Những Đề
Nghị Cho Người Việt Nam
Đầu Thế
Kỷ 21
Ngô Văn Tuấn
Sách Lược Dung
Hợp
***
Với tinh thần hoàn
toàn khách quan và trung thực khi soạn thảo những điểm
đề nghị này tŕnh bày cùng quư vị, tôi đă đúc kết các tài
liệu, dữ kiện và các phương tiện có được
của các tổ chức, đoàn thể và đảng phái
người Việt Nam ở hải ngoại, ở
quốc nội, của cộng sản và của quốc
tế để hy vọng được hoàn chỉnh sách
lược này.
Dĩ nhiên những tài
liệu, dữ kiện và phương tiện tôi chỉ có
trong hạn hẹp mà thôi, nên có thể không đủ làm
nền tảng cho sách lược. Có rất nhiều quan
niệm và lập trường khác nhau của nhiều
tổ chức, đoàn thể và đảng phái, v́ vậy
xin quư vị hăy đóng góp ư kiến. Rất hoan nghênh
những ư kiến, phê b́nh nào có những nhận thức
mới. Có như vậy mới có dịp để sách
lược được hoàn thành và tôi cũng được
học hỏi thêm.
Sách Lược Dung
Hợp gồm có Luận thuyết và 3 Giai đoạn I, II,
III. Mỗi Giai đoạn có các Phần: A cho người
Việt Nam ở hải ngoại, B cho tổ chức
quốc tế và C cho người Việt Nam tại
quốc nội.
Giai đoạn I,
Phần A là H́nh Thành. Trong Phần H́nh Thành gồm có các Điểm
chính yếu là:
Điểm 1A.I:
Hợp Đoàn.
Điểm 2A.I:
Chủ Động
Điểm 3A.I:
Chủ Đạo
Điểm 4A.I: Nguyên
Tắc.
Điểm 5A.I: Nhân
Quyền.
Điểm 6A.I: Đối
Thoại.
Giai đoạn II, Phần
A là Phục Hoạt gồm có:
Điểm 7A.II:
Chiết Trung.
Điểm 8A.II:
Nối Kết.
Điểm 9A.II:
Tựu Kế.
Trong khuôn khổ
những bài này, tôi viết có tính cách tổng quát mà không đi
sâu vào chi tiết.
Điểm 1A.I:
Hợp Đoàn 1
Trong công cuộc
cứu nước và cứu nhân dân Việt Nam thoát khỏi
đường lối độc quyền, độc đảng
của cộng sản trong hiện tại và tương
lai, điều cần thiết nhất là làm thế nào để
tạo Lực. Lực có được, không phải là do
biểu t́nh hoặc kiến nghị ở Mỹ, Pháp, Ḥa
Lan, ... mà là ở cùng khắp tất cả mọi nơi,
mọi phía, mọi thành phần của cuộc đấu
tranh trong và ngoài nước. Lực hiện nay quá ít.
Lực ít nhất là phải tương đương
với phe đối nghịch. Có như vậy th́ người Việt Nam mới có
thể đương đầu hoặc đối
thoại một cách tương xứng cùng tập đoàn
chuyên chính cộng sản đang thống trị trong
nước. Muốn tạo Lực cho có được,
th́ một trong những điều trước tiên là
phải “Hợp Đoàn”.
Thử nh́n trên bầu
trời cao rộng, nh́n từng đàn chim bay, có những
cánh chim cô độc, những đàn chim vài chục, vài trăm
con... đang bay về tổ ấm. Nếu từng đàn
chim kết hợp lại, th́ khí thế vô cùng sống động.
Tiếng chim ca hót mừng nhau trong sự kết hợp,
hợp quần, ta gọi đó là sự Hợp Đoàn.
Hợp đoàn là một trong những yếu tố quan
trọng nhất trong việc tạo ra Lực. Hợp đoàn
không có nghĩa là đoàn kết sơ cứng trong một đoàn
thể, tổ chức. Hợp đoàn là sự kết
hợp trong sự tương kính, hài ḥa, đoàn kết
lẫn nhau và cùng nhau đạt đến mục đích
trong sự hợp lư và đồng thuận. Ngày nào mà
việc Hợp đoàn chưa được tối
thiểu 3/4 các tổ chức đồng ư chấp
thuận trên một nguyên tắc chung, th́ sẽ không thể
làm được điều ǵ cho dân chúng ngoài và trong
nước tin tưởng, th́ lúc đó chưa thể đối
thoại hay làm điều ǵ được với
cộng sản cầm quyền tại Việt Nam.
Người Việt
Nam nào cũng yêu nước, theo cách thức riêng của
họ. Nhưng nếu bắt buộc phải hoạt động
tích cực, xả thân mới gọi là yêu nước,
th́ con số đó chẳng được
bao nhiêu. Chúng ta
khuyến khích họ
hoạt động, nhưng không thể bắt buộc
một ai. Có người thích chính trị, có người
thích làm thương mại, kinh tế, có người thích
làm việc thuần túy văn hóa, có người thích làm văn
nghệ, v.v... nhưng
những cái thích đó đều nhằm vào mục đích
chung là đưa đất nước Việt Nam thoát
khỏi tập đoàn độc quyền chuyên chính
cộng sản, là đủ.
Người thích làm
việc chính trị th́ cũng phải cần có những
người tích cực giúp đỡ, hỗ trợ
bằng tài chính, vận động.... Vậy th́, giữa
người hoạt động chính trị, văn hóa và
người làm thương mại, kinh tế có khác ǵ nhau.
Cho nên, bất cứ trách nhiệm và phần hành của ai,
th́ làm theo việc của người ấy, miễn là đối
với công việc chung, những người đó đóng
góp và hỗ trợ tích cực theo cách thức riêng, tầm
nh́n riêng của họ mà thôi.
Như vậy, giữa
văn hóa xă hội và kinh tế chính trị hiện nay
cần phải nhận định rơ ràng, là bất cứ
một phạm vi hoạt động nằm trong lănh
vực nào cũng không kém phần quan trọng. Muốn cho
rơ ràng hơn, ta phân biệt 2 xu hướng: Văn hóa xă
hội trong đó có cộng đồng, và Chính trị trong
đó có các tổ chức chính trị.
Văn hóa - Xă hội -
Cộng đồng
Người Việt
Nam rời khỏi nước ra đi tỵ nạn ở
hải ngoại, có nghĩa là người Việt Nam không
thể chấp nhận chế độ độc
quyền, độc đảng, tham nhũng và bất công
của Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam và Đảng
cộng sản Việt Nam. Người tỵ nạn
Việt Nam chỉ có thể trở về nước,
một khi đất nước đă thay đổi.
Ở hải ngoại, người Việt Nam thành lập
cộng đồng tại mỗi nước. Cộng đồng
là toàn thể những người sống thành một xă
hội, nói chung có những điểm giống nhau (ngôn
ngữ, sinh hoạt...), và gắn bó thành một. Cộng đồng
có tính cách là đại diện cho dân tộc Việt Nam
tại đó. Do đó, cộng đồng rất quan
trọng đối với người tỵ nạn
Việt Nam.
Tuy nhiên tại
những nước lớn khác, như Pháp, Đức,
Mỹ, Gia Nă Đại, Úc, v.v... cộng đồng khó có
thể thành lập làm một, mà có nhiều tên khác ở các
địa phương, như Nghị Hội, Liên Hội,
Hội, v.v... Ở Mỹ là nước có rất nhiều
hội đoàn của người Việt Nam. Ở Gia Nă Đại,
Úc, Pháp, ...
cũng có nhiều tranh
chấp, mặc dù ít hơn ở Mỹ về nhân sự...
Hiện nay, chính
quyền cộng sản Việt Nam, một mặt đang
cho bộ phận t́nh báo ra hải ngoại khai thác những
sự xung đột giữa các cá nhân dẫn đến
sự chia rẽ các đoàn thể, cộng đồng, và
chiêu dụ những người tỵ nạn Việt Nam
thành lập những hội đoàn mới tại đây.
Mặt khác, cộng sản Việt Nam khuyến khích
những người về nước, với tính cách
hồi hương định cư trong nước,
hầu đem của cải tiền bạc về xây
dựng đất nước. Từ đây, chắc
chắn sẽ có người Việt Nam bị lung lay
trước ư nghĩ về nước định cư!
Về nước định cư là một việc làm
tốt, nhưng mà về như thế nào đây, khi mà Đảng
cộng sản Việt Nam và nhà nước đang c̣n độc
quyền độc đảng thống trị nhân dân
Việt Nam! Do đó, việc làm sao cho cộng đồng
thật vững mạnh là một việc làm lâu dài của
tất cả người Việt Nam ở hải
ngoại.
Hiện tại
muốn cho cộng đồng được mạnh
mẽ, vững chắc, trước hết ta phân biệt
giữa cộng đồng và các tổ chức chính
trị. Cộng đồng thuần túy trông coi về văn
hóa, kinh tế, xă hội, văn nghệ, v.v.. Các tổ
chức chính trị có nhiệm vụ chủ yếu là lo
về mặt chính trị của các đảng phái,
mặt trận, phong trào, v.v.. Cộng đồng và các
tổ chức chính trị hoạt động song song và hỗ
tương lẫn nhau. Nhưng không thể lẫn lộn
giữa cộng đồng và các tổ chức chính
trị ở tại mỗi nước. Nếu có sự
lẫn lộn làm một này, là một việc làm sai
lệch hoàn toàn ư nghĩa của cộng đồng.
Cộng đồng
tại nước nào là do người Việt Nam tại
nước đó ra sức lập nên. Người Việt
Nam cũng có những người không thích hoạt động
chính trị. Nếu bắt buộc người đó
phải chấp nhận các tổ chức chính trị
với cộng đồng là một, là khiến cho
người đó phải tự rời khỏi cộng đồng.
Đó là điều không hợp lư.
Do đó, cộng đồng
phải là một thực thể, có cái nh́n bao quát, đủ
mọi khuynh hướng. Chúng ta đă nói đến dân
chủ tự do, đa nguyên, th́ không có lư nào để
một người nào đó nghĩ khác về ta. Các tổ
chức hoạt động về văn hóa, văn
nghệ, xă hội, kinh tế, chính trị, v.v... dù lớn
hay dù nhỏ, hoặc bất cứ lập trường ǵ,
có cùng quan niệm hay khác nhau quan điểm, chính kiến,
cũng là người trong cộng đồng. Chúng ta không
phân biệt lẫn nhau về cách đối xử, v́
tất cả là người Việt Nam. Đây là một điểm
vô cùng quan trọng, v́ có không phân biệt cách đối
xử lẫn nhau giữa người Việt Nam tại
hải ngoại, chúng ta mới có thể chủ động
được t́nh h́nh ở hải ngoại, và nhất là
t́nh h́nh tại Việt Nam sau này.
Người Việt
Nam lập ra một Ban giám sát, để trông coi những
việc ǵ đúng hoặc sai của cộng đồng và
các tổ chức, để kịp thời khuyến cáo và
ngăn chận những việc sai trái có thể xảy ra.
Có nơi người Việt Nam bỏ Ban giám sát, mà chỉ
bầu cử Ban chấp hành cộng đồng. Làm như
vậy, th́ những việc làm của cộng đồng
không ai hay biết, là sai với nguyên tắc dân chủ đă
được đề ra.
Đây là thí dụ
về cách thành lập cộng đồng tại Ḥa Lan,
phỏng theo h́nh thức “Pacificatiedemocratie” (dân chủ ḥa
dịu) của Ḥa Lan và
“Conventioneel Stelsel” (hệ thống quy ước) của Pháp
(1). Lẽ dĩ nhiên tại mỗi nước,
người Việt Nam khi thành lập cộng đồng
có khác nhau về mô h́nh, chẳng hạn như “Checks and
Balances” (kiểm soát và quân b́nh) của Mỹ, “Tweepartijenstelsel” (hệ thống
lưỡng đảng) của Anh, v.v.. (2). Nhưng
tựu trung cùng giống nhau ở một điểm là Dân
chủ tự do.
Một cộng đồng
lớn mạnh, vững chắc là cộng đồng đó
do dân và v́ dân, là do tập thể người Việt Nam
sống trong đất nước đó ra công vun sới
mà thành. Chứ không phải cộng đồng là do một
nhóm hoặc một lực lượng bồi đắp,
mặc dù lực lượng đó là đại diện
cho một tổ chức chính trị (mặt trận, liên
minh, v.v..) tại nước đó làm nên. Một khi
cộng đồng do một lực lượng tiếm
lấy và
giành quyền lănh đạo,
th́ lúc đó cộng đồng không c̣n là của quần
chúng nữa. Nên dân chúng và các thành viên của các đoàn
thể khác tự động rời bỏ, hoặc
chờ tới khi chấm dứt nhiệm kỳ th́
ngừng tất cả các công tác hoạt động
với cộng đồng. Khi các người đó đă
rời cộng đồng, năm này qua tháng nọ nằm
ở nhà, dần dần tất cả công việc lớn
nhỏ của cộng đồng như chưa hề nghe
tới, có thể là do thời cuộc biến đổi,
t́nh h́nh của Việt Nam có sự đổi thay mới,
và họ cố t́nh quên luôn cộng đồng.
Khi gặp những
trường hợp như trên, nhiệm vụ của Ban
giám sát là phải thường xuyên nhắc nhở, kiểm
thảo công khai những việc làm trên của cộng đồng.
Trong trường hợp cần thiết, Ban giám sát có
thể triệu tập một phiên họp khoáng đại
để kiểm điểm, xây dựng, hoặc tổ
chức bầu cử lại Ban chấp hành cộng đồng.
Nhưng, nếu trường hợp Ban giám sát không đủ
lực lượng để có thể giải quyết
kịp lúc và kịp thời th́ sao? Th́ trong lúc này, nhiệm
vụ của các tổ chức chính trị vô cùng cần
thiết đối với cộng đồng.
Cộng đồng
tại nước nào có nhiệm vụ tại nước
đó. Những sự trao đổi cách thức làm
việc giữa cộng đồng nước này và
nước khác là việc thường xuyên xảy ra.
Nhưng, việc mời gọi để đi biểu
t́nh, kiến nghị ở mỗi nước, đó là
việc làm của các tổ chức chính trị. Cộng đồng
nên đứng ngoài, làm như vậy là muốn thật
sự trung thực và có cái nh́n khách quan giữa các tổ
chức chính trị với nhau.
Trong cuộc tranh đấu
cùng cộng sản trong hiện tại và tương lai, có
hai điều mà người Việt Nam cần phải
lựa chọn:
1. Nếu thấy rằng đảng và nhà
nước cộng sản Việt Nam đă ổn định,
không có một lực lượng nào có thể làm cho họ
thay đổi đường lối và chính sách, nghĩa
là chấp nhận cộng sản độc quyền và
chuyên chính như cũ, th́ tốt nhất là hăy quay sang làm
một việc nào khác có ư
nghĩa hơn.
2. Nếu thấy rằng đảng và nhà
nước cộng sản Việt Nam chắc chắn
sẽ thất bại trong việc cai trị và quản lư
nhà nước, phải sửa đổi đường
lối, chính sách cho phù hợp với xă hội, trào lưu
mới và chính quyền sẽ về tay nhân dân Việt Nam,
th́ hăy nhất quyết yểm trợ công cuộc tranh đấu
của dân chúng tới cùng.
Khi đă đồng ư
và quyết tâm yểm trợ công cuộc tranh đấu
của nhân dân Việt Nam, trước hết chúng ta
phải xác định: các tổ chức chính trị
của người Việt Nam ở hải ngoại dù
mạnh đến đâu đi nữa, th́ cũng chỉ
là yểm trợ cho các lực lượng tiến công trong
nước mà thôi. Từ ngữ “yểm trợ” là ở
hải ngoại, và hoạt động bên trong nước
là “tiến công”.
Yểm trợ và
Tiến công là hai mặt của một cuộc tranh đấu,
dù là chính trị, kinh tế, văn hóa, hay quân sự ...
Tiến công có đạt được kết quả mong
muốn hay không, là do phần Yểm trợ có chu đáo,
tường tận, chia ngọt xẻ bùi trong lúc Tiến
công hay không. Có Yểm trợ đắc lực, th́ Tiến
công mới có thể thành công. C̣n nếu Yểm trợ mà
chia rẽ không đoàn kết, th́ Tiến công cầm
chắc là dậm chân tại chỗ, hoặc bỏ
cuộc. Trong cuộc tranh đấu cùng cộng sản,
các tổ chức chính trị của người Việt
Nam ở hải ngoại có tự hỏi ḿnh là đă làm
tṛn trách nhiệm của người yểm trợ
chưa? Có nghiêm khắc nh́n kỹ ḿnh là ai, ở đâu? Và đồng bào ḿnh ở
quốc nội đang và sẽ trông chờ và mong đợi
một cái ǵ?
Từng bấy nhiêu câu
hỏi, cũng cho ta một giải đáp: các tổ
chức chính trị của người Việt Nam tại
hải ngoại từ trước tới nay chưa có
một sự đồng thuận nào cả. Một sự
đồng thuận của các tổ chức chính trị
vô cùng cần thiết và quan trọng nhất trong việc
tranh đấu cùng cộng sản độc quyền trong
nước.
Một sự đồng
thuận, như có từng đàn chim kết hợp lại
và ca hót những nhịp điệu chung, đó là một
sự Hợp Đoàn. Một sự Hợp Đoàn của
các tổ chức chính trị trong lúc này là đồng
thuận về nhận thức, phương thức và ư
thức công cuộc đấu tranh. Dĩ nhiên lập
trường và tư tưởng chủ đạo
của một đảng phái, mặt trận hay một
tổ chức nào, th́ giữ nguyên cho đảng phái,
mặt trận hoặc tổ chức đó, chỉ có cùng
nh́n về một hướng đi của chính nghĩa dân
tộc Việt Nam mà thôi. Một khi mà các đảng phái,
mặt trận, liên minh, lực lượng, nhóm, v.v.. cùng
chấp thuận và công nhận một h́nh thức đồng
thuận - Hợp Đoàn - th́ việc đương đầu
cùng cộng sản chuyên chính có cơ hội thuận
lợi hơn.
Từ những năm
trước đây đă có xuất hiện nhiều đại
hội, hội nghị gồm những tổ chức khác
nhau về chính kiến, lập trường ... như:
Mặt trận Dân Tộc Dân Chủ Việt Nam, Ủy ban
Liên Kết người Việt Tự Do, Hội nghị
Chính Trị, Ngày yểm trợ những người dân
chủ trong nước, v.v... Đây là những
người nhiệt huyết, có lư tưởng, họ
muốn làm một cái ǵ đó cho người Việt ngoài
nước và trong nước, và nhất là cho đất
nước Việt Nam.
Nhưng nh́n kỹ
lại, những việc làm của họ c̣n quá nhỏ so
với nhu cầu đ̣i hỏi. Nhu cầu đ̣i hỏi là
phải có Lực cần thiết và đầy đủ để
có thể đương đầu với lực
lượng đối nghịch. Đó là, Lực của
các cá nhân, đoàn thể, đảng phái, tổ chức
ở hải ngoại (A) và Lực của nhân dân Việt
Nam bên trong nước (B) phải biết kết hợp,
quy tụ lại thành một Lực chung tổng hợp,
rộng lớn, quy mô hơn. Lực đó ta gọi là “Quy
Nạp Lực” (H́nh
1) (3).



Quy Nạp Lực
Muốn tạo nên Quy Nạp Lực,
trước tiên ta phải:
1. B́nh
tâm tỉnh trí để suy xét. Không nên xét đoán bừa
băi, cẩu thả. Tránh mất ḥa khí, gây bất lợi cho
cá nhân và đoàn thể.
2. Những
việc chụp mũ, nói xấu, vu khống, mạ
lỵ... những người bạn đồng hành, ta nên
dứt khoát tuyệt đối tránh. Ta không nên v́ việc
tổ chức này chuyên thực hành, mà chống lại
tổ chức kia lo về mặt lư thuyết. Thực ra
thực hành và lư thuyết đều quan trọng như
nhau, chỉ do người xử dụng biện pháp và đường
lối có đúng hay không.
3. Muốn
làm việc lớn, ta phải ḥa ḿnh làm việc cùng với
những chí hữu, chiến hữu, những anh em thân
cận ta. Nếu bỏ qua các việc nhỏ, th́ sau này
việc lớn làm sao ta làm được.
4. Phải
thành thật, biết th́ nói biết, không biết th́ nói không
biết, ta cứ việc học và hỏi. Ta không sợ ai
cười, ai nhạo báng ta. Có như vậy mới là
người dễ dàng tiến lên được.
5. Phải
quyết tâm và cố gắng làm tṛn nhiệm vụ, bổn
phận và trách nhiệm của ḿnh, mỗi khi có công tác và được
giao phó. Phải xong công việc này, mới tới công
việc khác.
Trên đây là những điểm mà ta
phải thường xuyên ôn luyện. Muốn triển khai
Quy Nạp Lực, đầu tiên ta phải thẳng
thắn nh́n vào khối lượng các tổ chức chính
trị ở hải ngoại.
Một tổ chức chính trị
vững vàng, ổn định là tổ chức đó
phải được ḷng dân chúng Việt Nam tại
nước đó cổ vơ, ủng hộ và tha thiết
với những công việc làm của tổ chức đó.
Có tha thiết cùng tổ chức, th́ mới t́m đủ
mọi phương cách để có thể giúp tổ
chức đó tiến lên. C̣n nếu không, th́ sẽ không
thể tiến lên được. Do đó, một tổ
chức chính trị của những người tranh đấu
v́ dân tộc Việt Nam, th́ trước tiên phải v́
quyền sống của dân mà có, v́ nhu cầu của dân mà
thành, và v́ hạnh phúc của dân mà tạo nên.
Có nhiều cách kết đoàn các tổ
chức chính trị lại với nhau. Nhưng ở đây
chỉ nêu ra hai cách thức chính yếu, đó là Kết đoàn
dọc và Kết đoàn ngang.
Kết Đoàn Dọc
Kết đoàn dọc là từ trên
xuống dưới. Thí dụ như Ban chấp hành trung
ương của Liên minh Dân Chủ Việt Nam ở
Mỹ, các chi nhánh ở các châu như Mỹ châu, Âu châu, Úc
châu, Á châu, và khắp các nước như Pháp, Ḥa Lan, Đức,
Bỉ, Ư, Đan Mạch, Mỹ, Canada, Úc, v.v... Các thành viên
của LMDCVN đă được cố Giáo sư
Nguyễn Ngọc Huy bồi đắp về lư thuyết
khi c̣n sống, cho nên lư thuyết đó như là chất keo
gắn liền tư tưởng của các thành viên
lại với nhau. Và các tổ chức, đảng phái khác
cũng vậy. Họ cũng có lư thuyết, đường
hướng và lập trường riêng. Mỗi khi có
một chuyện ǵ, họ lập tức huy động
lực lượng của tổ chức để làm cái
ǵ đó. Đây là ưu điểm của tổ chức.
Ở Kết đoàn dọc, các đoàn
thể đảng phái, mặt trận, liên minh, v.v..
thấy th́ rất dễ đoàn kết, nhưng thật ra
rất khó, v́ tổ chức nào cũng muốn làm cái ǵ đó,
nên họ trông chừng lẫn nhau. Nếu có đoàn kết
các tổ chức lại, th́ cũng không được
trọn vẹn cho công việc chung. Khi có một chuyện
ǵ xảy ra, có thể do cái nh́n sai lệch của các tổ
chức, hoặc có thể do t́nh báo cộng sản hải
ngoại lợi dụng giựt dây, th́ đó là dịp để
người Việt Nam ở hải ngoại chụp
mũ, biểu t́nh, chửi rủa lẫn nhau, v.v.. Do đó,
Kết đoàn dọc thất bại từ nhiều năm
qua.
Kết Đoàn Ngang
Kết đoàn ngang là trước
hết tại mỗi nước các đoàn thể kết
hợp lại, rồi từ dưới lên trên theo
từng vùng hoặc châu, và tiếp theo là kết hợp
những vùng hoặc châu đó lại thành một lực
lượng chung. Thí dụ như ở Ḥa Lan năm
1982-1990 đă xuất hiện Ủy ban Thống Nhất
Hành Động. Ủy ban Thống Nhất Hành Động
là tổ chức chính trị của quảng đại
quần chúng, v́ được hầu hết dân chúng
mến mộ, nhiệt t́nh ủng hộ, tất cả đều
được đối xử cùng nhau hài ḥa cho mục
tiêu chính yếu là chống lại Đảng cộng
sản Việt Nam, và xây dựng tự do, dân chủ và nhân
quyền cho Việt Nam. Ủy ban Thống Nhất Hành Động
đă cùng với Cộng đồng người Việt
tỵ nạn tại Ḥa Lan song song và hỗ tương làm
việc, và đă giúp cho cộng đồng rất
nhiều cho sự đoàn kết khối người
Việt tại đây.
Cách này được xây dựng trên
sự chân thật từ gốc là v́ dân, do dân, và tranh đấu
cho sự hạnh phúc của dân. Kết hợp quần
chúng từ dưới lên trên vững vàng, kiến hiệu,
và mọi người cùng đối xử với nhau hài
ḥa, tương nhượng và kính trọng nhau.
Kết đoàn ngang có kiến hiệu
trong những công tác gần, nhưng lại quá chậm trong
các hoạt động xa, rộng lớn hơn. Muốn đạt
đến mục đích nhanh hơn th́ phải có Kết đoàn
dọc bổ sung. Nếu thiếu mất cái này th́ cái kia
sẽ hư việc và cũng sẽ thất bại.
Kết Đoàn Dọc

Kết Đoàn Ngang
H́nh 2 Bron:
Các đảng phái, mặt trận,
liên minh, v.v.. cũng phải kính trọng và tương
nhượng lẫn nhau mỗi khi gặp một vấn đề
khó khăn và có tính chất trọng đại. Lúc đó
sẽ thành lập một Cố Vấn Đoàn để
cùng các tổ chức giải quyết và cởi mở
những ǵ c̣n khúc mắc trong ḷng chưa được nói
ra. Cố vấn đoàn này phải thật sự trung
thực và vô cùng khách quan khi lắng nghe và giải quyết
những thắc mắc cùng các tổ chức. Cố
vấn đoàn là gạch nối giữa các tổ chức
lại với nhau. Và đây cũng chính là “Diên Hồng Tâm”
của tổ chức.
Lúc trước, sở dĩ Ủy ban Thống Nhất Hành Động
thành công được là nhờ có Nhóm Diên Hồng làm
cố vấn, tham mưu trong những công tác, tạo nên uy
tín lớn cho Ủy ban trong việc chống lại chế
độ chuyên chính cộng sản. Do đó, cả hai -
Kết đoàn dọc và Kết đoàn ngang - phải
hỗ tương, giúp đỡ cho nhau, và song song kiến
tạo cho được một thành phần lănh đạo
vững vàng, nhạy bén và trẻ trung hầu có thể đương
đầu cùng lực lượng cộng sản sau này.
Muốn đất nước hoàn
toàn là của nhân dân Việt Nam, người Việt Nam nên
nhớ: “Khi muốn đương đầu cùng cộng
sản, trước hết phải có Dung Nạp Lực.
Muốn có Dung Nạp Lực, điều tiên quyết là
phải có Hợp Đoàn. Hợp Đoàn là chủ yếu
và ṇng cốt trong cuộc tranh đấu”.
Không có Hợp Đoàn, ta như
mất đi thế đứng. Có Hợp Đoàn, th́
cơ hội thủ thắng có nhiều thuận lợi
hơn: chiếm lợi thế nhiều hơn trên b́nh
diện tranh thủ nhân tâm, làm cho dân chúng Việt Nam ngoài và
trong nước tin tưởng nhiều hơn, cảm t́nh
của quốc tế đối với ta sẽ có
nhiều kiến hiệu hơn, và niềm tin nhất định
thắng sẽ trở lại với bất cứ
người Việt Nam nào.
Ghi chú (Noten):
1. Prof.
dr. U. Rosenthal, Politieke Stelsels, Inleiding: Een politicologische blik
buiten de grenzen, pag. 14-29, Samson Alphen a/d Rijn 1982.
2. Prof.
dr. H. Daalder, Werkboek Staatkunde, Staat en Democratie, pag. 5-19, Vakgroepen
politieke wetenschappen en staatsrechtelijke vakken, Leiden 1986.
3. Drs.
Ngo Van Tuan, De Strategie van het Junghopisme, Leiden 1992.