Những Đề
Nghị
Cho Người Việt
Nam
Đầu Thế
Kỷ
21
Chủ Đạo
Ngô Văn
Tuấn
Sách
Lược Dung Hợp
Strategie van het
Junghopisme
8-2000
Với tinh thần hoàn toàn khách
quan và trung thực khi soạn thảo những điểm
đề nghị này tŕnh bày cùng quư vị, tôi đă đúc kết các tài
liệu, dữ kiện và các phương tiện
có được của các tổ chức, đoàn thể
và đảng phái người Việt Nam ở hải
ngoại, ở quốc nội, của cộng sản và
của quốc tế để hy vọng được
hoàn chỉnh sách lược này.
Dĩ nhiên những tài liệu,
dữ kiện và phương tiện tôi chỉ
có trong hạn hẹp mà thôi, nên có thể không đủ làm
nền tảng cho sách lược. Có rất nhiều quan
niệm và lập trường khác nhau của nhiều
tổ chức, đoàn thể và đảng phái, v́ vậy
xin quư vị đóng góp ư kiến. Rất hoan nghênh những
ư kiến, phê b́nh nào có những nhận thức mới. Có
như vậy mới có dịp để
sách lược được hoàn chỉnh và tôi cũng
được học hỏi thêm.
Sách lược gồm có
Luận thuyết và 3 Giai đoạn I, II, III. Mỗi Giai
đoạn có các Phần: A cho người Việt Nam
ở hải ngoại, B cho tổ chức quốc tế và
C cho người Việt Nam tại quốc nội.
Giai đoạn I Phần A cho
người Việt Nam ở hải ngoại gồm có:
Điểm
1A.I: Hợp Đoàn.
Điểm
2A.I: Chủ Động
Điểm
3A.I: Chủ Đạo
Điểm
4A.I: Nguyên Tắc.
Điểm
5A.I: Nhân Quyền.
Điểm
6A.I: Đối Thoại.
Giai đoạn II Phần A
gồm có:
Điểm
7A.II: Chiết Trung.
Điểm
8A.II: Nối Kết.
Điểm
9A.II: Tựu Kế.
Trong khuôn khổ những bài
này, tôi viết có tính cách tổng quát mà không đi sâu vào chi
tiết.
Điểm
3A.I: Chủ Đạo
Chủ Đạo là cùng chung dự trù kế sách
đem lại
tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
Muốn thực hiện Chủ Đạo, th́
Hợp Đoàn và Chủ
Động
cần có nhiệm vụ thật sự tích
cực.
25 năm qua người Việt Nam ở hải ngoại
đă tranh đấu quyết liệt với cộng
sản, nhưng cộng sản
vẫn trụ được, vẫn ổn định,
vẫn từng bước tiến lên chế độ xă
hội chủ nghĩa. Tại sao? Tại v́ một trong
những điểm chính yếu là Thời Thế Cơ đă không đến với chúng ta.
Yếu tố thời
điểm và thời cơ (1) vô
cùng quan trọng
trong đấu tranh phân định thành công hay thất bại. Chẳng hạn như từ
năm 1989 đến 1991 chủ
nghĩa cộng sản đă bị sụp đổ
ở Liên sô, Đông Âu và sự
hỗn loạn ở Trung Quốc do các sinh viên biểu t́nh
ở quảng trường Thiên An Môn, trong thời gian
đó người Việt Nam đă có “thiên thời”
thuận lợi, c̣n về “địa lợi” và “nhân ḥa”
th́ ở hải ngoại đă yếu, mà trong nước
lại càng yếu kém hơn. Cho nên khi
muốn làm nên công việc lớn, th́ nhu cầu bắt
buộc là hội đủ các yếu tố chính yếu,
chủ động được những phương tiện,
cũng như những
điều kiện cần và đủ. Nếu thiếu
đi một th́ cán cân quyết định cũng sẽ
bị nghiêng lệch. Đó là thế
hỏng chân.
Hiện tại thời
điểm thuận lợi đó đă qua, điều
đó có nghĩa là chúng ta chờ một thời
điểm khác và một thời cơ khác sẽ đến - nhanh hoặc chậm. Khi
muốn có thời điểm tốt và thời cơ thuận
lợi, th́ người Việt Nam bắt buộc chuẩn
bị để chờ đón thời, thế và cơ.
Khi nói chuẩn bị để đón thời thế
cơ, trong đó hàm ư là các việc
cần nên chuẩn bị cho thật chu đáo. Không chu
đáo th́ không thể hành động. V́ hành động
chắc chắn sẽ rước lấy thất bại
mà thôi.
Ngô Khởi trong binh pháp có nói:
"Trong nước mà bất ḥa, thời chẳng nên
đem binh đi đánh đâu. Trong quân mà bất ḥa, th́
chẳng nên đem quân ra trận. Quan ở trận mà
bất ḥa, th́ chẳng nên tiến đánh. Tiến lên
đánh mà bất ḥa, th́ chẳng nên quyết thắng"
(2). Trong thập niên cuối cùng của thể kỷ 20,
không ai có thể chối căi được là ở hải
ngoại quá nhiều chia rẽ, khích bác, công kích, bôi bẩn
lẫn nhau... Từ đó các tổ chức có c̣n đủ
sức đương đầu
với các sự việc xảy ra từ đầu
thế kỷ 21 trở đi hay không? Các việc đó là:
·
Cộng sản hoạt động
mạnh ở hải ngoại với chiêu bài thông tin,
phổ biến văn hóa phẩm,
triển lăm, văn nghệ...
·
Cộng sản cho cán bộ làm công
tác kiều vận, hay qua thành phần mật báo hoặc
điềm chỉ viên, để kêu gọi: những
người Việt Nam về nước đầu tư, về
nước du lịch, hăy gởi tiền về
nước, đừng hoạt động chính trị chống
đảng và nhà nước cộng sản nữa,
đừng gần gủi hay tiếp xúc với những
người hoạt động chính trị nữa, nói lên
các việc tốt của người dân bên trong
nước, và kêu gọi người Việt Nam ở
hải ngoại hăy nên nghĩ đến t́nh quê hương, đất nước, t́nh dân tộc ...
·
Cán bộ t́nh báo cộng sản
vừa làm công tác t́nh báo ở nước ngoài, vừa
thực hiện công tác phản gián làm cho những tổ
chức của người Việt Nam ở hải
ngoại nghi kỵ, hận thù dẫn đến chia rẽ
lẫn nhau. Càng chia rẽ th́ càng có lợi cho đảng và
nhà nước cộng sản. V́ sao? V́ ở hải
ngoại khi các tổ chức, các đảng phái, các
đoàn thể... chỉ lo chuyện tranh chấp, công kích,
chia rẽ lẫn nhau... th́
đă, đang và sẽ quên đi những chuyện
chống đối lại đảng và nhà nước
cộng sản. Như vậy,
điều thứ nhất mà cán bộ t́nh báo và kiều
vận cố muốn làm là làm sao cho người Việt
Nam tại hải ngoại lo những chuyện ngoài này mà
quên đi những vấn đề xảy ra bên trong
nước.
·
Cộng sản cho cán bộ cao
cấp làm công tác ngoại giao, với truyền thống
cố hữu là xin viện trợ, tài trợ, đầu
tư... Sẽ mở rộng thị
trường xuất khẩu thủy, hải sản, các
sản phẩm dệt may, hàng thủ công, mỹ nghệ và
các loại hàng tiêu dùng khác sang thị trường Âu Châu,
Trung Đông, Bắc Phi và Cuba theo các cam
kết của chính phủ; tích cực chuẩn bị các
điều kiện, phương án
khai thác thị trường Mỹ (3).
·
Cán bộ cộng sản chỉ
đạo các cơ quan đại
diện ngoại giao và đại diện thương mại
ở nước ngoài thăm ḍ, t́m
kiếm
thị trường, cung cấp thông tin nhanh nhạy,
kịp thời về thương nhân và nhu cầu thị trường sở
tại, phục vụ tốt hơn hoạt động
kinh doanh xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp
trong nước (4).
·
Từ năm 2000 trở đi, các cán bộ lănh đạo cao
cấp phát động công cuộc vận động
với nhiều nước, liên minh, liên hiệp, và
nhiều tổ chức khác để cho Việt Nam
được đứng vững hơn trên trường quốc tế.
·
v.v....
Trên đây là các việc
cuối năm 2000 trở đi
cộng sản sẽ cho thực hiện mạnh mẽ.
Hiện nay chỉ thấy xuất hiện thông tin, báo chí,
sách vỡ, những người làm công tác kiều vận (Ủy
ban Kiều vận có công khai và có bí mật), những
người làm công tác ngoại giao qua ngả các đại
sứ quán, Liên Hiệp Âu Châu, Hiệp Hội các Quốc Gia
Đông Nam Á, Mỹ, Nhật
Bản, Úc, v.v ... C̣n rất nhiều hoạt động
của cộng sản ra hải ngoại sau này. Do đó
từ cuối năm 2000 trở đi,
các tổ chức của người Việt Nam hải
ngoại cần có đường lối thiết thực
hữu hiệu để duy tŕ và lôi kéo ảnh
hưởng của quần chúng về phía ta.
25 năm qua, người Việt Nam ở hải ngoại
đă sống và đă nh́n thấy được những
tiến bộ vượt bực của các nước
văn minh tiên tiến Tây Âu,
Bắc Âu, Bắc Mỹ, Úc Châu, Nhật Bản, Nam Hàn,
Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia
Ba, v.v... Sự tiến bộ này làm cho người Việt
Nam cảm thấy thích thú và muốn hội nhập vào
quốc gia đang sống. Nhưng càng hội nhập chừng nào th́ những phong
tục, tập quán Việt Nam dần dần bị bỏ
quên, nhất là những giới trẻ tuổi
được sinh ra và lớn lên tại nước ngoài.
Theo thời gian những sự khác biệt nhau cứ
chồng chất và lớn dần. Cũng từ đó
những chuyện quan hệ trong gia đạo, chuyện
ly dị, rượu chè, cờ bạc, v.v... cũng có
thể làm lớn chuyện lên được, huống
hồ là những chuyện lớn hơn như xă hội,
chính trị...
Chuyện bàn cải, thảo
luận... một phần tư thế
kỷ nay là chuyện b́nh thường và c̣n kéo dài thêm
nữa. Nhưng những chuyện
tranh chấp, nghi kỵ, hận thù... đi đến căi
vă, bôi nhọ, nói xấu lẫn nhau... có thể trong một
phút giây nào đó ngồi nghĩ lại, bỗng chợt
thấy hối tiếc là đă phí một khoảng
thời gian dài vào những chuyện không đâu!
25 năm, những
sự biến đổi của thời cuộc, xă
hội, kinh tế, chính trị... quá nhiều, chúng ta không
thể trách ai, không thể đổ lỗi cho ai! V́ t́nh trạng lưu vong và vận nước đă khiến cho ḷng
người bối rối, chao đảo, v́ thời
thế, v́ thời cuộc, v́ gia đ́nh và v́ biết bao
nhiêu chuyện khác, nên từ đó ta không thể tin
tưởng một ai, ai ai ta cũng có thể cho là kẻ
thù... Nhưng, kẻ thù ngày hôm nay, ngày mai
trở thành bạn, và ngược lại cũng vậy,
bạn ngày hôm nay, ngày mai trở thành kẻ thù! Và cứ
thế chồng chất măi...
Cho nên giờ đây chúng ta c̣n
ngồi bên nhau, hồi tưởng lại những
chuyện quá khứ... và coi đó như là một
giấc mộng. Giấc mộng của đời
người mấy lần " Không" và mấy lần
" Có"!! Có và Không chỉ là hai khái niệm đối
đăi tương sanh. Nếu không
có "Không" th́ sẽ không có "Có". Không và Có
giống như hai mặt của
một đồng tiền, làm sao có thể tách rời
được! Cuộc đời được ví
như ḍng thác đổ mau và không ngừng
thay đổi, không có cái bất động mà chỉ có cái
trở thành. Hiện ra, thay đổi, biến mất là ba
đặc tính của pháp hữu vi, Vô Thường, có
đó rồi mất đó (5). 25 năm tưởng
đâu là dài, nhưng nh́n kỹ trong
hiện tại th́ đó chỉ là phút giây thôi.
25 năm qua những chuyện buồn phiền nhau, hăy coi
như là những giấc mơ, hăy đem hết tất cả quẳng vào ḍng
sông. Nước từ ḍng sông sẽ trôi chảy ra
biển, trút ra đại dương. Và
nước từ trên ḍng thác sẽ chảy xuống,
đem theo những mầm tươi, hạt
giống mới cho chúng ta trên bước đường
mới.
Những đoạn
đường đă qua đủ để có thể làm
khởi điểm đi tới.
Có rút ra được những ưu khuyết
điểm của quá khứ, mới có thể làm những
bước mới cho tương lai. Chúng ta nên mạnh dạn, phấn đấu
và cố gắng giải quyết cho xong từng vấn
đề một, rồi chúng ta mới bắt đầu
các công việc kế tiếp. Những công việc sau
sẽ khó khăn hơn, có tầm vóc hơn. "Thất
bại là mẹ thành công",
đó là phương châm cho những
người quyết tâm trên con đường tranh
đấu.
Điểm Chuẩn - Kế Hoạch -
Chiến Lược
Người Việt Nam
hiện nay chưa có những
điểm tương đồng nào
để có thể hành động nhanh chóng
được. Khi muốn có những điểm
tương đồng trước hết nh́n
lại trong quá tŕnh hoạt động của mỗi
tổ chức để từ đó mạnh dạn
vạch ra những nét cụ thể vào các điểm
Chuẩn. Điểm Chuẩn này
là những công tác chung về sinh hoạt xă hội, kỹ
thuật, kinh tế, văn hóa, chính trị, v.v...
của các bộ phận, các ngành, các tổ chức.
Có vô số những công tác
thuộc về lănh vực chung, thí dụ như tổ
chức buổi sinh hoạt cho người Việt Nam
về các lănh vực, trại hè cho thiếu niên ở Âu
Châu, đại hội quốc tế về chính trị, xă
hội, kỹ thuật, hay kinh tế... Đặc biệt
là tổ chức chung, khách quan, không nên có khuynh hướng
thiên về bên nào. Như vậy vai tṛ
khách quan, trong sạch và vô tư sẽ
là một chức năng có thể
làm cho các tổ chức dần dần xích lại gần
nhau hơn. Nên bắt đầu và thực hành
ngay ở các điểm Chuẩn. Một người
hoặc một tổ chức không thế nào làm nổi,
cần phải nhiều người, nhiều tổ
chức hợp lại mới có thể làm
được.
Khi nói về điểm
Chuẩn là ta muốn nói đến Kế hoạch. Một
kế hoạch được coi là Chuẩn, kế
hoạch đó phải được mọi người
cùng tiếp nhận trong trạng thái đồng t́nh và cùng
giúp đỡ cho nhau những ǵ c̣n thiếu sót trong việc
làm, trong công tác... Một kế hoạch được
dự trù đem ra thi hành, nên làm sao để mọi
người cùng hiểu, cùng biết và thực hiện
chung những điều cần làm. Như vậy
khi xây dựng một kế hoạch, ta cũng phải
chuẩn bị phương án hội
đủ các mặt tinh thần và vật chất, nếu
thiếu một sẽ mất đi những lợi
thế.
Do đó kế hoạch khi
được tổ chức soạn thảo,
trước hết nên điều nghiên các dự án và có
thể theo những điều sau đây:
1. Tổ
chức điều hành và phối hợp các dự án khi thi
hành công tác.
2. Tổ
chức chăm lo dự án để
dự liệu cho tương lai.
3. Tổ
chức dựa trên lư trí, có đủ lư luận khi soạn
thảo dự án.
4. Tổ
chức kiểm soát dự án (6).
Để cho kế hoạch
được thành h́nh, trước hết cần nên
sắp xếp rất nhiều bộ phận. Kế
hoạch dùng trong chính trị, kinh tế, quân sự,
thương mại... có thể ngắn hạn,
hoặc dài hạn. Trong ngắn hạn hoặc thực
hiện một, hai điểm nào đó của kế
hoạch có thể gọi là chiến thuật, c̣n dài
hạn có nhiều kế hoạch có thể gọi chung là
chiến lược. Chiến lược ngày nay không c̣n
thuần túy dùng trong quân sự, mà nó bao hàm mọi lănh
vực (gebied), mọi khía cạnh (aspect), vị thế
(positie), phối cảnh (perspectief), mô thức (patroon) và
kế hoạch (plan). Chiến lược khi thành h́nh là các
kế hoạch hoạch định được diễn tiến,
phác họa hoặc bảo trợ do những nhà lănh
đạo tổ chức trù liệu với mục đích
là các kế hoạch này được thực hiện,
hoặc sản xuất (7).
Có 4 Thứ bậc đă
được soạn thảo trong Chiến lược:
1. Thứ
bậc về những mục đích (hierarchie doelstellingen)
2. Thứ
bậc về những ngân sách (hierarchie budgets)
3. Thứ
bậc về những chiến lược (hierarchie
strategieen)
4. Thứ
bậc về những chương tŕnh (hierarchie programma's) (8) (H́nh 1)
Một chiến lược khi
hoạch định phải nhắm vào mục đích
của nó: muốn cái ǵ, có cái ǵ, nguyên nhân ra sao, muốn
đạt đến đâu và làm sao để đạt
đến... Có những mục đích nhỏ, nhưng cũng
có mục đích lớn hơn. Nếu ta
muốn đạt mục đích đó thành sự
thật, th́ ta cố gắng đúc kết lại các
dữ kiện và tạo dựng cho kế hoạch
được thành h́nh. Một hay nhiều kế hoạch
sẽ tạo nên một chiến lược. Vậy
chiến lược có được là do từ mục
đích, và mục đích này sau khi trải qua với
nhiều bàn thảo, luận cứ để làm thành chiến
lược. Sự biến dạng tựu h́nh này
được gọi là "Công thức"
(formulering).
Những kế hoạch trong
chiến lược được sắp xếp và phân
chia cho từng bộ phận. Nói một cách khác, khi
muốn thực hiện công tác cần phải có những
chương tŕnh thực tiễn làm việc theo
phương thức của chiến
lược đề ra. Do đó khi chiến lược
được thực thi, có những yếu tố
hội đủ sau đây:
1. Nhân sự: Mục đích có
được là do nhân sự xếp đặt. Nhân
sự là yếu tố rất quan trọng. Nhân sự ban
đầu c̣n hạn hẹp, sau từ từ bành trường
ra thêm. Không phải chiến lược dựng lên rồi
tự nhiên hoàn thành. Khi tổ chức h́nh thành và kiện
toàn chiến lược là do biết bao công lao, nước
mắt, mồ hôi của tất cả mọi
người. Ai ai cũng phải làm việc, tất cả
đều gánh vác trọng trách được giao phó, không
ai được chểnh mảng công việc. Một
chiến lược được hoàn thành là do nhân sự
mà có. Không phải chỉ có nhân sự nồng cốt
mới là chính yếu, mà c̣n số đông nhân sự đóng
các vai tṛ khác rất cần thiết. Nhân sự không chỉ
có thành phần trí thức là đủ, mà là ở mọi
thành phần, mọi ngành nghề, mọi giới... Nhân
sự nên ḥa ḿnh cùng với dân chúng. Khi quần chúng nghĩ
đến ta, th́ ắt là sẽ về với ta, giúp
đỡ cho ta, cần "chiêu hiền đăi sĩ"
cho hết ḷng hết sức (9). Do đó yếu tố nhân
sự ưu tiên hàng đầu, cần nên
bành trướng mạnh mẽ.
2. Ngân sách: Muốn thực
hiện chiến lược, trước hết cần
phải có ngân sách để thực thi công tác. Nếu không
có hoặc không đủ tài chính th́
sẽ tiến thối lưỡng nan, các công tác
sẽ bị dậm chân tại chỗ hoặc tan ră.
Yếu tố tài chính vô cùng quan trọng trong chiến lược
đề ra, nhất là các lănh vực thương mại,
kinh tế, quân sự, v.v... Khi ngân khoản được
đầy đủ th́ chiến lược có cơ hội
nắm hơn nửa đoạn đường.
Như vậy trong bất kỳ công tác nào,
ngân sách cũng không thể thiếu. Nếu thiếu ít có
thể lấy chỗ này bù đắp lại chỗ kia,
c̣n thiếu nhiều th́ công tác sẽ không thể hoàn thành
được. Do đó, Ngân sách và Mục đích theo Dr. H.
Mintzberg trong " Những kiêåu mẫu diễn tiến
kế hoạch của chiến lược" (Modellen van
het Strategische Planningsproces) là yếu tố rất cần
thiết khi muốn thực hiện chiến lược
(10). Không có nhân sự (mục đích), th́ không có chiến
lược. C̣n không có ngân sách, th́ chiến lược
sẽ không thể hoàn thành.
3. Phương tiện: Phương tiện
dành cho sử dụng tất cả mọi chương tŕnh, mọi công tác một khi chiến lược
đề ra. Phương tiện bao hàm
một ư nghĩa rộng lớn và cùng khắp. Phương tiện
là những thứ cần và có khi muốn đạt
đến mục đích. Có những thứ cần
thiết rất quan trọng và những việc không
cần thiết, nhưng không có không
được.
Như muốn đi từ điểm A
đến điểm B đúng giờ, mà không có
phương tiện di và vận chuyển, ta
phải đi bộ sẽ lâu hơn, mất
hết ngày giờ mà mục tiêu không đạt
được. Hoặc như dụng
cụ b́nh thường dùng trong liên lạc, thông tin như: e.mail, fax, điện
thoại, báo chí, truyền thanh... mà nếu không có th́
phải làm ǵ? Do đó,
phương tiện là yếu tố cần
thiết nhất để làm nên mọi việc,
đạt đến đích những thành quả như ta mong muốn.
Nhân sự không có Ngân sách
cũng như cây đàn bị găy,
Nhân sự không có Phương tiện
như cây đàn bị đứt
dây, chùng phím, cũng không thể đàn. Cây đàn ai sử
dụng cũng được, nhưng nếu
muốn thưởng thức th́
cần có người đàn hay. Nếu thiếu
đi một, việc nghe đàn sẽ mất hết ư
nghĩa. Cũng như chiến
lược cũng vậy, khi thực hiện tối
thiểu phải gồm đủ ba yếu tố trên. C̣n
rất nhiều yếu tố khác nữa, tùy theo mục
đích có thể có rất nhiều bộ phận, ở
đây chỉ nêu lên những yếu tố chủ yếu
mà thôi.
Khi chiến lược
dựng nên là cần có những chương tŕnh làm việc qua những công tác ngắn
hạn hoặc dài hạn.
Những công tác tạo thành những bước
nối kết và liên tục không đứt đoạn,
tại v́ khi đứt đoạn sẽ bị
đối phương triệt tiêu,
không c̣n sinh lộ. Do đó, những công tác cũng như những
làn sóng của ḍng sông lớn, sóng sau phủ sóng
trước không giới hạn. Lộ tŕnh này
được gọi là "Kiện toàn"
(Implementatie).
Khi đi từ Công thức
đến Kiện toàn là trải qua nhiều giai
đoạn. Nhưng giai đoạn nào
cũng rất cần: Nhân sự phải biết chiêu
hiền đăi sĩ, Ngân sách phải cho đầy
đủ, và Phương tiện
phải có đủ chất lượng và dồi dào.
(Chữ "phải" [moeten] ở đây không có nghĩa
bắt buộc, cưỡng ép, mà chỉ có nghĩa tha
thiết kêu gọi nếu có được th́ may mắn)
(11).
Làm
sao để h́nh thành chiến lược?
Muốn h́nh thành chiến
lược, muốn tập hợp kế hoạch, muốn
tiên liệu được những việc làm của
cộng sản, muốn phá thế của địch...
trước hết ta cần hiểu rơ và nhận thức
từng câu vấn và đáp sau đây:
1. Những
người nào là nhân sự của Ta? Lúc ban đầu có thể chỉ
là số ít. Nhưng dần
dần thành số đông một khi họ hiểu rơ
chủ trương, chính sách và
đường
hướng của ta. Nhân sự của ta là những
người hiểu rơ đường lối của ta,
quyết cùng tranh đấu cho đất nước
Việt Nam có tự do, dân chủ và nhân quyền. Cần
nh́n rơ những thành phần nào là nồng cốt, những
thành phần nào mới gia nhập và những thành phần
nào của địch trà trộn - t́nh báo dụng kế trá
hàng - vào phía ta. Ta sẽ dùng "phản gián kế"
đối với chúng, và khi mà t́nh báo của địch
bị ta phát giác và chịu làm việc cho ta càng nhiều th́
càng có lợi cho ta (12).
2. Những
tổ chức nào là của Ta? Hợp đoàn là một trong
những yếu tố quan trọng nhất trong việc
tạo ra Lực. Hợp đoàn không có nghĩa là đoàn
kết sơ cứng trong một đoàn thể,
tổ chức. Hợp đoàn là sự kết hợp trong
sự tương kính, hài ḥa, đoàn kết
lẫn nhau và cùng nhau đạt đến mục đích
trong sự hợp lư và đồng thuận (13). Do đó
cần biết những tổ chức nào đồng ḷng
cùng với ta trên bước đường chung. Những
tổ chức đó có cùng quan điểm, đường
hướng như ta về
phương diện đấu tranh.
Những tổ chức đó với ta cùng chia xẻ
những hoạn nạn cũng như những
may mắn thành công trên bước đường mới.
3. Những
tổ chức, đảng phái, đoàn thể nào là Bạn
Ta? Những tổ chức của người Việt Nam
ở hải ngoại có rất nhiều. Những tổ chức
tranh đấu, hoặc về xă hội, văn hóa, văn nghệ, v.v...
có đường hướng riêng, hoặc v́ lư do là lúc
trước có nhiều hội đoàn quá nên giờ đây
họ muốn đứng riêng, không lệ thuộc vào
bất cứ tổ chức nào. Nếu không thể cùng nhau
đấu tranh chung được, th́ coi như là bạn
ta, đường của ai nấy đi, không chống
đối lẫn nhau, có thể xóa đi những dấu
vết bất đồng khi xưa để tranh đấu cho đất
nước Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
4. Những
tổ chức không thuộc về ta, Khác Ta, có chống
lại ta hay không? Có nhiều những tổ chức không
thuộc về ta. Có những tổ chức khác ta, như về
văn hóa, xă hội, chính
trị, kinh tế, văn nghệ, v.v...
Và trong đó có những tổ chức do người trong
nước - cộng sản hoặc không cộng sản -
làm việc cho nhà nước cộng sản Việt Nam. Họ
chống lại ta hay không, điều đó c̣n tùy thuộc
vào ta. Nếu ta quá cực đoan, th́ ở thế chẳng
đặng đừng họ phải chống lại ta,
như không cấp giấy hộ chiếu,
không cho về nước, v.v... Nhưng trên căn bản
ngoại giao ở đây, họ cũng không làm
được điều ǵ khác đối với ta.
Những tổ chức khác ta mà không chống ta, th́ cách
tốt nhất là ta nên t́m mọi cách để gần
họ, nói cho họ biết con đường ta đi
tới. Thời gian sẽ từ từ làm cho họ không
c̣n nghĩ không đúng về ta.
Đừng bao giờ rút lui, như thua họ, mà phải lấn tới gần
họ để chủ động t́nh h́nh sau này. Đây là chặng đường mới trong
bước đầu của kế hoạch đối với
những người và những tổ chức khác ta. Và
sẽ có những chặng đường tiếp nối
theo sau... (Xin mời quư vị đón xem phần C: Quốc
Nội)
5. Ngân
sách cho tổ chức phải lấy từ đâu? Từ bấy lâu nay những
tổ chức của người Việt Nam ở hải
ngoại vận động tiền đóng góp của
người Việt Nam để hoạt động.
Nhưng lâu dần, các việc đó
trở nên thưa thớt, ḷng
người ṃn mỏi. Việc của nước Việt
Nam phải do người Việt Nam gánh lấy, đó là
điều đúng. Nhưng thật
sự tài chính bao nhiêu cho đủ, khi chúng ta có nhiều
thứ phải chi dụng, có rất nhiều việc
phải làm, đó là chưa nói đến
kế hoạch, đến chiến lược. Chiến
lược tiêu hao rất nhiều tài chính. Ngân sách là
vấn đề mồ hôi và nước mắt của
đồng bào, do đó từng đồng từng cắt
cũng phải rơ ràng minh bạch. Khi được minh
bạch, lúc đó mới có thể xin đóng góp để
gây quỹ vào việc chung. Nhưng, số
tiền đóng góp của người Việt Nam chỉ
đủ chi phí cho những công tác gần, nhỏ hoặc
trung b́nh mà thôi, c̣n những công tác lớn lao hơn th́ phải có sự yểm trợ của các
tổ chức khác.
6. Có
tổ chức, quốc gia, liên minh, liên hiệp nào yểm
trợ tài chính cho ta hay không? Những thành viên ngoại giao
của tổ chức phải cố vận động các
tổ chức, các quốc gia, liên minh và liên hiệp giúp cho
ta. Lẽ dĩ nhiên họ không thể giúp không cho chúng ta, mà
giúp có điều kiện. Đầu tiên ta hăy xin những
tổ chức từ thiện: cứu trợ, nhân
đạo... rộng răi hơn: phát
triển,
thông tin, cơ quan... và có tầm vóc lớn như: bộ,
quốc tế, liên minh, liên hiệp... Trước khi xin nên
chú ư xem chủ đề của những tổ chức
đó. Phải kiên nhẫn, tŕ chí và cần nhất là
đúng luật định tùy theo mỗi nước. Xin
một năm thường là không được,
nhưng mỗi năm mỗi
xin. Khoảng 3, 4 năm sau, và có nhiều khi
phải đến 6, 7 năm sau những
tổ chức đó mới bắt đầu xét
đến nguyện vọng của chúng ta. Nếu xin
được tiền của một vài tổ chức
chịu tài trợ cho chúng ta, ở lần đầu mà ta
thực hiện không đúng như lời
xin, th́ lần tới sẽ không có nữa. Do đó khi có
được tiền tài trợ đầu tiên, ta
phải làm sao cho bên ngoài nh́n vào thấy được tính
chất của việc làm, và những lần kế
tiếp đi dần vào mục đích của ta.
7. Khi
ngân sách có tổ chức chịu giúp, nhưng chưa đủ, cần phải làm điều ǵ để tạo thêm tài chính? Khi có những tổ chức
chịu giúp chúng ta, nhưng số
tiền c̣n bị hạn chế, chưa đủ cho những công tŕnh lớn có tính cách
chiến lược. Bắt buộc ta phải làm như thế
nào để có tiền chi dụng cho các công tác c̣n đang
chờ đợi. Tài chính luôn luôn là một gánh nặng cho
tổ chức. Ngân sách lúc nào cũng phải có dư, hay tối thiểu tạm thời phải
đủ chi dụng cho những công tác. Lúc nào cũng
vậy, khi ngân sách gần đến mức dự trữ
(voorraad), phải báo động ngay với tổ chức
để t́m cách bổ sung thêm, hoặc là bớt đi
những công tác. Bởi thế cho nên khi tài chính thiếu
hụt là công tác bị đ́nh trệ, rất nguy hiểm
cho ta, v́ đối phương có cơ hội
chận đứng bước tiến của ta đang
theo vết dầu loang. Khi tổ chức thành lập
phải có ủy ban chuyên về kinh tài, lo làm sao tạo ra
tài chính cho tổ chức. Ủy ban thiết lập mọi
liên hệ về yểm trợ, đóng góp của quần chúng, của
những người hảo tâm, kinh tài qua buôn bán, xin thừa
kế tài sản của người quá cố, xin tài
trợ của các tổ chức, và cần nhất là các
hiệp hội, liên hiệp, liên minh, v.v... Khi các biện
pháp về tài chính có gia tăng, th́
các công tác mới
có cơ hội tiến mạnh
được.
8. Ai
chịu giúp phương tiện cho ta?
Chịu giúp phương tiện có
rất nhiều quốc gia, nhưng trong hiện tại không có ai chịu đáp ứng
yêu cầu của ta. V́ sao? V́
chính chúng ta! Tinh thần đoàn kết của chúng ta
h́nh như đă bị bỏ
mất đi từ năm 1975. Từ năm 1980-1989 c̣n có thể kết hợp lại
được, nhưng từ năm 1992 đến hiện tại, đă
lỏng lẻo, rời rạc và sự chia rẽ, khích
bác... ngày càng nhiều. Cộng thêm vụ kiện kháng
chiến c̣n đó... Do đó ḷng dân Việt Nam ở hải
ngoại vô cùng chán năn, tinh thần chính trị đă
xuống thấp, huống hồ chi những nước
khác, những tổ chức của người ngoại
quốc chịu giúp chúng ta. Cộng sản đă biết
lấy ḷng của những nước giàu mạnh, làm cho
những nước đó chịu giúp để phục
hồi kinh tế và tái thiết xứ sở. Những
nước đó ban đầu c̣n dụ dự chưa thật
sự giúp, nhưng bắt đầu
từ khi Mỹ và cộng sản Việt Nam kư Hiệp
ước 13-7-2000 trở đi sẽ có nhiều sự
viện trợ hơn cho Việt Nam.
Mới đây 7-2000 tại
đại học Massachuset Boston Mỹ qua sự bảo
trợ của Tập đoàn Rockefeller, Tiến sĩ Kelvin
Bowen cùng với Giáo sư Nguyễn Bá
Chung, Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi thiết
lập chương tŕnh nghiên cứu
nhằm "T́m hiểu bản sắc và vị trí của
cộng đồng người Việt hải ngoại
trong thời kỳ hậu tỵ nạn". Với
đề tài nghiên cứu này, cho thấy là chỉ nhắm
vào số kiều bào hải ngoại, mà những
người này lại không phải là thành phần tỵ
nạn, mà là cán bộ lư luận và văn hóa của cộng sản Việt Nam. Như vậy
dự án nghiên cứu này được tiến hành theo
sự chỉ đạo của Hà Nội, muốn xóa
đi những ǵ cao đẹp của thành phần tỵ
nạn để tiếp tục hướng dư luận
đi vào những sai lệch có lợi cho cộng sản
Việt Nam (14).
Do đó, nếu muốn cho các
nước nh́n nhiều hảo cảm về phía ta, th́
cần thiết nhất là các tổ chức kết
hợp, hợp đoàn để từ đó có thể làm
được nhiều việc, nhất là xin trợ giúp
các phương tiện để
xuyên phá chế độ độc quyền, độc
đảng và tham nhũng. Hiện nay các nước trên
thế giới đang tập trung nỗ lực vào
Việt Nam về kinh tế, thương mại,
kỹ nghệ, công nghệ... Nếu bây giờ chúng ta
chỉ đứng bên ṿng ngoài, lực lượng của
chúng ta không đủ khả năng kết
hợp, không thể nào hợp đoàn lại
được, th́ đó là
điểm thiếu sót lớn nhất của chúng ta. Cho
nên công việc cần
thiết nhất là các tổ chức phải Hợp Đoàn, và chuẩn bị cho thật chu đáo khi muốn
trở về lại Việt Nam.
9. Kế
hoạch mà ta đang thi hành có thể làm chủ điểm
cho chiến lược hay không?
Dành lại chủ quyền đất nước
Việt Nam từ tay cộng sản là một việc làm
khó, nhưng không có việc khó nào mà ta
không thể không làm được với sự
đồng tâm nhất trí của chúng ta. Sự đồng
tâm thể hiện qua sự Hợp Đoàn của
các tổ chức là biện pháp hay nhất trong việc
đối đầu và có thể đối lập sau này
cùng cộng sản Việt Nam. Do đó khi các tổ
chức hợp đoàn lại được là có cơ hội
tập hợp các yếu tố, bộ phận ngoài và trong
nước làm mũi nhọn xuyên phá bức màn đang che
kín bộ chính trị của đảng cộng sản.
Nếu không hợp đoàn được, th́ sức
của một đoàn thể không đủ và không thể
làm lung lay đối phương.
Một khi tập hợp sức lại được,
sức đó gọi là Quy Nạp Lực (15). Khi có quy
nạp lực là ta có đủ điều kiện xung kích
với những biện pháp của ta. Do đó kế
hoạch đang có chỉ là kế hoạch riêng của
một tổ chức mà thôi. Một khi kế hoạch chung
được thực hiện là có nhiều tổ
chức đồng tâm làm việc đó. Như vậy,
khi nào Quy Nạp Lực được thành h́nh th́ kế hoạch đó là chủ
điểm cho chiến lược.
10. Khi
chiến lược tựu h́nh, cộng sản có biết
được hay không? Khi quy nạp lực thành h́nh, có
thể những tay t́nh báo cộng sản trà trộn vào
để thám thính t́nh h́nh. C̣n khi chiến lược
tựu h́nh là trăm hoa đua nở, v́ với chiến lược này
sẽ xuyên phá chế độ cộng sản ra từng
đoạn, không thể để cho hợp nhất, t́m
cách tách rời những bộ phận ra thành từng
mảnh nhỏ... Chắc chắn cộng sản Việt
Nam sẽ dùng mọi cách thức để phá ta, chẳng
hạn như: không thể
để cho chiến lược thành h́nh, không để
cho có sự đoàn kết lại với nhau, bằng cách
tạo ra mọi nghi kỵ, khích bác, bôi bẩn, chia rẽ
càng nhiều càng tốt, không thể nào để cái gai nguy
hiểm trước mắt mà không nhổ... Do đó chính
chúng ta phải hết sức đề cao cảnh giác
trước việc cộng sản đă, đang và sẽ
ra tay.
11. Phương pháp chính yếu của chiến lược
làm ǵ? Phương pháp chính yếu trong chiến lược là
dùng mưu kế để phá thế của
cộng sản. Phương thức
đó gọi là "Dụng Mưu". Dụng mưu là dùng những
kế sách của địch để phá địch,
của ta để phá địch, và của tổng
hợp để phá địch (16). Dụng mưu được thực hiện khi nào
người lănh đạo chiến lược
điều hành phối hợp các yếu tố, các bộ
phận, và có những điều kiện khi thực thi
kế sách như sau đây:
a) Kế sách
chỉ đưa ra áp dụng khi
nào các tổ chức Hợp Đoàn được với nhau. Tại v́ không hợp
đoàn được, th́ hiệu quả công tác sẽ
không thể đạt được tới mức yêu
cầu.
b) Kế sách
cần tạo thành mũi nhọn cùng khắp để
xung phá mănh liệt vào màn lưới tư tưởng
do cộng sản giăng ra. Màn
lưới đó do cộng sản đặt ra cộng
sản sẽ phá nó, ta và tổng hợp sẽ phá nó như 8000 binh sĩ của Sỡ Bá Vương Hạng
Vơ phải tan tác, bỏ hàng ngũ khi nghe khúc tiêu ai oán năo
nùng của Trương Lương (17).
c) Kế sách
khi sử dụng phải chọn mục tiêu, hướng
tiến công, phải đặt chuẩn đích, đó là
đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, hay
là chế độ độc quyền, độc tài, tham
nhũng...
d) Kế sách
chỉ cần đạt được 3/4 của các
kế hoạch là kể như thắng
lợi. Lẽ dĩ nhiên nếu đạt hơn nữa
là điều tốt, nhưng mọi
việc nào cũng vậy, đó là nên chừa một con
đường thoát cho đối phương. Con
đường thoát đó là thuần túy trở về
với dân tộc Việt Nam.
Trên đây là những câu
hỏi có tính cách tổng quát, và những câu trả lời
gợi ư khi muốn lập thành chiến lược xung
yếu để đối đầu và đối
lập cùng với đảng và nhà nước cộng
sản Việt Nam. Những phần gợi ư này có nhiệm
vụ hướng dẫn để có thể h́nh thành các
điểm mấu chốt trước khi chiến
lược tựu h́nh. Đây là việc vô cùng
quan trọng.
Trong các điểm mấu
chốt, có hai điểm chính yếu cho người
thực hiện chiến lược đó là sự
"liên lạc truyền thông" (communicatie) và sự "kiểm
soát kế hoạch" (controle plannen) (18).
Sự liên lạc truyền
thông rất quan trọng trong bối cảnh hiện
tại, nhất là người Việt Nam ở răi rác
khắp các nước trên thế giới. Những
người chịu đọc và có điều kiện
để đọc các sách báo, tài liệu, tham khảo,
b́nh luận... trên internet, e.mail... hiện nay ở hải
ngoại có rất nhiều. Nhưng những
người ở trong nước muốn được
như người ở hải ngoại là
một điều rất khó, nếu không có những
sự trợ giúp từ bên ngoài. V́ thế, nếu muốn
cho sự liên lạc truyền thông đạt những
hiệu quả tích cực th́ phải có sự hỗ
trợ từ bên ngoài của người Việt Nam ở
hải ngoại và thành phần lănh đạo chiến
lược trong tương lai.
Sự kiểm soát kế
hoạch là công tác thường xuyên của những
người lănh đạo khi muốn thực hiện
chiến lược. Từ khi bắt đầu chuẩn
bị h́nh thành và cho đến khi kiện toàn công tác,
tất cả là nhờ vào sự sắp xếp hệ
thống phối hợp giữa bên trong và bên ngoài, giải
quyết những trường hợp xảy ra có tính
bất cập, hoặc đột xuất, cân bằng
được những mức công tác nội (interne) và
ngoại (externe) cho đều nhau, v.v... Do đó sự
kiểm soát kế hoạch nếu được tiến
hành theo ư muốn là do những thành phần lănh đạo
có kinh nghiệm, vững vàng, chắn chắn và có khả
năng khi giải quyết và quyết
định một việc ǵ.
Những người lănh
đạo chiến lược cần nên rơ ràng một khi
quyết định, cần cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi đưa ra hiệu
lệnh. V́ chiến lược khi thành h́nh, th́ lúc đó các
mặt tác động sẽ có hiệu lực cả hai
phía - từ ngoài vào trong và từ trong ra ngoài. Do đó
khối óc minh mẫn, nhạy bén và sống động là
điều kiện cần có của những người
lănh đạo trong tương lai. (Xin mời
quư vị đón xem Điểm 4A.1:
Nguyên Tắc)
Một khi các việc trong
chiến lược chạy đều, lúc đó ta nên
cố gắng chủ động nhiều phía và có tầm
nh́n xa, rộng. Muốn chủ động được,
cần có Chủ đạo tác động nhiều tổ
chức, đảng phái, đoàn thể... để
tạo Lực. Chủ đạo c̣n có nghĩa là tạo
"thời thế cơ" cho thích ứng,
tức là "thiên thời, địa lợi, nhân ḥa"
cùng ḥa nhịp để dành phần thắng lợi
về ta.
Đây là điểm Chủ đạo. Có chủ
đạo được th́ cơ hội
đạt tới mức chuẩn bị h́nh thành chiến
lược không c̣n xa.
Ghi
chú (Noten):
1. Vũ
Tài Lục, Thủ Đoạn Chính
Trị, Việt Chiến xuất bản 1970.
2. Tất
Dĩ Tuân, Ngô Tử binh pháp, bản dịch của Ngô
Văn Triện, Bọn Tào Tháo
mười nhà chú thích 1970.
3. Internet
Nhân Dân, Nghị quyết của Chính Phủ về một
số giải pháp điều hành kế hoạch phát
triển kinh tế - xă hội
trong sáu
tháng cuối năm 2000,
4. Idem.
5. Ḥa
thượng Thích Thiện Châu, Giáo lư Vô Thường, T́m
Đạo, 25-3-2000.
Đại đức Thích
Trí Siêu, Vô Ngă, Sự quan trọng của Vô Ngă, 12-4-2000.
6. Dr.
Henry Mintzberg: Opkomst en Ondergang van Strategische Planning (The Rise an
Fall of Strategic Planning),
Planning en Strategie pag. 23-48, Economie en
bedrijfskunde Academic Service, New York 1994.
7. Idem.
Strategievorming is een planningsproces, ontworpen of ondersteund door
planners, om te plannen met als
doel plannen te produceren. pag.
46.
8. Idem.
9. Hoàng
Xuân Việt, Thuật Lănh Đạo, Tinh Hoa Miền Nam
xuất bản, 15-9-1968.
P. Hiếu và Nguyễn
Hiến Lê, Đắc Nhân Tâm, Đại Nam.
10. Dr.
Henry Mintzberg: Opkomst en Ondergang van Strategische Planning (The Rise an
Fall of Strategic Planning),
Planning en Strategie, pag. 89-91.
11. Dr.
A. Braet và Drs. R. Berkenbosch, Debatteren over Beleid (Tranh luận
về Chính sách),
De Debatstelling, pag. 14-20,
Wolters-Noordhoff bv Groningen, 1989.
12. Tôn
Đức Pháp, Những nhà mưu lược
nổi tiếng xưa và nay, Danh gia trí mưu, trang 233-236, Cà Mau 1996.
Trọng Tâm, Tam thập
lục kế, trang 154-159, Long An.
13. Drs.
Ngô Văn Tuấn, Những đề nghị
cho người Việt Nam đầu thế kỷ 21:
Hợp Đoàn, 1992, 1998.
14. Tài
liệu Viện Bang Giao Quốc Tế Ḥa Lan, 24-7-2000.
Lư Thái Hùng, Việt cộng
và kế hoạch nghiên cứu cộng đồng
người Việt hải ngoại, Internet Vietbao.com,
Diễn Đàn 18-8-2000.
15. Drs.
Ngo Van Tuan, De Overeenstemming (Hợp Đoàn), Leiden 1992, Vietnam Revue 11, 1e 1997,
Internet Vietbao.com Diễn Đàn 6-2000.
16. Drs.
Ngo Van Tuan, Nguyên Tắc, Gebruik van Schranderheid (Dụng Mưu), Leiden 1992.
17. Tây
Hán 1967, Hán Sỡ Tranh Hùng 1985.
Ngô Tỵ, Mưu lược
chính trị Đông phương, Sống
Mới 1972.
18. Dr.
Henry Mintzberg, Planning, Plannen, Planners, pag. 291-368, Academic Service
1994.