quy định của Pháp luật” đầy rẫy trong Chương V của Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nói rằng Hiến pháp thời “Đổi mới” này về vấn đề nhân quyền, dân quyền, đă khác so với các Hiến pháp năm 1959 và 1980 th́ đúng nhưng nói nó đă quay về với Hiến pháp năm 1946 th́ không đúng.

 

RFA: Theo tiến sĩ Nghĩa, th́ điểm tối kỵ là các cơ quan hành chánh tự ư ban hành các văn bản dưới luật để hạn chế quyền hạn của dân trong khi hiến pháp và pháp luật không cấm. T́nh h́nh ấy theo ông có xẩy ra ở Việt Nam không? Nếu có, xin ông cho một vài thí dụ.

 

TTH: Chế độ chính trị ở Việt Nam là chế độ ở khâu Nhà nước th́ không phân quyền, ở khâu con người th́ phi nhân quyền, phi dân quyền, xét theo tiêu chí của luật quốc tế về nhân quyền. Cho nên tệ nạn mà giáo sư Nghĩa đă nêu lên theo đó các cơ quan hành chánh tự ư ban hành các văn bản dưới luật để hạn chế quyền của dân là những hiện tượng phổ biến chứ không phải chỉ là những biệt lệ. Các chuyên gia luật pháp quốc tế khi nghiên cứu việc cải tổ pháp luật cho Việt Nam đă đặc biệt chú ư đến một số lượng rất quan trọng các văn bản pháp lư chồng chéo lên nhau.

 

RFA: Luật sư có thể đưa ra những thí dụ cụ thể điển h́nh?

 

TTH: Nếu muốn kể ra một vài thí dụ điển h́nh th́ có thể t́m thấy ở địa hạt tôn giáo. Thí dụ như các Nghị quyết số 297/HĐBT [13] ra ngày 11/11/1977 áp đặt cho miền Nam chính sách tôn giáo tại miền Bắc, Nghị định số  69/HĐBT ra ngày 21/03/1991 để thay thế cho Nghị quyết 297/HĐBT nhưng nội dung không đổi khác ǵ, Nghị định 26/1999/CP ngày 19/04/1999 vẫn để kiểm soát gắt gao các hoạt động tôn giáo. Những văn bản dưới luật kể trên đều vi phạm điều 70 của Hiến pháp năm 1992 là điều công nhận minh thị quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng. Trên một quy mô rộng lớn hơn, c̣n có một Nghị định rất nổi tiếng v́ tính cách vi hiến hiển nhiên trầm trọng của nó, là Nghị định số 31/CP ngày 14-04-1997 của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt cho phép các cơ quan hành chính được bắt giữ và bỏ tù người dân không cần phải tôn trọng các thủ tục pháp định về bắt giữ và xét xử do Hiến pháp dự liệu. Gần đây, trước những lời chỉ trích gắt gao của dư luận quốc tế về nhân quyền, Hà Nội, thông qua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Quyết nghị ngày 29-01-2002, đă khôn khéo giới hạn quyền của Hành pháp ban hành văn bản quy phạm pháp luật bằng cách chỉ dành việc hành sử quyền này cho Thủ tướng Chính phủ mà thôi. Nhưng như vậy là đưa lên hàng một nguyên tắc: Quốc gia trao cho Hành pháp quyền lập pháp không phân định phạm vi rơ rệt, chẳng khác ǵ kư cho Hành pháp một khống chỉ để Hành pháp không bị rào cản trong việc hạn chế quyền của dân. 

 

RFA: Khi trả lời câu hỏi cuối của báo Tuổi trẻ On line, tiến sĩ Nghĩa đưa ra hai tiêu chí chính nếu cần phải sửa đổi hiến pháp hay luật: thứ nhất là thật sự v́ nhu cầu của nhân dân, và thứ hai là thực hiện theo đúng ư nguyện của dân. Ông có chia xẻ hai tiêu chí ấy không, và nếu công nhận, th́ theo ông hiến pháp hiện hành của Việt Nam có cần thay đổi hay không?

 

TTH: Hai tiêu chí “v́ nhu cầu của nhân dân” và “theo đúng ư nguyện của dân” mà giáo sư Nghĩa đă đề xuất để sửa đổi Hiến pháp hay luật là hai hướng đổi mới để đổi mới thực sự. Muốn đi theo hai hướng này th́ nhà cầm quyền cộng sản không thể coi trọng nhu cầu của Đảng hơn nhu cầu của nhân dân. Về ư nguyện của dân, chẳng những chính quyền phải theo cho đúng, mà c̣n phải ghi nhớ rằng trong đó có những quyền của người dân mà chính quyền có nghĩa vụ phải triệt để tôn trọng. Hiến pháp hiện hành của Việt Nam chỉ trọng thị nhu cầu của Đảng v́ nó được soạn ra để thể chế hoá đường lối cai trị của Đảng. Mặt khác, Hiến pháp này đă ngăn cản hết mức không cho dân có cơ hội bày tỏ ư nguyện th́ làm sao có thể biết được ư nguyện của dân. Một Hiến pháp đi ngược chiều dân chủ như vậy không những không thể không thay đổi, mà c̣n phải thay đổi càng sớm càng tốt.

 

RFA: Xin cảm ơn Luật sư Hiệp

 

(Theo bản ghi âm của Đài RFA , có lược bỏ một số lời giới thiệu của xướng ngôn viên

Cuộc phỏng vấn này đă  được phát sóng  ngày 16 và 17-9- 2005)

 

 

 

Ghi chú

 

[1] Trong suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua, những người cộng sản cầm quyền, v́ chủ trương hạn chế, đ́nh hoăn dân chủ nên không dùng chữ “dân chủ” trống trơn mà luôn luôn ghép nó vào với những tính tự như “nhân dân” (dân chủ nhân dân) hay “xă hội chủ nghĩa” (dân chủ xă hội chủ nghĩa). Măi tới cuối năm 2001, nhân dịp sửa đổi và bổ sung Hiến pháp 1992, những người cầm quyền cộng sản mới chính thức dùng chữ “dân chủ” trống trơn khi sửa đổi điều 3 của Hiến pháp 1992. Trong văn bản này, thông qua ngày 15-04-1992, điều 3 có nội dung như sau : « Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân (...) xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xă hội (...) ». Năm 2001, điều này đă được sửa lại thành : « Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng họ lại t́m cách hạn chế để đ́nh hoăn “dân chủ” dưới nhũng h́nh thức khác. Xin xem ở dưới, ghi chú [2].

 

[2] Đầu những năm 2000, với những thao tác sắp xếp sửa đổi và bổ sung Hiến pháp 1992, Hà Nội cố ư tạo ra một ấn tượng muốn đẩy mạnh cuộc đổi mới đă kéo dài 15 năm rồi mà vẫn chưa có đổi mới thực sự, chấm dứt độc tài, bước sang dân chủ. Do đó, Hà Nội đă thêm vào điều 3 của Hiến pháp 1992 chữ “dân chu” trống trơn. Nhưng cuối tháng 12-2001, sau khi những những sửa đởi và bổ sung được chính thứ công bố, người ta đă nhận thấy rằng chưa có bước tiến chuyển hoá độc tài thành dân chủ mà chỉ có những bố trí mới để dùng dân chủ giả hiệu nguỵ trang cho độc tài. Không những đă không có những cởi mở mới theo hướng dân chủ mà độc tài c̣n được củng cố thêm nữa. Đợt sửa đổi và bổ sung Hiến pháp của năm 2001 thật ra là chỉ nhằm cởi mở kinh tế để đáp ứng những đ̣i hỏi bức thiết của t́nh thế. Và để cho những cởi mở kinh tế này không kéo theo những cởi mở chính trị có khả thế thay đổi chế độ, Hà Nội đă không ngần ngại sáng chế ra một khoá an toàn ngăn chặn diễn biến hoà b́nh này bằng cách “bổ sung” điều 2 của Hiến pháp 1992 bằng một đoạn cuối mới, dứt khoát gạt bỏ phân quyền, để tập trung một cách tuyệt đối toàn bộ quyền hành vào trong tay Đảng. Đó là đoạn định rằng “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Không thể nào có được dân chủ trong một chế độ tập quyền tuyệt đối như thế.

 

[3] Xin xem ở dưới, tr.

 

[4] Cuộc pỏng vấn ông Phạm Duy Nghĩa, giáo sư Đại học quốc gia Hà Nội, do Quang Thiện thực hiện trên báo điên tử Tuổi Trẻ online, ngày 2-9-2005.

 

[5] Trong số đó có: Phan Anh, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Nguyễn Ngọc Minh, Viện trưởng Viện luật học, Tạ Như Khuê, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Hợi luật gia Việt Nam, Nguyễn Đ́nh Lộc, uỷ viên Uỷ ban pháp luật của quốc hội, Đào Tri Úc, Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Tổng biên tập Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Lê Hồng Sơn, thuộc Bộ Tư pháp, Ngô Văn Thâu,  tác giả tập biên khảo Nhà nước và pháp luật, Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, đồng tác giả cuốn Lư luận chung về Nhà nước và pháp luật, v.v...

 

[6] H́nh thức là những thủ tục khi làm cũng như khi áp dụng hiến pháp mà được tôn trọng th́  hiến pháp mới có hiệu lực. Hiến pháp là một toàn bộ quy tắc pháp lư xuất phát từ những cơ quan có thẩm quyền theo những thủ tục mà pháp luật coi là đặc biệt, nghĩa là khác với thủ tục thông thường. Có thể nói về mặt nội dung th́ hiến pháp là chính trị nhưng về mặt h́nh thức th́ hiến pháp là luật. Hiến pháp là nền tảng của trật tự pháp lư trong một quốc gia. Cho nên sự tuân thủ về h́nh thức của hiến pháp có ảnh hưởng quyết định đến hiệu lực của hiến pháp.

 

[7] Nếu không cần ban hành mà vẫn có giá trị th́ những người cầm quyền có thể lén lút làm ra hiến pháp theo ư ḿnh rồi đưa ra áp dụng, dân chúng không biết dựa vào đâu mà tranh căi.

 

[8] Theo ông Trường Chinh th́ “Hiến pháp là đường lối chính trị và những chính sách lớn của Đảng được thể chế hoá” (Trường Chinh, Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội 1981, tr. 23-24). Ông Nguyễn Đ́nh Lộc, cựu Bộ trưởng Tư pháp đă khai triển quan điểm này như sau: “Cả ba Hiến pháp [1946, 1959, 1980] đều được xây dựng theo sáng kiến của Đảng và dưới sự lănh đạo của Đảng. Mỗi Hiến pháp đều thể chế hoá, “Nhà nước hoá” đường lối cua Đảng (...). Với ư nghĩa đó, mỗi Hiến pháp là hiện thân của đường lối, chính sách của Đảng, là hiện thân của quyền lănh đạo củ Đảng đối với toàn xă hội ...” (Nguyễn Đ́nh Lộc, Ba bước phát triển trong lịch sử lập hiến của Việt Nam”, trong Hiến pháp nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam, B́nh luận, Tập I, Nxb Khoa học xă hội, Hà Nội 1985, tr. 69)  

   

[9] Xin xem Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản trong đó có trích dẫn bài Diễn văn Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo” của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc ngày 30-10-1956, tại Hà Nội, trong khuôn khổ “Trăm Hoa Đua Nở” do Trường Chinh chủ xướng. V́ bài diễn văn này có nội dung chỉ trích cuiộc cải cách ruộng đất đại ư dẫm đạp lên pháp luật nên Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sau đó bị trù dập, đoạ đầy, suưt lâm vào cảnh bị bao vây bỏ đói như cụ Phan Khôi.

 

[10] Từ ghép tiếng Việt dùng để dịch quán ngữ (locution) tiếng la tinh in statu quo ante, tỉnh lược thành statu qo nghĩa là trong t́nh trạng đă có trước đây

 

[11] So sánh với hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa KỳTuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 của Pháp - mà những người soạn Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 của Việt Nam có trích dẫn - người ta thấy rằng Hiến pháp 1946 VNDCCH quá đơn giản và nhất là đă không đặt được nền tảng đầy đủ và vững chắc cho nền dân chủ tương lai ở Việt Nam. Điều này cũng dễ hiểu, v́ Đảng Cộng sản Việt Nam trong thâm tâm không muốn thiết lập d6n chủ, chỉ nuôi ư đồ mượn danh nghĩa dân chủ để tạo cơ hội từng bước thiết lập độc tài chuyên chính.

 

[12] Người ta tự hỏi liệu việc xếp loại chế độ xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “chuyên hoành” có đúng không? V́ Việt Nam, một mặt, không hề có bất cứ một h́nh thức sinh hoạt đa nguyên nào (Hà Nội điên cuồng chống đa nguyên) và mặt khác, không c̣n đủ sức ḱm kẹp và đàn áp để giữ nguyên mức độ toàn trị xít- ta-lin-nít tuy vẫn c̣n nuôi ư đồ toàn trị. Có thể nói chế độ chính trị hiện nay là “toàn trị bất túc” hay “bán toàn trị”.

 

[13] Một trong những nhà nghiên cứu sâu về chế độ chính trị cộng sản hiện nay của Việt Nam và đă xếp nó vào loại chế độ “chuyên hoành” là giáo sư người Mỹ Carl Thyer, giảng dạy tại một trường Đại học ở Úc. Muốn t́m hiểu thêm về chế độ chuyên hoành, có thể t́m đọc Collier D. et al. The new authoritarianism in Latin America, Princeton, Princeton University Press, 1979; Hermet Guy, L’autoritarisme, trong quyển Traité de science politique do Grawitz M. và Leica J. chủ biên, PUF, Paris 1985; Juan J. Linz, Totaritarian and Authoritarian Regimes, trong Greenstein F.I. Polsby N.X, The Handbook of Polical Science. Macropolitical Theory, Reading(Mass), Addison-Wesley, 1975.

 

[14] Theo một phóng ảnh người viết ghi chú này có trong tay, th́ đó là một Nghị quyết chứ không phải là một Nghị định của Thủ tướng Phạm văn Đồng. Tự bản thân nó, một nghị quyết không có giá trị pháp lư, tuy nó có thể có giá trị hành chánh hoặc chính trị. Vậy mà nó lại được đưa ra để áp dụng như một bản văn dưới luật, thậm chí c̣n có nội dung vi hiến, vi luật để chi phối quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng của người dân. Thêm một  thí dụ điển h́nh về “pháp quyền” rất tuỳ tiện kiểu cộng sản.

 

*

* *

 

B. Báo điện tử Tuổi Trẻ online phỏng vấn ông Phạm Duy Nghĩa, Giáo sư Đại học quốc gia Hà Nội

 

60 năm Quốc khánh 2-9

Vang vọng tiếng dân

Tuổi Trẻ - Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc Việt ra đời. Sau 60 năm xây dựng và bảo vệ đất nước, nay chúng ta đă có vị thế, hoàn cảnh và nhiệm vụ mới. PGS-TS Phạm Duy Nghĩa, ĐH Quốc gia Hà Nội, cho rằng bản hiến pháp đầu tiên đó vẫn c̣n nguyên giá trị, bởi mỗi câu chữ trong đó đều vang vọng tiếng dân.

(Tuoi Tre Online http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=96260&ChannelID=3 Thứ sáu, 2-09-2005)

 

Vẫn c̣n nguyên giá trị

 

*Bản hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc VN, theo ông, sự có mặt của nó nói lên điều ǵ?

-Phương thức quản lư quốc gia của người phương Đông trước đó không sử dụng hiến pháp. Chúng ta cũng vậy. Khi có sự thâm nhập của văn hóa phương Tây th́ chúng ta là một thuộc địa, không có độc lập. Cách mạng Tháng Tám đă xóa bỏ chế độ thuộc địa, chấm dứt chế độ phong kiến và lập nên một chế độ cộng ḥa ở VN. Thể chế cộng ḥa sử dụng hiến pháp làm công cụ quản lư xă hội nên bản hiến pháp của nước VN dân chủ cộng ḥa ra đời.

Sự có mặt của nó chính thức thừa nhận việc người dân VN chấp nhận xây dựng một xă hội pháp quyền (pháp luật có quyền lực tối thượng) [1] chứ không phải vua là quyền lực cao nhất (quân chủ thời phong kiến) và dân chủ (người dân làm chủ xă hội chứ không phải là quí tộc hay vua chúa). Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt thiết lập một xă hội hoàn toàn v́ quyền lợi người dân.

 

* Hiến pháp 1946 được đánh giá rất cao về tinh thần pháp quyền. Ông có chung quan điểm này?

- Tôi đồng ư quan điểm trên bởi bốn lư do sau. Thứ nhất, bản hiến pháp này thật sự xây dựng được một nguyên lư để giữ ǵn xă hội với các chủ thể cùng tồn tại một cách văn minh nhất. Cụ thể là nó xác định quyền làm chủ xă hội là của nhân dân nên hiến pháp có những chương, điều đảm bảo quyền tự do dân chủ, thừa nhận tài sản mỗi cá thể. Tinh thần này được cụ thể hóa và đậm nét nhất ở điều 10, 11, 12 rằng người VN được tự do: ngôn luận, xuất bản, tổ chức, hội họp, tín ngưỡng, cư trú..., được quyền tư hữu tài sản...

Thứ hai, bản hiến pháp có các chương, điều bảo vệ quyền công dân của người dân trước các cơ quan hành pháp. Cụ thể là người dân phải chấp hành các qui định của pháp luật. Nếu vi phạm, Nhà nước sẽ xử phạt. Ngược lại Nhà nước cũng là một chủ thể phải tuân thủ pháp luật như bất cứ người dân nào. Nhà nước không có quyền tự ra các văn bản hạn chế quyền người dân, nếu luật không hạn chế họ. [2]

"Tôi cho rằng nguyên nhân quan trọng nhất để tinh thần của bản hiến pháp năm 1946 chưa được lưu giữ nguyên trạng ở những lần sửa đổi sau cũng như việc Quốc hội sau khi lập hiến đă không giải tán để thành lập nghị viện nhân dân là: ngay tháng 11-1946, sau khi hiến pháp đầu tiên được thông qua th́ người Pháp đă quay lại gây chiến với VN. Toàn dân tộc ch́m trong chiến tranh…".

Thứ ba, bản hiến pháp này đă được xây dựng một cách hợp pháp và do đó nó lại qui định các nguyên tắc ban hành luật một cách dân chủ, minh bạch. Thứ tư, hiến pháp này là một văn bản đúc kết được tinh hoa, thể hiện được nguyện vọng toàn dân tộc trong văn phong trong sáng, dễ đọc, dễ hiểu, ngắn gọn nhưng súc tích, có khả năng phổ quát và bền vững [3].

 

* Thưa ông, sao lại gọi là một bản hiến pháp “hợp pháp”?

- Bản hiến pháp này được soạn thảo theo một phương thức “hợp pháp”, tức là theo một phương thức đảm bảo tính dân chủ cao nhất. Quốc hội tập hợp ư nguyện toàn dân soạn ra hiến pháp. Nhân dân “có quyền phúc quyết” về hiến pháp. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, Quốc hội sẽ được giải tán. Nhân dân lại bầu ra những người đại diện khác và họ được tập hợp trong một tổ chức gọi là nghị viện nhân dân [4].

Nghị viện nhân dân có trách nhiệm soạn thảo các luật, bộ luật. Hiến pháp và pháp luật sẽ tạo nên những phép tắc kỷ cương toàn xă hội. Hai cơ quan soạn thảo hiến pháp và luật hoàn toàn độc lập. Các văn bản luật phải nằm trong khuôn khổ hiến pháp và nếu vi phạm (vi hiến) th́ sẽ có một cơ quan thứ ba phán xét. Như vậy hiến pháp sẽ được tôn trọng tối đa [5].

 

* Những ưu việt của bản hiến pháp năm 1946 có phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta hiện nay?

- Phù hợp là điều tất nhiên. Bởi một bản hiến pháp đúng nghĩa phải có tính trung chính, xuất phát từ nhu cầu của đại đa số nhân dân, từ đặc trưng văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc và nó phải có tính đường lối cao, phổ quát và súc tích. V́ vậy nó có thể ổn định, thậm chí hàng vài thế kỷ. Đến nay theo tôi, bản hiến pháp 1946 vẫn c̣n nguyên giá trị cho một xă hội dân chủ pháp quyền ở VN [6].

Điều tối kỵ: hạn chế quyền của dân

 

* Bản hiến pháp hiện hành c̣n ǵn giữ được những ưu việt của hiến pháp đầu tiên?

- Cũng rất mừng là sau nhiều lần sửa đổi, thậm chí có lúc đi quá xa tinh thần hiến pháp ban đầu th́ nay hiến pháp hiện hành (sửa đổi năm 1992) có nhiều điểm quay lại với hiến pháp 1946. Đó là về “linh hồn” hiến pháp th́ chúng ta vẫn xây dựng một xă hội pháp quyền [7], nhân dân làm chủ. Cụ thể, người dân được công nhận và bảo vệ các quyền cơ bản như quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền khiếu nại tố cáo... Nhưng quyền này ở các bản hiến pháp sửa đổi năm 1959 và 1980 không được qui định rơ ràng hoặc không đầy đủ.

 

* Có nghĩa là dân tộc VN vẫn đang hướng tới một xă hội dân chủ, pháp quyền. Đồng hành với mục tiêu này là việc hoàn thiện hệ thống hiến pháp, pháp luật. Để làm được điều đó, chúng ta cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể ǵ?

- Theo tôi, điều cơ bản là chúng ta phải có quan điểm rơ ràng, tư duy thống nhất về vấn đề này. Hiến pháp nói nôm na là một bản hợp đồng mà người dân cử đại diện của ḿnh soạn ra để “thuê” Nhà nước quản lư xă hội [8]. V́ vậy tối kỵ việc các cơ quan hành chính tự ư ban hành các văn bản dưới luật để hạn chế quyền hạn của dân trong khi hiến pháp và pháp luật không cấm.

Làm thế tức là cơ quan hành chính đơn phương phá vỡ hợp đồng, chống lại người “thuê ḿnh” làm việc. Mặt khác, phải xem Nhà nước cũng là một chủ thể chịu sự chi phối của pháp luật. Ở đây ta cần thiết lập những cơ quan tài phán, tức là cơ quan thứ ba giám sát độc lập, minh bạch và đủ quyền lực để phân xử hành vi của các cơ quan hành chính.

 

* Vậy có nghĩa là trong hoàn cảnh hiện nay, hiến pháp và một số luật phải sửa đổi?

- Như tôi đă nói, hiến pháp càng ổn định càng tốt. Nếu không thể khác được th́ mới sửa. Nếu sửa hiến pháp hay sửa luật th́ chúng ta đều cần dựa trên hai tiêu chí chính: thật sự v́ nhu cầu của nhân dân và thực hiện theo đúng ư nguyện của dân. Hiến pháp đầu tiên của dân tộc có ba nguyên tắc th́ hai nguyên tắc đầu là đoàn kết và dân chủ.

Các nguyên tắc này bao quát những tiêu chí trên. Nhu cầu của người dân  bao giờ cũng muốn được bảo vệ quyền của ḿnh và dân tộc nào cũng có muôn ngh́n lợi ích khác nhau nên để chung sống hạnh phúc th́ hệ thống luật pháp cần thể hiện tính đoàn kết dân tộc một cách thiết thực. Đoàn kết ở đây là người soạn thảo phải thấm đẫm tâm tư nguyện vọng của mỗi giai tầng, lứa tuổi, giới tính, tôn giáo, vùng miền... của nhân dân. Sao cho các qui ước của dân phải vang vọng tiếng dân.

Được như vậy th́ các điều khoản sẽ thể hiện rơ tính ḥa hiếu, khoan dung, xóa mờ tính khác biệt, xung đột, đối lập... Phát huy tính dân chủ th́ soạn thảo hiến pháp, luật pháp phải có sự tham gia của các giai tầng xă hội. Sau đó chính nhân dân là người phúc quyết chúng.

Quang Thiện thực hiện

 

 

Nhận xét thêm của Trần Thanh Hiệp

[1] Ư kiến của giáo sư Nghĩa, theo đó một xă hội pháp quyền  là một xă hội trong đó pháp luật có quyền lực tối thượng, không có ǵ để bàn căi nếu ông chỉ đứng về mặt nguyên tắc mà phát biểu. Nhưng nếu đó là nhận định của ông về trường hợp Việt Nam xă hội chủ nghĩa th́ có nhiều điểm cần làm sáng tỏ. Trước hết về mặt từ ngữ. Nếu chữ pháp quyền đă được dùng như một ước lệ và đồng nghĩa với chữ pháp trị khi dịch các từ ngoại quốc như Rule of law, Etat de droit, Reechsstaat th, để giúp sớm thống nhất thuật ngữ trong luật học Việt Nam, có thể chấp nhận được. Tôi phỏng đoán rằng giáo sư Lê Mộng Nguyên, khi dùng chữ pháp quyền trong bài viết của ông về Hiến pháp có đăng trên VTVN số này, đă  coi nó như là chữ đồng nghĩa với pháp trị. Nhưng rơ ràng không phải như vậy, nhà cầm quyền cộng sản, qua những ǵ đă thực tế xảy ra, từ năm 1985, khi chữ pháp quyền chính thức xuất hiệ, đă sáng chế ra cho chữ pháp quyền một nội dung đặc thù cộng sản, ngược lại với nội dung chữ pháp trị. Điều này rất đáng quan tâm. Từ giữa thập niên 1990, tôi đă có nhiều bài viết về sự khác biệt giữa pháp trị và pháp quyền (xin xem Trần Thanh Hiệp, Pháp quyền hay pháp trị, Nguyệt san Thông Luận số 71, Paris tháng 5-1994 ; Bàn thêm về Nhà nước pháp quyền, TL số 74, Paris, tháng 9-1994 ; Pháp trị thời xưa, TL số 77, Paris, tháng 12-1994). Năm 2001, khi sửa đổi Hiến pháp, Hà Nội đă chính thức ghi vào đó chữ « pháp quyền » và c̣n kèm thêm cái đuôi « xă hội chủ nghĩa ». Đây là hành vi leo thang bạo ngược dưới một h́nh thức mới, nhằm mượn danh nghĩa dân chủ mà thể chế hoá để áp đặt một lần thư hai nền chuyên chính trên cả nước. Cần phải vạch trần ra trước dư luận ư đồ đen tối này. « Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa » không phải là Rule of law, không phải là État de droit, cũng không phải là Reechsstaat với chủ trương Thượng tôn luật pháp (Primauté du droit) ma vẫn là một Nhà nước độc tài đảng trị với tên gọi đă đổi khác. Thật vậy, các luật gia có thẩm quyền của chế độ Ha2 Nội đă nói rất rơ về điểm này. Theo ông Nguyễn Ngọc Minh, Viện trưởng Viện Luật học, Uỷ viên thường vụ Ban chấp hành Trung ương Hội luật gia Việt Nam, « Hiến pháp (..) ghi lại những thành quả đă đạt được , « hợp pháp hoá » các thành quả đó, ổn định các thành quả đó thành « pháp quyền » (tức là được quy định thành pháp luật và bảo đảm bằng pháp luật) » (Một bước phát triển mới của Luật hiến pháp và khoa học pháp lư Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, B́nh luận, Tập II, tr. 344, Nxb Khoa học xă hội, Hà Nội 1985). Ông Minh đă được ông Nguyễn Đ́nh Lộc, cựu Bộ trưởng Tư pháp phụ hoạ : « Nói Hiến pháp thể chế hoá đường lối của Đảng, có nghĩa là đường lối đó thông qua quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, được biến thành những quy định trong văn bản có giá trị pháp lư cao nhất, thành hiệu lực bắt buộc đối với toàn xă hội, được bảo đảm bằng sức mạnh của Nhà nước » (sđd, Tập I, tr. 71-72). Chính vào thời điểm năm 2001 thông qua đợt sử đổi Hiến pháp mới nhất, ông Đào Tri Úc, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, đă viết trên Tạp chí Cộng sản, số 23, tháng 12-2001 rằng : «Nhà nước pháp quyền là chế độ cai trị mà ở đó quyền lực được ghi nhận bởi Hiến pháp và pháp luật ». Rút lại, tất cả những lư luận luật học của các luật gia hộ đảng ở trên đều nhằm minh hoạ quan điểm của Trường Chinh rằng «Hiến pháp là đường lối chính trị và những chính sách lớn của Đảng được thể chế hoá » (Xem ghi chú số [1] ở trên). Về chữ pháp quyền mà giáo sư Nghĩa dùng trong cuộc phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ online, tôi cho rằng toàn văn cuôc phỏng vấn đă làm cho nó thiếu chính xác và như thế nó đă dẫn tới nhiều cách đọc, cách tiếp thu ư kiến của giáo sư Nghĩa. Nếu một đằng người ta đồng ư với giáo sư Nghĩa khi ông n, với bản Hiến pháp 1946, người dân Việt Nam VN chấp nhận một xă hội pháp quyền trong đó pháp luật, chứ không phải vua, là quyền lực cao nhất, và người dân chứ không phải là quí tộc hay vua chúa làm chủ xă hội. Nhưng mặt khác, người ta lại lại thấy giáo sư Nghĩa xa gần công nhận chế độ xă hội chủ nghĩa hiện hành ở Việt Nam là chế độ trong đó người dân được làm chủ. Đương nhiên là bây giờ ở Việt Nam không c̣n chuyện vua chúa làm chủ đất nước nữa. Nhưng hơn nửa thế kỷ Đảng Cộng sản cầm quyền đă làm nẩy sinh ra hiện tượng Đảng là « vua tập thể » mà quyền lực c̣n lớn hơn vua chúa ngày xưa. Và « pháp luật » (droit) rút lại chỉ c̣n là « luật » (loi), công cụ phục vụ tối đa quyền lực của vua tập thể ấy. Đây không phải chỉ là vấn đề từ ngữ mà là vấn đề thuộc « bản chất » phản ánh một tŕnh độ văn minh. Trong những Nhà nước pháp trị đích thực, pháp luật (droit) không phải là một quyền lực mà là một quyền uy (autorité) nghĩa là một sức mạnh được thuận nhận. Bởi vậy, pháp luật là một hoạt động văn hoá của con người để điều lư những tranh chấp do bạo lực, mang lại và bảo đảm cho xă hội hoà b́nh và tự do. Chủ tŕ rằng pháp luật là một quyền lực là vẫn c̣n ở một tŕnh độ văn minh thấp kém tôn sùng bạo lực. Rất tiếc là cách phát biểu thiếu chính xác của giáo sư Nghĩa vô t́nh đă tạo nên ấn tượng rằng người luật gia có cả hai kinh nghiệm luật học độc tài và dân chủ vẫn chưa muốn qua sông để sang bến tự do.

 

[2] Trong 70 điều của Hiến pháp 1946, không có điều nào buộc Nhà nước phải tuân thủ pháp luật đế mức như giáo sư Nghĩa nói. Vả lại dù có chăng nữa th́ cũng chỉ là đồ trang trí thôi, thí dụ như điều 4 của Hiến pháp năm 1980 thiết lập chuyên chính vô sản mà cũng dự liệu rằng « Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp » nhưng đâu có ép buộc được Đảng phải tuân thủ pháp luật v́ Đảng đứng ở ngoài và ở trên pháp luật.

 

[3] Nhưng chính bản Hiến pháp 1946 lại không được « ban hành một cách dân chủ, văn minh » như giáo sư Nghĩa khẳng định. Cứ cho là bản Hiến Pháp 1946 có đủ các tính tốt của một bản văn lư tưởng thi nó cũng chỉ là một cái « bánh vẽ » dân chủ mà thôi. Thực tế của hơn nửa thế kỷ cầm quyền của Đảng Cộng sản đă là một minh trưng.

 

[4] Dường như giáo sư Nghĩa muốn nói rằng Quốc hội đă thông qua Hiến pháp 1946 là một quốc hội lập hiến. Nó sẽ tự giải tái sau khi hoàn tất nhiệm vụ để quốc dân bầu lên một quốc hội lập pháp và mang tên gọi Nghị viện. Người ta tự hỏi giáo sư Nghĩa đă căn cứ vào đâu để lập luận như vậy. Trong thực tế, chẳng những nó không tự giải tán dù không c̣n đủ số đại biểu lúc ban đầu, trái lại c̣n tự duy tŕ cho đến năm 1959 mới tự chấm dứt để cho Đảng tự quyền thiết lập một chế độ độc tài gọi là dân chủ nhân dân.

 

[5] V́ bản Hiến pháp 1946 ra đời đă được 60 năm rồi nên những người thuôc thế hệ trẻ tuổi hơn nó không thể biết được chắc chắn là nó có thật được soạn thảo theo phương thức « hợp pháp » hay không. Tôi sợ rằng giáo sư Nghĩa v́ quá yêu thương món đồ cổ này nên đă tô hồng cho nó. Tôi là một trong những người c̣n sống sót, đă có mặt tại Hà Nội vào thời điểm nó được khai sinh. Theo tôi th́ không thể khẳng định như giáo sư Nghĩ được. Đảng Cộng sản, bằng khủng bố, ám sát, bắt cóc, tuyên truyên gian dối, mánh mung lôi kéo, đă dựng lên một vở bi hài kịch, từ việc biên soạn dự thảo đến việc tổ chức bầu cử và thảo luận biểu quyết Hiến pháp 1946. Để rồi sau cùng không đưa nó ra để ban hành mà lại giết chết nó như người mẹ bóp mũi đứa con vừa lọt ḷng.

 

[6] Phù hợp với « hoàn cảnh » không nhất thiết có nghĩa là phù hợp với « chế độ » hiện hành. Nếu vậy, liệu có thể hiểu rằng giáo sư Nghĩa muốn khuyến cáo Đảng Cộng sản từ bỏ con đường đấu tranh giai cấp để trở về với con đường cộng hoà của Hiến pháp 1946 không ?

 

[7] Xem nhận xét số [1] ở trên.

 

[8] Không thể có chuyện « hợp đồng » với Nhà nước cộng sản được. V́ muốn có hợp đồng thực sự th́ ít ra cũng phải có tự do « thuận mua vừa bán ». Nói người dân cử đại diện của ḿnh soạn ra Hiến pháp để « thuê » Nhà nước quản lư xă hội là ví von cho vui. Dân không có quyền cử đại diện « của ḿnh » mà chỉ có quyền cử đại diện « của Đảng ». Và dù không muốn thuê th́ cũng bắt buộc phải « thuê » Nhà nước quản lư thôi. V́ Hiến pháp 1992 đă định rằng cơ chế của chế độ là « Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lư », người dân nào có thể đi ngược lại cơ chế này, nếu không muốn thuê Đảng ?