Những Đề Nghị Cho
Người Việt Nam
Đầu Thế Kỷ 21
Ngô
Văn Tuấn
Sách Lược Dung
Hợp
Strategie van het Junghopisme
2-2000
|
V |
ới tinh thần hoàn toàn khách quan và trung
thực khi soạn thảo những điểm đề
nghị này tŕnh bày cùng quư vị,
tôi đă đúc kết các tài liệu, dữ kiện
và các phương tiện có được của các
tổ chức, đoàn thể và đảng phái
người Việt Nam ở hải ngoại, ở
quốc nội, của cộng sản và của quốc
tế để hy vọng được hoàn chỉnh sách
lược này.
Dĩ nhiên những tài liệu, dữ
kiện và phương tiện tôi chỉ có trong hạn
hẹp mà thôi, nên có thể không đủ làm nền
tảng cho sách lược. Có rất nhiều quan niệm
và lập trường khác nhau của nhiều tổ
chức, đoàn thể và đảng phái, v́ vậy xin quư
vị hăy đóng góp ư kiến. Rất hoan nghênh những ư
kiến, phê b́nh nào có những nhận thức mới. Có
như vậy mới có dịp để sách lược được
hoàn chỉnh và tôi cũng được học hỏi
thêm.
Sách lược gồm có Luận
thuyết và 3 Giai đoạn I, II, III. Mỗi Giai đoạn
có các Phần: A cho người Việt Nam ở hải
ngoại, B cho tổ chức quốc tế và C cho
người Việt Nam tại quốc nội.
Giai đoạn I Phần A cho người
Việt Nam ở hải ngoại gồm có:
Điểm 1A.I: Hợp Đoàn
Điểm 2A.I: Chủ Động
Điểm 3A.I: Chủ Đạo
Điểm 4A.I: Nguyên Tắc
Điểm 5A.I: Nhân Quyền
Điểm 6A.I: Đối Thoại
Giai đoạn II Phần A gồm có:
Điểm 1A.II: Chiết Trung.
Điểm 2A.II: Nối Kết.
Điểm 3A.II: Tựu Kế.
Trong khuôn khổ những bài này, tôi
viết có tính cách tổng quát mà không đi sâu vào chi
tiết.
Điểm 2A.I:
Chủ Động
Cộng sản Việt Nam đă củng
cố con đường tất yếu là xây dựng
chế độ Xă hội chủ nghĩa. Cộng sản
cố duy tŕ đường lối độc quyền và đảng
trị này trong t́nh trạng tiến thối lưỡng
nan:
1. Duy tŕ và
phát triển kinh tế theo đường hướng xă
hội chủ nghĩa. “Đổi mới kinh tế, đóng
cửa chính trị” đi theo hướng Đặng
Tiểu B́nh của Trung Quốc, chỉ là mong manh, èo
uột, không có lối thoát.
2. C̣n
rời bỏ con đường này là chết, hoặc
sống cũng không đứng lên được. Theo Đào
Duy Quát, Phó chủ nhiệm ban Văn hóa - Tư tưởng
Đảng cộng sản Việt Nam đă tuyên bố ngày
Rốt cuộc không c̣n con đường
nào khác hơn là phải duy tŕ chế độ hiện
hành.
Chúng ta phải t́m ra lối thoát cho họ.
V́ sao? Tại v́ nếu không t́m ra lối thoát thứ ba, là
chúng ta phải tiếp tục đấu tranh dai dẳng
trường kỳ. Con đường thoát ra này là các đảng
phái, tổ chức đều b́nh đẳng với nhau và
tôn trọng Hiến Pháp một khi đất nước được
xây dựng theo thể chế Dân chủ tự do và có nhân
quyền thật sự. Nếu Đảng cộng sản
Việt Nam qua cuộc bầu cử được
nhiều phiếu, th́ đương nhiên Đảng
cộng sản Việt Nam sẽ cầm quyền. Các đảng
phái khác sẽ ở trong vai tṛ đối lập. Các tổ
chức và mọi người dân Việt Nam đều phải
tôn trọng Hiến Pháp và tuân theo những ǵ mà luật pháp
Dân chủ tự do ấn định. Không trả thù, không
trả oán, không c̣n hận thù nhau nữa, mà tất cả đều
cùng chung xây dựng lại đất nước đă
bị đổ vỡ.
Nhưng muốn cho cộng sản
Việt Nam tựï nhiên chấp nhận rời bỏ con đường
độc quyền và độc đảng là một
chuyện vô cùng khó khăn, không tưởng, và như
vậy không c̣n là Đảng cộng sản Việt Nam
nữa. Đảng cộng sản phải có những
xảo thuật, thủ đoạn, thà giết lầm
hơn tha lầm để giữ vững và củng
cố sự độc quyền, độc đảng của
họ. Đối với thế hiện tại của
người Việt Nam, chúng ta cũng không thể nào c̣n
dùng uy quyền hay biện pháp để bắt cộng
sản làm cái này hay làm cái khác. Trừ phi có chính sách nào đó
của các nước trên thế giới buộc cộng
sản Việt Nam nghe theo để đến bàn hội
nghị.
Hiện nay các nước trên thế
giới đă có một chính sách về kinh tế,
thương mại ... và viện trợ, giúp đỡ các
nhu cầu thiết yếu để cho Việt Nam phát
triển được. Và có thể từ từ rời
bỏ chế độ độc quyền và độc đảng
hiện tại. Nếu Việt Nam không chịu đáp ứng
những đ̣i hỏi, th́ quốc tế sẽ có biện
pháp mạnh hơn nữa, chẳng hạn như các
nước tự do Tây phương (Mỹ, Liên hiệp Âu
châu...), Úc, Á châu Thái B́nh Dương (Nhật, Nam Hàn, Đài
Loan, Hồng Kông, Singapore...) (2) sẽ có thể rút hết
các hoạt động đầu tư, bang giao, viện
trợ ... của họ ở Việt Nam. Quỹ Tiền
tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á châu và Ngân hàng
Thế giới sẽ có thể không c̣n cho Việt Nam vay tiền
nữa, v.v...
Nếu Việt Nam bị cô lập trên
trường quốc tế, chắc chắn sẽ bị
khốn đốn, nhất là nằm kề bên Trung
Quốc, trong khi việc Hoàng Sa và Trường Sa chưa
giải quyết xong. Cộng sản Việt Nam đă dùng
Trung Quốc làm chiếc phao bấu díu cuối cùng của
hệ thống độc quyền cộng sản,
nhưng lại cũng muốn đem ảnh hưởng
của các cường quốc Tây phương, Úc và Á châu
Thái B́nh Dương vào Việt Nam để đề pḥng
ư đồ thao túng của Trung Quốc. Cộng sản
Việt Nam muốn bắt cá hai tay, nên gần như
chắc chắn sẽ nới rộng cửa từ năm
2000 để lấy ḷng các cường quốc bên ngoài.
Cuộc diện của Việt Nam từ
năm 2000 trở đi sẽ có rất nhiều biến đổi,
nhất là về mặt kinh tế, thương mại,
bang giao... Mỹ và cộng sản Việt Nam vừa có
Hiệp ước Thương mại song phương vào
ngày 25-7-1999, và là năm đại xá cho các người tù
cải tạo (chính trị, thường phạm) đang
c̣n bị giam trong trại cải tạo của cộng
sản Việt Nam. Nhưng muốn cho cộng sản
Việt Nam nhanh chóng rời bỏ độc quyền và độc
đảng trong nước, chúng ta phải hỗ
tương, phối hợp và hỗ trợ cho các điểm
chủ yếu, nỗ lực của quốc tế, và
từ đó làm bàn đạp cho các điểm của chúng
ta.
Công việc trước hết là các
tổ chức cùng Hợp Đoàn - ưu tiên số một
- để có được một nền móng vững
chắc, cách tranh đấu hữu hiệu buộc
cộng sản Việt Nam phải nhượng bộ để
đến bàn hội nghị. Khi cộng sản Việt
Nam chấp nhận đến bàn hội nghị, th́
những yêu cầu, đ̣i hỏi của chúng ta chỉ là
vấn đề thời gian mà thôi.
Hiện tại, chúng ta đang chống
lại chính sách của đảng và nhà cầm quyền
cộng sản độc quyền, độc đảng,
bất công và tham nhũng, nhưng dứt khoát chúng ta không
chống lại nhân dân Việt Nam, v́ nhân dân Việt Nam và ta là một.
Nhân dân Việt Nam và ta chống lại chính sách độc
quyền và độc đảng của cộng sản
Việt Nam là dấu hiệu h́nh thành của giới bị
trị chống lại những kẻ thống trị
trong nước.
Trước t́nh h́nh mới từ năm
2000 trở đi, người Việt Nam ở hải
ngoại cần có 3 nhận định chủ yếu là:
Ta, Bạn ta và Khác ta.
Ta
¨ Ta là
những người cùng chung mục đích về một
nước Việt Nam tự do, dân chủ, nhân quyền,
thịnh vượng và hạnh phúc. Và hướng đi
chung của dân tộc Việt Nam là thể chế Dân
chủ tự do. Trong tương lai có tiến đến được
đa nguyên, hay bất cứ chế độ nào, cũng
là tùy thuộc vào nhân dân Việt Nam.
Hiện nay ở hải ngoại nạn
chia rẽ và bất đồng ư kiến của các tổ
chức chính trị người Việt Nam đă không
giảm. Sự việc này đă làm cho không ít người
rời khỏi chính trường. Việc họ rút lui
khỏi chính trường là điểm hoàn toàn có lợi
cho cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước
cộng sản Việt Nam tự cảm thấy chúng thành
công khi nào ở hải ngoại các tổ chức tự xâu
xé, chửi bới, đâm thọc lẫn nhau ... mà không
thể ngồi chung với nhau trong một chiến
tuyến.
Trước tháng 4 năm 1975 các đảng
phái, các viên chức, các lực lượng quân cán chính
của Việt Nam Cộng Ḥa đă cùng chung chống
lại sựï xâm lược của cộng sản.
Nhưng chúng ta đă phải thất bại trong tủi
nhục và đau đớn. Th́ giờ đây, nếu chúng
ta tự chia rẻ, tự gây mâu thuẫn, bất đồng
trong mọi đoàn thể th́ sẽ không ai cứu giúp chúng
ta cả. Và những lớp người trẻ tuổi
lớn lên ở hải ngoại có c̣n nhớ về
Việt Nam và tinh thần đấu tranh có c̣n nữa hay
không, tất cả là do chúng ta, thấy chúng ta!
Có thể ước độ số
người khoảng chừng 60-80% là thuộc về Ta.
Bao gồm người Việt Nam tỵ nạn sau 1975,
người Việt Nam qua trước 1975 và người
Việt Nam ở Đông Âu... Dĩ nhiên mỗi nhóm nào
cũng có những thành phần không thuộc về ta, tùy
theo ít hoặc nhiều mà thôi.
Số người này có lư tưởng,
nghĩ đến t́nh dân
tộc, nhưng về chính trị th́ phản đối
lại chính sách độc quyền, độc đảng,
bất công và tham nhũng của cộng sản Việt
Nam. Số người này một phần ở nhiều
tổ chức, đảng phái... nhưng một phần
lớn lại độc lập, không ở vào tổ
chức nào. V́ có nhiều lư do... Nhưng có chuyện ǵ liên
quan đến Việt Nam, họ cũng sẵn sàng, như
biểu t́nh, giúp đỡ, quyên góp...
Hăy cố gắng tạo nên t́nh yêu
nước, đoàn kết nơi tha hương, nên đùm
bọc lẫn nhau nhiều hơn nữa, nhất là
phải ổn định được nhân tâm, niềm
tin tưởng của người Việt nơi hải
ngoại. Niềm tin của người Việt Nam được
xây dựng và un đúc trong quá khứ là một thứ t́nh
cảm tự nhiên hài ḥa và mănh liệt. Nhưng cho đến
hôm nay, niềm tin đó đă bị đổ vỡ và phân
chia bởi những đoàn thể lợi dụng sự
tin tưởng của đồng hương, và các thành
phần khác cũng đă nhân dịp đó tạo ra nghi
kỵ, hận thù nhau... Sự chia rẽ đó đă
biểu hiện một sự đổ vỡ trầm
trọng mà cho đến ngày nay chưa có thể và chưa
có dịp hàn gắn lại được.
Bất cứ tổ chức nào trong quá
khứ cũng đều có sai lầm, dù lớn hoặc
nhỏ. Nhưng sai rồi biết sửa, th́ đó là
một việc làm tốt. Sai ván cờ này, ta phải nghiêm chỉnh
rút ra cho được những ưu và khuyết điểm
để rồi làm lại ván cờ khác. Người
Việt Nam sẽ dang hai tay rộng để hàn gắn,
giúp đỡ cho những người, cho tổ chức
nhận thấy những khuyết điểm, và giờ đây
biết sửa đổi, biết phục thiện.
Lư tưởng chân chính sẽ tạo cho
người Việt Nam tin tưởng. Sự chân thành tin
tưởng có thể hóa giải đi các uẩn khúc nghi
kỵ lẫn nhau. Và niềm tin sẽ sinh ra nhiều tác động.
Một trong tác động đó là làm cho chúng ta xích lại
gần nhau hơn. Niềm tin là chất keo dán lại
những chia ly, đổ vỡ... Không có niềm tin là
thất bại, sinh ra khích bác, nghi kỵ lẫn nhau... đi
đến chia rẽ, hận thù ...
Do đó, hăy củng cố niềm tin,
bằng mọi cách đem lại t́nh thương cho nhau.
Nếu không có t́nh thương của người Việt
Nam nơi đất khách quê người, th́ mọi
hoạt động của chúng ta cũng bằng thừa.
Nhất là những nhu cầu, nguyện vọng tha
thiết của giới trẻ càng thôi thúc mănh liệt cho
chúng ta phải xích lại gần nhau hơn bao giờ
hết.
Có những người thay v́ là Ta,
nhưng những hành động hoàn toàn khác với Ta, th́
những người đó được xếp vào thành
phần Bạn ta.
Bạn ta
¨ Bạn
ta là những người có khác quan điểm với ta,
và có thể họ đi theo con đường riêng của
họ. Chúng ta phải biết cách chiêu an, "cách
biến" những người khác quan điểm
với ta, và d́u dắt những người Việt Nam
trong nước đă ra hải ngoại - có thể họ đă
từng chống đối ta hoặc bỏ mặt ta -
giờ đây trở thành “Bạn ta”, giúp đỡ cho
ta.
Trong nước, nhân dân Việt Nam
dưới sự thống trị của đảng và nhà
nước cộng sản Việt Nam mà không thể nói lên được
những ǵ chất chứa trong ḷng họ. Khi ra ngoài
nước làm bất cứ việc ǵ, họ cũng
cảm thấy như là đổi mới phần nào cách
sống nhàm chán của họ ở trong nước. Họ
có thể là: Những người Việt Nam ra nước
ngoài buôn bán, thương mại, triển lăm...; Sinh viên du
học hoặc viên chức tu nghiệp ở các
trường cao đẳng, đại học hoặc
học viện nào đó; Những đoàn cải
lương, ca nhạc…; Những người đi du
lịch; Những người đi thăm thân nhân hiện
ở hải ngoại, v.v…
Nhưng khi ra ngoài nước, họ
lại gặp sự chống đối, đả kích
của người Việt Nam ở hải ngoại,
nhất là những người Việt Nam cực đoan
quá khích coi họ như là một phe với Đảng
cộng sản Việt Nam. Cho nên niềm uất ức
của họ không thể giải bày cùng ai. Sự việc
trên vô t́nh đă đẩy những người Việt Nam
trong nước vào bước đường chống
lại hoặc bỏ mặt những người Việt
Nam ở hải ngoại !!
Cho nên khi bước qua năm 2000 trở đi,
chúng ta chẳng những phải củng cố đường
lối cho phù hợp với t́nh h́nh mới, mà c̣n phải
nới rộng địa bàn hoạt động về
phía người Việt Nam ở trong nước ra hải
ngoại. Đó là thay v́ chống họ, giờ đây chúng
ta nên tiếp xúc, gần gủi, khuyến khích họ và có
thể biến đổi họ trở thành Bạn ta, giúp
đỡ cho ta. Những dịp tiếp xúc, gần gủi
và dẫn dắt cho họ hiểu được việc
làm của ta, chính là những dịp tuyên truyền hay
nhất trong chiến thuật Tuyên vận của ta.
Chúng ta phải cố tạo nên khoảng
cách càng nhỏ chừng nào càng tốt chừng đó. Có
như vậy th́ giữa họ và ta mới có thể đi
đến gần một được. Khi gần
một, họ về trong nước sẽ nói tốt và
hỗ trợ cho đường lối và chủ
trương của ta. Và từ đó, số ít sẽ
trở nên số nhiều người giúp ta trong công
việc chung. Đây là việc vô cùng quan trọng.
Chúng ta cần nên nới rộng phạm
vi hoạt động, d́u dắt nhiệt thành đối
với những đảng viên cộng sản bỏ đảng,
dù là ở hải ngoại hoặc ở quốc nội. Đối
với họ, ta cũng phải nên cẩn thận trong lúc
tiếp xúc gần gủi, v́ không khéo th́ sẽ bị
họ dẫn dắt lại ta. Tuy nhiên những đảng
viên ra ngoài hải ngoại không nhiều th́ ít, họ
cũng có cái nh́n xét lại đối với Việt Nam
hiện tại. Chúng ta cũng không nên bươi móc
những chuyện củ đă xảy ra trong quá khứ. Có
những vấn đề họ muốn chôn vùi thành dĩ
văng, càng không muốn ai nhắc đến nữa. Chúng ta
nên để sau này lịch sử sẽ phê phán hành động
đó.
Chúng ta nên có cái nh́n hiện tại và
tương lai. Có đối đăi và cư xử nhiệt
t́nh với những người đó, th́ những đảng
viên rời bỏ đảng cộng sản càng lúc càng đông.
Đó là điểm nổi bật về công tác tuyên
vận của chúng ta.
C̣n những thành phần mà chúng ta tiếp
xúc, gần gủi và dẫn dắt nhiều lần, họ
vẫn có những luận điệu bài xích ta, cố t́nh
làm ngược lại những điều mà ta cổ
vũ, khuyến khích họ, th́ những người đó
thuộc về thành phần Khác ta.
Khác ta
¨ Khác ta là
những người cộng sản khác ta về lập
trường chính kiến, là những kẻ đối đầu
cùng ta. Chúng ta phải ra sức ngoại giao, tuyên truyền
cho những người có khác với ta, tức là các đảng
viên cộng sản hiện đang ở nước ngoài,
trở thành những người “không chống đối
ta”.
Thành phần đảng viên của Đảng
cộng sản Việt Nam khi ra ngoài nước là những
người có công tác, chẳng hạn như làm việc
ở: Các ṭa đại sứ hay lănh sự quán; Cơ quan
quốc tế (Liên hiệp Âu châu EU, Liên Hiệp Quốc VN,
Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN, v.v…); Các giới chức
của đảng và nhà nước cộng sản đi
tham dự hội nghị của nước ngoài; Các
bộ phận t́nh báo hải ngoại, v.v…
T́nh báo của cộng sản trước
đây đă trà trộn vào làn sóng của những
người Việt Nam tỵ nạn ở khắp các
nơi trên thế giới, có thể đoán định vào
những năm 1979-1981, 1985-1987 và 1990-1992. Đặc
biệt từ giữa năm 1997 - sau khi tổ chức Đại
hội đảng lần thứ VIII năm 1996 và nhất
là Tổng bí thư Đảng cộng sản đă được
đề cử năm 1997 - cộng sản Việt Nam đă
cho những người t́nh báo trong nước ra hoạt động
mạnh ở hải ngoại.
Có nhiều người Việt Nam chưa
hoặc không bao giờ tiếp xúc với người t́nh
báo cộng sản, nhưng đă gián tiếp tuyên truyền
cho đường hướng của cộng sản, thí
dụ như họ âm thầm kêu gọi: Đừng
hoạt động chính trị nữa để c̣n về
nước; Hăy về nước để đầu
tư; Hăy gởi tiền về cho thân nhân buôn bán; Hăy tránh xa
những người hoạt động chính trị ở
hải ngoại v.v… Những hành động đó, vô h́nh
trung họ làm hoàn toàn có lợi cho cộng sản, hoặc
là họ gián tiếp làm mật báo viên cho t́nh báo cộng
sản lúc nào mà họ không hay biết.
Các thủ đoạn của những
người t́nh báo, mật báo viên cộng sản ở
nước ngoài là lôi kéo những người Việt Nam
tỵ nạn về phía chúng. Họ hoạt động
trong bóng tối, có nhiều phương tiện, làm
việc có tiền hoặc được hưởng
những quyền lợi mà cộng sản dành cho.
Chúng ta cố gắng tạo ảnh
hưởng rộng khắp các nước, cho những
người khác ta và quốc tế biết rằng chúng ta
luôn luôn yêu chuộng tự do, dân chủ và nhân quyền.
Chúng ta không bao giờ muốn có kẻ thù, dù là người
cộng sản. Chúng ta chỉ mong được về
Việt Nam trong tự do, dân chủ và nhân quyền mà thôi.
Chúng ta thiết tha được làm bạn cùng với
những người có chí hướng, và mong được
làm bạn cùng các anh chị em đó. Tiếp theo sau đó là
chúng ta yêu cầu và đ̣i hỏi băi bỏ độc
quyền, độc đảng trong nước.
Chúng ta phải khuyến khích cộng
sản Việt Nam tận diệt bất công, tham nhũng
và bài trừ ma túy càng nhiều, càng tốt. Như thế
chúng ta được 2 lợi điểm:
1. Diệt
bất công, tham nhũng, bài trừ ma túy và gái măi dâm là
việc mà bất cứ chính quyền nào cũng phải
làm.
2. Họ
lo làm lúc này, ta sẽ nhàn nhă tính việc khác của chúng ta.
Chúng ta có đủ th́ giờ để chuẩn bị
lực lượng có mặt sau này. Chúng ta cần phải
từng bước liên tục yêu cầu và đ̣i hỏi.
Chúng ta cần có phản ứng nhanh chóng
cho kịp thời, bằng không trong những năm tới
đây, ảnh
hưởng của cộng sản Việt Nam - nhất là
văn hóa, báo chí, văn nghệ, v.v...- sẽ bành
trướng mạnh mẽ ở hải ngoại, th́ lúc đó
chúng ta sẽ phải đương đầu với
trở lực lớn.
C̣n những thành phần cộng
sản nào nhất quyết
chống ta, th́ chắc
chắn chúng ta có biện pháp hữu hiệu khác. Trong
cuộc tranh đấu cùng đảng cộng sản, khi
chúng ta gặp số người "Khác ta không chống đối
ta” càng nhiều th́ càng có lợi cho ta.
Như vậy, tất cả những
người từ trong nước ra bên ngoài, dần
dần được chúng ta
mời gọi và chiêu an. Họ có thể giúp chúng ta hoặc
sẽ không chống lại chúng ta (3).
Nhận Định Tổng Quát
Có nhiều khi làm cho chúng ta lẫn lộn
giữa Ta, Bạn ta và Khác ta: Ta đứng ở đâu, ai
là Bạn ta, kẻ nào Khác ta?
V́ trong Ta cũng có nhiều bất đồng ư
kiến với nhau, thậm chí chụp mũ, bôi bác nhau
thường xuyên. Nhưng có nhiều người là Khác ta,
nhiều khi c̣n giúp đỡ Ta, và trở thành Bạn ta. Do đó,
khi phân ra giữa Ta, Bạn ta và Khác ta chỉ là một khái
niệm có tính cách đa diện và đa thành phần trong
nhận thức và hành động mà thôi.
Giữa Ta và Khác ta có rất nhiều mâu
thuẫn, bất đồng trên khía cạnh nào đó,
chẳng hạn như trong chính trị... Đối
với chính trị khi tiếp xúc, có nhiều khác biệt
về quan điểm, nhận thức hoặc tư
tưởng... Chúng ta lái cuộc nói chuyện giữa
họ và ta qua một đề tài khác, chẳng hạn
như vấn đề cứu trợ nhân đạo, giúp đỡ
nạn nhân của cơn băo, lụt, thiên tai xảy ra
ở Việt Nam v.v...
Giúp đỡ đồng bào Việt Nam
bị lăo lụt, thiên tai là một việc nên làm, dù đứng
trên bất cứ khía cạnh nào, không phân biệt lập
trường, quan điểm hoặc tư tưởng
nào. Chúng ta chỉ giúp đồng bào thuần túy trên khía
cạnh nhân đạo. Như vậy, vấn đề
cứu trợ nhân đạo đều được Ta,
Bạn ta và Khác ta đều coi đó là việc cần
phải giúp đỡ. Từ đó chúng ta sẽ có
nhiều đề tài, nhiều điểm để có
thể tiếp xúc, gần gũi cùng họ. Đó là điểm
thành công của công tác tuyên vận.
C̣n những người Bạn ta và Khác
ta, nếu Ta không xử trí được ai là bạn, ai là
thù, th́ thế "Tất
Bại" sẽ về phía chúng ta. V́ cả hai đều
khác lập trường chính kiến cùng với ta, nhưng
có kẻ ta tôn trọng và có kẻ ta phải đối đầu
cùng với họ.
V́ thế, khi so sánh thế Tất Bại
và thế Tất Thắng là cho ta có cái nh́n rộng răi, cùng
khắp, vô cùng khách quan để nhận định. T́nh
h́nh giữa hai thế có thể đối đầu
thực sự chỉ là phân biệt thế tương
tranh giữa một bên là kẻ cầm quyền, và một
bên là người cố đạt được thế đối
lập cùng với kẻ cầm quyền. Khi nhận định
đúng th́ khi thực hiện mới có thể đúng, và
ngược lại.
Do đó:
1. Tất
cả những người đối kháng cùng Đảng
cộng sản Việt Nam, không cần biết họ đối
kháng bằng thực hành hoặc lư thuyết, đều là
Ta hoặc Bạn ta.
2. Tất
cả những người Việt Nam ở ngoài
nước, và một phần lớn những người
trong nước ra bên ngoài đều là Ta hoặc Bạn
ta.
3. Những
người ra ngoại quốc tu nghiệp, sinh viên du
học, kể cả những người ra ngoại
quốc làm ăn, du lịch, văn nghệ đều là
Bạn ta. Chúng ta phải đặc biệt nghĩ đến,
có những người ra đi v́ muốn rời khỏi
Việt Nam. Họ phải t́m cách này hay cách nọ để
ra đi. Do đó chúng ta nên t́m cách giúp đỡ họ, nói
cho họ nghe những chuyện ở hải ngoại.
Nếu họ chịu nghe, th́ họ thuộc về Ta,
họ có thể giúp ta nhiều thứ. Nếu họ không
nghe, điều đó không thiệt hại ǵ cả,
nhưng ít nhất là tư tưởng dân chủ đă nhen
nhúm trong ḷng họ.
4. Những
người là Khác ta hiện tại ở hải ngoại,
chúng ta cố gắng chiêu dụ họ trở thành
người không chống đối ta. Nếu họ
chịu nghe, họ trở thành Bạn ta, c̣n không nghe
cũng không thiệt hại ǵ. Ta lấy kế sách
"Gậy ông đập lưng ông" để sử
dụng trong trường hợp này.
Chúng ta không cần phân biệt những
kẻ nào đối kháng giả, chống cộng giả
mạo, v.v.. V́ nếu có biết được, ta có
biện pháp ǵ để có thể ngăn chận họ
lại? Những biện pháp như biểu t́nh, tố cáo
trên báo chí, cô lập họ, hoặc đánh họ, v.v...
trong nhất thời, nhưng xảy ra hậu quả:
1. Càng làm
cho họ thêm chán nản. V́ sự thật th́ họ không có
làm việc cho cộng sản, chỉ bị chụp mũ,
bôi bác... mà thôi.
2. Khi
bị tố cáo, họ có thể làm việc luôn cho cộng
sản hoặc tay sai của cộng sản. Có rất
nhiều người bị du vào t́nh cảnh này.
3. Nếu
thật sự làm tay sai cho cộng sản, th́ họ
chỉ cười trừ. Và một phút giây nào đó
họ tiếp tục chính thức làm việc luôn.
4. Những
người đă làm một vài việc ǵ đó không được
mọi người cổ vơ, trái lại họ bị
mọi người lên tiếng thóa mạ, đả kích,
v.v.. trong khi họ vẫn nghĩ rằng họ làm đúng,
làm tṛn bổn phận và trách nhiệm.
Trong những trường hợp như
vậy, chúng ta phải kiểm điểm lại coi
việc làm của ta đúng hay là của họ đúng.
Muốn cho đúng hơn, ta mời những người
trong Cố vấn đoàn kiểm điểm cho ta. Khi đă
dứt khoát là chúng ta làm không sai, tốt nhất là để:
1. Cho
những người tế nhị và không được
nóng nảy đến để nói chuyện cùng với
người đó. Những người nói chuyện
hoạt bát, cởi mở đến nhắc nhở và
khuyên nhủ về việc làm của họ.
2. Những
người phụ trách về Dụng Mưu sẽ dùng
mưu trí làm việc với họ. Một lần hay
nhiều lần nhắc nhở, khuyến khích, khuyến
dụ họ, th́ chắc chắn họ sẽ biết được
đường đi và quay về với chúng ta.
Ta chỉ có những người khác
lập trường, chính kiến, và Ta cũng không muốn
đối đầu cùng ai, nếu có đó là sự
việc bất đắc dĩ, chẳng đặng đừng.
Điểm này hết sức quan trọng trong công tác đối
đầu cùng cộng sản, và trong lănh vực ngoại
giao cùng người ngoại quốc. Chúng ta cố gắng
làm thế nào để người ngoại quốc ở
khắp nơi chỉ có thể là Ta và Bạn ta mà thôi,
cố tránh Khác ta nếu có thể được. Quan
niệm của chúng ta phải hết sức cởi
mở, khoáng đạt và thật sự dân chủ, chứ
không thể g̣ bó trong khuôn khổ phải tiêu diệt kẻ
thù, phải trả thù kẻ nào chống lại Ta,
v.v...
Sự Nhận Xét
Có nhiều tổ chức của
người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay
thường hay bị cho là chống cộng cực đoan,
quá khích, và cực hữu một chiều. Những luận
cứ này chẳng những một phần nào của phía
người ngoại quốc, đặc biệt nhất
là cánh tả, mà c̣n là của người Việt Nam tỵ
nạn cộng sản ở hải ngoại.
Một phần lớn người
ngoại quốc không hiểu được, v́:
· Chúng ta đă
nói với họ về quá khứ, như: tại sao
người Việt Nam phải ra đi, thảm trạng
trên biển cả, đời sống ở các trại
tỵ nạn, làm sao qua được định cư
ở nước thứ ba, v.v... Đó là những điều
mà chúng ta đă từng nói với họ vào khoảng năm
1980 cho đến 1989... Khi nói nhiều về quá khứ
dần dần làm họ sinh ra nhàm chán.
· Rất
ít người cho họ biết về những yếu
tố chính yếu trong hiện tại và tương lai
của nước Việt Nam. Họ chỉ biết khi có
tin tức về Việt Nam, mà những tin tức đó
lại mới hơn, có chất lượng hơn cái mà
chúng ta cho họ biết. Có cho họ biết những
vấn đề thật sự xảy ra ở Việt Nam
mới có thể làm cho họ tin tưởng và giúp đỡ
ta được.
· Không cho
họ biết đường đi tới. Người
Việt Nam ở hải ngoại trong hiện tại có
thể đường đi tới bị bế tắc,
chưa được khai thông, hoặc nếu có th́
cũng chỉ ở tầm hạn hẹp, chưa được rộng răi... Những năm
tháng sau này, những hoạt động, sách báo và internet có
cho thấy những phần, trang cho người ngoại
quốc nhiều hơn. Nhưng chưa đủ, ngay
cả internet cũng vậy.
· Họ
có thể là người của tả phái, như: xă
hội, cấp tiến hoặc cộng sản ở
những nước dân chủ, nên những luận cứ
của người Việt Nam về chế độ độc
quyền, độc tài, bất công và tham nhũng ở Việt
Nam, họ nghe nhưng không lọt tai, hoặc có nghe
nhưng c̣n phải xét lại.
· Họ
chỉ có thể giúp người Việt Nam là người
tỵ nạn trên đất nước họ mà thôi. Khi mà
người Việt Nam mới qua đây, c̣n nghèo, họ
giúp đỡ nhiệt t́nh. C̣n khi làm ăn có tiền, có
việc làm tốt, đỗ đạt cao, vào quốc
tịch của nước họ rồi th́ từ từ
họ ít giao tiếp.
· Chính
phủ của các nước trên thế giới đầu
thế kỷ 21 cũng đă có liên hệ với cộng
sản Việt Nam. Sự liên hệ này mở đường
cho chính sách tiếp cận và bành trướng cơ sở
ở Việt Nam của họ. Nếu các tổ chức
của người Việt Nam ở hải ngoại không
chịu cởi bỏ những chướng ngại, gút
mắt c̣n vương vấn cho dù là vật chất hay tinh
thần, th́ các nước sẽ tự nhiên tiến hành các
chính sách phân phối các công việc định sẵn.
Chừng đó người Việt Nam có hối hận th́
muộn rồi (4).
Người Việt Nam tỵ nạn
tại hải ngoại cảm thấy chán nản, v́:
· Nạn
chia rẽ, phân hóa, sinh ra bè phái, chụp mũ, bôi bác lẫn
nhau những năm qua đă không giảm, mà càng ngày càng
nhiều, lộ liễu hơn.
· Mỗi
người, mỗi tổ chức tự coi ḿnh là
nhất. Sinh ra nạn như sứ quân, không ai chịu nghe
lời ai, mặc dù tổ chức nào cũng cho là tổ
chức của họ có tự do và dân chủ.
· Tự
do thao túng ở cộng đồng. V́ không c̣n có tổ
chức khác, họ coi như cộng đồng là của
riêng tổ chức họ. Khi ứng cử và bầu
cử cũng làm ra vẻ dân chủ, kêu gọi mọi
người và cổ động cho những người
ứng cử, nhưng kỳ thực là chỉ có chính
họ mà không có ai khác.
· Khi
về nước thăm nhà, thăm gia đ́nh, thăm
người thân, thăm bạn bè, v.v... đă bị các
tổ chức cực đoan, quá khích thóa mạ, đả
kích. Nhưng trong khi đó th́ những người trong các
tổ chức ấy lại về nước một cách đường
hoàng chính chính, và thân nhân, con cái của họ khi về
nước đă ăn xài sa hoa, phung phí, theo kiểu
cậu ấm về làng ...
· Tổ
chức đă lợi dụng ḷng tin tưởng của đồng
hương kêu gọi giúp đỡ tài chính, đi lạc
quyên, thu góp tiền của nói là để làm vốn kinh
tài. Nếu ai có hỏi đến, th́ nói là c̣n trong bí
mật, không thể tiết lộ!
· Không có
ai là kiện toàn mọi mặt để dân chúng có thể
tin tưởng. Và chưa có tổ chức nào làm cho dân chúng
cảm thấy yên tâm khi ủy thác trọng trách và đặt
hết niềm tin tưởng vào đó (5).
Trên đây là những nhận xét tổng
quát của người ngoại quốc cũng như
người Việt Nam tỵ nạn tại hải
ngoại. Những nhận xét tổng hợp này tôi đă
thu thập hết tất cả những ư kiến của
những người mà tôi đă có tiếp xúc qua trong
những năm tháng gần đây.
Nhận định về thế đối
đầu của chúng ta đối với chế độ
độc quyền, độc tài, bất công và tham
nhũng của cộng sản trong hiện tại và
tương lai, là cao trào đang bừng lên các nước
trên thế giới. Nhất là nước dân chủ tiên
tiến đang có hoạt động rộng mở để
thôi thúc các nước yếu kém: hăy mạnh dạn đứng
lên đ̣i đổi mới và hợp tác phát triển.
Đầu thế kỷ 21 các thế
lực kinh tế của các nước đang t́m cách bành
trướng sang Á châu, đặc biệt là các nước
ở vùng Đông Nam Á. Do đó, khi muốn nắm chắc được
cuộc diện sắp đến là chúng ta phải
chuẩn bị cho chu đáo các điểm dự pḥng có
thể xảy ra. Khi mà những điều xảy ra
gần đúng như các điểm dự pḥng, th́ đó là
một bước tiến đáng phấn khởi, cần
phải đẩy mạnh lên cho tiến xa hơn.
Do đó trong lúc này, làm thế nào để
tiến tới thế đối đầu cho thành h́nh, là
nhiệm vụ cần thiết và ưu tiên của
người Việt Nam ở hải ngoại. Có đối
đầu được th́ sẽ có đối lập được.
Ghi chú:
1. Dr. Ton
van Naerssen en dr. Peter Druijven, Pacifisch Azie, Van Gorcum 1997.
2. Vũ
Tài Lục, Mưu kế chính trị, Xuân Thu 1971.
Tôn Đức Pháp, Danh gia trí mưu, Cà Mau
1996.
Trọng Tâm, Tam thập lục kế, Long
An.
Robert Ogilvie, Krijgen is een kunst: Omtrent
krijgskunde en ondernemingsstrategie, Addison-Wesley Publishing Company, Inc.
1995.
3. Drs. Ngo
Van Tuan, De Strategie van het Junghopisme, Leiden 1991.
4. Drs. Ngo
Van Tuan, De Strategie van het Junghopisme, Nederlands Genootschap voor
Internationale Zaken 1997.
5. Drs. Ngo
Van Tuan, Nederlands Genootschap voor Internationale Zaken, 1998, 1999.