Những
Đề Nghị Cho Người Việt Nam
Đầu
Thế Kỷ 21: Nhân Quyền
Ngô Văn Tuấn
Strategie van het Junghopisme
3-2000
Với tinh thần hoàn toàn khách quan
và trung thực khi soạn thảo những điểm đề
nghị này tŕnh bày cùng quư vị,
tôi đă đúc kết các tài liệu, dữ kiện
và các phương tiện có được của các
tổ chức, đoàn thể và đảng phái
người Việt Nam ở hải ngoại, ở
quốc nội, của cộng sản và của quốc
tế để hy vọng được hoàn chỉnh sách
lược này.
Dĩ nhiên những tài liệu,
dữ kiện và phương tiện tôi chỉ có trong
hạn hẹp mà thôi, nên có thể không đủ làm nền
tảng cho sách lược. Có rất nhiều quan niệm
và lập trường khác nhau của nhiều tổ
chức, đoàn thể và đảng phái, v́ vậy xin quư
vị hăy đóng góp ư kiến. Rất hoan nghênh những ư
kiến, phê b́nh nào có những nhận thức mới. Có
như vậy mới có dịp để sách lược được
hoàn chỉnh và tôi cũng được học hỏi
thêm.
Sách lược gồm có Luận
thuyết và 3 Giai đoạn I, II, III. Mỗi Giai đoạn
có các Phần: A cho người Việt Nam ở hải
ngoại, B cho tổ chức quốc tế và C cho
người Việt Nam tại quốc nội.
Giai đoạn I Phần A cho
người Việt Nam ở hải ngoại gồm có:
Điểm 1A.I: Hợp Đoàn.
Điểm 2A.I: Chủ Động
Điểm 3A.I: Chủ Đạo
Điểm 4A.I: Nguyên Tắc.
Điểm 5A.I: Nhân Quyền.
Điểm 6A.I: Đối
Thoại.
Giai đoạn II Phần A gồm
có:
Điểm 1A.II: Chiết Trung.
Điểm 2A.II: Nối Kết.
Điểm 3A.II: Tựu Kế.
Trong khuôn khổ những bài này, tôi
viết có tính cách tổng quát mà không đi sâu vào chi
tiết.
Điểm
5A.I: Nhân Quyền
"Quyền của con
người, nhân quyền hay quyền công dân, người
ta gọi đó là những quyền căn bản thiết
yếu cần phải được tôn trọng cho
sự biểu lộ tài năng của cá nhân", đó là
câu thứ nhất của Bộ Ngoại giao Ḥa Lan trong năm
1979 phát biểu trước Quốc hội Ḥa Lan và cho công
bố trong tập tài liệu "Quyền của con
người trong chính sách ngoại giao" (1).
Trong dẫn nhập của bản
Hiến chương Liên Hiệp Quốc, đặc
biệt nhấn mạnh về quyền căn bản
của con người, Điều 1 Khoảng 3 đă nói:
"Hợp tác quốc tế thực hiện ... hỗ
trợ và khuyến khích sự kính trọng quyền của
con người và những tự do căn bản cho tất
cả mọi người, không phân biệt chủng
tộc, phái tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo" (2). Và ngày
Bản Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền có 30 điều. Những điều này như là
một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả
các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn
thể xă hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này,
nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự
do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng
những biện pháp lũy tiến trên b́nh diện quốc
gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa
nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do
này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay
thuộc các lănh thổ bị giám hộ.
Điều 1 trong bản Tuyên ngôn có
nói: "Mọi người sinh ra tự do và b́nh đẳng
về phẩm cách và quyền lợi, có lư trí và lương
tri, và phải đối xử với nhau trong t́nh bác
ái."
Điều 2: 1) "Ai cũng được
hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên
ngôn này không phân
biệt đối
xử v́ bất cứ lư do nào, như chủng tộc, màu
da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo,
chính kiến hay quan
niệm, nguồn gốc dân tộc hay xă hội, tài
sản, ḍng dơi hay bất cứ
thân trạng nào khác.
2) Ngoài ra không được phân biệt về quy
chế chính trị, pháp lư hay quốc tế của quốc
gia
hay lănh thổ mà
người đó trực thuộc, dù là nước độc
lập, bị giám hộ, mất chủ quyền
hay bị hạn
chế chủ quyền."
.......
Điều 7: "Mọi
người đều b́nh đẳng trước pháp
luật và được pháp luật bảo vệ b́nh đẳng
không kỳ thị. Mọi người đều được
bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi
giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này."
Điều 8: "Ai cũng có
quyền yêu cầu ṭa án quốc gia có thẩm quyền can
thiệp chống lại những hành động vi
phạm những quyền căn bản được
hiến pháp và luật pháp thừa nhận"
Điều 9: "Không ai có thể
bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đày một
cách độc đoán."
Điều 10: "Ai cũng có
quyền, trên căn bản hoàn toàn b́nh đẳng, được
một ṭa án độc lập và vô tư xét xử một
cách công khai và công bằng để phán xử về
những quyền lợi và nghĩa vụ của ḿnh, hay
về những tội trạng h́nh sự mà ḿnh bị cáo
buộc."
.......
Điều 29: 1) "Ai cũng có
nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó
nhân cách của ḿnh có thể được
phát triển một
cách tự do và đầy đủ.
2) Trong khi hành xử những
quyền tự do của ḿnh, ai cũng phải chịu
những giới hạn
do luật pháp đặt
ra ngơ hầu những quyền tự do của người
khác cũng được thừa
nhận và tôn
trọng, những đ̣i hỏi chính đáng về đạo
lư, trật tự công cộng và an lạc
chung trong một xă
hội dân chủ cũng được thỏa măn.
3) Trong
mọi trường hợp, những quyền tự do này
không thể hành xử trái với những
mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp
Quốc."
Điều 30: "Không một điều
khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để
cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một
cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm
những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự
do liệt kê trong Tuyên Ngôn này." (3)
Do đó quyền của con
người đă được hầu hết các
nước trên thế giới tôn trọng. Tuy nhiên một
số lớn các quốc gia ở Phi châu, Nam Mỹ (La Tinh),
Á châu thường hay xảy ra những vụ vi phạm
về nhân quyền. Những quốc gia này thường hay
xảy ra biến loạn xung đột giữa chính
quyền và dân chúng, nạn thất nghiệp, nạn
hạn hán, mất mùa, v́ nền công kỹ nghệ c̣n thô
sơ, kinh tế chưa đạt tới mức vững
chắc.
Các quốc gia Tây phương (Âu
châu, Bắc Mỹ, Úc châu, v.v...) đă có nền móng kỹ
nghệ tiên tiến và cũng đă thành lập ra Tuyên ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền, cho nên ít có sự vi phạm.
Ở Á châu, những nước kỹ nghệ hóa đă có đường
lối tân tiến và chính sách cởi mở, như Nhật
Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba và Nam Hàn ít khi
hoặc không có những vụ nghiêm trọng xảy ra. C̣n
những quốc gia khác đă thường hay xảy ra
loạn bộc phát do dân chúng nổi lên chống đối
lại chính phủ của nước đó, thí dụ
như ở Miến Điện, Nam Dương, Phi
Luật Tân, v.v... Đặc biệt là ở những
nước cộng sản, hoặc vừa mới
chuyển sang kinh tế thị trường, đă liên
tục xảy ra những vụ vi phạm về nhân
quyền, thậm chí những nước đó c̣n đi
trái ngược lại với Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền của Liên Hiệp Quốc.
Hàng năm có những danh sách về
nhân quyền của Amnesty International, Human Rights Watch, v.v... đă
được phổ biến khắp nơi trên thế
giới. Họ đă kêu gọi những nhà cầm
quyền hăy phóng thích những tù nhân chính trị đă được
các tổ chức đó công nhận là tù nhân lương tâm.
Nhưng kêu gọi là việc của họ, c̣n phóng thích hay
không th́ tùy thuộc vào nhà cầm quyền sở tại.
Các nhà cầm quyền thường
hay đổ lỗi cho những người chống
lại, phản kháng hay công kích chính phủ là những
phần tử, những phong trào muốn nổi loạn,
muốn lật đổ chính phủ, v.v... Mặc dù
những lời chỉ trích hay công kích đó của
những thành phần chống lại nhà nước
xuất phát từ sự yêu nước, muốn cho
những nhà lănh đạo chính phủ có thể sửa đổi
phần nào những sự quy chế, thành phần hiện
hữu đang có, thí dụ như các phong trào sinh viên đă
biểu t́nh ở Trung Quốc, Nam Dương,... hoặc là
những phong trào chống lại tham nhũng, thối nát đă
và đang xảy ra tại Miến Điện, Việt Nam,
v.v...
Những nước cộng
sản thường hay nói: "chuyện của
nước nào hăy để cho nước đó giải
quyết". Điều đó cũng có thể đúng
một phần. Nhưng những chuyện bắt bớ
người vô cớ có tính cách dă man, bạo hành của nhà
cầm quyền, hoàn toàn trái ngược với những ǵ
mà luật pháp trong nước và quốc tế đă ban
hành, đặc biệt là nhân quyền. Đối với
những nhà nước độc quyền, độc đảng,
tham nhũng và bất công ... th́ dĩ nhiên người dân
của nước đó có quyền phản kháng lại.
Một khi có sự chống đối lại, mà trong tay
không có phương tiện ǵ cả, th́ bắt buộc
người dân của nước đó phải kêu gọi
mọi người và quốc tế giúp đỡ. Khi
thế giới lên tiếng, quốc tế chiếu cố
tới th́ sẽ giúp đỡ rất nhiều cho
người dân của nước đó, như những
vụ đàn áp, bắt bớ, giam cầm, ... chẳng
hạn như là người dân Kosovo, Đông Timor ...
vừa qua.
Nh́n chung, các nước Á châu từ
lâu đă xảy ra phần lớn những vụ vi
phạm nhân quyền trầm trọng, mặc dù những
sự vi phạm này lại qua một h́nh thức khác,
như bị đi cải tạo, giam lỏng tại gia,
v.v... Nhưng ở bất cứ h́nh thức nào đi
nữa th́ đó cũng thuộc về Quyền của con
người.
Những nhà nghiên cứu chính
trị, kinh tế, xă hội, nhân chủng học, v.v... trên
thế giới hiện nay, đặc biệt là Á châu đă
chia ra làm nhiều khu vực, liên tổ chức như: Trung
Đông (1. Co-operation Coucil for the Arab States of the Gulf:
Saoedi-Arabie, Bahrein, Verenigde Arabische Emiraten, Koeweit, Oman, Qatar. 2.
Organisation of the Petroleum Exporting Countries [OPEC]: Algerie, Gabon,
Indonesie, Irak, Iran, Koeweit, Libie, Nigeria, Qatar, Saoedi-Arabie, Verenigde
Arabische Emiraten en Venezuela), Nam Á (Zuid-Aziatische Gemeenschap voor
Regionale Samenwerking [SAARC]: Bangladesch, Brutan, India, Maldiven, Nepal,
Pakistan, Sri Lanka), Trung Á (Azerbajdzan, Dagestan, Georgie, Abchazische,
Tsjerkessen, Kabardino, Tadzjikistan, Kirgizie, Oezbekistan, Toerkmenistan,
Kazachstan, v.v... thuộc Nga Sô), Bắc Á (Siberie, ... thuộc
Nga Sô), Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn,
Bắc Hàn, Đài Loan, Mông Cổ), Đông Nam Á (Association of
South East Asian Nations [ASEAN]: Thailand, Maleisie, Singapore, Indonesie,
Brunei, Filippijnen, Vietnam). Các nước ASEAN đồng
chấp thuận vùng Đông Nam Á đến năm 2003
phải cho xong là vùng Đông Nam Á
Mậu Dịch Tự Do AFTA (ASEAN Free Trade Area) và đến
năm 2008 sẽ hoàn tất (4).
Theo Giáo sư Tiến sĩ Jan van
den Bremen, Tiến sĩ Peter
Drijven, Tiến sĩ Ton van Naerssen và nhiều tác giả khác
trong cuốn "Pacifisch Azie" (Á châu Thái B́nh Dương,
1997) đă cho rằng vùng Á châu Thái B́nh Dương gồm có
19 quốc gia trực thuộc, đó là: 1 nước
Nhật Bản, 4 nước mới vừa kỹ nghệ
hóa (NICs = Newly Industrializing Countries. Gồm có: Hồng Kông, Tân
Gia Ba, Đài Loan và Nam Hàn), 5 nước là thành viên của
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN. Gồm có:
Phi Luật Tân, Nam Dương, Brunei, Mă Lai, Thái Lan), 5
nước mới vừa chuyển sang kinh tế thị
trường (Gồm có: Trung Quốc, Cam Bốt, Lào,
Miến Điện và Việt Nam), và 4 nước riêng
biệt (Eenlingen. Gồm có: Ma Cao, Bắc Hàn, Đông Timor và
Papua Nieuw-Guinea) (5).
Các nước trong vùng Á châu Thái B́nh
Dương xem các tôn giáo như là vấn đề quan
trọng của tâm linh, cho nên đă được đặc
biệt kính trọng. Có nhiều nước chẳng
những coi tôn giáo như vấn đề thiêng liêng siêu
h́nh, mà c̣n không được xâm phạm vào đó. Ở
vùng Á châu Thái B́nh Dương có tới 4 nước cộng
sản. Bốn nước cộng sản này là: Trung
Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Lào. Họ chủ
trương coi tôn giáo như là một thứ đầu độc
tư tưởng, nên đă cố diệt tận gốc
những tôn giáo chướng ngại này. Nhưng tôn giáo đă
được các giáo dân, tín đồ và phật tử đặc
biệt tôn trọng và thờ phượng, nên các
nước cộng sản bắt buộc phải cho
lập ra các thành phần tôn giáo yêu nước, với
mục đích là che mắt với thế giới bên ngoài
nh́n vào. Thành phần tôn giáo yêu nước này kỳ thực
là những đảng viên cộng sản của nhà
nước trá h́nh để nắm quyền các tôn giáo trong
tay. Những chức sắc và những người tu hành
thuần túy đối với nhà nước vẫn im
lặng, lo chuyện tu hành và ủng hộ nhà nước
cộng sản th́ không sao, c̣n nếu có chống lại,
hoặc phản kháng điều ǵ th́ bị đày đi
chỗ khác, tức là không c̣n thuộc thành phần lănh đạo
nữa. Họ đă phải bị đi như cải
tạo, hoặc bị giam lỏng tại chùa, nhà thờ,
thánh thất hoặc tại nhà, v.v... Do đó số
phận của họ gần như hoàn toàn đă bị nhà
cầm quyền cộng sản khống chế, ngày nay
chỉ c̣n hy vọng vào sự tích cực hỗ trợ
của những người ở hải ngoại mà thôi.
Tại Việt Nam, những tôn giáo
chính yếu là: Phật Giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo, Công Giáo và
Tin Lành đă bị nhà nước kềm chế thật
chặt chẻ. Riêng Công Giáo và Tin Lành, từ lâu bị nhà
nước cộng sản Việt Nam coi như là thành
phần nguy hiểm nhất. Năm 1954 gần một
triệu người (khoảng 986.000 người) đă di
cư từ ngoài Bắc vào Nam để chạy trốn
cộng sản, trong đó có hơn phân nửa số
người là giáo dân Thiên Chúa Giáo. Từ năm 1975 đến
nay có rất nhiều người của Công Giáo hoặc
Tin Lành nổi lên chống lại nhà nước chuyên chính.
Nhưng tất cả đều đă bị giết
chết, hoặc bị bắt giam vào tù, hoặc phải
cải tạo cho đến ngày nay. Nếu c̣n sống sót được,
khi phóng thích th́ đă già và bị bệnh hoạn liên miên,
như các Linh mục Chân Tín, Phạm Minh Trị, Đinh
Viết Hiếu, Ngô Quang Tuyến, Trần Hữu Thanh,
v.v... các Mục sư Nguyễn Lập Ma, Trần Văn
Vui, v.v... (6). Đối với Công Giáo và Tin Lành trong t́nh
thế hiện tại, họ đă cố giữ im
lặng như không có chuyện ǵ quan trọng xảy ra!
Sự việc 250.000 giáo dân tập
họp lại làm lễ kỷ niệm Đức Mẹ
xuất hiện cách đây 200 năm tại La Vang và Đức
Giáo Hoàng Jean Paul II dự định qua Việt Nam vào đầu
thế kỷ 21 là những dọn đường sắp
tới có thể Thiên Chúa Giáo sẽ làm một chuyện quan
trọng nào khác. Cộng sản Việt Nam lo sợ
trước việc Giáo Hoàng muốn qua Việt Nam, nên c̣n
trù trừ chưa dám có quyết định mời hay
không!
Nhưng ba tôn giáo Phật Giáo, Cao Đài
và Ḥa Hảo hiện nay đang lâm vào t́nh trạng vô cùng thê
thảm. Họ đă bị nhà cầm quyền cộng
sản khống chế gần như toàn bộ mọi sinh
hoạt. Những người chức sắc lănh đạo
các tôn giáo đă bị cộng sản Việt Nam bắt đi
cải tạo và có người đă phải chết
tức tưởi trong lao tù cộng sản.
Gần đây nhất là Giáo hội
Phật Giáo Ḥa Hảo ở hải ngoại đă cho
biết về sự kiện nhà cầm quyền cộng
sản Việt Nam gia tăng đàn áp sinh hoạt của
tín đồ Phật Giáo Ḥa Hảo tại Việt Nam. Năm
1939 Đức Huỳnh Giáo Chủ khai lập ra Phật
Giáo Ḥa Hảo. Đầu năm 1947, các tín đồ
Phật Giáo Ḥa Hảo ở miền Tây chống lại
chủ trương độc đoán của các ủy ban
Việt minh v́ họ áp dụng chính sách độc tài trong
sự tổ chức và cai trị quần chúng. Muốn
tránh cuộc cốt nhục tương tàn, Đức
Huỳnh Giáo Chủ về miền Tây Nam Việt với
hảo ư trấn tĩnh ḷng phẫn nộ của tín đồ
Phật Giáo Ḥa Hảo và để giảng ḥa hầu đoàn
kết chống thực dân cho hiệu lực. Nhưng ngày
16-4-1947, ủy ban hành chánh Việt minh âm mưu bắt ngài
tại Đốc Vàng (vùng Đồng Tháp). Từ đó
không ai rơ tin tức chi về Đức Huỳnh Giáo
Chủ ... (7). Nhưng đă có nhiều dư luận trong
quần chúng cho là âm mưu sát hại Đức Huỳnh
Giáo Chủ là do Việt cộng bày ra.
Để xoa dịu phần nào ḷng
căm phẩn của tín đồ Phật Giáo Ḥa Hảo,
cộng sản Việt Nam đă cho bộ phận ngoại
vi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dựng lên
một ban đại diện Phật Giáo Ḥa Hảo yêu
nước, quốc doanh, do Nguyễn Văn Tôn, bí danh
Mười Tôn, một đảng viên cộng sản
kỳ cựu đứng đầu, và chỉ thị
tổ chức đại lễ 18-5 để trắc
nghiệm (8).
Với hơn 1 triệu
người đă về tham dự ngày đại lễ
18-5-1999, kỷ niệm 60 năm (1939) ngày Đức
Huỳnh Giáo Chủ khai sáng nền đạo Phật Giáo
Ḥa Hảo, khiến cho cộng sản Việt Nam hoảng
sợ, v́ không ngờ sau bao năm xuyên tạc, đàn áp, và
trong những ngày trước lễ họ đă tạo
nhiều khó khăn cản trở, thế mà niềm tin tôn
giáo vẫn không hề lay chuyển trong ḷng tín đồ
Phật Giáo Ḥa Hảo (9).
Đối với Đạo Cao Đài
cũng vậy. Đạo Cao Đài đă được
thành lập năm 1926 tại miền Nam Việt Nam. Đệ
tử đầu tiên là ông Ngô Văn Chiêu và các đệ
tử kế tiếp truyền đạo và hầu đàn
cơ, như các ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư,
Cao Hoài Sang, Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung
Hậu (10).
Cộng sản Việt Nam đă
dùng thành phần Ban đại diện tôn giáo yêu
nước để bắt buộc các giới chức
sắc lănh đạo cao cấp như Đầu sư,
Phối sư, Giáo sư và Giáo hữu thuộc về Bát
Quái Đài, Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài phải
bị khống chế. Các cơ sở tôn giáo Cao Đài
bị cộng sản chiếm đóng sau năm 1975 không được
hoàn trả.... Cộng sản c̣n cho rằng Hội Thánh Ṭa
thánh Tây Ninh là một tổ chức không được
quyền sinh hoạt tôn giáo, không được chính
thức công nhận, và bị nhà cầm quyền trừng
phạt bằng nhiều biện pháp như theo dơi, quấy
nhiễu, quản thúc, bắt bớ, quản chế hành
chánh, giam cầm, cải tạo, tịch thu giáo sản,
v.v... (11). Chức sắc trung kiên như các Sĩ tải Văn
Ḥa Vui, Lại Thanh Thế, Đỗ Hoàng Giảm... vẫn
c̣n tù ở Hàm Tân, Phú Khánh... Chư vị chưa vào tù th́
bị cô lập tại gia, tín đồ nam nữ th́ luôn
bị mời mọc răn đe (12).
Ṭa thánh Tây Ninh giờ đây chỉ
là nơi để cho người du lịch của các
nước đến xem, và Ban đại diện tôn giáo
yêu nước, kỳ thực là đảng viên của đảng
cộng sản và đoàn viên của Mặt trận Tổ
quốc, đă trở thành những người lănh đạo
của Đạo Cao Đài. Thí dụ như, theo Mặt
trận Tổ quốc trung ương chỉ thị,
Trưởng ban tổ chức lễ tang cho Phối sư
Thượng Thơ Thanh, không phải là Giáo sư
Thượng Tám Thanh hay vị nào trong Đạo, mà là "đồng
chí" Út Hồng, Chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc tỉnh Tây Ninh. Và tang lễ của vị chức
sắc cao cấp trong Đạo đă diễn ra
dưới sự điều hành của viên chức nói
trên (13). Tóm lại các tín đồ thuần túy của Đạo
Cao Đài lần lần gần như vắng bóng
trước các màn tŕnh diễn này của thành phần tôn
giáo yêu nước.
Phật Giáo giờ đây cũng
trong t́nh trạng trên. Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất gần như mất hết quyền lănh đạo
trước cái gọi là Phật Giáo yêu nước.
Một số các giáo phẩm cao cấp đă bị nhà
nước cộng sản Việt Nam tước đoạt
hết tất cả các quyền lănh đạo, và c̣n
bị giam cầm trong cải tạo nhiều năm qua.
Ngày nay tuy họ được nhà nước phóng thích,
nhưng họ vẫn bị quản thúc hoặc cô lập
tại chùa hoặc tại nhà, như các Ḥa thượng
Thích Huyền Quang, Ḥa thượng Thích Quảng Độ,
các Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, Thích
Không Tánh, Thích Nhật Bản, Thích Trí Lực, v.v... (14).
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất hiện nay đă bị cấm chỉ
tất cả mọi hoạt động, kể cả
quyền cứu trợ nạn nhân băo lụt... Vào tháng 10 năm
1994 Giáo hội đă gởi những phái đoàn cứu
trợ nạn nhân lũ lụt đồng bằng sông
Cửu Long. Nhưng đến lượt cứu trợ
lần thứ 3 th́ bị nhà cầm quyền cấm đoán,
các Ḥa thượng, Thượng tọa, Cư sĩ
cầm đầu phái đoàn cứu trợ bị bắt
và bị lănh án từ 3 đến 5 năm tù (15). Do đó
trong những lần cứu trợ tới đây, như
vào đầu tháng 11-1999 băo lụt đă xảy ra ở 7
tỉnh miền Trung mà nặng nhất là Thừa Thiên
Huế... Ḥa thượng Thích Quảng Độ đă
thông báo chỉ thị: "...V́ mọi hoạt động
của Giáo hội hiện đang bị cấm chỉ, nên
Giáo hội không thể công khai và trực tiếp lănh đạo
tăng ni Phật tử tham gia công tác cứu trợ.
Nhưng Giáo hội sẽ hóa thân vào bất cứ nơi nào
có thể, không danh tướng, không h́nh thức..."
(16).
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất hiện có Văn pḥng 1 Viện Hóa Đạo
tại Việt Nam do Ḥa thượng Thích Quảng Độ
ở Thanh Minh Thiền Viện và Thượng tọa Thích
Tuệ Sỹ ở Chùa Già Lam điều hành. Văn pḥng 2
Viện Hóa Đạo tại California Mỹ do Ḥa
thượng Thích Hộ Giác trông coi, và Pḥng Thông tin Phật
Giáo Quốc tế có trụ sở tại Parijs Pháp do ông
Vỏ Văn Ái quản nhiệm. Nhưng quan trọng trong
lúc này là các công tác ở hải ngoại. Các việc chủ
yếu về thông tin liên lạc mọi việc đều
do Pḥng Thông tin Phật Giáo Quốc Tế điều động.
C̣n ở trong nước th́ đă có ban đại diện
của Giáo hội Phật Giáo yêu nước dành quyền
chủ động tất cả. Giáo hội Phật Giáo
yêu nước ngày nay đă trở nên khuôn mẫu mà
cộng sản Việt Nam đă xếp đặt
sẵn.
Ban đại diện tôn giáo yêu
nước, quốc doanh, hay c̣n gọi là Ban tôn giáo chính
phủ, hiện nay đă nắm tất cả quyền
quyết định về các sinh hoạt tôn giáo. Thủ
tướng cộng sản Phan Văn Khải đă đưa
ra một Nghị định 26/1999/NĐ-CP để các
tôn giáo phải thi hành quyết định này, và
người Trưởng ban Tôn Giáo cũng do cộng
sản đặt để có nhiệm vụ hướng
dẫn, đôn đốc và kiểm tra việc thi hành.
Nghị định 26/1999/NĐ-CP
ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo tại
Việt Nam quy định trong đó gồm có 3
Chương, 29 Điều khoản theo đề nghị
của Trưởng ban Tôn Giáo chính phủ (17).
Điều 1: Nhà nước
Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, và quyền
tự do không tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử v́ lư do tín ngưỡng, tôn
giáo.
Điều 2: Công dân theo tôn giáo
hoặc không theo tôn giáo đều b́nh đẳng
trước pháp luật, được hưởng
mọi quyền công dân và có trách nhiệm được
hưởng nghĩa vụ công dân.
Điều 3: Các hoạt động
tôn giáo phải tuân theo luật pháp của Nhà nước
Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
.......
Điều 5: Mọi hành vi vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
chống lại Nhà nước CHXHCNVN, ngăn cản các tín
đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp
đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn
hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê
tín dị đoan đều bị xử lư theo pháp
luật.
.......
Điều 8: 1) Tổ chức tôn
giáo có tôn chỉ, mục đích, đường
hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù
hợp với pháp luật và được Thủ tướng
chính phủ cho phép hoạt động th́ được
pháp luật bảo hộ.
2) Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở
thờ tự tôn giáo (các buổi cầu nguyện, hành
lễ, giảng đạo, học tập giáo lư) đă đăng
kư hàng năm và thực hiện trong khuôn viên cơ sở
thờ tự th́ không phải xin phép.
3) Những hoạt động tôn giáo vượt ra
ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa đăng
kư hàng năm phải được phép của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
4) Tổ chức tôn giáo được tạo
nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự
nguyện của cá nhân, tổ chức, từ những thu
thập hợp pháp khác.
Việc tổ chức quyên góp
phải được chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp tỉnh cho phép.
Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ
đóng góp.
Việc quản lư, sử dụng các tài khoản tài
chính có được từ các nguồn trên đây thực
hiện theo qui định của pháp luật.
5) Tổ chức tôn giáo hoạt động trái tôn
chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo,
cơ cấu tổ chức đă được chính
phủ cho phép th́ bị đ́nh hoạt động.
Những cá nhân chịu trách nhiệm về những vi
phạm đó bị xử lư theo pháp luật.
.............
Điều 20: 1) Việc phong giáo phẩm Hoà
thượng trong đạo Phật, Hồng y, Giám
mục, chức vụ giám quản trong đạo Thiên Chúa
và các giáo phẩm, chức vụ tương đương
trong các tôn giáo khác phải được sự chấp
thuận của Thủ tướng chính phủ.
2) Việc phong chức cho chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo không thuộc diện nói tại khoản 1. Điều
này phải được sự chấp thuận của
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Điều 21: Việc bổ
nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc, nhà tu hành
và những người chuyên hoạt động tôn giáo,
kể cả những người do tín đồ bầu
ra tùy theo địa bàn hoạt động cụ thể
phải được Chủ tịch ủy ban nhân dân
quản lư hành chính các địa bàn đó chấp thuận.
.............
Điều 26: 1) Các hoạt động
viện trợ của các tổ chức tôn giáo nước
ngoài hoặc có liên quan đến tôn giáo nước ngoài đều
tuân theo chính sách, chế độ quản lư viện
trợ hiện hành và thông qua các cơ quan được
chính phủ Việt Nam giao phụ trách công tác quản lư
viện trợ.
2) Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước
muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải
xin phép Thủ tướng chính phủ.
............
Điều 28: Các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ, Chủ
tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có trách nhiệm thi hành nghị định
này.
Điều 29: Trưởng ban tôn
giáo của chính phủ hướng dẫn, đôn đốc
và kiểm tra việc thi hành nghị định này. (18)
Xuyên qua các điều khoản trên,
các tôn giáo hiện tại đă bị khống chế
bởi nghị định này và những việc cấm đoán
của những người có chức quyền ở
tại các địa phương, chẳng hạn như
việc kêu gọi đến pḥng công an để thẩm
vấn, tra hỏi, và phải làm bản cung khai, kiểm điểm,
v.v...
Việc cung khai, kiểm điểm
này cũng tương tự như những người
không thuộc thành phần tôn giáo đă bị bắt
trước đây, như các ông Bác sĩ Nguyễn Đan
Quế, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Minh Chính, Phó
tiến sĩ Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh
Quốc, Hoàng Tiến, v.v... Chẳng hạn như Bác sĩ
Nguyễn Đan Quế đă được cộng
sản Việt Nam phóng thích vào dịp Quốc khánh 2-9-1998,
nhưng đi đâu cũng bị theo dơi, tất cả các
điện thoại, fax, e.mail đă bị kiểm soát và
cắt hết đường dây, v.v... (19). Tóm lại, khi được
thả ra khỏi nơi cải tạo, nhưng cũng c̣n
phải bị quản chế tại gia trong một
thời hạn. Nếu thấy trong thời gian đó
tốt, không có việc ǵ xảy ra mới được
tự do, nếu không th́ sẽ bị măi măi.
Tranh đấu cho nhân quyền
ở Việt Nam trong hiện tại và cho tương lai có
rất nhiều tổ chức và đoàn thể của
người Việt Nam ở hải ngoại hưởng
ứng. Đặc biệt cho nhân quyền Việt Nam
ở tại hải ngoại, một trong số những
tổ chức đang hoạt động mạnh là
Mạng lưới Nhân Quyền tại Mỹ.
Mạng lưới Nhân Quyền
tập hợp và qui tụ nhiều thành phần nhân sự
của Việt Nam và quốc tế, thúc đẩy và kêu
gọi về nhân quyền tại Việt Nam. Mạng
lưới Nhân Quyền chủ trương xử dụng
tối đa các tiến bộ của khoa học và kỹ
thuật, đặc biệt là trong lănh vực truyền
thông đại chúng như sách báo, truyền thanh, truyền
h́nh, điện thoại, điện thư, và nhất là
mạng lưới điện toán toàn cầu (20). Trong đại
hội kỳ 3 vào tháng 10-1999, Mạng lưới Nhân
Quyền đă có Quyết nghị:
Thứ nhất: Đẩy mạnh
công tác và phát triển Mạng lưới Nhân Quyền
tại các cộng đồng Việt Nam trên thế
giới.
Thứ hai: Khai triển những
liên hệ và cộng tác với các tổ chức và cá nhân đấu
tranh cho nhân quyền trong nước, đặc biệt là
công tác đấu tranh cho tự do tôn giáo và tự do ngôn
luận đang bị chà đạp nặng nề tại
Việt Nam.
Thứ ba: Cổ vơ giới trẻ
trong và ngoài nước tích cực tham gia vào các công tác đấu
tranh nhân quyền.
Thứ tư: Đẩy mạnh ư
thức nhân quyền, niềm khao khát chung của toàn dân, để
bắt kịp trào lưu nhân quyền trên thế giới.
Thứ năm: Đề cao nhân
quyền như một mẫu số chung để tạo
điều kiện thuận lợi cho sự đoàn
kết giữa các lực lượng đấu tranh cho
dân tộc (21).
Mạng lưới Nhân Quyền có
thể đạt được nhu cầu theo tầm nh́n
xa:
1. Tạo
dư luận thuận lợi cho công cuộc đấu
tranh nhân quyền Việt Nam;
2. Tăng
thêm sự thông cảm giữa những thành phần khác nhau
trong cộng đồng v́ cùng bắt tay làm việc cho nhân
quyền Việt Nam mà không chịu sự thống thuộc
của nhau;
3. Đề
cao đấu tranh cho tự do và nhân quyền là đấu
tranh chính yếu cho dân tộc (22).
Nh́n chung có những mặt nổi đáng
kể về mặt nhân quyền. Nhưng nếu nh́n
rộng và xa hơn, th́ cuộc tranh đấu của
người Việt Nam, đặc biệt cho nhân
quyền, rút ra kinh nghiệm trong những năm vừa qua:
· Chưa
có đồng nhất, nên mạnh ai nấy làm.
· Rất
hạn hẹp, trong khuôn khổ. E ngại đủ
thứ, phe ta cũng như phe địch, nên không dám nói ra
sự thật.
· Chưa
thoát ra được giữa h́nh thức cũ và mới.
Chỉ mới bắt đầu ló dạng những tổ
chức trẻ, những người trẻ.
· Một
số lớn chưa thực sự nắm vững t́nh h́nh
bên trong nước và bên ngoài nước.
· Chưa
đủ về vật chất, phương tiện, thông
tin... V́ hầu hết vật chất, phương tiện
là do tự bỏ tiền ra để hoạt động,
để mua sắm dụng cụ, di chuyển... C̣n
những thông tin ở Việt Nam có được, một
phần lớn phải qua hệ thống thông tin của
chính quyền cộng sản Việt Nam, thí dụ như
internet, e.mail, fax, điện thoại...
· Và
một điều thiếu sót rất lớn là tinh
thần đấu tranh. Tinh thần vô cùng quan trọng, có
thể quyết định những yếu tố thành hay
bại về mọi mặt. Tinh thần cũng có thể
coi như là một ư chí, nung nấu những việc làm
của người (hay tổ chức) cho các việc làm
trong tương lai.
Tinh thần đấu tranh ở
hải ngoại theo thời gian dài, có thể bị thay đổi
theo cách nh́n trước hoặc sau sự việc và cho đến
ngay cả con người. Sự thay đổi này rất
nhiều, có thể là những biến đổi:
· v́
sinh kế cho gia đ́nh;
· v́
quá khích, chống cộng cực đoan, muốn tất
cả mọi người cũng như ḿnh;
· v́
chủ trương ôn ḥa, rồi bị cho là thân cộng
hoặc cộng sản;
· v́
chạy theo những lợi nhuận hoặc bị hăm
dọa của kẻ địch mà sẵn sàng làm tay sai cho
chúng;
· v́
có những người ham danh lợi và quyền lực ra đấu
tranh;
· v́
có nhiều người ở không quá rồi bất măn,
tỏ ra là người hiểu biết, và chửi hết
người này đến người khác;
· v́
những người không hiểu biết ǵ về cuộc
tranh đấu;
· v́
những lư do khác...
Do đó tinh thần tranh đấu
của người Việt Nam ở hải ngoại theo
ngày tháng càng làm cho bị động, mai một đi. Trong
lúc này c̣n những người đưa cao ngọn cờ
tranh đấu tiếp tục là những người đă
hiểu rỏ bộ mặt thật của đường
hướng và chủ thuyết cộng sản. Nhưng
một số lớn vẫn cố giữ lấy đường
lối chống cộng trước năm 75, nếu có
thay đổi th́ chỉ một phần nhỏ nào đó mà
thôi. Một phần v́ không có đối sách, một
phần v́ phải chạy theo sinh kế ... nên họ đă đứng
trước ngă ba, ngă tư đường để t́m
lối đi. Cho nên dù muốn
dù không, cũng phải nh́n nhận là chúng ta đă mất
chân đứng trong vị thế đấu tranh cùng
cộng sản.
Mà không mất thế làm sao được!
Trong khi cộng sản với một tập thể
rộng lớn, có cơ sở sẵn, đội ngũ
vững vàng với 2,3 triệu đảng viên, trên
dưới một ḷng làm việc cho đảng và nhà
nước, tại v́ nếu hai, ba ḷng khi phát giác kịp
thời th́ có thể bị trừng trị ngay, hoặc
bị trục xuất ra khỏi đảng chẳng
hạn như Trần Độ, Nguyễn Thanh Giang, Hà
Sĩ Phu, Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao
Bảo Cự, v.v... C̣n chúng ta, các đảng phái, đoàn
thể, tổ chức... bị phân hóa, nghi kỵ, bè phái,
chia rẽ... th́ làm sao có thể phất cờ làm việc được!
Cho nên trong hiện tại, nếu
muốn công cuộc tranh đấu của người
Việt Nam, đặc biệt cho nhân quyền, trong
tương lai có hiệu quả và vươn lên được
th́ trước tiên:
1. Phải
Hợp Đoàn, nên đồng thuận cùng nhau trước
phương thức xây dựng tập thể tổ chức
của người Việt Nam tại hải ngoại.
Hợp Đoàn không phải là hợp nhất lại làm
một, mà là phối hợp các hoạt động của
các tổ chức cho nhịp nhàng, uyển chuyển để
từ đó tạo được bước tiến lên
mạnh mẻ, đồng bộ và cùng khắp.
Người Việt Nam ở hải ngoại nên ư thức
rằng muốn đem lại cho nước Việt Nam được
tự do, dân chủ và nhân quyền th́ điều
trước tiên là phải Hợp Đoàn. Không Hợp Đoàn
không thành công!
2. Các
tổ chức của người Việt Nam ở hải
ngoại phải có một chủ trương nhất quán
là không chống, không khích bác, không công kích, không đả phá
lẫn nhau nữa. Sự đoàn kết của
người Việt Nam, đặc biệt ở hải
ngoại, là một liều thuốc mạnh mẽ có
thể đánh tan hết mọi sự nghi kỵ, chia
rẽ, phân hóa, bè phái... Thực vậy, nếu cuộc tranh
đấu cho nhân quyền Việt Nam mà mọi
người đều đồng ḷng quyết tâm th́
những thành quả có được chắc chắn là
sẽ dễ dàng đạt được, bằng không
th́ ngược lại.
3. Tổ
chức nhân quyền phải xây dựng từ các cơ
sở hạ tầng đi lên. Chậm nhưng chắc. Đừng
bao giờ xây thùng không đáy, cất nhà không nóc. Biết bao
tổ chức không có đường đi tới,
hoặc tới rồi không biết lui ra sao, cũng là v́
việc này, tức là không biết con đường
tiến thối trong việc tranh đấu. Một khi
thời cơ cho phép tiến tới được, th́ có
thể tiến lên như vũ băo. Khi không thể tiến
lên, th́ chúng ta nên tự chuẩn bị chu đáo cho thời
cơ thích hợp. Không trở ngại, không băng khoăng!
4. Phải
t́m cách xin tài trợ của chính phủ và những tổ
chức của mỗi nước. Vấn đề tài
chánh là chính yếu và ṇng cốt nhất của chúng ta. Do đó
mỗi người nên nghĩ cách thức nào để có
thể tạo ra tài chính. Tổ chức cần có bộ
phận lo riêng về mặt này. Đành rằng việc xây
dựng cơ sở và tạo ra tài chính là việc làm
của người Việt Nam, nhưng nếu không có
tiền tài trợ của chính phủ và các tổ chức,
chúng ta sẽ không thể làm được việc lớn
và lâu dài được. Nói cách khác, không có tài chính th́ sẽ
không làm được điều ǵ nổi bật cả.
5. Người
Việt Nam ở hải ngoại nên sử dụng
"Tứ lạng bát thiên cân" (23) làm thế chính
yếu trong đối sách. Từ năm 2000 trở đi,
cộng sản Việt Nam sẽ tạo nhiều cơ hội
gần gủi, triển lăm, hội chợ, văn nghệ,
thuyết tŕnh, v.v... ở hải ngoại này. Mặc dù trên
danh nghĩa với quốc tế, nhưng đàng sau đó
là cộng sản Việt Nam bắt đầu bành
trướng mọi hoạt động tuyên vận ra ngoài
hải ngoại. V́ sao? Tại v́ các hoạt động đấu
tranh ở trong nước đă tạm thời lắng
dịu, gần như không có hoặc không c̣n những ai có
thể lănh đạo thành phần chống đối nhà
nước được, nên cộng sản Việt Nam
mới rảnh tay trù tính những việc ở hải
ngoại.
6. Tổ
chức nên lấy quyền lợi con người mà
phục vụ, quyền sống của dân chúng mà đ̣i
hỏi, và quyền tự do của nhân dân mà tranh đấu.
Cho nên khi một tổ chức nhân quyền h́nh thành là để
tranh đấu, can thiệp, đ̣i hỏi cho những
nạn nhân đang bị giam trong tù ngục, bị chính
quyền đàn áp, áp bức v́ bởi hành động chính trị,
tôn giáo, v.v... Do đó tổ
chức nhân quyền phải trải rộng hoạt động,
mà không theo một xu hướng hay một khuynh
hướng nào. Tổ chức nhân quyền nên hoạt động
có tính cách đứng giữa, và lắng nghe mọi khuynh
hướng của tất cả.
7. Bản
thân của những người tranh đấu cho nhân
quyền, khi có quyết tâm ra gánh vác công việc chung,
trước hết phải:
a).
Thành thật với tổ chức, chiến hữu, chí
hữu, bạn bè...
b).
Xử trí ngay thẳng và cần nhất trong sạch trong
việc làm.
c).
Mềm dẻo tế nhị khi đối thoại cùng ta
lẫn đối phương.
d).
Khiêm tốn cùng mọi người, cho dù người đó
có làm điều ǵ bất lợi cho ta.
e).
Trầm tỉnh để tính toán và giải quyết
những việc rắc rối xảy ra.
f).
Bén nhạy trong công việc, nhưng không cẩu thả
trong quyết định.
g).
Cương quyết bỏ tính buồn rầu hay nóng
giận hoặc hờn dỗi người nào đó
rồi bỏ luôn công
việc chung.
Trên đây là những điểm đề
nghị cho những người muốn tranh đấu
về nhân quyền. Một tổ chức nhân quyền
lớn mạnh là phải kinh qua nhiều việc lớn
cũng như nhỏ, có khi chủ động và bị động
v́ t́nh thế trước cuộc diện mới. Do đó
tổ chức nhân quyền cố gắng thực hiện
từng điểm một, chậm nhưng chắc
chắn có kết quả, th́ đó chính là những điểm
làm cho mọi người tin tưởng và từ từ
tổ chức nhân quyền sẽ đi lên.
Muốn được những
thành quả trên, chính những đoàn thể, tổ
chức, đảng phái và dân chúng làm những điểm
tựa xúc tác vào cho những người tranh đấu
nhân quyền. Như vậy giữa tổ chức nhân
quyền và những tổ chức khác phải hỗ
tương cùng nhau cho mục đích chung. Khi mọi tổ
chức đều cùng nhắm vào trung điểm, th́ lúc đó
Chiến Lược mới có cơ hội thành h́nh, và các
Chương Tŕnh mới có thể thực hiện các điểm
mấu chốt một cách trọn vẹn được.
Trong hiện tại tổ chức
nhân quyền có được lợi thế v́ được
quốc tế hỗ trợ, và cộng sản Việt Nam
có nhiều điều cấn kỵ khi hành xử các
phạm nhân dính líu vào nhân quyền. Liên Hiệp Quốc đă
nhiều lần lên án các nước cộng sản, và cho
họ là thành phần không tôn trọng nhân quyền. Do đó,
nếu chính quyền Việt Nam muốn được
quốc tế viện trợ, giúp đỡ th́
trước tiên phải lo về nhân quyền. Nói tóm
lại, phóng thích những người bị đi cải
tạo là nhiệm vụ phải làm của nhà cầm
quyền Việt Nam mà thôi.
Từ năm 2000 trở đi, nhân
quyền có làm được điều ǵ lợi thế là phải do
những người và các tổ chức Việt Nam có đồng
ḷng hỗ trợ cho tổ chức nhân quyền hay không?
Nếu đồng ḷng hỗ trợ th́ chắc chắn
tổ chức nhân quyền có cơ hội bành
trướng được, nới rộng phạm vi
thế lực với quốc tế và nhà nước
cộng sản Việt Nam. C̣n không th́ cũng vẫn như
cũ.
Không lẽ bếp lửa gần
tàn mà không có ai chụm thêm củi...!!
Ghi chú (Noten):
1. De
Rechten van de mens in het buitenlands beleid, Quốc hội Ḥa Lan,
1978-1979, 15571 nrs 1-2, blz 9.
2. Prof.dr.
P.R. Baehr, Mensenrechten, Đại học Leiden 1987, blz. 9-20,
Leendert Stofbergen Amsterdam 1989.
3. Luật
sư Nguyễn Hữu Thống, Nhân quyền, Mạng
Lưới Nhân Quyền Việt Nam. Phỏng theo bản
dịch của Trung tâm Việt Nam về nhân quyền
với sự tu chính của Ủy ban Luật gia bảo
vệ nhân quyền.
Prof.dr. P.R. Baehr, Universele Verklaring van de Rechten van de Mens,
Mensenrechten,
blz. 167-174, Leendert Stofbergen Amsterdam 1989.
4. Dr.
P.C.J. Druijven en Dr. A.L van Naerssen (red.), Pacifisch Azie, Van Gorcum 1997
5. Idem.
6. Internet
vnhrnet.org, List religious prisoners and house Detainees, Committee for
Religious Freedom in Vietnam, Mạng lưới Nhân Quyền.
7. Internet
hoahao.org, Sự tích đạo Phật Giáo Ḥa Hảo; Vài nét
về Đức Huỳnh Giáo Chủ 12/10/1999.
8. Intenet
vietnews.net en hoahao.org 14/9, 17/10/1999.
9. Internet
nguoi-viet.com, lmvntd.org, hoahao.org 20/8, 14/9, 16/10/99.
10. Internet
caodai.org, Lược sử Đạo Cao Đài.
11. Internet
hoahao.org, Lê Trung Cang, Ban bảo vệ tự do tín
ngưỡng, Đạo Cao Đài.
12. Tâm
thư khẩn cầu Kháng nghị số 3, Người Áo
Trắng, Ṭa thánh Cao Đài Tây Ninh tố cáo CSVN đàn áp tôn
giáo. Internet lmvntd.org, 24-11-1999.
13. Idem.
14. Internet
vnhrnet.org, List religious prisoners and house Detainees, Committee for
Religious Freedom in Vietnam, Mạng lưới Nhân Quyền. Danh
sách các tù nhân về tôn giáo bị cải tạo tính đến
tháng 1-1997 và được Mạng Lưới Nhân
Quyền cập nhật vào ngày 20-10-1999 do Tổng thư kư
Ngô Văn Hiếu gởi ngày 16-11-1999.
15. Internet
lmvntd.org, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất, 10-1994.
16. Internet
thongluan.org, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất kêu gọi cứu trợ băo lụt, 18-11-1999.
17. Thủ
tướng Phan Văn Khải, Nghị định 26/1999/NĐ-CP
về các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam.
18. Nghị
định 26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999.
19. Internet
thongluan.org, Bs. Nguyễn Đan Quế kêu gọi, 12-7-1999.
20. Internet
vnhrnet.org, Vài hàng về tổ chức Mạng lưới
Nhân Quyền Việt Nam.
21. Internet
vnhrnet.org, Tường tŕnh kết quả đại
hội Mạng lưới Nhân Quyền kỳ 3, Làm tại
thành phố Anaheim, California Hoa Kỳ ngày 24-10-1999.
22. Idem.
23. Vũ
Tài Lục, Thủ Đoạn Chính Trị, Xuân Thu 1969;
Những Quy Luật Chính Trị trong Sử Việt, Xuân Thu
1970; Mưu Kế Chính Trị, Xuân Thu 1974.
Tôn Đức Pháp, Những nhà
mưu lược nổi tiếng xưa và nay, Danh Gia Trí
Mưu, Cà Mau 1996.
Trọng Tâm, Tam Thập Lục
Kế, Long An.
Ngô Tỵ, Mưu Lược Chính
Trị Đông Phương, Sống Mới 1972.
Robert Ogilvie, Krijgen is een kunst, Addison
Wesley Publishing Company, Inc. 1995.