Triền vọng cải thiện t́nh trạng nhân quyền ở Việt Nam
Trần Thanh Hiệp-Nguyễn An
Việc Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam có tên trong sổ đen nhân quyền “CPC” cho thấy rằng nhân quyền là một vấn đề bức xúc và khó khăn của Hà Nội trên con đường Việt Nam hội nhập vào cộng đồng thế giới. Tại sao đă có nhiều cuộc thương lượng giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn mà mọi việc nay xem ra vẫn chưa ổn thỏa? Những khó khăn, nếu có, th́ chúng nằm ở đâu? Liệu có hy vọng ǵ cải thiện được t́nh trạng này trong tương lai không? Nguyễn An, biên tập viên của Đài Á Châu Tự Do cùng với Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về nhân quyền ở Paris, mạn đàm về vấn đề này trong một sê ri năm bài, đă được phát sóng trong các chương tŕnh phát thanh từ ngày 1-11 đến ngày 3-11-2005. Chủ đề bài thứ nhất là “Quá tŕnh h́nh thành, đột xuất và phát triển của nhân quyền”, bài thứ hai là “Hiện trạng nhân quyền ở Việt Nam”, bài thứ ba là “Quan điểm nhân quyền của nhà cầm quyền Hà Nội”, bài thứ tư là “Nhân quyền dưới ánh sáng luật quốc tế” và bài thứ năm là “Triển vọng cải thiện t́nh trạng nhân quyền ở Việt Nam”. Dưới đây năm bài này sẽ được thu lại thành một bài sau khi đă lược bỏ phần giới thiệu của xướng ngôn viên của Đài ACTD
1. Quá tŕnh h́nh thành, đột xuất và phát triển của nhân quyền
Câu hỏi đầu tiên đựơc Nguyễn An đặt ra với luật sư Trần Thanh Hiệp là ông có ngạc nhiên không khi thấy trong cuộc điều trần ngày 26-10-2005 vừa qua tại quốc hội Hoa Kỳ, các diễn giả đều khuyến cáo nên giữ tên VN trong danh sách “CPC” mặc dầu trước đó hai phía Mỹ và Việt Nam đă có nhiều cuộc thương lượng về vấn đề nhân quyền?
T.T.H.: Tôi không ngạc nhiên, khi tôi hiểu rằng thương lượng ở đây chỉ là t́m được thỏa thuận giữa hai phía về mức độ thỏa măn các yêu sách của phía Mỹ liên quan đến nhân quyền ở Việt Nam. V́ nhân quyền ở Việt Nam không phải là một vấn đề thuần túy Mỹ, tuy rằng vấn đề nhân quyền này có những ảnh hưởng nhất định và quyết định trong bang giao Việt-Mỹ . Cho đến bây giờ, hai bên vẫn giữ kín nội dung của các cuộc thương lượng, không ai biết thật rơ nội dung của cuộc thương lượng này là ǵ và sự tiến triển của nó ra sao. Nhưng ta có thể phỏng đóan rằng Việt Nam có thể đă hứa chấm dứt chính sách đàn áp tôn giáo và, rộng hơn nữa, chịu thi hành nghiêm chỉnh những nghĩa vụ pháp lư về nhân quyền mà Việt Nam đă cam kết. Có lẽ Việt Nam chưa thực hiện lời hứa này đến mức cần có.
R.F.A.: Giả dụ trong những ngày sắp tới, Hà Nội chịu nhượng bộ phía Mỹ th́ liệu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam có thể coi như đă được giải quyết thỏa đáng rồi hay không?
T.T.H.: Theo tôi, câu trả lời chắc chắn phải là không. Như tôi vừa nói, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam không phải là một vấn đề hoàn ṭan Mỹ. Nhà cầm quyền Hà Nội không thể chỉ t́m giải pháp cho vấn đề này với phía Mỹ mà phải t́m với nhân dân Viêt Nam. Người dân Việt Nam mới là những chủ thể mà nhà cầm quyền Hà Nội phải thỏa măn, trên cơ sở Việt Nam chứ không phải theo tiêu chuẩn Mỹ.
R.F.A.: Đó chính là điều mà nhà cầm quyền Hà Nội luôn luôn nại ra để tự bào chữa trước những lời chỉ trích Hà Nội vi phạm nhân quyền.
T.T.H.: Hà Nội liên tục và nhất quán theo đuổi chính sách dùng bạo lực và pháp luật cưỡng đoạt hết mọi nhân quyền long trọng hứa hẹn với nhân dân, bất chấp luật quốc tế đă minh thị công nhận cho bất cứ ai, dù ở đâu, cũng có và được có những nhân quyền này. Tôi cho rằng Hà Nội nay đang bị dồn vào thế không thể quay ngược bánh xe lịch sử được nữa, phải chấp nhận tuân theo quy phạm nhân quyền phổ quát, mà Hà Nội vẫn khăng khăng gạt bỏ, nại cớ nguồn gốc phương Tây của nó.
R.F.A: Luật sư vừa nói đến nhân quyền phổ quát. Xin hỏi ông, nhân quyền phổ quát là ǵ?
T.T.H.: Bàn về khái niệm nhân quyền phổ quát, muốn cho đầy đủ, th́ phải bàn về nhiều mặt. Ở đây tôi xin phép chỉ bàn về vài điểm chính thôi. Tôi muốn nhấn mạnh rằng tuy đă có nhiều người đưa ra nhiều định nghĩa nhưng hiện nay không có, hay chưa có, một định nghĩa ngắn gọn và thật đầy đủ về nhân quyền nói chung. Điều này không có nghĩa là nhân quyền không thể định nghĩa được. Mà là nhân quyền có nhiều mặt nên khó tóm gọn lại trong một định nghĩa thật tổng quát. Hơn nữa v́ nhân quyền không ngừng phát triển trong quá tŕnh biến đổi của nó nên cũng khó mà t́m ra được một định nghĩa ổn định. Tuy nhiên, ở giai đoạn phát triển sau cùng của nó, tôi tạm gọi là giai đoạn nhân quyền phổ quát,
Có thể tạm định nghĩa nhân quyền là “những quyền (droits, rights) và khả năng tự do tùy ư làm hay không làm (faculté, faculty) mà bất cứ con người nào, nam hay nữ, sang hay hèn, bất luận ở đâu, cũng được công nhận là có và được luật quốc tế và luật quốc gia bảo đảm, để hành sử giữa đồng loại với nhau và nhất là đối với Nhà nước”. Quyền và khả năng tự do làn hay không làm này họp lai thành nhân quyền và là phẩm giá của con người, làm cho nó khac với cỏ cây và súc vật. Đó là loại nhân quyền phổ quát được dự liệu trong các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam xă hội chủ nghĩa đă kư kết tham gia từ năm 1982.
R.F.A: Hồi năy ông có nói là để đạt được mức phổ quát này, nhân quyền đă có một quá tŕnh biến đổi lâu dài? Quá tŕnh ấy diễn ra thế nào?
T.T.H.: Có những nhà nghiên cứu đă nói rằng nhân quyền đă nẩy mầm từ những năm 3200 trước Công nguyên, tức là cách đây hơn 5000 năm. Ta có thể coi đó như là thời tiền sử của nhân quyền. C̣n thời minh sử của nhân quyền ở phương Đông bắt nguồn tử thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên, ờ phương Tây, từ cuối thế kỷ thứ IV. Tiếp theo là thời kỳ h́nh thành khi ẩn khi hiện, kéo dài suốt hàng ngàn năm để đột xuất vào cuối thế kỷ thứ XVIII thông qua hai cuộc cách mạng tư sản dân quyền Mỹ và Pháp. Sau sự đột xuất này là thời kỳ tăng tiến và ổn định, đánh dấu bằng sự ra đời của Tuyên ngôn thế giới nhân quyền 1948, hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, kinh tế, xă hội và văn hóa 1962. Đó là thời kỳ định h́nh của nhân quyền và trải qua ba đời kể từ khi nó đột xuất đến nay, nhân quyền đă đạt tới quy mô phổ quát để thực sự là thuộc tính của loài người. V́ phổ quát nên nhân quyền phải tương thuộc (interdépendant, interdependent), bất khả phân (indivisible indivisible). Những năm 2000, nói chuyện nhân quyền là phải nói tới cả ba thuộc tính phổ quát, tương thuộc và bất khả phân.
R.F.A: C̣n nhân quyền ở Việt Nam th́ sao?
T.T.H.: Ở Việt Nam, thời tiền kỳ sử của nhân quyền dài hơn thời kỳ minh sử. Ở Việt Nam nhân quyền đă không đột xuất một cách ngoạn mục như ở phương Tây. Nhưng vẫn có thể khẳng định, mà không sợ bị chỉ trích là sai lầm, rằng dưới các triều đại nhà Lư, nhà Trần, nhà Lê, và nhất là qua định chế xă thôn tự trị, các loại quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xă hội, văn hóa của luật quốc tế hiện hành đều đă hiện hữu ở Việt Nam thời xưa, dĩ nhiên chỉ mới ở h́nh thức phôi thai mà thôi. Vấn đề cần đặt ra là t́m hiểu xem v́ sao mà t́nh trạng nhân quyền ở Việt Nam hiện nay lại trở thành mối quan tâm đặc biệt của dư luận thế giới?
R.F.A: Xin cảm ơn Luật sư Trần Thanh Hiệp và xin đựơc dành vấn đề ấy cho buổi thảo luận kế tiếp.
2. Nhận diện vấn đề nhân quyền ở Việt Nam
R.F.A.: Thưa luật sư Trần Thanh Hiệp, kỳ trứơc chúng ta đă hẹn là lần này sẽ bàn chuyện tại sao Việt nam t́nh h́nh nhân quyền tại Việt nam lại trở thành mối quan tâm đặc biệt của thế giới. Câu hỏi đầu tiên xin đựơc đặt ra với ông là, tại sao nhân quyền Việt Nam không phải là chuyện nội bộ của Việt Nam như chính phủ Hà nội thường tuyên bố?
T.T.H.: Tại v́ trong công ứơc về nhân quyền mà Việt Nam đă kư vào năm 1982, có quy định là bất cứ nứơc nào cũng có thể đặt vấn đề về t́nh h́nh nhân quyền tại nứơc khác.
R.F.A: Vậy th́ phải chăng nhân quyền ở Việt Nam đă thành một vấn đề nổi cộm trước dư luận tại v́ chính phủ Bush tháng 9 năm 2004 đă ghi tên CHXHCNVN vào sổ đen nhân quyền CPC hay không?
T.T.H.: Theo tôi, nói như vậy không đúng hẳn sự thật, là lấy kết quả làm nguyên nhân. Phải nói rằng nhân quyền ở một số nước trên thế giới và đặc biệt ở Việt Nam bị xâm phạm nghiêm trọng nên Mỹ mới ghi tên số nước này vào danh sách gọi là những quốc gia đáng quan tâm về mặt nhân quyền, những quốc gia gọi tắt bằng tiếng Anh là CPC. Từ năm ngoái Việt Nam xă hội chủ nghĩa là một trong mấy nước CPC trên thế giới. Như vậy, trước khi Việt Nam xă hội chủ nghĩa bị ghi tên, nhân quyền ở Việt Nam đă có vấn đề rồi và t́nh trạng có vấn đề là nguyên nhân mà việc bị ghi tên chỉ là kết quả trực tiếp của nguyên nhân này mà thôi
R.F.A.: Nếu như thế th́ sự xúc động của dư luận Mỹ chỉ giới hạn ở trong phạm vi tự do tôn giáo, chứ đâu phải v́ nhân quyền ở Việt Nam. Hiện giờ giữa Mỹ và Việt Nam xă hội chủ nghĩa đang có thương lượng về vụ CPC này. Nếu hai bên đi tới được thỏa thuận th́ tên của CHXHCNVN sẽ không c̣n trong danh sach CPC nữa, liệu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam c̣n nữa hay không?
T.T.H.: Việt Nam xă hội chủ nghĩa bị dính líu vào vụ CPC đúng là do việc chính phủ Bush áp dụng đạo luật 1998 của Mỹ về Tự do tôn giáo. chứ không phải về nhân quyền. Nhưng không phải v́ thế mà có thể kết luận rằng trong vụ này chế độ Hà Nội không có vấn đề nhân quyền mà chỉ có vấn đề tự do tôn giáo. Có ba lư do để nói, hay muốn khẳng định cũng được, rằng chế độ Hà Nội bị ghi vào danh sách CPC là bị ghi tên vào sổ đen về nhân quyền.
R.F.A: Đây là một vấn đề hay, xin ông phân tích từng điểm một.
T.T.H.: Thứ nhất, tự do tôn gíao là một nhân quyền như nhiều nhân quyền khác. Luật quốc tế đă định như vậy và Hiến pháp đương hành của Việt Nam xă hội chủ nghĩa cũng coi tự do tôn giáo là một nhân quyền, bằng chứng là điều 70 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nằm ở trong Chương V là chương nói về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Thứ hai, muốn tôn trọng quyền tự do tôn giáo th́ phải tôn trọng nhiều nhân quyền khác nữa, như tự do tư tưởng, tự do đi lại, tự do hội họp, tự do học tập v.v...Ngược lại xâm phạm tự do tôn giáo là đồng thời cũng xâm phạm nhiều quyền tự do khác nữav.v...Thứ ba, đạo luật 1998 về Tự do tôn giáo buộc rằng Bộ ngoại giao Mỹ phải theo dơi t́nh h́nh tự do tôn giáo ở các nước CPC để hàng năm báo cáo cho Quốc hội Mỹ biết. Do đó, như chúng ta đă thấy, để tŕnh bày rằng có hay không có xâm phạm tự do tôn giáo và nếu có th́ sự xâm phạm ấy đă diễn ra như thế nào, từ gốc đến ngọn, bản báo cáo hàng năm của Bộ ngoại giao Mỹ không thể không đề cập tới nhân quyền nói chung. V́ vậy sổ đen CPC, tuy trên danh nghĩa là sổ đen về tự do tôn giáo nhưng trên thực tế th́ là sổ đen về nhân quyền
R.F.A.: Vậy nếu Quốc hội Mỹ ra ngay một đạo luật về nhân quyền th́ có danh chính ngôn thuận hơn không?
T.T.H.: Đó là loại lấn cấn không thể tránh được v́ quan hệ ngoại giao giữa các nước rất phức tạp. Một mặt, quan hệ này, cho đến nay, vẫn phải xây dựng trên cơ sở các nước phải tôn trọng chủ quyền quốc gia của nhau. Và luật quốc tế, nói chung, là luật liên quốc gia, nghĩa là luật trong đó quốc gia chứ không phải cá nhân là chủ thể. Nhưng mặt khác, riêng luật quốc tế về nhân quyền th́ lại là luật xuyên quốc gia, nghĩa là luật có thể áp dụng xuyên qua biên cương cho cả Nhà nước lẫn cá nhân người dân. Đặc tính xuyên quốc gia này đă thể hiện rất rơ trong Hiệp định thư số 1 phụ đính Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền dân sự và chính trị mà Hà Nội năm 1982 đă kư kết tham gia. Theo Hiệp định thư này th́ các quốc gia thành viên của Công ước được quyền chất vấn nhau về việc tôn trọng những nhân quyền, dân quyền đă được liệt kê trong Công ước. Tuy nhiên luật quốc tế vẫn c̣n là luật sơ lập của thời xưa, nên mặt liên quốc gia vẫn chiếm ưu thế. Luật 1998 về Tự do tôn giáo không phải là luật chi phối quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam mà là một đạo luật liên quan đến đường lối ngọai giao của nước Mỹ, trong một số trường hợp, việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo có vai tṛ quyết định. Nếu Luật 1998 mà là một đạo luật về nhân quyền th́ e rằng khi đem ra áp dụng sẽ gây ra những rắc rối ở khâu chủ quyền quốc gia, Mỹ sẽ bị chỉ trích là can thiệp vào nội bộ của một nước khác.
R.F.A.: Trong cuốn Sách trắng về nhân quyền, Hà Nội có nêu lên rằng nhân quyền không thể là lư do để xâm phạm chủ quyền quốc gia. Theo Luật sư, liệu phía Mỹ có gặp khó khăn ǵ hay không, nếu Mỹ muốn tiếp tục đi xa hơn nữa trong việc áp dụng Luật 1998 đối với Việt Nam?
T.T.H.: Theo tôi, Mỹ sẽ không bị khó khăn mà chính Hà Nội mới bị khó khăn v́ Hà Nội đă đặt sai vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Hà Nội sẽ khó có thể mạnh miệng chỉ trích Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, sự thật th́ Hà Nội trong cuốn Sách trắng Hà Nội cũng chỉ nói bóng nói gió thôi. Thật ra Hà Nội thừa biết rằng chẳng cứ chính quyền Bush, Liên Hiệp châu Âu cũng như nhiều tổ chức phi chính phủ tranh đấu cho nhân quyền đều đă lên tiếng chất vấn Hà Nội về những hành vi bị coi là xâm phạm thường trực và có hệ thống nhân quyền ở Việt Nam. Theo luật quốc tế về nhân quyền, mỗi con người cũng như cả nhân dân Việt Nam là chủ thể của các nhân quyền trên mảnh đất này. Tôi tự hỏi tại sao Hà Nội lại lẩn tránh dân ḿnh để chỉ thương thuyết và kư kết thỏa ước tay đôi với Mỹ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam? Phải chăng Hà Nội không muốn trực tiếp giải quyết vấn đề này với nhân dân Việt Nam? Hà Nội chỉ muốn dùng vấn đề nhân quyền để đổi chác với Mỹ, nhất thời chịu nhượng bộ một vài điều với Mỹ, đổi lấy thí dụ được Mỹ ủng hộ đơn xin gia nhập Tổ chức Mậu dịch quốc tế chẳng hạn. Như vậy, Hà Nội bắt dân Việt Nam trả giá để Hà Nội làm giá với Mỹ. Với cách giải quyết sai lầm này, chắc chắn rằng Hà Nội sẽ chẳng bao giờ cải thiện được t́nh trạng phi nhân quyền ở Việt Nam. Tốt hơn hết là Hà Nội phải sớm đặt lại cho đúng vấn đề nhân quyền để thanh toán nó cùng với nhân dân Việt Nam, chứ không phải với nước Mỹ. Và như vậy Hà Nội sẽ đồng thời chấm dứt luôn mọi rắc rối với Luật 1998 của Mỹ.
R.F.A.: Luật sư có nghĩ rằng Hà Nội sẵn sàng đặt lại vấn đề như luật sư nói không?
T.T.H.: Nếu dựa vào cuốn Sách trắng mà nói th́ tôi cho rằng Hà Nội rơ ràng chỉ muốn kiên tŕ trong đường lối đảng trị phi nhân quyền. Nhưng nh́n dưới góc độ thực tế th́ ta có thể dự đoán rằng sớm muộn ǵ th́ Hà Nội cũng phải trả lại nhân quyền, dân quyền cho nhân dân thôi. Nếu tất yếu phải vậy, tại sao không sớm mà cứ phải là muộn?
R.F.A.: Xin cảm ơn Luật sư Hiệp
3. Quan điểm của Hà Nội về nhân quyền
R.F.A.: Luật sư có nêu lên rằng chỉ muốn t́m cách giải quyết tay đôi vấn đề nhân quyền ở Việt Nam với nước Mỹ, nhà cầm quyền Hà Nội đă đặt sai vấn đề. Theo Luật sư, nếu đúng như vậy, th́ đó là một sự sai lầm cố ư hay vô t́nh ?
T.T.H.: Nói vô t́nh là hàm ư chỉ có những lầm lẫn vật chất về chi tiết mà thôi, c̣n về đại thể th́ đúng. Nhưng đây không phải là trường hợp của Hà Nội. Thật vậy, Hà Nội có một đường lối cai trị rơ rệt về nhân quyền, không hề thay đổi, từ hơn nửa thế kỷ nay. Đó là đường lối đảng trị độc tôn phi nhân quyền. Đường lối này đă đẻ ra nhiều chính sách và chính sách nào cũng hoàn toàn phù hợp với cái gốc cộng sản cố hữu c̣n gọi là xă hội chủ nghĩa. Vậy nếu có sai lầm th́ phải là sai lầm về đường lối. Trong chừng mực đó, sự sai lầm về đường lối cai trị về nhân quyền hiện nay của Hà Nội, khách quan mà xét, là sự sai lầm cố ư. V́ nhà cầm quyền Hà Nội, trước sau như một, tri t́nh không chịu thay đổi đường lối đảng trị độc tôn phản dân chủ của ḿnh. Bằng chứng là hiện giờ Hà Nội chỉ t́m cách sắp xếp với Mỹ để thích ứng đường lối cai trị sai lầm này với nền bang giao Hà Nội-Hoa Thịnh Đốn, chứ không phải để trả lại nhân quyền dân quyền cho nhân dân Việt Nam. Như vậy, theo tôi, Hà Nội đă cố ư chứ không phải vô t́nh đặt sai vấn đề nhân quyền.
R.F.A.: Theo luật sư th́ Hà Nội có đường lối cai trị phi nhân quyền. Luật sư có thể nói rơ tại sao một chính quyền đă gia nhập các Công ước quốc tế vè nhân quyền lại có thể có được một đường lối cai trị phi nhân quyền? Và thế nào là phi nhân quyền?
T.T.H.: Tôi xin trả lời rất sơ lược thôi v́ không thể nói hết trong khuôn khiổ cuộc trao đổi chật hẹp này. Câu trả lời của tôi sẽ có hai mặt, mặt thực tế và mặt lư thuyết. Về mặt thực tế th́ tôi cho rằng không cần phải nghe ai giải thích, người dân ở trong nước cũng tự cảm thấy một cách cụ thể rằng ḿnh chẳng có quyền ǵ cả. Việc cai trị đất nước th́ Đảng và Nhà nước quyết định hết. Đảng và Nhà nước muốn làm ǵ th́ làm. Về bản thân mỗi người dân, th́ điều ǵ cũng phải xin th́ mới được cho, từ việc nhỏ tới việc lớn. Đă vậy lại c̣n phải lo lót hối lộ. Mà đâu có phải xin diều ǵ cũng được cả đâu. Người dân chỉ cảm thấy mà không hiểu được tại sao ḿnh lại không có bất cứ một quyền ǵ. Và phải làm thế nào để thay đổi t́nh trạng phi nhân quyền này. Do đó, cần phải vạch ra cho rơ mặt lư thuyết của vấn đề nhân quyền, gồm có quyền của mỗi con người và quyền của tất cả mọi người trong nước. Người dân phải hiểu được rằng ḿnh đương nhiên có những quyền không phải xin ai cho mà vẫn có, những quyền được luật quốc tế công nhận, những quyền Nhà nước phải tôn trọng không điều kiện. Nếu những người cai trị không tôn trọng th́ dân có quyền chọn người khác. Đảng cộng sản suốt cả hơn nửa thế kỷ nay đă áp đặt đường lối đạng trị độc tôn, để đương nhiên có độc quyền lănh đạo. Đảng này tự cho ḿnh quyền muốn hay không muốn, ngay tức khắc hay trong tương lai, ban phát quyền nào cho dân th́ cứ tự ư làm. Ai chống lại th́ bị trừng trị theo pháp luật của Đảng. Đó là một đường lối cai trị nói là tôn trọng nhân quyền nhưng thực chất là phi nhân quyền.
R.F.A.: Nhưng đó là đường lối của thời xưa, thời chiến tranh lạnh, thế giới chia làm hai phe rơ rệt. Bây giờ thời thế đă đổi khác, Việt Nam cũng đă đổi khác th́ tất đường lối cũ cũng không c̣n nữa chứ?
T.T.H.: Đổi khác là đổi h́nh thức tŕnh bày đầy nhân quyền để che dấu nội dung phi nhân quyền. Đây không phải là chuyện thời xưa mà là chuyện thời bây giờ, vào giữa năm 2005, lúc Hà Nội công bố cuốn Sách trắng về nhân quyền. Dịp này, Hà Nội đă dùng những thủ thuật mới để cố t́nh tạo ra ấn tượng ở Việt nam những năm 2000 đă có sự đổi mới trong đường lối cai trị phi nhân quyền. Thủ thuật này có thể tóm lược như sau: Trên văn bản, mạnh miệng nói thật nhiều điều lư tưởng để không làm ǵ cả. Không những vậy, Hà Nội lại c̣n làm ngược hẳn lại những điều ḿnh nói. Thí dụ trong Sách trắng của Hà Nội người ta đọc thấy những đoạn như “Nhà nước Việt Nam (...) làm hết sức ḿnh để bảo đảm và thực hiện quyền con người trên thực tế, thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi các biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế, văn hoá, xă hội, để mọi người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần; xây dựng một xă hội công bằng, dân chủ, văn minh” hay như “Xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền con người, Nhà nước Việt Nam đă và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất”. Thực tế đất nước cho thấy rằng chính quyền xă hội chủ nghĩa chẳng bao giờ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm và thực hiện nhân quyền cho dân. Trái lại, chính quyền này đă làm ra đủ loại luật để bố trí tước đoạt có hệ thống và thường trực mọi quyền dân sự và chính trị của dân, thậm chí lại c̣n thẳng tay đàn áp những ai dám lên tiếng đ̣i những quyền đó.
R.F.A.: Chính quyền nào mà chẳng nói tốt về ḿnh
T.T.H.: Nhưng cũng vừa phải thôi, chứ không thể tự đề cao quá mức. Nếu cuộc sống của người Việt Nam hiện nay ở trong nước mà đúng như lời quảng cáo này th́ tại sao chế độ của Hà Nội về mọi mặt chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xă hội đều chỉ được xếp vào hạng mấy chục nước đèn đỏ và về mặt nhân quyền th́ bị ghi tên vào sổ đen. Thật ra, Hà Nội một mặt đồng hóa quyền con người với quyền công dân, mặt khác, ḥa tan quyền riêng của mỗi con người cá thể vào trong một quyền chung của tập thể. Một cách đặt con người dưới sự giám hộ của Nhà nuớc, lấy nghĩa vụ của công dân thay vào quyền của con người. Để che đậy thủ thuật sang đoạt nhân quyền này, Sách trắng đă đưa ra luận điểm ngụy biện loanh quanh theo đó “các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xă hội”.
R.F.A.: Có phải ư Luật sư muốn nói rằng quan điểm về nhân quyền của Hà Nội trước sau như một vẫn chỉ là một quan điểm phi nhân quyền? Vậy làm thế nào để cải thiện hiện trạng nhân quyền ở Việt Nam?
T.T.H.: Hà Nội hiện đă có trong tay hai điều kiện để cải thiện nhân quyền ở Việt Nam. Đó là lời cam kết với quốc dân từ 20 năm nay về “đổi mới” và những quy phạm của các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Hà Nội đă kư kết tham gia từ 1982. Nếu Hà Nội thật ḷng muốn thay đổi th́ không có khó khăn ǵ cả.
R.F.A.: Xin cám ơn Luật sư Hiệp
4. Nhân quyền dưới ánh sáng luật quốc tế
R.F.A.: Có những luồng dư luận cho rằng nhân quyền theo luật quốc tế là sản phẩm của phương Tây nên không hẳn thích hợp để áp dụng cho xă hội phương Đông nói chung và cho Việt Nam xă hội chủ nghĩa nói riêng. Luật sư nghĩ sao về ư kiến này ?
T.T.H.: Ư kiến này vừa có những mặt đúng nhưng đồng thời lại rất sai về nhiều mặt khác. Đúng, ở điểm khái niệm nhân quyền hiện nay, cũng như quy chế pháp lư của nó, quả thật đă h́nh thành và đột xuất ở phương Tây trong khi ở phương Đông nó vẫn c̣n khi ẩn khi hiện dưới dạng tư tưởng. Nhưng nại ra mặt phương Tây này của nhân quyền để kiếm cớ lẩn tránh không áp dụng cho Viêt Nam luật quốc tế về nhân quyền là chống đối một cách đương nhiên không lư ǵ đến sự thật. Trước hết, khi năm 1982 kư kết gia nhập không có bảo lưu nào vào hai Công ước quốc tế năm 1966 về nhân quyền, Hà Nội đă tự nguyện chấp nhận không dè dặt luật quốc tế ấy. Mặt khác, hai văn bản này không phải là sản phẩm riêng của phương Tây, chúng đă được khai sinh trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc một cơ cấu chung của cả phương Tây lẫn phương Đông. Và do đó chúng là một hệ thống quy phạm phổ quát về nhân quyền của cả nhân loại, chứ không phải của riêng phương Tây. Ngoài ra Hà Nội đă từng là thành viên của những cơ quan quốc tế áp dụng hai Công ước nói trên. Hơn nữa, nếu hai Công ước gọi là của phương Tây này thật sự không thể chấp nhận được th́ Hà Nội có thể chấm dứt bất cứ lúc nào sự tham gia của ḿnh nếu muốn. Nhưng Hà Nội vẫn liên tục duy tŕ sự tham gia ấy từ 1982 đến nay. Và danh xưng chính thức Hà Nội đă dùng để gọi tên Tuyên ngôn thế giới và hai Công ước về nhân quyền là Bộ luật quốc tế về nhân quyền. Vậy làm ǵ c̣n chuyện phương Tây nữa.
R.F.A.: Luật quốc tế có một phạm vi rất rộng lớn. Luật sư có thể cho biết một cách chính xác nhân quyền đă dựa vào những bản văn nào của luật quốc tế để được áp dụng ?
T.T.H.: Tư liệu về luật quốc tế th́ đương nhiên là rất nhiều và rất phức tạp rồi. Riêng về nhân quyền, theo tài liệu thống kê thu thập năm 2002 th́ có tới trên 50 văn kiện luật quốc tế trực tiếp liên quan. Nhưng ở đây, chúng ta chi cần bàn sơ qua về 5 văn kiện cốt lơi thôi. Đó là Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xă hội và văn hóa, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và hai Hiệp định thư I và II phụ đính công ước này. Cả 5 văn kiện nói trên đă được gộp lại dưới một tên gọi chung, tiếng Anh là The International Bill od Human Rights, tiếng Pháp là La Charte internationale des droits de l’homme, và Hà Nội dịch ra tiếng Việt là Bộ luật quốc tế về Nhân quyền. Cần nói thêm rằng Bộ luật này đă bắt nguồn từ bản Hiến chương Cựu Kim Sơn 1945 của Liên Hiệp Quốc, một văn bản có thể nói đă đánh dấu một mối quan tâm, một ư thức mới về nhân quyền, mở đường cho một giai đoạn phát triển rất quan trọng trong mấy ngh́n năm lịch sử nhân quyền. Do sự thúc đẩy của Hiến chương Cựu Kim Sơn mà Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền năm 1948 đă ra chào đời và làm nền tảng dựng nên hai Công ước qưốc tế 1966 cùng với hai Hiệp định thư về nhân quyền.
R.F.A.: Đă có bản Tuyên ngôn thế giới 1948 về nhân quyền rồi tại sao lại c̣n phải có thêm hai Công ước 1966 nữa ?
T.T.H.: Thật ra, Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền 1948 không phải là một văn bản pháp lư, nghĩa là một văn bản có hiệu lực cưỡng hành buộc phải tuân theo nếu không tuân theo sẽ phải chịu chế tài. Nhưng trên thực tế, văn bản này có một uy quyền tinh thần rất lớn, v́ nó được cả thế giới tôn xưng như là một giá trị tiêu biểu cho văn minh tiến bộ của nhân loại v́ tính chất ḥa b́nh, chống áp bức, chống nghèo đói của nó. Rất nhiều Hiến pháp của nhiều nước đă quy chiếu vào Tuyên ngôn 1948 dù rằng nó không có hiệu lực cưỡng hành. Với tuổi đời gần 60 năm, ngày nay Tuyên ngôn 1948, một mặt được kính nể như một « Hiến chương của lư tưởng », mặt khác c̣n được xếp vào loại luật tục lệ quốc tế. Cho nên Liên Hiệp Quốc đă chính thức lấy Tuyên ngôn 1948 làm một trong năm thành tố của « Bộ luật quốc tế về nhân quyền ». Nhưng để nhân quyền có được sự bảo vệ của luật pháp, Liên Hiệp Quốc đă phải luật hóa tất cả các nhân quyền được công bố trong Tuyên ngôn 1948, chuyển tả nội dung Tuyên ngôn này thành hai Công ước quốc tế 1966, để buộc các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền của người dân v́ các quốc gia này có nghĩa vụ pháp lư phải thi hành các quy phạm mà hai Công ước 1966 đă đặt ra. Đó là lư do v́ sao đă có Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền 1948 mà lại c̣n có thêm hai Công ước quốc tế về nhân quyền 1966.
R.F.A.: Vậy theo luật sư, ta phải hiểu ư nghĩa đích thực của Bộ luật quốc tế về nhân quyền này như thế nào để có thể đi vào ḍng chính của nhân quyền ?
T.T.H.: Nói cho tạm đủ cũng không hết được các mặt của vấn đề ư nghĩa của Bộ luật quốc tế về nhân quyền. V́ Bộ luật này đă mang trong nó nhiều sự đảo lộn mang tính cách mạng về triết học, về luật học, về chính trị v.v...không ai ngờ. Tôi chỉ xin kể ra ba nét nổi bật nhất. Thứ nhất, khi một số nước thành viên Liên Hiệp Quốc, năm 1966, lấy sáng kiến đưa nhân quyền vào luật quốc tế, th́ những nước này đă thay đổi hẳn, trong một phạm vi nhất định, bản chất của công pháp quốc tế, một ngành của luật quôc tế. Thật vậy, cho tới năm 1976 là năm hai Công ước 1966 bắt đầu có hiệu lực, quốc tế công pháp chỉ là luật liên quốc gia, bị chia cắt thành nhiều mảnh cách biệt nhau, mà chủ thể là Nhà nước. Nhưng sự ra đời của hai Công ước này đă biến luật ấy thành luật xuyên quốc gia, tức là luật không c̣n bị các biên giới quốc gia ngăn cách nữa và có chủ thể mới, là cá nhân con người chứ không c̣n là tập thể Nhà nước như trước. Nói cách khác, nhân loại, trong địa hạt nhân quyền, đă sáng chế ra một loại quốc tế công pháp hoàn toàn mới riêng về nhân quyền. Thứ nh́, hai Công ước 1966 đồng thời cũng thay đổi hẳn quan hệ giữa Nhà nước với người dân khi buộc Nhà nước phải quay lại tôn trọng một số quyền cơ bản không thể toàn quyền phế bỏ bất cứ v́ lư do ǵ của người dân như trước nữa. Thứ ba, và đây là điều rất quan trọng, nhất là từ đầu thập niên 1990, sau khi hệ thống chính quyền độc tài toàn trị xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ sụp đổ, hai Công ước 1966 đă gắn liền nhân quyền với dân chủ để luật hóa tư tưởng dân chủ trên quy mô toàn cầu. Nói tóm lại, Bộ luật quốc tế về nhân quyền là sự thể hiện của mức độ văn minh mới của nhân loại và do đó là thước đo văn minh để phân biệt dân chủ đích thực và dân chủ giả mạo.
R.F.A.: Xin cảm ơn Luật sư Hiệp
5. Việc cải thiện hiện trạng nhân quyền ở Việt Nam
R.F.A.: Sau khi đă duyệt xét về nhiều mặt, quốc nội cũng như quốc tế, của vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, luật sư thấy Việt Nam có những triển vọng nào để sớm ra khỏi t́nh trạng bế tắc về nhân quyền hiện nay?
T.T.H.: Nếu bi quan th́ phải kết luận rằng chưa thấy có ánh sáng cuối đường hầm của chính sách đàn áp nhân quyền ở Việt Nam hiện nay. Ngược lại, nếu lạc quan th́ lại thấy có nhiều triển vọng khơi thông t́nh trạng bế tắc này. Nhưng theo tôi vấn đề không phải là nên bi quan hay nên lạc quan mà là t́m cho được một số cơ sở chắc chắn để thử dự đoán hướng diễn tiến tất yếu của một thực trạng nhân quyền trong đó nhiều tác nhân tác động theo những hướng khác nhau. Mà tác động không theo cùng một chiều hướng th́ t́nh trạng bế tắc hiện nay ít hy vọng sớm ngă ngũ, trừ phi có chuyển biến một tác nhân nào đó bỗng nhiên có vai tṛ quyết định vượt trội.
R.F.A.: Xin Luật sư nói rơ hơn. Theo Luật sư, tác nhân nào sẽ có vai tṛ quyết định và như thế nào là quyết định?
T.T.H.: Có ba tác nhân chính hiện đang tác động trong lănh vực nhân quyền ở Việt Nam. Đó là thứ nhất, nhà cầm quyền Hà Nội, thứ hai, quốc tế gồm có Hoa Kỳ, chính quyền Bush và quốc hội, Liên Hiệp châu Âu, các tổ chức phi chính phủ tranh đấu cho nhân quyền v.v... và, thứ ba, nhân dân Việt Nam thông qua hai bộ phận ở trong nước và ở ngoài nước. Hiện giờ th́ nhà cầm quyền Hà Nội với đường lối cai trị phi nhân quyền đang giữ vai tṛ quyết định. Một mặt, nhà cầm quyền Hà Nội thương lượng với Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Mặt khác nhà cầm quyền Hà Nội vẫn đàn áp quyết liệt mọi hoạt động của dân chúng ở trong nước đ̣i nhân quyền. Về phía Hoa Kỳ, tuy không tán thành đường lối cai trị này của Hà Nội và cũng đă biểu lộ thái độ không tán thành bằng hành động cụ thể, thí dụ như ghi tên Việt Nam xă hội chủ nghĩa vào sổ đen nhân quyền, nhưng vẫn c̣n đang ở trong ṿng thương lượng với Hà Nội. Những người ở ngoài cuộc không ai biết nội dung cũng như diễn của cuộc thương lượng này ra sao, chỉ thấy rằng Hà Nội vẫn giữ được thế chủ động. Trong khi đó, bộ phận nhân dân Việt Nam ở trong nước hoàn ṭan bị động, bộ phận ở ngoài nước tuy có phần nào tích cực hơn nhưng chưa đến mức chuyển hóa được hiện trạng phi nhân quyền ở trong nước. Tức là chưa có yếu tố làm thay đổi nguyên trạng phi nhân quyền này. V́ thế, muốn cải thiện nó th́ phải có yếu tố quyết định vượt trội.
R.F.A.: Như thế nào là yếu tố quyết định vượt trội?
T.T.H.: Là phải có bước nhảy vọt, không nhất thiết ở một tác nhân nhất định nào trong ba tác nhân tôi đă kể ra ở trên.
R.F.A.: Thí dụ...?
T.T.H.: Ta có thể tạm đặt giả thuyết rằng nhà cầm quyền Hà Nội, v́ lư do nội bộ, bỗng thấy có nhu cầu phải chấm dứt đường lối cai trị phi nhân quyền và thật sự giải quyết nhu cầu thay đổi này bằng cách chịu hội nhập vào chính mạch nhân quyền phổ quát của luật quốc tế về nhân quyền. Như vậy là Hà Nội tự ḿnh tạo ra những chuyển động có khả năng cải thiện ngay tức khắc hiện trạng nhân quyền, bắt đầu bằng chấm dứt đàn áp để đi tới ban bố các quyền tự do dân sự và chính trị chio tới nay vẫn c̣n bị hạn chế hay đ́nh hoăn.
R.F.A.: Nếu giả thuyết này xảy ra th́ cụ thể sẽ có những thay đổi nào về mặt nhân quyền?
T.T.H.: Tùy ở Hà Nội thôi. Nếu muốn gây một xúc động tâm lư để ghi nhận sự thay đổi, nghĩa là cho mọi người tin rằng đă xảy ra điều rất được chờ đợi từ 20 năm nay là “đổi mới” thực sự, th́ Hà Nội có thể trả tự do trước thời hạn cho những người bị đàn áp v́ lư do nhân quyền như Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ B́nh, Phạm Hồng Sơn v.v..., giải tỏa cuộc bao vây dưới h́nh thức quản chế, cách ly các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Phật giáo Ḥa Hảo, Giáo hội Tin lành Mennonite. Tiếp theo sẽ phải có một loạt sửa đổi pháp luật để đưa các quy phạm của luật quốc tế về nhân quyền vào luật quốc nội Việt Nam, điều mà từ 1982 đến nay, Hà Nội chưa làm một cách thực tâm. Tôi tưởng nếu bây giờ mà Hà Nội ít ra làm đươc bấy nhiêu điều th́ cũng giúp tạo ra được một đà dân chủ hóa đất nước.
R.F.A.: Nhưng nếu giả thuyết của Luật sư không xảy ra th́ sao?
T.T.H.: Tôi lại phải đặt ra một giả thuyết khác nữa. Cứ theo lô gích của thực tế về nhân quyền ở Việt Nam hiện nay thi tất yếu Hoa Kỳ sẽ phải có bước leo thang đến mức đáng kể để gây áp lực. Và phía nhân dân Việt Nam người tq khôngthể tin rằng cả trong lẫn ngoài nước sẽ khoanh tay bất động. Cường độ tranh đấu nhân quyền do đó sẽ gia tăng, dù chưa ai có thể nói chắc sẽ gia tăng như thế nào, nhất là đă có không ít những chỉ dấu cho thấy dân chúng đă bị dồnvào thế tuyệt vọng, phải dùng đến cách tự thiêu để lấy cái chết mà bày tỏ nguyện vọng. Tôi nghĩ rằng nếu giả thuyết này xảy ra th́ đất nước bắt đầu đi vào một cuộc phiêu lưu mà nếu c̣n có thể tránh được th́ nhà cầm quyền Hà Nội nên tránh. Tôi tự hỏi tại sao Hà Nội không theo tiền lệ lịch sử của các nước xă hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu dứt khoát từ bỏ đường lối cai trị phi nhân quyền để ḥa b́nh hội nhập vào cộng đồng nhân loại dân chủ tự do mà cứ quyết liệt chống một diễn biến ḥa b́nh như vậy?
R.F.A.: Xin cảm ơn Luật sư Hiệp
[Xin được nhắc rằng, ư kiến của luật sư Trần Thanh Hiệp không nhất thiết phản ánh quan điểm của ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do]