Những Đề
Nghị cho Người Việt Nam
Đầu
Thế Kỷ 21: Đối Thoại
Ngô Văn
Tuấn
Sách
Lược Dung Hợp
Strategie van
het Junghopisme
4-2000
***
Với tinh
thần hoàn toàn khách quan và trung thực khi soạn thảo
những điểm đề nghị này tŕnh bày cùng quư
vị, tôi đă đúc kết
các tài liệu, dữ kiện và các phương tiện có được
của các tổ chức, đoàn thể và đảng phái
người Việt Nam ở hải ngoại, ở
quốc nội, của cộng sản và của quốc
tế để hy vọng được hoàn chỉnh sách
lược này.
Dĩ nhiên
những tài liệu, dữ kiện và phương tiện tôi
chỉ có trong hạn hẹp mà thôi, nên có thể không đủ
làm nền tảng cho sách lược. Có rất nhiều
quan niệm và lập trường khác nhau của nhiều
tổ chức, đoàn thể và đảng phái, v́ vậy
xin quư vị đóng góp ư kiến. Rất hoan nghênh những
ư kiến, phê b́nh nào có những nhận thức mới. Có
như vậy mới có dịp để sách lược được
hoàn chỉnh và tôi cũng được học hỏi
thêm.
Sách
lược gồm có Luận thuyết và 3 Giai đoạn
I, II, III. Mỗi Giai đoạn có các Phần: A cho
người Việt Nam ở hải ngoại, B cho tổ
chức quốc tế và C cho người Việt Nam
tại quốc nội.
Giai đoạn
I Phần A cho người Việt Nam ở hải
ngoại gồm có:
Điểm
1A.I: Hợp Đoàn.
Điểm
2A.I: Chủ Động
Điểm
3A.I: Chủ Đạo
Điểm
4A.I: Nguyên Tắc.
Điểm
5A.I: Nhân Quyền.
Điểm
6A.I: Đối Thoại.
Giai đoạn
II Phần A gồm có:
Điểm
7A.II: Chiết Trung.
Điểm
8A.II: Nối Kết.
Điểm
9A.II: Tựu Kế.
Trong khuôn
khổ những bài này, tôi viết có tính cách tổng quát mà
không đi sâu vào chi tiết.
Điểm 6A.I: Đối Thoại
Từ
nhiều năm qua sự đ̣i hỏi của chúng ta đối
với nhà nước cộng sản Việt Nam càng lúc càng
nhiều hơn. Chẳng hạn như kêu gọi: hăy
tức khắc trả tự do cho tất cả các tù nhân đang
bị giam giữ, hăy tức khắc hủy bỏ Nghị
định 31/Cp, hăy tức khắc hủy bỏ Điều
4 Hiến Pháp, hăy tức khắc cho tự do truyền thông,
thông tin, báo chí, ngôn luận, v.v… Những lời đ̣i
hỏi "tức khắc" này đối với
người Việt Nam ở hải ngoại th́ nghe có lư.
Nhưng đối với cộng sản Việt Nam th́
họ cho đó là lời phản động của kẻ
đă chạy ra nước ngoài!
Chúng ta và
cộng sản Việt Nam là hai kẻ đối đầu
nhau trên b́nh diện chính trị, văn hóa, tôn giáo, kinh
tế... Cả hai bên đều đă và đang từng
chửi bới, chỉ trích và ngay cả đả kích
lẫn nhau. Do đó giữa chúng ta và nhà nước
cộng sản Việt Nam, không có vấn đề
giải quyết một chiều, tức là chính quyền
cộng sản không giải quyết theo sự đ̣i
hỏi của chúng ta.
Trong năm
1998 có hơn 8000 người (1) và trong năm 2000 có 22.957
người cải tạo được cộng sản
Việt Nam phóng thích (2). Lẽ dĩ nhiên khi đứng
về phía người Việt Nam hải ngoại, chúng ta đă
cảm thấy thành công và cho đó là công lao đ̣i hỏi
của những người tranh đấu nhân quyền
cho Việt Nam. Nhưng sự thật đàng sau đó là
cộng sản Việt Nam muốn cho quốc tế, đặc
biệt là Mỹ và Liên Hiệp Âu Châu, có cái nh́n rộng răi
hơn về Việt Nam.
Chẳng
hạn như Liên Hiệp Âu châu đă đồng ư cho hàng
hóa, vật dụng, thủ công nghệ… của Việt Nam được
phép xuất cảng qua các nước Âu châu. Và Liên Hiệp
Âu Châu cũng đă giúp đỡ, viện trợ cho
cộng sản Việt Nam nhiều thứ về kỹ
nghệ, nông và thủy sản, các hệ thống như
bưu điện, thuế vụ, v.v… Liên Hiệp Âu châu đă
trở thành nhà tài trợ đứng hàng thứ ba tại
Việt Nam. Tính đến cuối năm 1999 đă tài
trợ tổng trị giá 2 tỉ 100 triệu đồng
Euro. (Đứng đầu là Nhật Bản 4 tỉ 960
triệu Euro, và Ngân Hàng Thế Giới được
xếp hạng nh́ với 2 tỉ 200 triệu Euro) (3).
Hoa Kơỳ
và chính quyền cộng sản Việt Nam đă đồng
ư kư bản Hiệp định Thương mại ngày
13-7-2000 tại Hoa Thịnh Đốn. Gồm có Bà Charlene
Barshefsky, Đại diện Pḥng Thương mại Hoa
Kỳ, và Bộ trưởng Thương mại Việt
Nam Vũ Khoan đă đại diện kư kết giữa hai
nước qua 7 lần đàm phán trong 4 năm qua (4).
Sự kư kết giữa hai nước đă mở ra
một sinh khí mới cho nhân dân Việt Nam. Từ đây các
nhà đầu tư Mỹ và các nước trên thế
giới đều gia tăng buôn bán, đầu tư vào
Việt Nam. Nhưng liệu dân chúng Việt Nam có làm được
điều ǵ để thay đổi chế độ
hay không, hay là phải chờ sự suy nghĩ lại của chính quyền
cộng sản? Đó là bài toán khó giải đáp cho
người Việt Nam ở quốc nội cũng như
hải ngoại. V́ nếu giải đáp được
th́ năm 2004 trở đi có thể có cơ hội
nhiều thuận lợi hơn, nhưng nếu không th́
sẽ lâu hơn hoặc là phải triền miên trong thế
cộng sản độc quyền!
Năm 1998,
Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam (
Nếu
những người này được phóng thích th́ Tổ
Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam làm cho họ
một số vấn đề. Đó là kêu gọi các
tổ chức từ thiện ở Ḥa Lan giúp đỡ
cứu trợ cho các nạn nhân bị thiên tai, băo lụt
ở Việt Nam. Chắc chắn là sẽ có rất
nhiều các tổ chức cứu trợ từ thiện
nghe theo, v́ Tổ Chức
Quốc Tế Phát Triển Việt Nam từ nhiều năm
qua đến hiện tại đă tạo nhiều uy tín
lớn cho người Ḥa Lan tin tưởng.
Trong năm
1998, mặc dù số người đă được phóng
thích trên 8000 người, nhưng những người trong
Phong trào Thống Nhất Dân Tộc & Xây Dựng Dân
Chủ như các ông Nguyễn Đ́nh Huy, Phạm Thái,
v.v… lại không được
trả tự do. Họ không được trả tự
do, th́ Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam
cũng đă không làm các vấn đề nêu trên.
Vào ngày 25
tháng 3 năm 1999 với danh nghĩa của Viện Bang Giao
Quốc Tế Ḥa Lan, chúng tôi đă gởi một lá thư
cho Chủ tịch Trần Đức Lương yêu
cầu phóng thích Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang. Ông đă
bị bắt ngày
Lẽ
dĩ nhiên có nhiều hội đoàn khác của quốc
tế cũng đă gởi thư để can thiệp cho
ông Nguyễn Thanh Giang. Và một danh sách của các nhà trí
thức Việt Nam và quốc tế đă được
các báo chí và các diễn đàn Internet đăng tải,
cũng đồng lên tiếng về việc này (7). May
mắn là ngày
Việc
bắt giữ ông Nguyễn Thanh Giang cũng như nhiều
người khác, là một cách thức của cộng
sản Việt Nam nhằm để giữ quyền
lực và củng cố chế độ độc
quyền. Trong miền Nam, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đă
bị bắt và được thả ra vào ngày 2 tháng 9 năm
1998, nhưng kỳ thực là quản thúc tại nhà riêng
của ông. Khi ông muốn làm việc ǵ cũng đều có
công an theo dơi. Ông chỉ c̣n dùng điện thoại, fax
hoặc e.mail để liên lạc với những
người cùng chí hướng và báo chí ở ngoại
quốc. Chẳng hạn như ông đă cố gắng để
bà Ngoại trưởng Mỹ Albright nghe được
tiếng nói của ông, nhân dịp bà qua Việt Nam để
gặp Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm hôm 6 đến
Do đó,
những người có tiếng tăm ở miền
Bắc cũng như ở miền Nam, khi bị bắt và
phóng thích, tất cả đều phải như vậy.
V́ hơn ai hết đảng cộng sản Việt Nam
biết rằng, nếu để cho những người
đó được tự do viết báo, chỉ trích nhà
nước, bài xích chế độ về các mặt,
v.v... th́ chính đảng cộng sản có rất nhiều
trở ngại trong việc lănh đạo nhà nước.
Cho nên, nếu đừng có chống đối, đừng
làm ra những sự vụ nổ lớn, nếu có bất
măn th́ chỉ là cá nhân mà thôi, th́ là một cách tốt
nhất.
Như
vậy, đảng và nhà nước dùng bất cứ
thủ đoạn nào nhằm để củng cố
chế độ và tiêu diệt mọi thành phần
chống đối lại. Những thành phần khi được
thả ra, ai muốn ra nước ngoài cư ngụ hoặc
trú ngụ th́ nhà nước sẵn sàng cho đi và
khuyến khích đi. C̣n đối với thành phần
cải tạo khi đă ra ngoài mà c̣n muốn ở lại
Việt Nam, theo đảng cộng sản đây là thành
phần gây nhiều trở ngại cho chế độ,
nhất quyết phải trừng trị thẳng tay.
Cho nên
những người ở lại Việt Nam trong hiện
tại là những người can đảm, có chủ
kiến. Họ quyết tâm tới cùng với lư
tưởng của họ, dù biết rằng gặp
trở ngại cho chính họ, thân nhân và những bạn bè
của họ (11). Những người như
Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế... rất
ít, không có nhiều.
Ngày 20 và
21-5-2000, Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt
Nam tổ chức Đại hội Quốc Tế 2000
tại Den Haag Ḥa Lan đă mời các nhân vật nổi
tiếng trên thế giới, trong đó chính yếu nhất
là Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ (Phó viện
trưởng Viện Hóa Đạo, kiêm Tổng thư kư
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất), và Bác
sĩ Nguyễn Đan Quế (Chủ tịch Cao Trào Nhân
Bản) ở Việt Nam qua tham dự đại hội.
Nhưng hai ông đă không thể tham dự được
v́ nhà cầm quyền không cho phép, mặc dầu đă có
sự can thiệp mạnh mẽ của các Nghị sĩ
Liên Hiệp Âu Châu Bà H. Maij-Weggen (Chủ tịch Đảng
Dân Chủ Thiên Chúa Âu Châu, nguyên cựu Bộ trưởng
Giao Thông Vận Tải Ḥa Lan), Dân biểu Kỹ sư E.
Hessing (Đảng Dân Chủ Tự Do VVD, Phó Chủ
tịch Ủy Ban Ngoại Giao Quốc Hội Ḥa Lan), và Tiến
sĩ H. Hartogh (Trưởng
Khối Đông Nam Á và Thái B́nh Dương thuộc Bộ
Ngoại Giao Ḥa Lan) (12). Đặc biệt Tiến sĩ
Hartogh đă qua Hà Nội và nói chuyện cùng Bộ Ngoại
Giao Việt Nam để lo cho hai người trên qua Ḥa Lan,
th́ đă được
biết chính quyền cộng sản Việt Nam có nhiều
lư do để không cho có sự hiện diện và cũng
từ chối cấp giấy thông hành (hộ chiếu) cho
hai người trên (13).
Việc nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam không cho phép hai
người trên tham dự đại hội, các tổ
chức hiện diện tại đại hội (14) đă
đồng ư làm Thỉnh Nguyện Thư trao tận tay
hoặc gởi đi cho Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Âu
Châu, Chính Phủ và Quốc Hội các nước, các tổ
chức quốc tế về nhân quyền trên toàn thế
giới. Đến nay đă có rất nhiều thư phúc đáp,
trong đó có Tổng thống Pháp J. Chirac (15), Thủ
tướng Ḥa Lan W. Kok (16), Chủ tịch Quốc Hội
Ḥa Lan bà J. van Nieuwenhoven (17), Nghị sĩ Liên Hiệp Âu Châu
bà H. Maij-Weggen (18), Dân biểu Đảng Dân Chủ Tự
Do (VVD) Kỹ sư E. Hessing, Dân biểu Đảng Dân
Chủ Thiên Chúa (
Vào ngày 26 - 8
- 1999, Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam
đă gởi thư đến cho Chủ tịch Trần Đức
Lương để yêu cầu 5 điểm sau đây:
1. Phải đối xử công
bằng với những con cái, thân nhân của những viên
chức, quân đội của miền Nam Việt Nam
trước 1975 hiện đang c̣n ở Việt Nam.
2. Phóng thích đại đa
số các người tù cải tạo (chính trị, thường
phạm) hiện đang c̣n bị giam giữ nơi
trại cải tạo.
3. Cho tự do ngôn luận,
truyền thông và báo chí, để người dân được
nghe và nói tiếng nói của ḿnh.
4. Cho các tôn giáo được
tự do hoạt động, nhưng phải tách rời
khỏi chính quyền.
5. Cho các đảng phái trong
nước cũng như ngoài nước tự do tham gia
ứng và bầu cử vào Quốc Hội Việt Nam.
Nếu
chấp thuận lời yêu cầu trên, th́ Tổ Chức
Quốc Tế Phát Triển Việt Nam sẽ thực
hiện 5 điểm sau đây:
1. Kêu gọi các hội từ
thiện, các tổ chức nhân đạo giúp đỡ,
cứu trợ cho các nạn nhân bị thiên tai, băo, lụt
ở Việt Nam.
2. Mở rộng hội thảo,
đại hội hàng năm giữa các viên chức cao
cấp của chính quyền, quốc hội Ḥa Lan, Liên
Hiệp Âu Châu và những người Việt Nam (tỵ
nạn và không tỵ nạn) trên thế giới, kể
cả những viên chức cao cấp của chính quyền
cộng sản Việt Nam.
3. Giới thiệu sự hợp
tác với các hăng xưởng, công ty Ḥa Lan.
4. Vận động các công ty Ḥa
Lan và Liên Hiệp Âu Châu vào Việt Nam đầu tư.
5. Giới thiệu, tiếp xúc
với các nhân vật nổi bật ở Ḥa Lan và Liên Hiệp Âu Châu
về các ban ngành.
Đó là 5 điểm
yêu cầu với cộng sản Việt Nam, và 5 điểm
mà Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam có
thể thực hiện được khi chính quyền
cộng sản chấp thuận những điểm yêu
cầu này (19).
Ở điểm
1 chưa có bằng chứng nào cụ thể là cộng sản
Việt Nam có thi hành hay không. Điểm 2 cộng sản
Việt Nam lần lượt cho thực hiện. Trong năm
nay 2000, ngày 30-4 cộng sản đă phóng thích 12.264
người, ngày 2-9 có 10.693 người cải tạo
nữa được phóng thích (20). C̣n điểm 3, 4 và
5 sẽ có thể là những điểm
làm cho cộng sản Việt Nam lưỡng lự
hoặc sẽ không chấp nhận. Nếu cộng sản
Việt Nam không chấp thuận các điểm trên, th́
Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam
cũng sẽ không làm các điều cam kết.
Trong
hiện tại chúng ta dựa vào quốc tế để
giao tiếp với cộng sản Việt Nam. Do đó
những lời yêu cầu này đă gởi cho Liên Hiệp
Âu châu (Liên Quốc Hội [Nghị Viện] Âu châu, Ủy
Hội [Đại Biểu] Âu châu), Chính Phủ và Quốc
Hội Ḥa Lan. Điểm 3, 4, 5 của những lời yêu
cầu này có thể không làm cho cộng sản Việt Nam
lưu ư trong lúc này, nhưng trong thời gian tới cộng
sản Việt Nam chắc chắn sẽ phải xét
lại.
Chúng ta
một mặt làm cho cộng sản cứ yên trí lănh đạo,
nhưng mặt khác làm những việc giăng lưới
của ta. Việc của ta phải do chúng ta gánh lấy.
Trách nhiệm dù lớn dù nhỏ cũng là của chúng ta. Có
nhất quyết đồng tâm th́ mọi việc cũng đều
suôn sẻ, c̣n khác ư kiến th́ các việc cần phải
bàn tính và phân tích lại cho cặn kẽ, thấu đáo
rồi mới có thể đem ra thi hành.
Những
sự việc khác ư kiến nhau xảy ra thường
xuyên, ở mọi lănh vực. Điều quan trọng
trước hết là có muốn giăi bày những sự
việc khác nhau đó hay không? Khi giăi bày sẽ dễ dàng làm
những việc dung ḥa cởi mở cùng với nhau. Tuy
nhiên có những sự việc không giản đơn
như ta nghĩ, mà đ̣i hỏi phải kéo dài thời gian
và đôi bên phải nhường nhịn nhau th́ mới có
thể hóa giải sự xung khắc của cả hai
hoặc nhiều phía.
Nơi đây
không phải là mảnh đất Việt Nam thân
thương và yêu quư! Chúng ta là những kẻ tha
hương, lưu lạc
nơi đất khách quê người, cho nên bằng
bất cứ giá nào chúng ta cũng phải trở về
lại quê hương Việt Nam trên danh chính ngôn thuận.
Muốn như vậy, ta phải tương kế tựu
kế. Muốn tương kế tựu kế th́ "Đối
Thoại" là một trong những điều
trước tiên phải làm. Đối thoại không
phải là xin xỏ, cũng không phải tự hạ ḿnh để
làm nhẹ thể chúng ta. Mà trong đối thoại dần
dần sẽ t́m cho ra một giải pháp có thể cởi
mở những gút mắt, chướng ngại, và t́m được
sự dung ḥa nào đó.
Chỉ
sợ chúng ta không dám đối thoại, v́ nghĩ họ
hay, giỏi hơn ta rồi sinh ra đố kỵ nên
bị động, hoặc họ hay lường gạt,
dở hơn ta rồi khinh khi họ. Đó là không đi đúng
với ư niệm về Dân Chủ Tự Do trong đầu
thế kỷ 21, nhất là t́nh h́nh đặc biệt
của quốc tế hiện nay đối với
người cộng sản Việt Nam cần phải có đối
thoại nhiều hơn nữa, để cho họ
thấy được những hướng khác biệt
với cái mà họ đang có.
Đối đầu
nhau là việc không tránh khỏi, nhưng sự tiếp xúc đối
thoại với nhau là việc ta nên làm. C̣n đối
với phía cộng sản Việt Nam, họ coi như đương
nhiên là ta phải tiếp xúc với họ, v́ mọi
việc cần thiết như xin giấy thông hành (hộ
chiếu), về Việt Nam làm ăn, mua đất,
lập cơ xưởng, v.v... ta đều phải
cần đến họ. Cho nên họ coi ta như là thành
phần thuộc về của họ! Do đó, mọi
sự đối thoại với nhau trong lúc này sẽ
dẫn đến có thể có những điều hay
hoặc điều dở, ai phải ai quấy sẽ
lần lượt phơi bày ra trước ánh sáng.
Phương
Thức Đối Thoại
Sau đây là
những “Phương Thức Đối Thoại” có
thể cùng với nhà nước cộng sản Việt
Nam:
1. Điều 14 của Hiệp Định
Brusssel giữa Liên Hiệp Âu Châu và Cộng ḥa Xă hội
chủ nghĩa Việt Nam ngày 17-7-1995 và phổ biến ngày
14-5-1996 có quy định:
a) ....
b) Ủy ban Hỗn Hợp được
thành lập từ những người đại diện
của hai bên, ở tŕnh độ của những viên
chức cao cấp. Ủy ban Hỗn Hợp gặp nhau
một năm một lần, ở Brussel hoặc Hà
Nội, do một trong hai bên giải thích và xác định
về ngày tháng. Những phiên họp không thường xuyên
do hai bên triệu tập.
c) Ủy ban Hỗn Hợp được
phép thành lập những Nhóm Chi Nhánh Chuyên Nghiệp để
phối hợp thi hành những nhiệm vụ của
Ủy ban, soạn thảo, thực hiện những kế
hoạch và chương tŕnh trong khuôn khổ của Hợp
đồng.
d) .... (21)
Như
vậy, Liên Hiệp Âu Châu và Cộng Ḥa Xă Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam đă có Ủy ban Hỗn Hợp để
đối thoại trên tinh thần bang giao và hợp tác.
Sự đối thoại này đă kéo dài từ nhiều năm
qua, và Liên Hiệp Âu Châu đă tài trợ cho cộng sản
Việt Nam nhiều mặt từ kinh tế, xă hội,
kỹ thuật, v.v... Các
sự việc này tiến hành chậm chạp, vẫn c̣n
trong thời gian ḍ xét của Liên Hiệp Âu Châu, mặc dù có
sự thúc đẩy của bên phía Cộng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng từ cuối năm
2000 trở đi chắc chắn các sự việc sẽ
tiến hành nhanh và mạnh mẽ hơn.
Trong tháng 3
vừa qua đă có cuộc họp của Ủy ban Hỗn
Hợp tại Hà Nội. Theo Bà Nghị sĩ Liên Hiệp Âu
Châu Maij-Weggen ngày 2-5 vừa qua đă
e.mail cho tôi, th́ trong phiên họp trên chưa có bản
tường tŕnh về những điều bàn thảo. Có
thể trong phiên họp này có rất nhiều vấn đề
về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, cải
thiện môi trường kinh doanh và đầu tư,
kỹ nghệ hóa, nông và ngư nghiệp, cải tổ
hệ thống thuế má, luật lệ, v.v... (22)
Do đó điều
quan trọng là trong Ủy ban Hỗn Hợp, chúng ta phải
làm thế nào để có thể có người của
chúng ta để đối thoại cùng nhà nước
cộng sản Việt Nam trên bàn hội nghị. Đứng
bên phía Liên Hiệp Âu Châu để bàn thảo là ta chiếm
thế thượng phong đối với cộng sản
Việt Nam. Có 2 điểm mà chúng ta phải suy tính:
a) Nếu được th́ ta có,
nếu không th́ ta không bị thiệt ǵ cả. Đây là ta
làm việc thuần túy cho Liên Hiệp Âu Châu.
b) T́m cách để trao đổi
cùng với cộng sản. Trao đổi là đưa cái
ǵ mà ta đang có cho họ, và lấy cái ǵ mà họ đang
có về ta. Sự trao đổi này có thời hạn.
Thời hạn dài hay ngắn là do quyết định
của hai bên, và sự quyết định này phải rơ
ràng. Sớm hoặc trể quá, hoặc dùng những lời
lẽ quá dao to búa lớn, sẽ làm cho đối
phương nghi ngờ đến thiện chí của chúng
ta. Sự trao đổi này dần dần sẽ định
rơ vị trí của nó. Khi ta được cái lợi này,
th́ cái lợi kia phải để cho họ. Những ǵ mà
ta cam kết với đối phương, có thể đó
là mối lợi của họ, và ngược lại
cũng là mối lợi cho ta.
Điểm
quan trọng kế tiếp là tổ chức nào, ở
nước nào đ̣i hỏi, và khi yêu cầu như vậy
có cái ǵ bảo đảm là những lời cam kết đó
có hiệu lực. Tổ chức của ta phải thật
sự lớn mạnh và những lời cam kết phải
tương đương hoặc ít nhất cũng
gần bằng với những điều yêu cầu hay đ̣i
hỏi. Nếu lần đầu bị nghi ngờ sẽ
vô cùng khó khăn cho những lần kế tiếp. Do đó
ta phải minh bạch khi giao ước cùng với nhà
nước cộng sản Việt Nam, nhất là trong lúc
này phải làm sao cho họ chấp nhận những trao đổi
theo lời yêu cầu của chúng ta.
Đối
thoại cùng cộng sản trên bàn hội nghị, là
mặc nhiên chấp nhận sự hiện hữu của đảng
và nhà nước cộng sản Việt Nam, và ngược
lại cộng sản cũng phải chấp nhận thành
phần của chúng ta trong đó.
Do đó khi
vào trong Ủy ban Hỗn Hợp được, th́ đó là
bước đầu trong mạng lưới phát
triển đối thoại và đối đầu cùng
với cộng sản Việt Nam.
2. Hoa Kỳ trong hiện tại
ngày 13-7-2000 đă kư thỏa ước mậu dịch
với cộng sản Việt Nam. Bản Hiệp định
Thương mại này được kư kết làm hai văn
bản bằng Việt ngữ và Anh ngữ, gồm có 7
Chương và 72 Điều. Chương 1: Mậu
dịch hàng hóa, gồm có 9 điều. Chương 2: Tác
quyền, gồm có 18 điều. Chương 3: Dịch
vụ, gồm có 11 điều. Chương 4: Quan hệ
phát triển đầu tư, gồm có 15 điều.
Chương 5: Phát triển thương mại, gồm có 3
điều. Chương 6: Công khai minh bạch và Quyền
khiếu nại, gồm có 8 điều. Chương 7:
Tổng quan, gồm có 8 điều (23). Và ngày 16 đến
19-11-2000 Tổng thống Bill Clinton cũng đă đi qua
Việt Nam (24). Như vậy là từ đây các nhà đầu
tư của Mỹ có quyền buôn bán, khai thác trên đất
nước Việt Nam, và ngược lại, theo như
Hiệp định đề ra. Điểm chủ
yếu nữa là Mỹ muốn vào Việt Nam trở
lại theo chiến lược toàn cầu để ngăn
chận Trung Quốc có mưu đồ thao túng và bành
trướng quân sự ở vùng Đông Nam Á. Một khi các
nhà đầu tư Mỹ xuất tiền ra để gây
cơ sở, mở công ty, hăng xưởng, buôn bán... th́
họ muốn kiếm lợi nhuận, bành trướng
thế lực... Do đó chúng ta phải t́m cho được
người hỗ trợ cho chúng ta trên bước đường
khai thác kinh tế, kỹ nghệ, công nghệ, thương
mại, buôn bán này. Chú ư: Trước hết phải tạo
bước căn bản vững chắc và từ từ
sẽ lan rộng ra xă hội, quần chúng...
3. Tương tự như
vậy đối với những tổ chức quốc
tế, như: Tổ chức các Quốc Gia Đông Nam Á
(ASEAN), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ngân Hàng
Thế Giới (WB), v.v... Và rất quan trọng là những
tổ chức của các nước đầu tư vào
Việt Nam. Chúng ta có thể kết hợp với những
người có trong các tổ chức đó. Và từ đó,
đối thoại dần dần sẽ là những
nhịp cầu tiếp nối có thể vào trong chính
quyền Việt Nam.
4. Những người Việt
Nam ở hải ngoại và quốc nội phải t́m cách
chen chân vào trong guồng máy của chính quyền từ trung
ương cho đến địa phương. Mới
ban đầu chỉ có thể có mặt ở các địa
phương, hạ tầng, dần dần có địa
bàn và cơ sở sẽ đi lên đến trung
ương, thượng tầng. Và từ đó làm bàn đạp
cho những đối thoại, nội công ngoại kích được
thành h́nh. Việc ở quốc nội, trong những năm
vừa qua đảng cộng sản đă chủ động
những phương thức t́nh báo và ngoại vi như
"nhân dân làm chủ, nhân dân quản lư", ta cũng dùng
kế thức "gậy ông đập lưng ông" để
gây cơ sở. Chú ư: “cộng sản im lặng, ta im
lặng, cộng sản ra tay, ta ra tay trước”. Do đó
công việc chuẩn bị cần phải gấp rút
thực hiện, tạo được cơ sở, chú
trọng vào những yếu điểm làm mục tiêu đối
tác cho thành h́nh. Khi thành h́nh các cơ sở, th́ những hành động
sẽ cố gắng liên tục không đứt đoạn.
Tại v́ khi bị đứt đoạn, đảng
cộng sản sẽ kịp thời chấn chỉnh
lại ngay, và những tổ chức của ta sẽ
rơi vào thế bị động, không có lối thoát.
5. Hệ thống Internet, e.mail,
fax, điện thoại, báo chí, truyền thanh, v.v... có
thể làm cho chúng ta trao đổi, đối thoại
với người trong nước. Qua những
phương cách đối thoại đó, mặc dù không
thấy mặt, nhưng trong cách hành văn tế nhị,
chững chạc, bóng bẩy, dí dỏm, bông đùa... chúng ta có thể nói chuyện
với nhau dễ dàng. Từ đó, ta có thể từ
từ mỗi ngày một chút dẫn dắt những
người thích nghe và thích nói với chúng ta. Nhất là
những thành phần trẻ, có học thức, chúng ta nên
có những người chuyên môn chăm lo về này bộ
phận này. Dần dần số người sẽ thành
số đông, và cộng sản không thể ngăn cấm
được. Hiện nay mặc dù số người có
computer thuê bao Internet trong
nước chỉ có khoảng 70.400 máy (25), nhưng số
lượng này sẽ tăng dần lên, nhất là từ
cuối năm 2000 trở đi.
6. Có thể chúng ta hoặc nhà
nước cộng sản Việt Nam một ngày gần đây
muốn đối thoại với nhau. Có thể một
tổ chức bên ngoài nước hoặc bên trong
nước làm mũi dùi xuyên phá những trở ngại
của bước đầu. Do đó, những tổ
chức của chúng ta phải Hợp Đoàn với nhau cho
thành h́nh. Phong trào X, đảng phái Y, lực lượng
Z.... kết hợp với nhau trên căn bản
tương kính và tinh thần hỗ tương để
có thể làm điểm tựa xúc tác lẫn nhau và đối
đầu - sẽ có thể dần dần dẫn đến
thế đối lập - cùng với cộng sản
cầm quyền. Không Hợp Đoàn được th́
chắc chắn cộng sản Việt Nam sẽ không bao
giờ muốn “Đối
Thoại” với một lực lượng nhỏ, không có
đủ thế lực mạnh, không có tầm vóc lớn.
Nếu không Hợp Đoàn lại được th́ đất
nước Việt Nam sẽ măi măi chịu lệ thuộc
vào hệ thống cộng sản độc quyền, độc
đảng như hiện tại.
Như
vậy việc đối thoại là một điều
cần thiết trên căn bản ngoại giao, và v́
quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Chúng ta cần
phải làm cho sự đối thoại của hai bên nhanh
chóng thành h́nh.
Người
Việt Nam ở hải ngoại thường có những
quan điểm cho rằng Đảng cộng sản
Việt Nam là thành phần đă chạy theo đường
lối cộng sản quốc tế, tam vô, nên không c̣n t́nh
dân tộc, nghĩa đồng bào. Cho nên khi nói đến
cộng sản là ta thấy ấm ức trong ḷng, và
thậm chí c̣n cho luôn phần lớn dân chúng trong
nước cũng là cộng sản, và ngay cả những
người ở hải ngoại có một chút ǵ đó
cũng bị cho là thân cộng hoặc cộng sản chính
hiệu! Từ đó cách nh́n của chúng ta cũng bị
hạn chế, thiển cận đối với những
người trong nước và những người bị
gán cho thân cộng ở hải ngoại.
C̣n
người Việt Nam ở trong nước đă theo
học những giáo điều cộng sản từ
trường học và một số không ít đă trở thành đảng viên
của đảng cộng sản. Cho nên những cách
tư duy, lư luận về tự do, dân chủ, b́nh đẳng,
nhân quyền... họ chỉ nghĩ đến một cách
phiến diện, và có khác với cách nh́n và suy luận
của người Việt Nam ở hải ngoại. V́
vậy những điều suy nghĩ của họ
cũng không có tính cách khách quan, mà phần nhiều là độc
đoán.
T́nh
trạng trên cho thấy rơ ràng có sự khác biệt đối
chọi giữa kẻ cầm quyền và người
muốn đối lập, giữa quá khích cộng sản
và cực đoan quốc gia. Trên thực tế hiện nay
gần như không c̣n quốc gia và cộng sản, bởi
v́ quốc gia và cộng sản đều đă biến
thể. Có lẽ qua đầu thế kỷ 21 những
tư tưởng cực đoan, quá khích này sẽ được
thay thế bằng mỹ từ khác. Chính Đảng
cộng sản Việt Nam cũng đă biết được
điều đó, nên đă dự định từ
nhiều năm qua - từ đại hội đảng
lần thứ 8 năm 1996 - muốn thay đổi tên đảng
cho hợp thời thế hơn. Nhưng việc đó c̣n
trong ṿng lưỡng lự, phân vân của Bộ chính
trị Đảng cộng sản Việt Nam (26). Từ đại
hội đảng lần thứ
9 vào năm 2001, đảng cộng sản có thể
sẽ thay đổi một tên mới cho thích hợp
hơn với t́nh thế mới của thế kỷ
21.
Những
người trẻ tuổi lớn lên ở hải
ngoại (cũng như ở quốc nội) thường
hay thấy và tự hỏi trước sự việc cha
ông của chúng vẫn phải hằn học, căm
giận đối với cộng sản Việt Nam. Chúng
vẫn không hiểu tại sao bên này vẫn gọi bên kia là
Việt cộng, c̣n bên kia gọi bên này là phản động! Giới trẻ ở hải
ngoại khi lớn lên, chúng được đọc, nghe
và theo dơi các sách vỡ của trường học, các báo
chí, truyền h́nh, truyền thanh... gần như những
sự việc xảy ra có khác với những ǵ mà cha ông
của chúng đă trải qua và nói lại với chúng.
Đơn
cử một trường hợp, người viết bài
này cũng đă t́m sách vở, báo chí, tài liệu… ở các
thư viện, Viện Nghiên cứu, Viện Bang giao
Quốc tế, Đại học Tự Do Amsterdam và Đại
học Hoàng Gia Leiden, v.v... Có rất nhiều, nhưng
vẫn không t́m thấy sách, tài liệu nào ủng hộ
miền Nam Việt Nam, mà hầu hết là chống
chiến tranh, biểu t́nh chống Mỹ, ủng hộ
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của
miền Bắc Việt Nam... Mới ban đầu khi đọc,
tôi đă bị cơn sóc ghê gớm và tranh cải dữ
dội với các giáo sư đại học, các
người làm công tác sưu tầm tài liệu ở các
thư viện... Và các tài liệu ấy ngày nay tôi vẫn
c̣n giữ. Cho nên về tuyên truyền chúng ta đă thất
bại, và thua xa miền Bắc cộng sản Việt Nam.
Qua các sự
việc trên, có thể nói giới trẻ đă bị
rơi vào ṿng hận thù, tranh chấp... của người
đời trước, v́ cuộc chiến khốc
liệt xảy ra giữa hai lằn tư tưởng ư
thức hệ quốc gia và cộng sản, mà có
người gọi đó là cuộc nội chiến tranh
chấp tương tàn đă xảy ra giữa miền
Bắc và miền Nam Việt Nam! Sự việc đó đối
với giới trẻ được sinh ra ở hải
ngoại gần như muốn quên, hoặc vô t́nh mà quên đi.
Do đó
chỉ có thể cứu văn t́nh trạng bi đát của đất
nước, khi cả hai phía - quốc gia và cộng sản
- đều thấy nhiệm vụ quan trọng của
mỗi bên.
¨ Mất phần bên này của
người Việt Nam hải ngoại, th́ phần bên kia,
cộng sản Việt Nam cũng không thể nào làm cho đất
nước được tiến triển, và càng ngày đất
nước Việt Nam càng bị chậm chạp, thua sút,
trong khi cả thế giới đă tiến bộ
vượt mức, chỉ trừ những nước
cộng sản quá yếu kém như Cuba, Lào, Bắc Hàn, Trung
Quốc và Việt Nam. Trung Quốc và Việt Nam đă đi
theo bước của Đặng Tiểu B́nh nhằm độc
quyền phát triển, đi theo nền kinh tế thị
trường, nhưng hy vọng
mỏng manh, chậm chạp, không thể nào bắt
kịp những nước hiện đại ở Đông
Nam Á.
¨ Mất phần bên kia của
cộng sản Việt Nam, th́ phần bên này, người
Việt Nam ở hải ngoại dù có được
tiện nghi đầy đủ, chiếm được
lợi thế hơn về kinh tế, xă hội, v.v...
th́ cũng chỉ là bộ
phận của những người tha hương, lưu
xứ mà thôi.
Cho nên,
nếu cả hai phía cùng biết dung ḥa và tương
nhượng lẫn nhau th́ đó là một điều
hết sức tốt đẹp, nhân dân thảy đều
ca tụng, và lịch sử sẽ luôn luôn ghi nhớ công đức.
Dung ḥa và tương nhượng để dần dần
có thể hóa giải cho vơi bớt đi mối thù
hận giữa hai phía, và đưa đất nước
vào con đường phát triển cùng các nước trên
thế giới. Đó là công việc vô cùng cần thiết
mà ai ai cũng đều mong muốn.
Nhưng
mọi sự việc cũng không thể tự nhiên mà có,
và vấn đề trên không thể một sớm một
chiều mà thực hiện được. Ḷng nhiệt
huyết của mọi người - lớn tuổi và
trẻ tuổi - sẽ tạo thành một dũng khí
mới, một khí thế mới. Một khí thế mới
là phải kiên quyết kết hợp, Hợp Đoàn
của tất cả, hết ḷng hết sức vào công
việc cho tích cực, nhạy bén và sống động...
Bất cứ việc làm ǵ càng khó khăn bao nhiêu, th́ lúc
thành công càng có giá trị bấy nhiêu.
Cho nên Điểm
thứ sáu này là làm cho giảm bớt sự căng
thẳng giữa ta và cộng sản. Một khi căng
thẳng được giảm bớt, th́ mới có
thể đối thoại theo chiều hướng
tốt đẹp được.
Ghi chú
(Noten):
1. Internet Thông cáo báo chí, Vietbao.com
30-5-2000 và Thongluan.org
2. Internet Vietbao.com 31-8-2000 và
hcm.fpt.vn 31-8-2000.
3. Internet Vietbao.com, 25-7-2000.
4. Internet Vietbao.com, Nguoi-Viet.com
14-7-2000, 15-7-2000.
Lư Thái Hùng,
Về Hiệp định mậu dịch Mỹ - Việt,
Tin Việt 22-7-2000.
Trần B́nh
Nam, Toan tính của Đảng cộng sản Việt Nam
khi kư thương ước với Hoa Kỳ, Vietcatholic
News, 22-7-2000.
5. Drs. Ngo Van Tuan, Petitie aan de
President Tran Duc Luong,
6. Drs. Ngo Van Tuan en Drs. W. Koetsier,
Brief aan de President Tran Duc Luong,
7. Drs. Ngo Van Tuan, Petitie aan de
President Tran Duc Luong,
8. Internet nguoi-viet.com,
9. Internet lmvntd.org 14-5-1999.
10. Internet nguoi-viet, vietnam htm 27-9-1999,
thongluan.org 14-11-2000.
11. Internet thongluan.org, 15-8-1999.
12. Thông Cáo Báo Chí, Internet Vietbao.com
"Hội Thảo về Việt Nam thế kỷ
mới: Nhân quyền, Dân chủ" 30-5-2000.
Thongluan.org "Đại
hội Nhân quyền và Phát triển Việt Nam"
13. Drs. H. Hartogh, e.mail ngày
14. Các tổ chức gồm có:
Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam (Ḥa
Lan), Trung Tâm Nhân Quyền Việt Nam (Pháp), Liên Minh Dân Chủ
Việt Nam (Pháp), Mạng Lưới Nhân Quyền Việt
Nam (Mỹ), Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây
Dựng Dân Chủ (Pháp), Tổ Chức Dân Chủ Việt Nam (Đức),
Báo Việt Nam Tự Do (Đức), Báo Cánh Én (Đức),
Báo Lạc Việt (Mỹ), và các nhân sĩ.
15. Presidence de la Republique J. Chirac,
Paris le 9 juin 2000.
16. Minister-President Wim Kok, 's-Gravenhage
29 juni 2000 và 29 september 2000.
17. Tweede Kamer der Staten-Generaal,
's-Gravenhage 14 juni 2000.
18. Lid van het Europees Parlement Hanja
Maij-Weggen, 12 mei en e.mail 25 juni 2000.
19. Petitie aan de President Tran Duc Luong,
26-8-1999.
20. Internet Vietbao.com, Tin Viet Nam, Ong
Thai bi an chung than Viet, xin an xa ve som, 13-8-2000. Vnn.vn, hcm.fpt.vn
31-8-2000.
21. Besluit van de Raad. De
Samenwerkingsovereenkomst tussen de Europese Gemeenschap en de Socialistische
Republiek Vietnam, 96/351/EG, 14 mei 1996.
22. E.mail mevrouw H. Maij-Weggen, 2 mei 2000.
23. Bộ Ngoại Giao Ḥa Lan,
15-7-2000.
Trần B́nh Nam, Toan tính của Đảng
cộng sản Việt Nam khi kư thương ước
với Hoa Kỳ,
Internet Vietbao.com, 22-7-2000.
24. Internet Vietbao.com, nguoi-viet.com,
hcm.fpt.vn, vnn.vn 16-11 đến 20-11-2000.
25. Internet Vietbao.com, Tin vắn
Việt Nam,
26. Vietnam Revue, số 9 và 10, 3e 1996.